Xuất khẩu - động lực quyết định tăng trưởng - sẽ khả quan trong năm 2024 và 2025 So với các quốc gia khác trên thế giới, độ mở của nền kinh tế Việt Nam rất lớn. Theo thống kê của World Bank, giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam tương đương 94% GDP, xếp thứ 14 toàn cầu. Trong tổng xuất khẩu của Việt Nam, xuất khẩu hàng hóa chiếm đa số với 82% GDP. Xuất khẩu dịch vụ, chủ yếu là dịch vụ du lịch và vận tải chiếm 12% GDP. Để so sánh, hai thành tố quan trọng khác của tăng trưởng kinh tế là bán lẻ hàng hóa dịch vụ (phản ánh sức cầu tiêu dùng của dân cư) và đầu tư toàn xã hội (bao gồm đầu tư tư nhân, đầu tư công, đầu tư của khối FDI...) chỉ chiếm lần lượt 61% và 33% GDP. Những con số trên cho thấy xuất khẩu đang là động lực trực tiếp và có tác động lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu thuận lợi sẽ mang đến tăng trưởng GDP tích cực và ngược lại. Năm 2018 và 2019, Việt Nam có được tăng trưởng GDP trên 7%, mức cao nhất 10 năm. Cùng thời gian đó, xuất khẩu tăng lần lượt +13.2% và +8.4%. Còn trong năm 2023, khi xuất khẩu giảm 4.6% thì GDP cũng chỉ đạt 5%. Nguyễn Đức Hùng Linh Founder & Chief Advisor Think Future Consultancy & Investment Follow me on Với tỷ trọng cao trên GDP và tạo ra nhiều công ăn việc làm, xuất khẩu đang có tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] Không dừng lại ở tác động trực tiếp, xuất khẩu còn có tác động gián tiếp đến tăng trưởng qua việc làm và thu nhập, yếu tố ảnh hưởng hàng đầu đến sức cầu tiêu dùng. Trong năm 2023, khi xuất khẩu tăng trưởng âm thì tình trạng mất việc, giảm thu nhập cũng gia tăng. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, số đơn đăng ký xin trợ cấp thất nghiệp trong năm 2023 đã tăng lên 1.1 triệu lượt, xấp xỉ bằng năm 2020, năm xảy ra đại dịch (1.12 triệu lượt) và cao hơn nhiều số đơn đăng ký thất nghiệp của các năm trước đại dịch. Trong hai năm 2018-2019 số đơn đăng ký thất nghiệp chỉ là 770 nghìn và 850 nghìn lượt. Sự bấp bênh của việc làm và thu nhập đã kìm hãm sức cầu tiêu dùng. Chỉ số bán lẻ (đã loại trừ yếu tố lạm phát) của năm 2023 chỉ tăng 7.1% dù lãi suất đã được kéo xuống rất thấp và thuế VAT được giảm xuống 8% với hầu hết các mặt hàng tiêu dùng. Trong khi đó, 3 năm trước Covid (2017-2019), chỉ số bán lẻ đều tăng trên 9% trong môi trường lãi suất và thuế VAT cao hơn. Cụ thể, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của nhóm ngân hàng có vốn nhà nước (nhóm Big4) năm 2018-2019 dao động trong khoảng từ 6.7%-7.1%. Còn lãi suất huy động bình quân năm 2023 của nhóm này giảm xuống 6.1%, đặc biệt 4 tháng cuối năm 2023, lãi suất huy động giảm xuống dưới 5%. Là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, xuất khẩu của Việt Nam lại đang phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của các nền kinh tế phát triển. Mỹ, EU, Hàn Quốc và Nhật Bản đang chiếm tới 53% giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Chính sự sụt giảm xuất khẩu sang các thị trường này đã khiến tổng xuất khẩu giảm và làm chậm tăng trưởng kinh tế. Năm 2023, xuất khẩu sang Mỹ giảm 11.3%, EU giảm 6.7%, Hàn Quốc và Nhật Bản cùng giảm 3.7%. Bước sang năm 2024, các nền kinh tế phát triển đang lấy lại đà tăng trưởng tích cực, dự báo tăng trưởng đạt 1,7% trong năm 2024 và 1,8% vào năm 2025 (so với mức 1,6% của năm 2023). Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự đoán thương mại hàng hóa toàn cầu sẽ tăng lần lượt 2,6% và 3,3% trong các năm 2024 và 2025, sau khi giảm 1.2% vào năm 2023. Xuất khẩu của Việt Nam đang phụ thuộc vào các thị trường phát triển. Năm 2024 và 2025, dự báo tăng trưởng kinh tế và thương mại hàng hóa toàn cầu sẽ tích cực hơn, kéo theo nhu cầu với hàng hóa Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam trong 5 tháng tăng 15.2%, riêng xuất khẩu sang Mỹ tăng 22.3% Sức mua cải thiện ở các nước phát triển đã có tác động rõ rệt đến kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu hàng hóa trong 5 tháng đầu năm 2024 tăng 15.2%, trong khi cùng 2 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] kỳ năm 2023 giảm 11.7%. Xuất khẩu sang Mỹ, EU, Hàn Quốc và Nhật Bản đều quay lại tăng trưởng tốt, lần lượt đạt 22.3%, 16.1%, 10.9% và 3.2%. Nói thêm về thị trường Mỹ, đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm hơn ¼ tổng giá trị xuất khẩu của nước ta. Trong các năm 2021 và 2022, các nhà nhập khẩu của Mỹ đã tăng nhanh nhập khẩu hàng hóa để bù đắp cho quãng thời gian gián đoạn bởi Covid-19. Sang năm 2023, khi mối lo đại dịch qua đi, các nhà nhập khẩu nhận thấy không cần thiết phải tích trữ quá nhiều hàng hóa nên đã chủ động giảm nhập khẩu để giải phóng hàng tồn kho. Đây là nguyên nhân khiến nhập khẩu hàng hóa của Mỹ trong năm 2023 giảm 160,5 tỷ USD (-5,1%). Trong đó, nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng như may mặc, giày dép, điện thoại và đồ dùng gia đình - các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam - giảm 80,6 tỷ USD (-9,6%). Sang năm 2024, xu hướng nhập khẩu hàng hóa của Mỹ đã tích cực hơn với mức tăng +1,7% trong 4 tháng đầu năm. Điều này lý giải vì sao hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ giảm trong năm 2023 và tăng trở lại trong những tháng đầu năm 2024. Nhờ vào xuất khẩu khả quan, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý 1/2024 đã tăng lên 5,66%, so với mức tăng 3,32% của quý 1/2023. Số đơn đăng ký trợ cấp thất nghiệp trong quý 1/2024 cũng giảm xuống còn 168 nghìn lượt, mức thấp nhất trong 10 quý, cho thấy sự cải thiện ở khu vực việc làm và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Với dự báo kinh tế của các thị trường phát triển tiếp tục xu hướng tích cực và nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng của Mỹ đang tăng trở lại, chúng ta có thể tin tưởng rằng xuất khẩu của Việt Nam trong các tháng còn lại của năm 2024 sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt như những tháng đầu năm. Xuất khẩu khả quan sẽ kéo tăng trưởng GDP trong cả 2 năm 2024 và 2025. Hơn nữa, xuất khẩu của năm 2025 cũng được kỳ vọng sẽ khả quan do các nền kinh tế phát triển dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng cao (2024: 1,7% và 2025: 1,8%). Với xu hướng này, chúng ta có thể tự tin rằng kinh tế Việt Nam sẽ có diện mạo khởi sắc hơn trong cả hai năm 2024 và 2025. 3 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] Việt Nam - Hai Nền Kinh Tế Trong Một Quốc Gia Dù tăng trưởng không còn là mối lo, một điểm yếu cố hữu trong cơ cấu kinh tế Việt Nam đang bộc lộ ngày một rõ nét. Đó là sự lệch pha giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và trong xuất khẩu, khối FDI lại đang ở vị trí dẫn dắt với tỷ trọng 72%, tương đương 59% GDP. Xuất khẩu của khối FDI đa phần là những hàng hóa công nghiệp có giá trị cao như điện tử, điện thoại và máy móc thiết bị. Ngược lại, xuất khẩu của khối trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu là các mặt hàng có hàm lượng công nghệ thấp như nông, thủy sản, đồ gỗ và may mặc. Có thể nói tăng trưởng kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc phần lớn vào khối FDI và xuất khẩu của khối FDI. Trong khi đó mức độ lan tỏa từ khối FDI sang khối doanh nghiệp nội địa không cao. Tỷ trọng giá trị nhập khẩu trên xuất khẩu của khối FDI liên tục duy trì ở mức trên 81% qua nhiều năm. Điều này có nghĩa khối FDI mới chỉ dừng lại sử dụng những tư liệu sản xuất đơn giản của địa phương như lao động giá rẻ, đất đai và nguyên vật liệu cơ bản (điện, nước, nhiên liệu, dịch vụ logistic). Từ lâu nay, khối FDI gần như không có nhu cầu chuyển giao công nghệ hay tìm cách tăng tỷ lệ nội địa hóa dù chúng ta đã có nhiều cơ chế khuyến khích. Điểm yếu cố hữu trong nền kinh tế đang bộc lộ ngày một rõ, đó là sự lệch pha giữa nhóm doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Tăng trưởng kinh tế đang bị phụ thuộc vào nhóm nước ngoài trong khi năng lực cạnh tranh của nhóm trong nước còn hạn chế. Trái ngược với các doanh nghiệp FDI, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua lĩnh vực kinh doanh bán lẻ. Nhiều công ty của Thái Lan đã thâm nhập sâu và chiếm lĩnh thị trường bán lẻ đầy tiềm năng của Việt Nam. Tập đoàn CP Group của Thái Lan từ lâu đã thống trị ở mảng thức ăn chăn nuôi và thịt gia súc, gia cầm. Nhiều “đại gia” Thái khác thì đã trở thành là cổ đông lớn, thậm chí thâu tóm các công ty hàng đầu của Việt Nam như Sabeco, Vinamilk, hay chuỗi siêu thị Big C và MM Mega Market Việt Nam (Metro Cash & Carry trước đây). Ở chiều ngược lại, chưa có một công ty bán lẻ nào của Việt nam đạt được vị trí như vậy tại Thái Lan. Với những mảng kinh doanh bán lẻ đòi hỏi vốn và công nghệ cao hơn như thương mại điện tử hay ứng dụng gọi xe (ride hailing), doanh nghiệp nội địa sẽ càng khó để có chỗ đứng ở ngay thị trường trong nước. Tại Việt Nam, doanh nghiệp nội địa có thể chia thành 2 khối, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Khối doanh nghiệp nhà nước, nhóm đang nắm giữ những nguồn tài nguyên quan trọng nhất của quốc gia như khoáng sản, viễn thông, cảng, năng lượng lại không thể hiện được vai trò dẫn dắt. Tăng trưởng vốn đầu tư của khối doanh nghiệp nhà nước thường xuyên thấp hơn mức tăng trưởng vốn đầu tư chung của cả nền kinh tế. Khối doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những nguồn tài nguyên quan trọng nhất của quốc gia lại chưa thể hiện vai trò dẫn dắt. Giai đoạn 2017-2023, trong khi vốn đầu tư của khối tư nhân và FDI đạt tăng trưởng trung bình 11% và 7%/năm thì khối DNNN lại giảm 1%. Tín dụng cho khối doanh nghiệp nhà nước cũng kém khả quan tương tự, giảm trung bình 4%/năm trong giai đoạn 2017-2022. 4 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] Để so sánh chúng ta có thể nhìn sang SK Group, tập đoàn công nghiệp lớn thứ 2 của Hàn Quốc. SK khởi đầu là một công ty dệt may trong thập niên 60 và 70. Sang thập niên 80, SK bắt đầu lấn sân vào lĩnh vực lọc hóa dầu (SK Energy) và nhanh chóng trở thành một trong những công ty dẫn đầu về lọc hóa dầu tại Hàn Quốc. Sang thập niêm 90, tập đoàn này tiếp tục mở rộng sang lĩnh vực viễn thông với SK Telecom và trở thành công ty đầu tiên trên thế giới cung cấp dịch vụ CDMA. Như vậy SK trước năm 2000 gần giống với sự kết hợp của Petro Vietnam và MobiFone của Việt Nam. Tuy nhiên SK không dừng lại ở đó. Khoảng năm 2010, họ dần thâu tóm công ty con làm bán dẫn của Hyundai, lập ra SK Hynix vào năm 2012. SK Hynix và mảng bán dẫn hiện là một trong những trụ cột của SK, chiếm 30%-40% trong tổng doanh thu hơn 100 tỷ USD của tập đoàn này. Trong 10 năm trở lại đây, SK đang đầu tư rất mạnh vào lĩnh vực năng lượng mới. Hàng tỷ USD đã được rót vào các nhà máy pin xe điện, động cơ hydrogen, nhà máy sản xuất hydrogen hay nhà máy thu hồi CO2 trên toàn cầu. Công ty này cũng tích cực tìm kiếm cơ hội tại các thị trường mới nổi. Năm 2018 và 2019, SK đã nhanh chóng giải ngân 2 tỷ USD vào những công ty hàng đầu của Việt Nam là Vingroup và Masan. So sánh với một tập đoàn tư nhân của Hàn Quốc là SK Group, nhờ tiếp cận các nguồn lực quan trọng là năng lượng và viễn thông, tập đoàn này đã phát triển thành một đế chế công nghệ bán dẫn và năng lượng mới, dẫn dắt kinh tế Hàn Quốc. Ví dụ này cho thấy khi được tiếp cận những nguồn lực và nguồn tài nguyên dồi dào (ở đây là lọc hóa dầu và viễn thông), một công ty tư nhân có thể phát triển mạnh mẽ để dẫn dắt kinh tế của Hàn Quốc như thế nào. Còn khối doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam hiện nay lại đang phải xoay xở trong các lĩnh vực kinh doanh có độ cạnh tranh cao. Hệ quả tất yếu là tốc độ tích lũy vốn và công nghệ chậm, làm giảm khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Một minh chứng là vốn đầu tư của khối tư nhân. Sau Nghị quyết 10/2017 về phát triển kinh tế tư nhân, đầu tư của khối này đã tăng tốc rất nhanh. Trong 3 năm 20172019, trung bình tăng trưởng đầu tư của khối tư nhân là 18%, gấp đôi khối FDI (8%) và vốn đầu tư công (9%). Khối tư nhân đã thực sự là động lực chính kéo tổng đầu tư cũng như cả nền kinh tế trong giai đoạn đó. Tuy nhiên, sang giai đoạn hậu Covid (2022-2023), đầu tư của khối tư nhân chỉ tăng trung bình 6%/năm, thấp hơn khối FDI (10%) và càng thấp hơn vốn đầu tư công (20%). Thị trường đầu ra co hẹp, thủ tục pháp lý kéo dài, rủi ro kinh doanh DNNN hoạt động kém hiệu quả, doanh nghiệp tư nhân bị sức ép cạnh tranh cao, đây là một lý do khiến doanh nghiệp Việt nam đang thua ngay trên sân nhà 5 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] gia tăng khiến các doanh nghiệp tư nhân chậm đầu tư phát triển dù họ là khối có sự năng động và hiệu quả cao hơn khối DNNN. Khối doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận các nguồn tài nguyên quan trọng nhưng hoạt động kém hiệu quả. Khối doanh nghiệp tư nhân phải xoay sở trong môi trường cạnh tranh cao, đối mặt với nhiều rủi ro từ biến động thị trường cho đến thủ tục pháp lý. Đây là một lý do quan trọng khiến các doanh nghiệp Việt Nam đang thua trên sân nhà, chưa nói đến việc vươn ra thế giới. Giải bài toán cân đối tăng trưởng và ổn định vĩ mô Doanh nghiệp là cái gốc của nền kinh tế. Khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, tăng trưởng sẽ không thể cao. Thiếu những trụ cột của doanh nghiệp nội địa thì chỉ cần một sự “đỏng đảnh” nào đó của doanh nghiệp FDI, kinh tế sẽ lập tức bị ảnh hưởng. Trong khi đó, các chính sách thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian qua lại đang nói quá nhiều ở phía kích cầu, không phải kích cung, tức hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp tư nhân. Kể từ khi đại dịch nổ ra, Việt Nam đã hướng mọi biện pháp thúc đẩy tăng trưởng vào chính sách tài khóa và tiền tệ. Thực tế thì sau khi đã nới lỏng một thời gian dài, cả chính sách tài khóa và tiền tệ đều đã bị kéo căng hết mức. Về phía tài khóa là giảm thuế VAT và tăng đầu tư công. Ngân sách cho đầu tư cơ bản năm 2024 đã không thể tăng thêm, dừng lại ở xấp xỉ 700 nghìn tỷ. Về phía tiền tệ, lãi suất đã giảm xuống mức “thấp nhất 20 năm”, không thể giảm thêm. Tuy nhiên điều thấy rõ trong năm 2023 đó là tăng trưởng kinh tế Việt Nam không nhờ sự nới lỏng tài khóa hay tiền tệ này mà khả quan hơn. Một lý do đơn giản là thương mại toàn cầu và xuất khẩu rất ít liên quan đến lãi suất VND. Doanh nghiệp FDI, nhóm chiếm tới ¾ giá trị xuất khẩu, hoàn toàn có thể vay bằng USD với lãi suất thấp theo những quan hệ sẵn có với ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, giảm sâu lãi suất VND đang gây sức ép lên các cân đối vĩ mô quan trọng, rõ rệt nhất là tỷ giá và bong bóng tài sản. Với tỷ giá, kể từ đầu năm, đồng VND đã mất giá xấp xỉ 5% so với USD. Trước năm 2022, tỷ giá rất ổn định, thậm chí đồng VND còn lên giá. Tuy nhiên kể từ năm 2022, tỷ giá liên tục chịu sức ép do lãi suất đồng VND giảm trong khi đồng USD lại tăng. Doanh nghiệp là cái gốc của nền kinh tế, doanh nghiệp yếu, thì dù nới lỏng chính sách thế nào cũng khó tạo ra tăng trưởng. Chưa kể tăng trưởng của Việt Nam lại phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu của khối FDI, khối không chịu ảnh hưởng nhiều bởi lãi suất VND. Nới lỏng tiền tệ quá mức đang tạo ra nhiều sức ép đến các cân đối vĩ mô quan trọng, điển hình là tỷ giá và bong bóng tài sản Vào đầu năm 2022, Châu Âu xảy ra nhiều biến động địa chính trị, kéo theo giá hàng hóa tăng mạnh. Điều này đã khiến FED cũng như hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới phải tăng lãi suất để đối phó lạm phát. Lãi suất của Mỹ đã tăng liên tục từ 0,25% lên 5,5%. Tại ASEAN, Thái Lan và Indonesia cùng tăng lãi suất 8 lần liên tiếp. Trong khi đó Việt Nam giảm lãi suất từ 4.5% xuống 3%. 6 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] Với bong bóng tài sản, trong giai đoạn Covid 2021-2022, một đợt sóng tăng giá chứng khoán và sau đó là bất động sản đã diễn ra trên diện rộng. Bong bóng này xì hơi vào cuối 2022 khi lãi suất điều hành tăng vào tháng 9 và 10 năm 2022. Trong hai tháng đó, NHNN tăng lãi suất điều hành hai lần mỗi lần 1% để bảo vệ tỷ giá. Vậy nhưng khi lãi suất được giảm trở lại vào đầu 2023, một đợt tăng giá bất động sản khác lại nổ ra. Theo thống kê của batdongsan.com.vn, mức giá nhà chung cư tại Hà Nội đã tăng 30%-40% kể từ cuối 2023 đến đầu 2024. Ngoài bất động sản, giá vàng cũng nổi sóng. Chênh lệch giá vàng SJC trong nước và giá vàng thế giới bắt đầu nới rộng cũng từ năm 2020, thời điểm lãi suất giảm. Lãi suất tiền gửi thấp, giá nhà tăng, thiếu kênh đầu tư sinh lời tốt trong khi lo ngại lạm phát cùng với đà tăng của giá vàng thế giới, người dân đã chuyển hướng sang đầu tư và thậm chí đầu cơ vàng. Vậy là năm 2024 xuất hiện tình huống “trăm dâu đổ đầu tằm”, đó là NHNN cùng lúc phải ổn định tỷ giá và “bình ổn” giá vàng trong một không gian chính sách rất eo hẹp. Như đã phân tích ở trên, tăng trưởng của 2024 và 2025 chắc chắn sẽ khả quan nhờ xuất khẩu, không phải nhờ nới lỏng tiền tệ. Vì vậy có thể coi việc nới lỏng tiền tệ đến thời điểm này là đã hoàn thành sứ mệnh. Cần lưu ý rằng lãi suất cho vay, yếu tố quyết định đến hỗ trợ tăng trưởng lại không nhất thiết phải tăng theo lãi suất huy động. Nhìn lại thời gian đại dịch, các NHTM đã giảm lãi suất cho vay chậm hơn lãi suất huy động và nhờ đó lợi nhuận của ngành ngân hàng đã tăng mạnh. Thời điểm này là lúc các NHTM cần chia sẻ thực chất hơn với doanh nghiệp bằng cách tăng lãi suất cho vay chậm hơn. Chính phủ trong tháng 5 cũng đã ra chỉ thị là phải tiếp tục giảm lãi suất cho vay thêm 1-2% trong năm 2024. Các NHTM cần chia sẻ thực chất hơn với doanh nghiệp bằng cách tăng lãi suất cho vay chậm hơn. Như vậy thì chính sách tiền tệ và định hướng lãi suất trong năm 2024 cần phải rất linh hoạt theo hướng tăng dần lãi suất huy động VND để hỗ trợ ổn định tỷ giá, giảm bớt đầu cơ hình thành bong bóng tài sản trong khi cố gắng giữ, giảm hoặc tăng chậm lãi suất cho vay. Làm như vậy thì năm 2024 và 2025 chúng ta chắc chắn sẽ có được cả tăng trưởng và ổn định vĩ mô. 7 Tiêu điểm Tăng trưởng Kinh tế [6-2024] Thay đổi cách nhìn về động lực tăng trưởng Như phân tích ở trên, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn bởi xuất khẩu và khối FDI. Nới lỏng tiền tệ, hạ lãi suất về lý thuyết có thể mang lại tăng trưởng. Nhưng xét trong bối cảnh Việt Nam, tác động tới tăng trưởng từ giảm lãi suất thực sự đang có khoảng cách. Dù lãi suất đã xuống rất thấp, tín dụng và đầu tư của khối tư nhân vẫn tăng rất chậm. Như vậy cách nhìn lâu nay về kích cầu, trong kích cầu thì đặt gánh năng lên chính sách tiền tệ cần phải xem xét lại. Chính sách kích cung, tức hỗ trợ doanh nghiệp cần phải được ưu tiên. Để hỗ trợ doanh nghiệp, các chính sách điều hành cần hướng đến cải thiện môi trường kinh doanh, bảo hộ có chọn lọc và chia sẻ nguồn tài nguyên từ phía doanh nghiệp nhà nước sang khối tư nhân. Có như vậy, khối doanh nghiệp tư nhân mới có thể đẩy nhanh tốc độ tích lũy vốn và nâng cao năng lực cạnh tranh. Phải thay đổi cách tiếp cận phát triển kinh tế từ chỗ quá chú trọng kích cầu sang chú trọng kích cung, tức hỗ trợ doanh nghiệp. Về phía doanh nghiêp nhà nước, chúng ta cần đặt ra các chỉ tiêu KPI rõ ràng và trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp. Việc thay đổi lãnh đạo ở một số tập đoàn nhà nước lớn gần đây đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Đây sẽ là bài học quan trọng để tiếp tục nâng cao hiệu quả của khối doanh nghiệp nhà nước, nơi sẽ vẫn tiếp tục nắm những nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia. Tóm lại, một cách nhìn đúng về các động lực tăng trưởng sẽ giúp chính sách điều hành kinh tế của Việt Nam “điểm đúng huyệt”, giúp tăng tốc nền kinh tế trong khi vẫn đảm bảo ổn định vĩ mô, thành tố quan trọng hàng đầu để có tăng trưởng bền vững./. Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm Báo cáo này được biên soạn nhằm cung cấp thông tin và tài liệu tham khảo cho độc giả về các tình hình kinh tế và tài chính. Mặc dù chúng tôi đã nỗ lực hết sức để đảm bảo tính chính xác và toàn diện của dữ liệu và thông tin trong báo cáo này, chúng tôi không đảm bảo hoặc cam kết dưới bất kỳ hình thức nào về tính chính xác, đầy đủ, hoặc kịp thời của các thông tin được cung cấp. Những nhận định, phân tích và dự báo trong báo cáo này chỉ là ý kiến chủ quan của tác giả tại thời điểm công bố và có thể thay đổi mà không cần thông báo trước. Các thông tin được thu thập từ các nguồn tin cậy nhưng chúng tôi không chịu trách nhiệm về bất kỳ sai sót hoặc thiếu sót nào từ các nguồn này. Báo cáo này không nên được coi là lời khuyên tài chính, đầu tư, pháp lý, hoặc bất kỳ loại tư vấn chuyên nghiệp nào khác. Các nhà đầu tư và người đọc nên tự mình tiến hành thẩm định độc lập trước khi đưa ra bất kỳ quyết định đầu tư nào. Việc đầu tư vào các công cụ tài chính luôn đi kèm với rủi ro và có thể không phù hợp với mọi đối tượng nhà đầu tư. Giá trị của các khoản đầu tư có thể tăng hoặc giảm và không có sự đảm bảo về lợi nhuận. Chúng tôi không chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất, thiệt hại, hoặc hậu quả nào phát sinh từ việc sử dụng hoặc dựa vào thông tin trong báo cáo này, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp. Mọi quyết định đầu tư dựa trên báo cáo này hoàn toàn là trách nhiệm của người sử dụng. Người đọc cần lưu ý rằng mọi dữ liệu và thông tin chỉ mang tính chất tham khảo và nên được đánh giá trong bối cảnh tổng thể và sự biến động của thị trường. 8