1. Nội dung chia thành các tiểu mục: 1, 2, ….; ngoài ra có thêm Lời giới thiệu (Mở đầu), Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo ở cuối Bài viết 2. Trích dẫn phải ghi chú nguồn trong dấu móc vuông […] ngay sau trích dẫn Đáp án 1. Đúng quy cách: 1đ 2. Diễn đạt tường minh & đủ các nội dung cần có: 1đ 3. Nội dung - ND 1: 4đ; 8 điểm ND 2: 4đ - Mỗi nội dung: + sưu tầm- lựa chọn vừa đủ tư liệu: 3 điểm; + 1 điểm sáng tạo. Khái niệm về tri thức và vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay. GỢI Ý: MỞ ĐẦU 1/ Khái niệm “tri thức” 2/ Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn 3/ Vai trò của tri thức trong phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay. - Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế… - Vai trò của tri thức với việc nâng cao tính cạnh tranh kinh tế …. - …. Bố cục: - Mục lục: 1 trang - Mở đầu: 1 trang - Lý luận về tri thức: 3 trang - Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn: 3 trang Vai trò của tri thức trong phát triển kinh tế: 3 trang Kết luận: 1 trang Danh mục tham khảo: 1 trang\ Lời mở đầu Hiện nay toàn thế giới đang trải qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay. Với nhiều thành tựu khoa học công nghệ hiện đại đặc biệt công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ na-no... đã khiến cho nền kinh tế thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc và phát triển toàn diện, đặc biệt đã có bước chuyển mình từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức Knowledge - Based Economy là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức, thông tin và sự đổi mới. Kinh tế tri thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, là chiến lược phát triển của các quốc gia phát triển như: mỹ, canada, nhật bản,… hay các nước đang phát triển như: ấn độ, thái lan trong đó có cả việt nam. Qua bối cảnh trên ta có thể thấy trí thức có vai trò rất quan trọng đối với sự hưng thịnh, suy vong của các quốc gia, dân tộc, nhất là trong nền kinh tế tri thức và bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức ấy nên đòi hỏi mỗi người phải được trang bị thật tốt vốn tri thức để có thể bắt kijo xu hướng. Nhà văn Phranxis Bêcơncũng đã đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Bêcơn khẳng định “tri thức là sức mạnh". Sau đó nhà triết học vĩ đại - Lênin đã phát triển thành: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Nhận thấy tầm quan trọng của tri thức đối với cuộc sống hiện nay tôi đã chọn đề tài để tìm hiểu thêm về Khái niệm về tri thức và vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay. 1. Khái niệm về tri thức Vũ trụ hay Tri thức đều là những khái niệm không diễn tả được bằng ngôn ngữ, bởi nghĩa của nó thật sự rất rộng lớn mà không từ ngữ nào có thể diễn tả chính xác được . Nếu nói ra bằng ngôn ngữ, chỉ là mô tả cái bóng của nó, chứ không phải bản thân nó. Vì vậy có câu : "Người biết không nói. Người nói không biết." (Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri. - Lão Tử). Tuy nhiên khi luận bàn về một sự vật hay hiện tượng, trước hết chúng ta phải xác định được một vài định nghĩa cho nó. Vậy Tri thức là gì ? ta thừa nhận cách hiểu theo nghĩa cơ bản nhất của tri thức như Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm,thông qua giáo dục hay tự học hỏi. Trong tiếng Việt, cả "tri" lẫn "thức" đều có nghĩa là biết.[1] Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ năng hay năng lực thực hành, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. (https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri_th%E1%BB%A9c) tri thức là toàn bộ sự hiểu và biết của con người về tự nhiên, xã hội và chính con người. Đó có thể là những hiểu biết lý thuyết hay thực hành, có thể là những hiểu biết khoa học như qua trường lớp đào tạo hoặc là qua những kinh nghiệm hàng ngày chúng ta rút. Chúng ta đều có hiểu biết nhưng khác nhau về trình độ. ngày nay khi nghiên cứu về kinh tế tri thức, sự phát triển kinh tế, đều coi tri thức là một nguồn lực của kinh doanh, nguồn lực của mọi yếu tố đầu vào của sản xuất. ví dụ như là các tri thức công nghệ cao, phát minh, sáng chế được vận dụng. tri thức cũng giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế, trong giải quyết các vấn đề cuộc sống. Ai cũng có tri thức nhiều ít khác nhau phạm vi khác nhau nhưng ai cũng có cả. Vậy tri thức do đâu mà có. Để hiểu được ta cần biết thế nào là trí tuệ. Trí tuệ ở đây là chỉ cái năng lực sáng tạo vốn có của con người. Có nghĩa là sinh ra ai cũng có cái năng lực ấy. nó giống như ta nói “mọi hạt giống đều có khả năng nảy mầm” và cái khả năng ấy là bình đẳng với mỗi hạt giống. cái khả năng ấy là luôn luôn có cho nên là theo thánh nhân phương đông nói: mọi người sinh ra đều có cái năng lực sáng tạo. vấn đề là làm thế nào để phát huy cái năng lực sáng tạo ấy. năng lực sáng tạo này nó có thể thể hiện là sáng tạo trên nhiều lĩnh vực như là sáng tạo trong nghiên cứu khoa học mà tạo ra các phát minh sáng chế, cũng có thể sáng tạo trên lĩnh vực nghệ thuật như Nguyễn du thì sáng tạo ra những tác phẩm không phải ai cũng làm được. trí tuệ là nguồn gốc sáng tạo ra tri thức. tri thức là sản phẩm của trí tuệ. Cần phải học để có đc tri thức, học là ghi nhận tri thức mà những người trc bằng trí tuệ tạo ra, như các định lý khoa học, các thành tựu khoa học vĩ đại. Hồ Chí Minh – một nhà cách mạng vĩ đại của Việt Nam cũng đã nêu lên quan điểm của mình về tri thức. Người cho rằng tri thức thật sự chỉ có được khi vừa học vừa hành: Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có 2 thứ hiểu biết. Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. 2 là hiểu biết đấu tranh dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài 2 cái đó, không có trí thức nào khác., một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Xong y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, tay không biết làm nhiều việc khác. Thế là y chỉ có trí thức một nữa. Trí các quân y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn thấm i muốn thành một người trí thức hoàn toàn vậy thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế…. Vì vậy, thì chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành. HO CHI MINH TOAN TAP TAP 5 t275 Xét về tri thức trong triết học: bàn luận về tri thức, dưới phương diện là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, Tri thức có ý nghĩa Triết học của nó. Để có thể xem xét về ý nghĩa Triết học của Tri thức, chúng ta phải xem xét đến nguồn gốc và sự phát sinh ra các sự vật và hiện tượng. Hiện nay các nhà khoa học đều thừa nhận là có một sự nhất trí hoàn toàn giữa các trường phái Triết học Đông phương cổ đại và các nhà vật lý học hiện đại về nguồn gốc, cấu tạo và các quá trình hoạt động của vũ trụ Plato đã diễn tả lý thuyết nhận thức của ông rất rõ ràng. Trong cuốn “nền Cộng hòa” (Republic) ông đặt ra những vấn nạn: tri thức là gì? Ảo ảnh là gì? Thực tại là gì? Bằng cách nào có tri thức đích thực? Con người có thể nhận thức được gì? Đây là những vấn đề của tri thức học. Plato phân biệt thực tại được giới thiệu qua giác quan là những thực tại đổi thay, đặc thù và thực tại được tâm thức nhận thức qua lý tính. Thế giới của thực tại tâm thức đối lập với thế giới được nhận thức qua kinh nghiệm giác quan. Đó là thế giới của lý niệm hay mô thức có tính chất bất biến, phổ quát. Mô thức ấy là nguyên mẫu mà các sự vật đặc thù lấy làm kiểu mẫu. Thế nhưng con người dễ bị ấn tượng giác quan chi phối,, lừa dối. Con người giống như những tù nhân bị giam giữ trong một cái hang, mắt luôn hướng về vách tường, do đó lầm lẫn cái bóng trên tường của mình là chính thực tại. Muốn nhận ra thực tại của chính mình, phải thoát khỏi hang, thoát khỏi thế giới khả giác quen thuộc để nhìn thấy ánh mặt trời tượng trưng cho nguồn mạch tri thức đích thực của con người. (https://catechesis.net/tri-thuc-hoc-trong-lich-su-triethoc/#:~:text=Ti%E1%BA%BFn%20tr%C3%ACnh%20tri%20th%E1%BB%A9c% 20c%E1%BB%A7a,n%C6%A1i%20ch%C3%ADnh%20gi%C3%A1c%20quan%2 0%C4%91%C3%B3.) Khi nghiên cứu hệ thống triết học của Ph.Bêcơn, chúng ta có thể thấy khát vọng của ông về một xã hội, mà ở đó có sự ứng dụng mạnh mẽ tri thức khoa học vào trong cuộc sống. Đồng thời, khoa học trở thành những “tiêu chuẩn vàng” để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Ông đã đưa ra quan niệm về một xã hội lý tường dựa trên nền tảng của khoa học và luôn tôn vinh phẩm giá của các nhà khoa học. Từ việc khẳng định vai trò cùa khoa học đối với đời sống xã hội, Ph.Bêccm đi tới tuyên bố “tri thức là sức mạnh” như một sự gợi mở đầy ý nghĩa cho thế hệ sau tiếp bước. https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/335776/CVv233S01202 2014.pdf Trong lý luận nhận thức của mình, Arixtốt thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là nguồn gốc, kinh nghiệm và cảm giác. Tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Cảm giác có vai trò quan trọng trong nhận thức, nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức đúng, có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối tượng. ở đây, Arixtốt đã thừa nhận tính khách quan của thế giới. Giôn Lốccơ Theo ông, toàn bộ các tri thức, chân lý đều là kết quả nhận thức của con người chứ không phải là bẩm sinh. Theo tinh thần duy vật của nguyên lý tabula rasa, Lốccơ khẳng định: "Mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm, và suy cho cùng đều xuất phát từ đó" Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại. Bởi vậy mà Trong lịch sử, tri thức luận đã là một trong các chủ đề triết học được nghiên cứu và tranh luận nhiều nhất. + tri thức theo quan điểm chủ nghĩa mác lê nin Ph.Ăngghen khẳng định, “để điều hành bộ máy hành chính và toàn bộ nền sản xuất xã hội, hoàn toàn không cần những lời nói suông, mà cần những tri thức vững vàng” (C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 22, tr.432). Bằng chứng cho quan điểm ấy là bằng vốn tri thức vững vàng của mình Ph.Ăng-ghen đã cùng C.Mác xây dựng nên hệ thống tri thức khoa học - một hệ thống phương pháp có tính nguyên tắc trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, soi sáng cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến lên chủ nghĩa xã hội V.I.Lênin cho rằng, “tri thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc” (V.I.Lênin, tập 8, tr.372). Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng: “Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả. Với tư cách là một bộ phận trong toàn thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa chọn...” (V.I.Lênin, tập 8, tr.373). 2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn (https://kmacle.duytan.edu.vn/uploads/75770b9b-cdbf-4038-90e2f25e1f4426fe_triethocmaclenin.pdf) t139 tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi của ý thức Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực. Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình. Phương thức tồn tại của ý thức và của một cái gì đó đối với ý thức đó là tri thức. Tri thức là hành vi duy nhất của ý thức. Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó. Tri thức là quan hệ có tính chất đối tượng duy nhất của ý thức. Ý thức biết tính hư vô của đối tượng phẩi nghĩa là tính không thể phân biệt của đối tượng với ý thức, sự không tồn tại của đối tượng đối với ý thức do chỗ nó biết rằng đối tượng là sự tự tha hóa của nó phẩi nghĩa là nó biết bản thân nó mở ngoặc tri thức với tính cách là đối tượng đóng ngoặc nhờ chỗ đối tượng chỉ là vẻ ngoài của đối tượng, một ảo ảnh nào đó, còn xét theo bản chất của nó chẳng qua chỉ là bản thân tri thức tự đối lập mình với bản thân mình và do đó đem tính hư vô, bà ấy không có bất cứ tính đối tượng nào ngoài chi xuất đối lập với bản thân mình. Nói cách khác phải tri thức biết rằng khi nó có quan hệ với một đối tượng nào đó thì nó chỉ ở ngoài bản thân nó nó tự tha hoá khỏi mình rằng bạn thân nó mang hình thức đối tượng đối với nó phải hoặc cãi biểu hiện ra trước nó như là đối tượng thì chỉ là bản thân nó mà thôi Tri thức trong thế giới quan: Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Trong lịch sử phát triển của xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nhưng tập trung ở ba hình thức chủ yếu: thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết học và cũng là đỉnh cao của thế giới quan đã có trong lịch sử. Có thể khẳng định rằng, thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan niệm khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản quan hệ hữu cơ với nhau: đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng. Tri thức trong thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng, các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Những tri thức đó góp phần định hướng cho con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Trong đó, những tri thức của Triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng, là hạt nhân lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng. Niềm tin khoa học có cơ sở từ những tri thức khoa học và gắn kết giữa tri thức khoa học với hoạt động thực tiễn. Niềm tin khoa học giúp con người tin tưởng vào những hành động hướng tới chân lý, xác định những mục tiêu cao cả để vươn tới. http://truongchinhtri.caobang.gov.vn/index.php/news/Nghien-cuu-khoahoc/Vai-tro-cua-the-gioi-quan-duy-vat-bien-chung-doi-voi-hoc-vien-truongchinh-tri-393/ Vai trò của tri thức trong xã hội C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Khi trí thức của xã hội cũ được giác ngộ ý thức giai cấp của giai cấp công nhân, đi theo và thấm nhuần thế giới quan của giai cấp công nhân thì họ sẽ trở thành “giai cấp vô sản lao động trí óc”(6) C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Sự Thật, Hà Nội, 1995, tập 17, tr.732- trí thức mới của giai cấp công nhân. Leenin cũng có đồng quan điểm khi cho rằng: Người trí thức đấu tranh, ấy tuyệt nhiên không phải là= cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác phải mà là= cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ phải chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ nên mới có thể đóng được một vai trò nào đó. Vì vậy đối với họ quyền được hoàn toàn tự do hiểu biết bản thân cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để công tác được kết quả (V.I.Lênin, tập 8, tr.373). Quan điểm này của Leenin cho thấy ông đánh giá rất cao vai trò của tri thức đối với cuộc sống của nhân loại, là một vũ khí để họ có thể đấu tranh đòi lại quyền lợi của mình. Những người lao động khao khát có tri thức, vì tri thức cần cho họ để chiến thắng. 9/10 quần chúng lao động đã hiểu rõ rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự do giải phóng của họ, rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức., rằng giờ đây việc làm cho mọi người có thể thực sự được học hành vậy là do bản thân họ quyết định. (V.I.Lênin toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva, Hà Nội, tập 37 t93) Quay trở lại Việt Nam thì Hồ Chí Minh cũng tuân theo tư tưởng về triết học về tri thức như người thầy của mình. Người khẳng định: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế HO CHI MINH TOAN TAP - TAP t184. Người còn cho biết thêm: Những người trí thức Tham gia cách mạng phải tham gia kháng chiến rất quý báu cho đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều HO CHI MINH TOAN TAP - TAP 5 275 "Tri thức có vai trò gì trong việc hình thành loài người?" và "Tri thức có vai trò gì trong việc tồn tại và phát triển của loài người?". Kể từ thời hình thành người vượn đến nay, Tri thức của nhân loại không ngừng phát triển, giúp cho con người có năng suất lao động ngày càng cao: phát minh ra những thiết bị giúp lao động dễ dàng hơn,..; có các phương tiện thuận tiện cho việc đi lại chẳng hạn như: xe máy, ô tô hay máy bay. Những phát minh tưởng chừng như không thể trong quá khứ nhưng nay lại được con người phát minh ra nhờ tri thức của con người ngày càng rộng lớn. Có thể nói nhờ tri thức mà con người đã làm được những điều không tưởng. Xã hội ngày càng phát triển và đổi mới vì thế theo V.I.Lênin cần thiết phải xây dựng và phát triển trí thức mới, trí thức xã hội chủ nghĩa, bao gồm đào tạo trí thức mới từ giai cấp công nhân, nông dân và cải tạo tầng lớp trí thức cũ theo hướng xã hội chủ nghĩa. (lenin tập 42) 3. Vai trò của tri thức trong phát triển kinh tế (hoặc kinh doanh) ở Việt Nam hiện nay. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng trong mỗi thời đại lịch sử khác nhau, vai trò của trí thức cũng khác nhau. Trước đây vai trò của tri thức là tìm ra con đường hòa bình cho nhân loại, còn hiện nay vai trò của tri thức là thúc đẩy kinh tế phát triển, giúp xã hội văn minh tốt đẹp hơn. Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội :kinh tế,chính trị,văn hoá giáo dục.. Cũng giống như C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định trí thức đóng một vai trò hết sức to lớn đối với phát triển xã hội. Khi xây dựng chủ nghĩa xã hội thì vai trò của trí thức càng được khẳng định. V.I.Lênin viết: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được” (13) V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, tập 49, tr.217. a. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế… Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm trong đó hai đặc điểm sau là tiêu biểu hơn cả: Có một tỷ lệ cao các hoạt động kinh tế dựa trên hiểu biết và thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, như khoa học về sự sống, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ nano, ... Mọi hoạt động trong các ngành kinh tế đều dựa nhiều hơn và hiệu quả hơn vào việc dùng tri thức trong một môi trường toàn cầu hóa, và kinh tế được phát triển hài hòa với sự phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. https://www.jaist.ac.jp/~bao/Writings/bai%20anh%20Bao.pdf Lực lượng lao động mà có chất xám, được đào tạo bài bản với trình độ chuyên môn cao thì sẽ giúp cho việc sản xuất của cải vật chất ngày càng phát triển, là động lực phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó khi tri thức khoa học được ứng dụng vào đời sống, có thể tạo thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, giúp năng suất vượt trội, con người cũng không còn vất vả như trước. Nó cũng trở thành lực lượng sản xuất chính. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã được C. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. tri thức chính là nguồn động lực thúc đẩy quá trình phát triển của kinh tế, là nguồn vốn vô hạn, không bị hao mòn, mất đi mà còn được nâng cao, tích lũy trong quá trình làm việc. Sự phát triển trong kinh tế ấy đã cải thiện được đời sống vật chất và tinh thần của con người. Bởi những giá trị mà tri thức mang lên nên cần luôn sáng tạo, đổi mới không ngừng để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao trong thời gian ngắn, đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Người trí thức chân chính theo Hồ Chí Minh phải là người trí thức hoàn toàn, nghĩa là phải biết vận dụng tri thức của mình phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Cho nên điều quan trọng là phải biết vận dụng tri thức vào cuộc sống, vào phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Những tư tưởng này của Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng cho Đảng ta nhận thức, đánh giá về vị trí, vai trò của trí thức.Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về "Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm về trí thức: "Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội"(28). Từ quan niệm về trí thức như vậy, nên Đảng ta đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức. Vị trí, vai trò của trí thức nước nhà được thể hiện cụ thể trên các lĩnh vực sau: Một là, cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xoá đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiện nay, cơ cấu lao động theo trình độ được đào tạo đã có sự tăng cao. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học, cao đẳng cũng tăng nhanh. Tỷ trọng lao động được đào tạo từ đại học trở lên trong những ngành dịch vụ cao hơn so với ngành sản xuất. Đội ngũ trí thức là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh của đất nước. Đội ngũ trí thức Việt Nam còn là một thành tố thống nhất hữu cơ không thể tách rời trong khối liên minh công – nông – trí ở Việt Nam. Do vậy, đội ngũ trí thức Việt Nam không chỉ được Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá cao về phát triển kinh tế mà còn đánh giá cao về xây dựng, phát triển xã hội, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới. Đội ngũ trí thức Việt Nam cũng là một trong những lực lượng nòng cốt trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đồng thời, chính họ là những người tham gia trực tiếp vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại rồi chuyển tải vào văn hóa Việt Nam. Họ là những người trực tiếp góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh cho nhân dân. Ba là, bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Chính đội ngũ trí thức Việt Nam trực tiếp góp phần vào xây dựng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, nhân văn. Bốn là, đội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Chnhs họ là những người góp phần tổng kết, rút ra những bài học nghệ thuật quân sự giá trị của ông, cha để lưu truyền và gìn giữ cho các thế hệ ngày mai. Họ cũng là những người góp phần hình thành nên đường lối quân sự Việt Nam. Năm là, nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đa số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước(29). Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xoá đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới. Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đa số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước. (29) Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X " Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" | Tạp chí Tuyên giáo (tuyengiao.vn). Ngày 16/8/2008. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác địnhTrí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội… Trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của trí thức trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Do vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước cần có cơ chế, chính sách phù hợp để lôi cuốn, thu hút và phát huy vai trò của trí thức. Ta lấy một vài thí dụ để phân tích các định nghĩa này, như định nghĩa của Ngân hàng Thế giới. Chẳng hạn việc khai thác và bán một số tài nguyên thiên nhiên ở dạng thô là những hoạt động kinh tế không chứa hàm lượng tri thức cao. Một nền kinh tế tri thức sẽ hướng đến việc làm sao để biết cách chế biến các tài nguyên thô thành các sản phẩm có giá trị cao hơn trước khi bán ra, đến việc có các thông tin toàn cầu về những quốc gia nào cần bán và mua các tài nguyên này để có quyết sách hợp lý nhất. Nếu có hiểu biết và không chỉ nhằm thị trường trước mắt, rất có thể việc hoãn vài chục năm không khai thác và bán ngay một số tài nguyên sẽ có lợi hơn trong toàn cục. Đây là việc “sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội”. Chẳng hạn lúc này ta đang phải quyết định một chuyện rất hệ trọng về xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Rõ ràng ta cần tìm hiểu để biết mọi nhẽ của kiến thức loài người về điện hạt nhân, việc xây dựng và vận hành chúng, những bài học thành bại của các quốc gia. Đây là việc “thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu”. Chẳng hạn khi ta phát hiện ra và muốn khai thác mỏ than nâu dưới lòng đồng bằng sông Hồng, ta cần phải biết rất rõ về trữ lượng, biết công nghệ, biết tác động của nước ngầm đến sụt lún, biết những rủi ro có thể xảy ra. Đây là việc “thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng” V.I.Lênin còn đặc biệt quan tâm chú trọng đến việc sử dụng các chuyên gia tư sản tài giỏi, nhằm áp dụng những phát minh mới và hiện đại nhất trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật và quản lý để phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cũng như nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Đó cũng là những vấn đề đang được Đảng và Nhà nước ta vận dụng linh hoạt sáng tạo, trong việc sử dụng thuê các chuyên gia, liên doanh, liên kết, đầu tư hợp tác trên nhiều mặt với nước ngoài; nhằm phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực vốn, khoa học-công nghệ từ bên ngoài đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa b. Vai trò của tri thức với việc nâng cao tính cạnh tranh kinh tế https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiettin?dDocName=MOFUCM090266 Xét về tính chất toàn cầu của kinh tế tri thức. Không nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có thể nằm ngoài mạng lưới kinh tế toàn cầu, và đương nhiên hiểu biết về các quốc gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý của mình là điều hiển nhiên rất quan trọng. Trong cái bối cảnh toàn cầu đầy cạnh tranh này, sự “khôn sống mống chết” càng rõ, mà cái sự khôn ấy bắt đầu từ việc có hiểu biết về các nước khác trước khi đưa ra được những quyết định khôn ngoan. Hai là tính chất động theo cơ hội của nền kinh tế tri thức. Ta đang phải phát triển trong một thế giới đầy biến động, nơi điều duy nhất chắc chắn là sự không chắc chắn của chính thế giới này. Trong những biến động ấy, hiểu biết về các cơ hội và rủi ro để có thể đối mặt với chúng là rất cần. Môi trường càng biến động, quốc gia nào có hiểu biết để nắm được cơ hội sẽ càng phát triển được nhanh. Ba là tính chất con người có tri thức là nguồn lực chính của kinh tế tri thức. Bổ sung vào lý thuyết kinh tế tân-cổ điển xem hai nguồn lực chính của kinh tế là vốn tài chính và sức lao động, kinh tế tri thức nhấn mạnh thêm về con người có tri thức. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/2320/kinh-te-trithuc-vathuc-hien-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-o-nuoc-ta.aspx Các nước phát triển hiện nay đều chứa đựng trong nó nhiều yếu tố của nền kinh tế tri thức, như nền công nghiệp công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, lao động trí tuệ có chuyên môn kỹ thuật cao. Vì vậy, bước chuyển sang kinh tế tri thức là bước chuyển có tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật chung. Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa để phát triển kinh tế tránh tụt hậu. Đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam có khả năng tiếp cận và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư, khai thác ứng dụng những thành tựu mới của thời đại nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ phần mềm... Như vậy, chúng ta có cơ sở khoa học để đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và phát triển kinh tế tri thức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”(3). Từ chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri thức” trong Đại hội IX đến Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Coi kinh tế tri thức là yếu tố quyết định của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Báo cáo chính trị tại Đại hội chỉ rõ: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng nguồn vốn của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”(5). (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91 (4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.87 (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 87-88 đất nước có nền kinh tế phát triển hay không hầu nhưphụ thuộc vào vốn tri thức của con người.<= cơ cấu lao động chuyển dịchtừ lao động có trình độ thấp quen với công việc chân tay hoặc thiếu đổi mới sang lao động trí tuệ.Ví dụ. Điển hình như là các nước Châu Phi, mặc dù là khu vực mà tàinguyên thiên nhiên rất phong phú và đa dạng nhưng nền kinh tế khu vực nàyphần lớn là kém phát triển và còn phải nhờ vào sự viện trợ của các nước pháttriển. Điều này là do tri thức ở khu vực này còn kém, tỉ lệ người mù chữ còncao khiến công tác khai thác tài nguyên thiên nhiên gặp nhiều khó khăn,không những thế do tri thức kém người dân còn không nhận thức được tầmquan trọng của tài nguyên thiên nhiên dẫn đến việc khai thác bừa bãi gâynhiều hậu quả nghiêm trọng. Ngược lại đất nước Nhật Bản được biết đến làmột đất nước có tài nguyên thiên nhiên vô cùng nghèo nàn, không những thếhàng năm đất nước này phải hứng chịu rất nhiều trận thiên tai lớn nhỏ nhưđộng đất, sóng thần, núi lửa,…Mặc dù vậy Nhật Bản lại có nền kinh tế vôcùng phát triển, có giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản còn đứng thứ ba Thế giớisau Mĩ và Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân cơ bản của sự pháttriển thần kỳ đó chính là vốn tri thức của con người Nhật Bản. Người NhậtBản có vốn tri thức rất lớn chính bởi vậy họ rất sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, sáng tạo trong pháttriển khoa học, kỹ thuật, đem lại thắng lợi cho nền kinh tế đất nước