A POISON TREE by William Blake CÂY ĐỘC William Blake I was angry with my friend; I told my wrath, my wrath did end. I was angry with my foe: I told it not, my wrath did grow. Tôi tức giận bạn tôi; Tôi nổi cơn thịnh nộ, cơn thịnh nộ kết thúc. Tôi căm giận kẻ thù: Tôi không nói ra lời, cơn thịnh nộ mọc lên. And I waterd it in fears, Night & morning with my tears: And I sunned it with smiles, And with soft deceitful wiles. Rồi tôi đem nước mắt tưới cho cây Cả đêm lẫn ngày tưới trong sợ hãi: Rồi đem phơi nắng với những nụ cười, Và những mưu mô dịu dàng man trá And it grew both day and night, Till it bore an apple bright. And my foe beheld it shine, And he knew that it was mine. Rồi cây lớn lên cả ngày lẫn đêm, Cho đến một ngày ra quả táo xinh. Rồi kẻ thù tôi thấy trái lấp lánh, Và y biết rằng của tôi đích danh. And into my garden stole. When the night had veiled the pole; In the morning glad I see, My foe outstretchd beneath the tree. Y lẻn vào vườn hái trái táo xanh. Khi màn đêm buông che khuất cây sào; Buổi sáng lòng tôi vui mừng xiết bao, Kẻ thù ngã gục dưới gốc cây cao. THERE IS ANOTHER SKY by Emily Dickinson CÓ MỘT BẦU TRỜI KHÁC Emily Dickinson There is another sky, Ever serene and fair, And there is another sunshine, Though it be darkness there; Never mind faded forests, Austin, Never mind silent fields Here is a little forest, Whose leaf is ever green; Here is a brighter garden, Where not a frost has been; In its unfading flowers I hear the bright bee hum: Prithee, my brother, Into my garden come! Có một bầu trời khác, Luôn thanh bình, đẹp xinh, Có một ánh nắng khác, Giữa bóng tối u minh; Austin! Xin chớ bận tâm Những khu rừng tàn tạ, Những cánh đồng lặng thinh Đây khu rừng nhỏ xinh, Lá xanh mãi xanh; Đây khu vườn tươi sáng, Nơi không sương giá; Bên những bông hoa không tàn tạ Ta nghe thấy vo ve, tiếng ong tươi sáng quá: Prithee, em trai của ta, Vào vườn ta đi em ơi! KHÚC HÁT RU CHO CON TRAI ĐÃ TRƯỞNG THÀNH Đinh Hoàng Anh LULLABY FOR MY GROWN-UP BOY Đinh Hoàng Anh Mẹ không có gì cho con, khi con mười bẩy tuổi Bắt đầu lại vòng tròn hai mươi lăm năm ngày xưa Những giấc mơ mù mịt trong sương Những cơn bão xoáy trôn ốc xé những mảnh cầu vồng tơi tả I have nothing for you, when you are seventeen To start another circle like mine twenty-five years ago With dreams blurred in the fog, Cyclones and storms tearing in pieces your rainbows. Con phải tự học quên Rồi tập dần để nhớ Học mỉm cười với những ước mơ tan vỡ Học để chào những chân trời không bao giờ đến gần You have to learn to forget by yourself Then gradually practise to remember Learn to smile at your broken dreams Learn to take leave of horizons that you’ll never reach Con sẽ đi qua biết bao mùa xuân Không một ngọn cỏ nào sẽ giống những ngọn cỏ đã xanh trong đời mẹ Chỉ mùi hương của đất nao nao, có lẽ Gợi những mùa xa lắm đã từng phai... You will go through so many springs With not a single blade of grass looking like the ones that were once green in my life Just the scent of the touching earth, maybe, Reminds of distant seasons that have faded away... Mẹ chẳng có gì cho con, khi sau bao năm tháng miệt mài Cánh bướm vươn lên từ vòng kén nhỏ Nếu có một ngày ngao du giữa trời xanh con bâng khuâng chợt nhớ Nơi vườn cũ dịu êm nắng mỗi chiều ru trên lá vẫn đung đưa... I have nothing for you, after so many years’ hard work A butterfly rising up out of its small cocoon will be given wings If one day you are wandering in the blue sky and suddenly remember me, please remember that In the old mellow garden afternoon sunshine still sings lullaby to swinging leaves... Những câu hát ấu thơ như chiếc áo từ lâu con mặc đã không vừa Những giấc mơ như sông vươn mình về biển cả Mây rong chơi bên kia bờ trắng xóa Gió căng buồm ưỡn ngực hứng trời sao Childhood songs are like your old shirts, which no longer fit you Dreams are like the rivers reaching out to the sea With clouds roaming across white-foaming shores And the sails opening their chest to the wind under the starry sky Sẽ chỉ một mình con, vẽ lại từ đầu Bức tranh đất trời bốn mùa hoa trái Tổ kén nhỏ với khu vườn ở lại Câu hát như sương, lan theo gió âm thầm You alone will draw from scratch The pictures of the earth and sky in four seasons of flowers and fruit The small cocoon is left behind with the garden With mist-like singing silently ringing in the wind Con sẽ đi qua biết bao mùa xuân Không một nhành hoa nào sẽ giống những nhành hoa đã nở trong đời mẹ Chỉ có phấn vàng sẽ vương bay, có lẽ Gieo lại những mùa xa lắm đã tàn phai... You will go through so many springs With no single flower resembling the ones that once bloomed in my life Only yellow pollen will keep flying, perhaps To sow new seasons to repace the ones that have faded away... LIGHTNING, STRIKE MY HUSBAND Acoli (Uganda) SÉT ƠI, ĐÁNH CHẾT CHỒNG TA ĐI Acoli (Uganda) Lightning, strike my husband, Strike my husband, Leave my lover; Ee, leave my lover. Sét ơi đánh chết chồng ta, Đánh chết chồng ta đi, Để người tình ta lại; Để người tình ta lại nha. Snake, bite my husband, Bite my husband, Leave my lover; Ee, leave my lover. Rắn ơi, cắn chết chồng ta, Cắn chết chồng ta đi, Để người tình ta lại; Để người tình ta lại nha. See him walking, How beautifully he walks; See him dancing, How beautifully he dances; Nhìn chàng đi kia kìa, Bước đi đẹp làm sao; Xem chàng khiêu vũ nào, Bước nhảy đẹp làm sao; See him smiling, How beautifully he smiles; Listen to the tune of his horn, How beautifully it sounds; Nhìn chàng cười kia kìa, Nụ cười sao đẹp quá; Nghe chàng thổi tù và, Tiếng ngân sao hay thế; Listen to him speaking, How beautifully he speaks; See him performing the mock fight, How beautifully he does it; Nghe chàng cất tiếng nói, Giọng sao mà ngọt ngào; Xem chàng đấu trận giả, Dáng người đẹp xiết bao; The sight of my lover Is most pleasing. Được nhìn ngắm trai đẹp Thật hả dạ hả lòng. Lightning, strike my husband, Strike my husband, Leave my lover; Ee, leave my lover. Sét ơi đánh chết chồng, Đánh chết chồng ta nhé, Để người tình ta lại; Để người tình lại nha. Translated from the Acoli by Okot p’Bitek Okot p’Bitek dịch từ tiếng Acoli Vẫn em thoáng trắng mây hiền hậu Ngẩn ngơ soi mặt biển điêu linh Vẫn em đoá quỳnh run hoảng nở Hương thầm choàng riết cõi đêm ta. Thanh Tâm Tuyền Still here, you are an apparently white gentle cloud, bewildered, looking at the completely exhausted sea below. Still here, you’re a moon cactus, trembling in bloomming sight Whose secret scent tightly embraces my entire night. Thanh Tâm Tuyền Câu thơ hay tự nhiên như lời nói Bài thơ hay là cái chết cuối cùng Thanh Tâm Tuyền A good verse is as much as natural speech A good poem is as much as the final death. Thanh Tâm Tuyền To mom, No matter how far I am on this day, I know that you’re always by my side. Your words and your lessons are my daily companions. Let me start off by saying my thank yous. Thank you for always being there for me; for worrying and waiting up for me, for the lectures and endless concerns. Thank you for the limitless hugs and kisses and for the lap I rested on every time I was too tired to keep my head up. Thank you for encouraging me and believing in me, pushing me to believe in myself. Thank you for the endless stories, songs and games when I was young, and the endless conversation now that I am older. Thank you for always assuring me that things will be okay, you were always right. Thank you for being the voice that comforts me whenever my days are Gửi mẹ, Cho dù con có đi bao xa những ngày này, con vẫn biết rằng mẹ luôn ở bên con. Lời mẹ và bài học mẹ dạy là bạn đồng hành cùng con mỗi ngày. Hãy để con bắt đầu bằng lời cảm ơn mẹ. Cảm ơn mẹ vì đã luôn ở bên con; vì lo lắng và chờ đợi con, vì những lời dạy và những quan tâm vô tận. Cảm ơn những cái ôm và nụ hôn vô bờ bến và lòng mẹ nơi con dựa đầu mỗi khi con mệt mỏi không thể ngẩng lên được nữa. Cảm ơn mẹ đã động viên và tin tưởng con, thôi thúc con tin tưởng vào bản thân mình. Cảm ơn mẹ vì biết bao câu chuyện, bài hát và trò chơi khi con còn nhỏ, và những cuộc trò chuyện bất tận bây giờ khi con đã lớn. Cảm ơn mẹ đã luôn trấn an dark and frightening. Every day I wake up hoping that I have fulfilled the dreams and expectations you had for me. Every day I work on making sure that I make you proud. I hope that when it’s my turn, I can be half as amazing and strong as you are. Mom, saying I love you does not even begin to describe how much you mean to me or how grateful I am to be your daughter, so instead, I’ll simply say, thank you for being my superhero, my backbone, my supporter, my teacher, and above all, my mother. https://roussweetcorner.wordpress.com/2014/03/20/letterto-my-mother/ con rằng mọi việc rồi sẽ ổn, và mẹ đã luôn luôn đúng. Cảm ơn vì mẹ đã là tiếng nói an ủi con mỗi khi tháng ngày u tối và sợ hãi đến với con. Mỗi ngày thức dậy con đều hy vọng rằng con đã thực hiện được những ước mơ và kỳ vọng mà mẹ gởi gắm nơi con. Mỗi ngày con đều cố gắng để chắc chắn rằng con sẽ khiến mẹ tự hào. Con hy vọng rằng, đến lượt mình, con có thể tuyệt vời và mạnh mẽ bằng nửa mẹ. Mẹ ơi, nói lời con yêu mẹ vẫn không diễn tả được mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với con hay con biết ơn mẹ như thế nào khi con là con gái của mẹ, vì vậy, thay vào đó, con chỉ nói đơn giản, cảm ơn mẹ vì mẹ là siêu anh hùng, là xương sống, là người nâng đỡ, người thầy của con, và trên tất cả, là mẹ của con. WHAT IS POETRY FOR? David Windle THƠ ĐỂ LÀM GÌ? David Windle Some people say poetry is dead. Some people say poetry is irrelevant these days. Some people are silly. Poetry is where language is most alive. Có người bảo thơ đã chết rồi. Có người nói ngày nay thơ đã hết thời. Có người nói lời ngớ ngẩn. Thơ vẫn là nơi ngôn ngữ sống động nhất. We are surrounded by dead language – by advertising slogans, by management speak, by unthinking gossip, by pompous diatribe, by tired metaphor and political propaganda. Poetry can never be these things. Poetry does not carry an agenda. Poetry possesses no direct intention. Poetry has no design. Chúng ta bị bao quanh bởi thứ ngôn ngữ chết – bởi những khẩu hiệu quảng cáo, bởi giọng lưỡi quản lý, bởi những câu chuyện phiếm thiếu suy nghĩ, bởi những lời hoa mỹ, bởi những ẩn dụ mệt mỏi và tuyên truyền chính trị. Thơ không bao giờ có thể là những thứ như ri. Thơ không mang chương trình nghị sự chi. Thơ không có ý định trực tiếp gì. Thơ không có thiết kế nào sất. Poetry, like some music, is an attempt to articulate that which is most difficult to articulate. Poetry’s subject is that which you’re struggling to say, that which is lurking beneath language, that which is only an inkling. Thơ, gần giống như nhạc, là một nỗ lực để diễn đạt điều khó diễn đạt nhất. Chủ đề của thơ là cái mà bạn đang thật nỗ lực để nói ra được, cái ẩn mình bên dưới ngôn từ, cái chỉ như là một vết mực thôi. A new poem has never been heard before. If it has, it’s not poetry. Every poem is an attempt at poetry. Poetry can never be wrong. Một bài thơ mới thì chưa từng nghe qua. Nếu đã nghe qua rồi, nó thôi không phải là thơ nữa. Mỗi bài thơ là một bước thử để vượt qua trong thơ. Thơ không bao giờ có thể sai cả. Poetry is the point where the inner world and the outer world come together and form rich seam of language. This seam of language is the bridge between the inner and outer worlds; language is both an internal and an external event. Poetry is this seam at its most concentrated, it’s most effervescent. Thơ là tiếp điểm nơi cả nội giới và ngoại giới kết hợp với nhau rồi hình thành mạch nối ngôn ngữ phong phú. Mạch ngôn ngữ này là cầu nối giữa thế giới bên trong và bên ngoài; ngôn ngữ vừa là sự kiện bên trong vừa là sự kiện bên ngoài. Thơ chính là mạch nối này ở chỗ cô đặc nhất, sôi sục nhất. What then is poetry for? Vậy thì thơ để làm gì? Poetry expresses the inexpressible. Poetry articulates the deeper experience of being Thơ thể hiện cái không thể diễn tả được. Thơ nói ra trải nghiệm sâu sắc hơn sự sống như nó alive. Poetry invests language with new life. Poetry gives you the sudden and powerful glimpse into the inner world of another human creature. Poetry creates a fluid world, where no one experience is more valuable than another and noone’s experience is more valuable than anyone else’s. Poetry connects us to each other across centuries, across continents, across chasms of all kinds. đang là. Thơ đầu tư ngôn ngữ với cuộc sống mới. Thơ mang cho bạn cái nhìn bất ngờ và mạnh mẽ vào thế giới bên trong của một tạo vật-người khác. Thơ tạo ra một thế giới lưu hoạt, nơi không có trải nghiệm nào giá trị hơn trải nghiệm nào và không có trải nghiệm của người này giá trị hơn trải nghiệm của người kia. Thơ kết nối chúng ta với nhau qua nhiều thế kỷ, xuyên lục địa, qua thẳm sâu muôn hình vạn trạng. Poetry shakes you up. Poetry reinvents language again and again, imbuing the public language with rich personal meaning. Poetry teaches us to think metaphorically, to constantly strive to see things anew, to play with how we experience life. Thơ làm rung động bạn. Thơ tái tạo rồi lại tái tạo ngôn ngữ, thấm nhuần ngôn ngữ đại chúng với ý nghĩa cá nhân phong phú. Thơ dạy chúng ta suy nghĩ một cách ẩn dụ, nỗ lực không ngừng để nhìn mới mọi thứ, để đùa chơi với cách chúng ta trải nghiệm cuộc đời. Like science, poetry is an attempt to define truth. Unlike science, the truth is your own. Giống như khoa học, thơ là nỗ lực xác định sự thật. Khác với khoa học, sự thật là của riêng bạn. http://www.primarypoems.com/2017/05/13/dragonfly-out-in-the-sun/ MY POND, YOUR SEA By Gaurav J. Pathania AO VÀ BIỂN Gaurav J. Pathania In school books And Hindi films In poems and tales of yore One often hears the line “I would cross the seven seas for your love” Trong sách học trò Và trong phim ảnh Trong những bài thơ và chuyện xửa chưa xưa Người ta thường nghe quen câu hát mãi xanh "Em sẽ vượt qua bảy biển để đến với tình anh" What is the sea? My child’s mind could never imagine beyond our village pond With every season of rain, the small pond filled to the brim And with every downpour I feared the pond would engulf the village whole! Biển là gì? Trí óc trẻ con của em không bao giờ có thể hình dung vượt ra ngoài cái ao làng Mỗi mùa mưa, cái ao nhỏ lấp ló nước tràn Và với mỗi trận mưa như trời trút nước xuống Em sợ cái ao con kia sẽ làm ngập xóm thôn! Years later, I crossed the seven seas, to be here in your village by the sea, Dipping my feet in the cool clear water Feeling the thunderous waves crash onto my body Looking at those giant ships cross the Pacific My village pond appears like a small jug of water Nhiều năm sau, Em đã vượt qua bảy biển, để đến làng anh bên bờ đại dương, Ngâm bàn chân trong làn nước mát trong như gương Cảm thấy những con sóng như sấm sét ập vào cơ thể Ngắm những tàu khổng lồ băng qua Thái Bình Dương Ao làng xưa nay hóa ra một lu nước thôi nhỏ thế. Your ocean is a like an unending canvas Yet every time I draw our names in the sand A giant wave rolls in And sucks away the sand underneath my feet Oh, you stubborn sea! Why can’t you stay calm like my village pond? Đại dương của anh giống như tấm vải tranh bất tận Thế mà, mỗi khi em vẽ tên chúng ta lên cát Một làn sóng cuộn vào ào ạt Và hút đi cát trắng dưới chân em Ôi, biển cứng đầu! Sao ngươi chẳng thể bình tâm như ao làng của ta dễ thương? Then I close my eyes and imagine That maybe it wants to swallow up our names And spread our love Across the seven seas. Rồi em nhắm mắt lại và tưởng tượng Rằng biển muốn nuốt tên anh và tên em Để lan tỏa tình chúng ta mọi hướng Khắp năm châu bảy biển ngập yêu thương. Gaurav J. Pathania is a sociologist and poet based in Washington DC. He is the winner of All India Poetry Competition 2016 organized by The Poetry Society India and Ministry of Human Resource and Development. Gaurav J. Pathania là một nhà xã hội học và nhà thơ sống ở Washington DC. Anh là người chiến thắng cuộc thi thơ Toàn Ấn Độ 2016 do Hiệp hội thơ ca Ấn Độ và Bộ Nhân lực và Phát triển tổ chức. ‘No writer can stand still. He continues to create or he perishes. Each task completed carries its own obligation to go on to something new,’ wrote Rachel Carson on writing and the loneliness of creative work. All poetry in its own limited frame of reference is great poetry. But seen in a universal frame, the poetry that ‘awakens the poet within us’ is deemed as the greatest poetry. Any poetry that freezes the flowing channels of thinking and creativity in the reader as well as the poet himself ultimately dies its own death. Poetry including all arts per se should be a driving force for an artist himself to create untiringly, continuously; otherwise, the artist in him will perish for good. Wani Nazir ‘Không một người viết nào có thể đứng yên tại chỗ. Họ phải tiếp tục sáng tạo hoặc phải chấm hết. Mỗi công việc hoàn thành đều gánh trách nhiệm của riêng nó là tiếp tục một điều gì đó mới mẻ ', Rachel Carson đã viết như thế về sự cô đơn của công việc sáng tác. Tất cả thơ trong hệ quy chiếu giới hạn của riêng nó đều là tuyệt vời. Nhưng xét trong một khung phổ quát thì bài thơ nào ‘đánh thức nhà thơ trong ta’ mới được coi là bài thơ tuyệt vời. Bất kỳ bài thơ nào làm đóng băng những dòng chảy của tư duy và sáng tạo ở người đọc cũng như bản thân mình thì cuối cùng cũng chết cái chết của chính nó. Thơ ca vốn bao gồm tất cả các bộ môn nghệ thuật nên là động lực để bản thân người nghệ sĩ sáng tạo không ngừng nghỉ; nếu không, con người nghệ sĩ trong họ sẽ lụi tàn vĩnh viễn. Wani Nazir Life is music, poetry is music, dance is music, the beating of our hearts is music, without it there wouldn't be life. We are all living musicians, each one our own way, even the handicapped have their humming and clicks, and one of the first things to show up in the behaviour of babies is their love of rhythm. Ann. (quora.com) Cuộc sống là âm nhạc, thơ ca là âm nhạc, khiêu vũ là âm nhạc, nhịp đập của trái tim chúng ta là âm nhạc, nếu không có nó thì sẽ không có cuộc sống. Tất cả chúng ta đều là những nhạc sĩ sinh động, mỗi người theo cách riêng của mình, ngay cả những người khuyết tật cũng có những tiếng ngân nga và cách nhấn nhá, và một trong những điều đầu tiên thể hiện mình trong hành vi của trẻ sơ sinh là tình yêu nhịp điệu của chúng. Ann. (quora.com) A TIME FOR EVERYTHING MỌI SỰ ĐỀU CÓ CÓ THỜI There is an appointed time for everything. And there is a time for every event under heaven: A time to give birth, and a time to die; A time to plant, and a time to uproot what is planted. A time to kill, and a time to heal; A time to tear down, and a time to build up. A time to weep, and a time to laugh; A time to mourn, and a time to dance. A time to throw stones, and a time to gather stones; A time to embrace, and a time to shun embracing. A time to search, and a time to give up as lost; A time to keep, and a time to throw away. A time to tear apart, and a time to sew together; A time to be silent, and a time to speak. A time to love, and a time to hate; A time for war, and a time for peace. Ở dưới bầu trời này, Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: Một thời để sinh đẻ, và một thời để chết đi; Một thời để trồng trọt, và một thời để nhổ cây; Một thời để giết chóc,và một thời để chữa lành; Một thời để phá đổ, và một thời để dựng xây; Một thời để khóc lóc, và một thời để vui cười; Một thời để than van, và một thời để nhảy múa; Một thời để ném đá, và một thời để nhặt đá; Một thời để ôm ấp, và một thời để ruồng rẫy; Một thời để kiếm tìm, và một thời để từ bỏ; Một thời để giữ gìn, và một thờ để quẳng đi; Một thời để xé rách, và một thời để khâu vá; Một thời để lặng thinh, và một thời để lên tiếng; Một thời để yêu thương, và một thời để thù ghét; Một thời để chiến tranh, và một thời để hoà bình (Ecclesiastes 3:1-8) (Sách Giảng Viên 3:1-8) A TIME FOR EVERYTHING MỌI SỰ ĐỀU CÓ CÓ THỜI There is an appointed time for everything. And there is a time for every event under heaven: A time to birth, and a time to die; A time to plant, and a time to uproot what is planted. A time to kill, and a time to heal; A time to tear down, and a time to build up. A time to weep, and a time to laugh; A time to mourn, and a time to dance. A time to throw stones, and a time to gather stones; A time to embrace, and a time to shun embracing. A time to search, and a time to give up as lost; A time to keep, and a time to throw away. A time to tear apart, and a time to sew together; A time to be silent, and a time to speak. A time to love, and a time to hate; A time for war, and a time for peace. Ở dưới bầu trời này, Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: Một thời sinh ra, một thời chết đi; Một thời gieo trồng, một thời nhổ bỏ; Một thời giết chóc, một thời chữa lành; Một thời phá đổ, một thời dựng xây; Một thời khóc lóc, một thời vui cười; Một thời than van, một thời nhảy múa; Một thời ném đá, một thời gom đống; Một thời ôm ấp, một thời rẻ rúng; Một thời kiếm tìm, một thời đoạn tuyệt; Một thời giữ gìn, một thời quẳng bỏ; Một thời xé rách, một thời vá khâu; Một thời lặng thinh, một thời lên tiếng; Một thời yêu thương, một thời thù hận; Một thời chiến tranh, một thời hoà bình (Ecclesiastes 3:1-8) (Sách Giảng sư 3:1-8) ECCLESIASTES 1 Ecclesiastes 1:1 The words of the Preacher, the son of David, king in Jerusalem. Ecclesiastes 1:2 All is to no purpose, said the Preacher, all the ways of man are to no purpose. Ecclesiastes 1:3 What is a man profited by all his work which he does under the sun? Ecclesiastes 1:4 One generation goes and another comes; but the earth is for ever. Ecclesiastes 1:5 The sun comes up and the sun goes down, and goes quickly back to the place where he came up. Ecclesiastes 1:6 The wind goes to the south, turning back again to the north; circling round for ever. Ecclesiastes 1:7 All the rivers go down to the sea, but the sea is not full; to the place where the rivers go, there they go again. Ecclesiastes 1:8 All things are full of weariness; man may not give their story: the eye has never enough of its seeing, or the ear of its hearing. Ecclesiastes 1:9 That which has been, is that which is to be, and that which has been done, is that which will be done, and there is no new thing under the sun. Ecclesiastes 1:10 Is there anything of which men say, See, this is new? It has been in the old time which was before us. Ecclesiastes 1:11 There is no memory of those who have gone before, GIẢNG SƯ 1 Giảng Sư 1:1 Lời của người truyền giảng, con trai của Đa-vít, vua tại Giê-ru-sa-lem. Giảng Sư 1:2 Tất thảy đều không tìm thấy cứu cánh, tất , thảy đường đi của con người đều không thấy đích đến. Giảng Sư 1:3 Con người được lợi ích gì khi làm mọi công việc dưới dưới mặt trời này? Giảng Sư 1:4 Thế hệ này đi, thế hệ khác đến; nhưng trái đất cứ còn mãi thế. Giảng Sư 1:5 Mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, nhanh chóng quay về nơi xuất phát. Giảng Sư 1:6 Gió thổi về nam, rồi lại quay về bắc; cứ xoay vần mãi mãi. Giảng Sư 1:7 Mọi sông đều đổ ra biển, mà biển không hề đầy; sông chảy vào biển chỗ nào, cứ chảy tiếp vào chỗ đó. Giảng Sư 1:8 Mọi việc đều mệt mỏi, con người chẳng thể kể ra; mắt không chán ngó, tai chẳng nhàm nghe. Giảng Sư 1:9 Điều chi đã có, lại sẽ có; điều gì đã làm, lại sẽ làm; chẳng gì mới mẻ ở dưới mặt trời này. Giảng Sư 1:10 Có điều gì mới không khi người ta nói: Xem này, cái nầy mới đấy? Nó đã có từ xưa trước thời chúng ta rồi. Giảng Sư 1:11 Người ta chẳng nhớ các đời trước, và các đời sau đó and of those who come after there will be no memory for those who are still to come after them. Ecclesiastes 1:12 I, the Preacher, was king over Israel in Jerusalem Ecclesiastes 1:13 And I gave my heart to searching out in wisdom all things which are done under heaven: it is a hard thing which God has put on the sons of men to do. Ecclesiastes 1:14 I have seen all the works which are done under the sun; all is to no purpose, and desire for wind. Ecclesiastes 1:15 That which is bent may not be made straight, and that which is not there may not be numbered. Ecclesiastes 1:16 I said to my heart, See, I have become great and am increased in wisdom more than any who were before me in Jerusalem--yes, my heart has seen much wisdom and knowledge. Ecclesiastes 1:17 And I gave my heart to getting knowledge of wisdom, and of the ways of the foolish. And I saw that this again was desire for wind. Ecclesiastes 1:18 Because in much wisdom is much grief, and increase of knowledge is increase of sorrow. rồi người ta cũng sẽ không nhớ những đời sau và sau nữa. Giảng Sư 1:12 Ta là người truyền giảng, đã làm vua Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem. Giảng Sư 1:13 Ta chuyên tâm lấy sự khôn ngoan mà nghiên cứu mọi việc được làm dưới vòm trời này; đây là công việc khó nhọc mà Đức Chúa Trời đã giao cho con cái loài người thực hiện. Giảng Sư 1:14 Ta thấy mọi công trình làm ra dưới mặt trời này; tất thảy đều không mục đích, và trôi theo gió thổi. Giảng Sư 1:15 Vật chi đã uốn cong không thể thẳng lại được, và vật gì không có mặt thì không thể đếm được. Giảng Sư 1:16 Ta nói trong tâm rằng:Xem này, ta đã trở nên vỹ đại và minh triết hơn hết thảy những người trước ta ở Giê-ru-sa-lem; quả thật tâm ta đã thấy nhiều minh triết và tri thức. Giảng Sư 1:17 Ta cũng chuyên tâm tìm kiếm tri thức về minh triết, và đường lối của bọn ngu dại. Và ta cũng đã nhìn điều đó như trôi theo gió thổi mà thôi. Giảng Sư 1:18 Bởi lễ khôn ngoan nhiều, thì phiền não cũng nhiều; và thêm hiểu biết ắt thêm buồn phiền. http://www.transcripture.com/vietnamese-english-ecclesiastes-1.html