(2) [Seller] has not successfully proven that the relevant deliveries of powdered milk (dates of arrival: 12 April, 26 April and 27 June 1998) were not contaminated with inactive lipase substances at the time of passing of risk. [Người bán] đã không thành chứng minh thành công rằng việc cung cấp sữa bột có liên quan không bị nhiễm các chất lipase không hoạt động tại thời điểm chuyển giao rủi ro((ngày đến: 12 tháng 4, 26 tháng 4 và 27 tháng 6 năm 1998) (2.1) The expert Prof. Dr. F. has set out that the examinations conducted by Institute S. merely indicate that it was highly likely that the powdered milk was not affected by any lipase-producing micro-organisms at the time when the goods were handed over. However, the expert has further testified that the examination conducted by Institute S. does not give any information as to whether the powdered milk was affected by inactive lipase substances. Chuyên gia Giáo sư Tiến sĩ F. đã chỉ ra rằng các cuộc kiểm tra do Viện S. tiến hành chỉ cho thấy rất có khả năng sữa bột không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ vi sinh vật sản xuất lipase nào tại thời điểm hàng hóa được bàn giao . Tuy nhiên, chuyên gia đã xác nhận thêm rằng cuộc kiểm tra do Viện S. tiến hành không đưa ra bất kỳ thông tin nào về việc liệu sữa bột có bị ảnh hưởng bởi các chất lipase không hoạt động hay không. (2.1.1) The Court is convinced that the expert has given a correct account of the facts. This holds true even with due consideration of [Seller]'s submissions in its memorandum of 26 September 2000 (p. 527 of the court file) and the attached opinion of its expert Prof. Dr. H. B. dated 24 September 2000 (pp. 544 et seq. of the court file). There is no need to schedule another oral hearing or to hear the appointed expert Prof. Dr. F. once again. The expert who has been commissioned by [Seller] merely finds that no lipase activities could have been detected at the time when Institute S. made its examination. However, the opinion of [Seller]'s expert does not deal with the question of whether an infestation with inactive lipase substances might have been detected by Institute S. in its analysis. In this respect, the findings of [Seller]'s expert do not conflict with those of the expert appointed by the Court. Therefore, the Court sees no reason whatsoever to doubt the plausible and convincing account which has been given by Prof. Dr. F. Chuyên gia được ủy quyền bởi [Người bán] chỉ thấy rằng không có hoạt động lipase nào có thể được phát hiện tại thời điểm Viện S. tiến hành kiểm tra. Tuy nhiên, ý kiến của chuyên gia của [Người bán] không giải quyết câu hỏi liệu một sự xâm nhập với các chất lipase không hoạt động có thể được phát hiện bởi Viện S. trong phân tích của nó hay không. Về mặt này, những phát hiện của chuyên gia của [Người bán] không mâu thuẫn với những chuyên gia do Tòa án chỉ định. Do đó, Tòa án thấy không có lý do gì để nghi ngờ lời khai chính đáng và thuyết phục được đưa ra bởi Giáo sư Tiến sĩ F. (2.1.2) The Court does not see any reason to follow the request which was filed by the end of the oral hearing to obtain another expert opinion. The appointed expert Prof. Dr. F. has unambiguously testified that inactive lipase substances cannot trigger oxidation or adipolytic processes. Thus, sensory analyses will not be able to identify whether or not inactive lipase substances are present. The expert Prof. Dr. F. has also stated that by 1998 there had not been any scientifically acknowledged methods in order to determine the existence and quantity of inactive lipase substances in powdered milk. Such scientific method is currently only being developed under his contribution. There is also no indication that the Court would obtain a different expert of higher expertise than Prof. Dr. F. Not only has he appeared as a very competent expert before the Court, but other scientists engaged in issues of milk processing have described him as one of the most critically acclaimed experts throughout Germany. Tòa án không thấy bất kỳ lý do nào để làm theo yêu cầu được đệ trình vào cuối phiên tòa để có ý kiến chuyên gia khác. Chuyên gia được chỉ định là Giáo sư Tiến sĩ F. đã xác nhận rõ ràng rằng các chất lipase không hoạt động có thể kích hoạt quá trình oxy hóa hoặc quá trình đoạn nhiệt. Do đó, các phân tích cảm quan sẽ không thể xác định được các chất lipase không hoạt động hay không. Chuyên gia Giáo sư Tiến sĩ F. cũng đã tuyên bố rằng vào năm 1998, không có bất kỳ phương pháp nào được khoa học thừa nhận để xác định sự tồn tại và số lượng các chất lipase không hoạt động trong sữa bột. Phương pháp khoa học như vậy hiện chỉ được phát triển dưới sự đóng góp của ông. Cũng không có dấu hiệu nào cho thấy Tòa án sẽ có được một chuyên gia khác về chuyên môn cao hơn Giáo sư Tiến sĩ F. Không chỉ xuất hiện như một chuyên gia rất có thẩm quyền trước Tòa án, mà các nhà khoa học khác liên quan đến các vấn đề chế biến sữa đã mô tả ông là một trong những chuyên gia được đánh giá cao nhất trên toàn nước Đức. (2.2) Therefore, [Seller] cannot establish any meaningful proof by asserting that all relevant deliveries of powdered milk were being thoroughly examined in terms of physics, sensorics and microbiology. The Court further assumes that certain certificates of quality, which have been presented by [Seller] in the oral hearing of 4 September 2000, are correct with regards to content (chemical, physical and microbiological examinations). According to the statements made by the expert Prof. Dr. F., the existence of inactive lipase substances in powdered milk can neither be identified nor excluded by virtue of a sensorial analysis. Not even [Seller]'s own expert has contested this. Moreover, the chemical, physical and microbiological examinations conducted by [Seller] prior to delivery are insignificant in order to determine whether there was an infestation with inactive lipase substances or not. The available parameters show that [Seller]'s examination has not provided any more detailed information in comparison with the analysis of Institute S. Do đó, [Người bán] không thể thiết lập bất kỳ bằng chứng có ý nghĩa nào bằng cách khẳng định rằng tất cả việc cung cấp sữa bột có liên quan đã được kiểm tra kỹ lưỡng về mặt vật lý, cảm biến và vi sinh. Tòa tiếp tục giả định rằng một số chứng chỉ chất lượng nhất định, được [Người bán] đưa ra trong phiên điều trần miệng ngày 4 tháng 9 năm 2000, là chính xác liên quan đến nội dung (kiểm tra hóa học, vật lý và vi sinh). Theo các tuyên bố của chuyên gia Giáo sư Tiến sĩ F., sự tồn tại của các chất lipase không hoạt động trong sữa bột không thể được xác định hay loại trừ nhờ vào phân tích cảm quan. Ngay cả chuyên gia riêng của [Người bán] cũng không tranh cãi về điều này. Ngoài ra, các kiểm tra hóa học, vật lý và vi sinh được thực hiện bởi [Người bán] trước khi giao hàng là không đáng kể để xác định xem có sự xâm nhập với các chất lipase không hoạt động hay không. Các thông số khả dụng cho thấy kiểm tra của [Người bán] không cung cấp bất kỳ thông tin chi tiết nào khác so với phân tích của Viện S. (2.3) [Seller] cannot rebut that there has been an infestation with lipase at the time of passing of risk by asserting that even the powdered milk as such changes its flavor over time. In this respect, [Seller] refers to the examinations conducted by the parties and Company G in Algeria on 24 June 1998 (cf. exhibits K12a-K13b) and to those conducted by company C. O. v. K. in L. (Netherlands) on 1 July 1998 (cf. exhibit K14). These analyses indicate that there has apparently been a negative sensorial impact on the powdered milk in the time between the examination by Institute S. on 20 April 1998 (cf. pp. 479 et seq. of the court file) and the taking of samples in Algeria on 24 June 1998 or, respectively, the subsequent examination conducted in the Netherlands on 1 July 1998. Nevertheless, this argument is not capable of ruling out the existence of inactive lipase substances at the time of passing of risk as the relevant cause for the oxidation. [Người bán] không thể bác bỏ rằng đã có sự xâm nhập của lipase tại thời điểm chuyển giao rủi ro bằng cách khẳng định rằng ngay cả sữa bột cũng thay đổi hương vị theo thời gian. Về mặt này, [Người bán] đề cập đến các cuộc kiểm tra được tiến hành bởi các bên và Công ty G ở Algeria vào ngày 24 tháng 6 năm 1998 và cho các cuộc kiểm tra do công ty CO v. K. ở L. (Hà Lan) thực hiện Ngày 1 tháng 7 năm 1998. Những phân tích này chỉ ra rằng rõ ràng đã có một tác động cảm giác tiêu cực đối với sữa bột trong thời gian giữa kỳ kiểm tra của Viện S. vào ngày 20 tháng 4 năm 1998 (xem trang 479 và tiếp theo của hồ sơ tòa án) và việc lấy mẫu ở Algeria vào ngày 24 tháng 6 năm 1998 hoặc, tương ứng, cuộc kiểm tra tiếp theo được tiến hành ở Hà Lan vào ngày 1 tháng 7 năm 1998. Tuy nhiên, lập luận này không có khả năng loại trừ sự tồn tại của các chất lipase không hoạt động tại thời điểm chuyển giao rủi ro là nguyên nhân có liên quan đến quá trình oxy hóa. (2.3.1) The mere fact that powdered milk is already infected with active lipase substances is not suitable to conclude with sufficient certainty that the infestation occurred only at a later stage in the form of lipaseproducing micro-organisms. This holds true even if it is being assumed in favor of [Seller] that powdered milk has been stored at 40 degrees Celsius and that it has been subjected to a very humid environment. Prof. Dr. F. has stated that it was uncertain to say -- even in this case -- whether a rancid flavor was due to an activity of micro-organisms which would have affected the powdered milk only after the passing of risk and triggered metabolic processes. It could also be the case that the powdered milk was infected with lipase from the outset and that this lipase was only re-activated by high temperature and humidity. Thực tế là sữa bột đã bị nhiễm các hoạt chất lipase không phù hợp để kết luận chắc chắn rằng sự phá hoại chỉ xảy ra ở giai đoạn sau ở dạng vi sinh vật sản xuất lipase. Điều này đúng ngay cả khi nó được giả định có lợi cho [Người bán] rằng sữa bột đã được bảo quản ở nhiệt độ 40 độ C và nó đã phải chịu một môi trường rất ẩm ướt. Giáo sư Tiến sĩ F. đã tuyên bố rằng không chắc chắn để nói - ngay cả trong trường hợp này - liệu một hương vị ôi là do một hoạt động của vi sinh vật sẽ chỉ ảnh hưởng đến sữa bột sau khi chuyển giao rủi ro và gây ra quá trình trao đổi chất. Nó cũng có thể là trường hợp sữa bột bị nhiễm lipase ngay từ đầu và lipase này chỉ được kích hoạt lại bởi nhiệt độ và độ ẩm cao. (2.3.2) [Seller] has argued after the closing of the oral hearing with reference to the statements made by Prof. Dr. B. that an improper storage may equally affect the sensorial quality of powdered milk even without an infestation with lipase. However, the Court does not see any reason to schedule another oral hearing on this issue. [Người bán] đã lập luận sau khi kết thúc phiên điều trần bằng miệng có liên quan đến các tuyên bố của Giáo sư Tiến sĩ B. rằng việc lưu trữ không đúng cách có thể ảnh hưởng như nhau đến chất lượng cảm quan của sữa bột ngay cả khi không bị nhiễm lipase. Tuy nhiên, Tòa án không thấy bất kỳ lý do nào để sắp xếp một phiên điều trần bằng miệng khác về vấn đề này (2.3.2.1) It is not for the Court to decide whether an application of � 156 ZPO [*] is barred in the present case. It has been common ground among the parties in both instances that the powdered milk took on a rancid flavor as a result of lipase and respective adipolytic reactions. There has merely been a disagreement about the exact time when the infestation with lipase or lipase-producing micro-organisms had occurred. Các bên trong cả hai trường hợp đều cho rằng sữa bột có mùi ôi là kết quả của lipase và các phản ứng adipolytic tương ứng. Chỉ có một sự bất đồng về thời gian chính xác khi sự xâm nhập của các vi sinh vật sản xuất lipase hoặc lipase đã xảy ra. (2.3.2.2) In any event, there is no sufficient reason to schedule another oral hearing on this question. [Seller]'s argument is insufficient in order to prove that the powdered milk was actually in conformity with the contract. The Court has no information as to whether oxygen radicals contained in powdered milk might be able to affect non-hydrolyzed fat at 40 degrees Celsius. However, even if such reaction were possible, respective oxidations would be no more than one of many possible causes of the rancid flavor. This is in line with what Prof. Dr. B. has testified. [Seller]'s submission is not suitable to exclude with sufficient certainty that oxidations have been triggered by lipase substances. Lập luận của [Người bán] là không đủ để chứng minh rằng sữa bột thực sự phù hợp với hợp đồng. Tòa án không có thông tin nào về việc các gốc oxy có trong sữa bột có thể ảnh hưởng đến chất béo không bị thủy phân ở 40 độ C hay không. Tuy nhiên, ngay cả khi phản ứng như vậy là có thể, quá trình oxy hóa tương ứng sẽ không nhiều hơn một trong nhiều nguyên nhân có thể gây ra mùi ôi. Điều này phù hợp với những gì Giáo sư Tiến sĩ B. đã làm chứng. Sự đệ trình của [Người bán] không phù hợp để loại trừ với sự chắc chắn đủ rằng quá trình oxy hóa đã được kích hoạt bởi các chất lipase. (2.3.3) Additionally, [Seller] has not even demonstrated that the particular consignments of powdered milk -- which have been delivered to Algiers on 12 April and 26 April 1998 by cargo ships Loire and Eurocarrier -had been affected even before they were processed into finished milk. The consignment carried by cargo ship Bluwing on 27 June 1998 has not been affected in any event. Anomalies with respect to the flavor of the powdered milk were first discovered when samples had been taken on 24 June 1998 and on 1 July 1998. Nothing has been submitted concerning the particulars of how the powdered milk was stored. Thus, the Court has to consider the possibility that Company G decided to store the powdered milk improperly only after the lack of conformity had been identified. Ngoài ra, [Người bán] thậm chí còn không chứng minh rằng các lô hàng đặc biệt của sữa bột - đã được giao cho Algiers vào ngày 12 tháng 4 và ngày 26 tháng 4 năm 1998 bởi các tàu chở hàng Loire và Eurocarrier - đã bị ảnh hưởng ngay cả trước khi chúng được xử lý thành sữa thành phẩm . Lô hàng được vận chuyển bởi tàu chở hàng Bluwing vào ngày 27 tháng 6 năm 1998 đã không bị ảnh hưởng trong bất kỳ sự kiện nào. Sự bất thường liên quan đến hương vị của sữa bột được phát hiện lần đầu tiên khi các mẫu được lấy vào ngày 24 tháng 6 năm 1998 và vào ngày 1 tháng 7 năm 1998. Không có gì được gửi về các chi tiết về cách thức sữa bột được lưu trữ. Do đó, Tòa án phải xem xét khả năng Công ty G quyết định lưu trữ sữa bột không đúng cách chỉ sau khi không xác định được sự phù hợp. (2.4) Similarly, [Seller] cannot rebut the existence of the infestation of powdered milk with inactive lipase substances by the time of delivery by virtue of its assertion that a lipase-related flavor was already determined when the powdered milk was agitated. It is true that this may argue against an existence of micro-organisms which would have needed to stimulate their metabolism in order to discharge lipase, engage adipolytic reactions and to oxidize. However, these events might be equally attributable to inactive lipase substances already contained in the powdered milk. Moreover, [Seller] has not made any submission concerning the exact time of appearance and the intensity of the rancid flavor. Tương tự, [Người bán] không thể bác bỏ sự tồn tại của sự xâm nhập của sữa bột với các chất lipase không hoạt động vào thời điểm giao hàng nhờ khẳng định rằng hương vị liên quan đến lipase đã được xác định khi sữa bột bị khuấy trộn. Đúng là điều này có thể lập luận chống lại sự tồn tại của các vi sinh vật cần thiết để kích thích sự trao đổi chất của chúng để thải lipase, tham gia phản ứng adipolytic và oxy hóa. Tuy nhiên, những sự kiện này có thể là do các chất lipase không hoạt động có trong sữa bột. Hơn nữa, [Người bán] đã không đưa ra bất kỳ đệ trình nào liên quan đến thời gian xuất hiện chính xác và cường độ của hương vị ôi. (2.5) Finally, an infestation of the powdered milk with lipase cannot be ruled out simply by virtue of [Seller]'s allegation that its production had proceeded without any fault. First, [Seller] has not submitted the exact date on which the powdered milk -- that was delivered to Algiers on 12 April and on 26 April 1998 -- had been produced at its factory in L. Additionally, no statements have been made concerning the particular steps of production and hygienic circumstances. [Seller] itself has argued that an appearance of thermoresistant lipase could not be definitely ruled out under its chosen production procedures. Thus, a flawless output could not be guaranteed even if production was properly conducted. Cuối cùng, sự phá hoại sữa bột bởi lipase không thể được loại trừ chỉ đơn giản là nhờ vào cáo buộc của [Người bán] rằng việc sản xuất của nó đã được tiến hành mà không có lỗi. Đầu tiên, [Người bán] chưa gửi ngày chính xác mà sữa bột - được giao cho Algiers vào ngày 12 tháng 4 và ngày 26 tháng 4 năm 1998 được sản xuất tại nhà máy của nó ở L. Ngoài ra, không có tuyên bố nào được đưa ra liên quan các bước cụ thể của sản xuất và hoàn cảnh vệ sinh. Bản thân [Người bán] đã tự mình đưa ra lập luận rằng không thể loại trừ sự xuất hiện của lipase kháng nhiệt theo quy trình sản xuất đã chọn. Do đó, một sản phẩm hoàn hảo không thể được đảm bảo ngay cả khi sản xuất được thực hiện đúng.