HẮC NAM CK.0000071231 MỘT sộ VẤN ĐÊ LÝ LUẬN QUAN HỆ QUỐC TÊ Dlrál GÓC NHÌN LỊCH s ử (SÁCH THAM KHẢO) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA MỘT s ộ VAN ĐỂ LÝ LUẬN QUAN HỆ QUỐC TÊ DƯỚI GÓC NHÌN LỊCH sử Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Hoàng Khắc Nam Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử / Hoàng Khắc Nam. - H. : Chính trị Quốc gia, 2014. 528tr.; 21cm 1. Quan hệ quốc tế 2. Lí luận 3. Lịch sử 327.101 -dc23 CTF0132p-CIP * 3 . 3 2 7 Mã sô: — —--------- CTQG-20i4 HOÀNG KHẮC NAM MỘT SỘ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN QUAN HỆ QUỐC TÊ DƯỚI GÓC NHÌN LỊCH sử ■ (SÁCH THAM KHÁO) NHÀ X U Ẩ T BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - s ụ TH Ậ T Hà Nội - 2014 BẢNG CHÚDẪNTỪVIỂTTẮT Từ viết tắt Tên đầy đủ ABM ANZCERTA Tên lửa phòng thủ Hiệp định quan hệ kinh tế gần gũi Ôxtrâylia Niu Dilân Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái APEC Bình Dưong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Liên minh châu Phi AU Thị trường chung Trung Mỹ CACM Tổ chức nhân đạo và hỗ trợ phát triển quôc tế CARE Cộng đông Caribê CARICOM Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ CIA Hội nghị về biên đổi khí hậu của Liên hợp quôc COP Hội đổng kinh tế - xã hội ECOSOC ECOWAS/CEAO Cong dong kinh te cac nuoc Tay Phi Cộng đổng kinh tế châu Âu EEC Liên minh châu Âu EU Liên đoàn bóng đá thế giói FIFA Hiệp định chung vê' thưong mại và thuế quan GATT Tô chức đa chính phủ IGO Quy Tiến tệ quốc tê IMF Tô chức cảnh sát hình sự quốc tế INTERPOL ủy ban Olympic quốc tế IOC ủy ban liên chinh phủ về biến đổi khí hậu IPCC Tổ chức Thưong mại quốc tế ITO Hiệp định cấm thử hạn chế LTBT Khối thị trưòng chung Nam Mỹ MERCOSUR /'-'I A /~\ 4 ~ rri •A' /— » , /V -1 A/ /V . /\' 6 Mot so van de ly luan quan he quoc te di/di goc nhin lich su MFN MNC NAFTA NATO NGO NMD NPT OAS OAU OECD OPEC Oxfam PLAN PTA RTA SAARC SEV TNC UDEAC UN UNCTAD UNEP UNESCO WB WTO WWF Quy che toi hue quoc Cong ty da quoc gia Hiep dinh thuong mai tu do Вас My To chuc Hiep uoc Вас Dai Tay Duong To chuc phi chinh phu Chuong trinh phong thu ten lua quoc gia Hiep dinh chong pho bien vu khi hat nhan To chuc cac nude chau My To chuc thong nhat chau Phi To chuc hop tac va phat trien kinh te To chuc cac nuoc xuat khau dau mo Uy ban Oxford cuu tro nan doi To chuc phi chinh phu quoc te phat trien cong dong lay tre em lam trung tarn Hiep dinh tru dai thuong mai Hiep dinh thuong mai khu vuc Hiep hoi hop tac khu vuc Nam A Hoi dong tuong tro kinh te Cong ty xuyen quoc gia Lien minh kinh te va thue quan Trung Phi Lien hop quoc Hoi nghi Lien hop quoc ve th u o n g m ai va phat trien Chuong trinh moi truong cua Lien hop quoc To chuc Giao due, Khoa hoc va V an hoa cua Lien hop quoc Ngan hang The gioi To chuc Thuong mai the gioi Quy quoc te bao ve thien nhien LỞI NHÀ XUẤT BẢN Trong kỷ nguyên toàn cẩu hóa và hội nhập quốc tế, quan hệ quốc tế đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy sự hợp tác cùng phát triển cũng như cùng giải quyết các vâh đề quốc tế đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể quan hệ quốc tế trên toàn thế giói. Quan hệ quốc tế là một ngành nghiên cứu về ngoại giao và các vâh đề toàn cẩu giữa các nước thông qua các hệ thông quốc tế hay chủ thể quan hệ quốc tế, bao gồm các quốc gia, tố chức đa chính phủ (IGO), tổ chức phi chính phủ (NGO), các công ty xuyên quốc gia (TNC) - đa quốc gia (MNC),... Đối với các quốc gia, hệ thống quốc tế chính là một trong những cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại. Đó cũng là điều kiện bên ngoài quy định thuận lợi và khó khăn cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Đối với Việt Nam - một chủ thể tham gia tích cực trong hệ thôhg quốc tế và có ảnh hưởng ngày càng tăng trong khu vực, thì việc tìm hiểu hệ thông quốc tế giúp chúng ta có thể hiểu thêm môi trường quan hệ quổc tế và những tác động của nó mà nước ta phải tính đến trong hoạch định chính sách đối ngoại và quá trình hội nhập quổc tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 8 Một số vấn đề /ý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Cuốn sách M ột s ố vấn đ ề lý luận quan hệ quốc tê dưới góc nhìn lịch sử của PGS. TS. Hoàng Khắc Nam tập trung bàn về quan hệ quốc tế trên phương diện lý thuyết, xác định các xu hướng vận động trong quan hệ quốc tế, tìm hiểu những điều kiện chi phối sự tương tác giữa các chủ thể, dự báo hành vi và phản ứng của chúng trong quan hệ quốc tê,... Cuốn sách cũng phân tích một số vâh đề lý luận cơ bản về hệ thống quốc tế, như tìm hiểu nhận thức về hệ thống quổic tế, các yếu tô' tạo nên hệ thống quốc tế và khái niệm hệ thống quốc tế, trình bày các khái niệm về quyền lực, lý thuyết quyền lực, chạy đua vũ trang, nguyên nhân chiên tranh, quản trị toàn cầu,... Đổng thời, một số lý thuyết và khái niệm mới mẻ như chính trị xanh, lý thuyết phụ thuộc, phân định khu vực,... cũng được tác giả phân tích bằng lập luận sắc bén, như một sự gọi mở cho độc giả suy ngẫm về sự biến đổi không ngừng của thế giới toàn cầu hóa hôm nay. Nội dưng cuốn sách tập trung luận giải về một số vẩn đề khá phức tạp và đang được tiếp tục nghiên cứu nên khó tránh khỏi hạn chế. Để bạn đọc thuận tiện theo dõi, chứng tôi cô' giữ nguyên các luận giải của tác giả và coi đây là quan điểm riêng. Rât mong được bạn đọc góp ý và xin giói thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 10 năm 2014 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - sự THẬT 9 CHINH TRỊ XANH - MỘT CÁCH TIẾP CẠN TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ Môi trường là những điều kiện vật chất bao quanh và nằm trong địa cầu. Các nhận thức về vâh đề môi trường đã tổn tại từ lâu nhưng rất ít ỏi và không đi vào cuộc sống. Chúng chỉ bắt đầu tăng từ lúc nhân loại bước vào thời đại phát triêh công nghiệp từ giữa thế kỷ XIX. Tuy nhiên, cho đến trước thời hiện đại, các quan niệm về vấn đề môi trường thường chỉ dừng lại ở mức độ ý tưởng và nằm trong một SỐ công trinh nghiên cứu là chính. Chúng ít được biến thành hành động thực tiễn hay chính sách cụ thể. Chúng lại càng ít được liên hệ đến quan hệ quốc tế. Chỉ đến khi con người diện kiến trực tiếp những hiểm họa môi trường thực sự trong nửa cuối thế kỷ XX thì vấn đề môi trường mới được nhận thức một cách nghiêm túc. Cùng với đó là tính quốc tế của vấn đề môi trường và sự liên quan giữa môi trường với quan hệ quốc tế mới được tìm hiểu một cách sâu sắc hơn. Chính điều này đã dẫn đến quá trình hình thành nên quan điểm của chính trị xanh (green poỉitics) về quan hệ quốc tế tò thập niên 1980. 10 Một số vấn đê /ý luận quan hê quốc tế dưới góc nhìn lịch sù Sau Chiến tranh lạnh, cùng với sự gia tăng của vãn đê mỏi trường cũng như sự phô biến cùa nhận thức môi trường, chính trị xanh đã có sự phát triển đáng kê cả vê lý luận lân thực tiễn. Hiện nay, chính trị xanh đã trở thành một lý thuyết hay cách tiếp cận đáng chú ý trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. CÁC LUẬN ĐIỂM CHÍNH CỦA CHÍNH TRỊ XANH 1. Về vấn đê chủ thể quan hệ quốc tế, các nhà chính trị xanh ít đề cập trực tiếp chủ đề này nhưng qua các công trình của họ, có thể hình dung ra quan niệm về chủ thê quan hệ quốc tế của lý thuyết này. Quốc gia vẫn tiếp tục là chủ thể quan trọng ưong quan hệ quổc tế nhưng vai trò có xu hướng suy giảm cùng với sự xói mòn chủ quyền quốc gia. Bên cạnh đó, vai trò chủ thê của các tô chức quốc tê' trong đó có các tô chức phi chính phủ quốc tế, và phong trào xã hội sẽ tăng dần lên cùng với sự gia tăng của yêu cầu đối phó với vâh đề môi trường. Tô chức quốc tế với những quyền hạn do quốc gia nhường lại sẽ đóng vai trò phối hợp nô lực bảo vệ môi trường. Trong khi đó, phong trào xã hội giúp nâng cao ý thức và trách nhiệm toàn cầu về môi trường chung cho công dân, đồng thời gây áp lực lên chính sách môi trường của các quốc gia và tổ chức quôc tế. M ìư vậy, quan điêm vê chủ thể quan hệ quốc tế của chính trị xanh có sự gần gũi với chủ nghĩa đa nguyên (pluralism). Đáng chú ý, do vấn đê môi trường là có tính toàn câu nên các tô chức quốc tế vê môi trường có kha năng tro Chính trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 11 thành chủ thê toàn cầu. Theo các nhà chính trị xanh, sự xuất hiện của các chủ thê toàn cầu trong vâín đê môi trường thông qua sự hình thành và phát triển của quản tri toàn cầu là hoàn toàn khả thi. Và khi các chủ thê toàn cầu đóng vai trò nổi trội thì quan hệ quốc tế sẽ thay đổi và tiến theo xu hướng đại đồng, hình thành nên cộng đồng toàn cầu. Đây là quan điểm về tương lai thế giới có phần gần gũi với chủ nghĩa toàn cầu (globalism). 2. Môi trường trở thành một trong những động lực của nền chính trị toàn cầu. Nếu lợi ích chính trị và kinh tế trước kia vốn là những động lực chính chi phối nền chính tri quốc tế thì nay sẽ phải tính thêm môi trường như một động lực bổ sung. Sở dĩ như vậy là do môi trường đang đe dọa tới an rãnh và phát triễn vôh đều là những lợi ích mang tính sông còn, nên việc bảo vệ môi trường đã trở thành một lợi ích lớn đối với con người, quốc gia và thế giới. Do sự đe dọa của vấn đề môi trường ngày càng cao nên lợi ích này cũng ngày càng quan trọng. Và khi lợi ích môi trường ngày càng quan trọng thì nó cũng ngày càng có khả năng chi phối chính trị quốc tế. Điều đó cũng có nghĩa, môi trường đang và sẽ ngày càng trở thành lợi ích cơ bản của quốc gia và con người. Vì thế, mọi chính sách của quốc gia và hành vi của con người sẽ ngày càng chịu chi phối, bị định hướng và thúc đẩy bời lợi ích môi trường. Đổng thời, do môi trường là vấn đề toàn cầu vói ánh hưởng trên phạm vi toàn thế giới nên môi trường cũng sẽ trở thành động lực của nền chính trị toàn cầu. Điều này 12 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử dẫn đến yêu cầu khi phân tích quan hệ quôc tê và chính trị quốc tế phải tính đến yếu tố môi trường. Luận điếm này có tầm nhìn hướng đến tương lai khi cho rằng vai trò động lực của môi trường đôi với nên chính trị toàn cẩu sẽ ngày càng tăng trong tương lai. Và nên chinh trị đó sẽ có khả năng trở thành nền chính trị môi trường toàn cầu. 3. Vấn đê môi trường dẫn đến sự thay đối quyển lực trong quan hệ quốc tế. Sự thay đổi của quyền lực dưới tác động của vân đề môi trường diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Thứ nhất, giải quyết vân đề môi trường được cho rằng phải bằng phương thức hợp tác, trên cơ sở tự nguyện chứ không thể giải quyết bằng quyền lực. Quyền lực vì thế sẽ ít ý nghĩa hơn trong mối quan hệ hợp tác vê môi trường. Thứ hai, giải quyết vâh để môi trường cần có sự tham gia của tất cả các quốc gia. Quốc gia nào cũng có môi trường của mình vốn là một phần không tách rời khỏi môi trường thế giới. Trong việc giải quyết vấn đê' môi trường, các nước dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu đều cần có trách nhiệm và sự tham gia như nhau. Vi thế, chúng đều có vị thế như nhau trong vâh đề này. Quan hệ quyền lực nước lớn - nước nhỏ vì thế cũng trở nên ít ý nghĩa hơn trong vârt đề môi trường. Hơn nữa, tình trạng xuôhg cấp môi trường hiện nay lại đang trầm trọng ở các nước đang phát triên và gây ánh hưởng tiêu cực cho các nước phát trién. Các nước phát triển cũng cần các nước đang phát triển cài thiện điều kiện môi trường nhưng khó ép buộc băng quyển lực bơi điều này vi phạm chủ quyền. Vì thế, vai tro Chính trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 13 của các nước nhỏ cũng ngày càng được tính đến nhiêu hơn, ít nhất trong vẩn đề môi trường1. Thứ ba, đê giải quyết vấn đề môi trường, cần thiết lập các thê chế hợp tác quốc tế vói những thẩm quyền có hiệu lực. Các quốc gia sẽ phải nhường quyền hạn nhất định của mình cho các thế chế này đê tạo ra một thứ quyền lực mói trong quan hệ quốc tế tựa như "người quyền uy xanh" (Green Leviathan) theo cách dừng chữ của Thomas Hobbes. Đó là thứ "quyền lực tập trung đê khắc phục sự tàn phá của cạnh tranh kinh tế "tự nhiên""2. Yêu cầu về thứ "quyền lực xanh" cho các thể chế môi trường quốc tế ngày càng tăng do yêu cầu bức bách của hợp tác quốc tế nhằm giải quyết vấn đê' môi trường. Xu hướng này vì thế cũng sẽ khiến quyền lực quốc gia trong quan hệ quốc tế bị giảm "đất dụng võ". 1. Không ít trường hợp các nước này đã thành công trong quan hệ với nước lớn. Trong Chiến tranh lạnh, khi cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa các cường quốc bắt đầu trở nên quyết liệt, yêu cầu ngăn chặn tác hại phóng xạ cho môi trường của các nước T h ế giới thứ ba đã góp phần đáng kê dân đến việc kiếm soát vũ khí hạt nhân đầu tiên năm 1963 - Hiệp ước cấm thừ hạn ch ế (Limited Test Ban Treaty) với nội dung cấm thừ vũ khí hạt nhân trong khí quyển. Hay trong các kết quả cùa Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992, các nước đang phát triển đã giành được những thoả hiệp từ phía các nước công nghiệp phát triển trong vấn đê' khai thác rừng... 2. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Relations: Perspectives and Themes, Pearson-Prentice Hall, London, 2005, tr. 210. 14____ Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhin lịch sử 4. Chủ quyền quốc gia bị xói mòn bởi tác động xuyên quốc gia của vấn đê môi trường. Do tính chung nhâ't của môi trường nên những vấn để môi trường ưong nước sẽ ảnh hưởng đến lợi ích môi trường và phát triên của các nước khác. Điểu này khiên cho các nước không thể muốn làm gì thì làm đôi với môi trường trong khu vực nước mình. Điều đó có nghĩa là các nước sẽ ngày càng không thê thực thi chủ quyền của mình một cách đầy đủ trên lãnh thô của mình, ít nhâ't trong vârt đê môi trường. Điều này hiện nay đã diễn ra trong thực tế. Chính sách môi trường của nhiều quốc gia trên th ế giói đều đã được xây dựng trên cơ sở tính đến lợi ích môi trường của nước khác. Một sô' quốc gia và các nhà chính trị xanh còn đi xa hơn khi khuyến nghị về quyển can thiệp sinh thái, tức là quyền can thiệp từ bên ngoài đối với sự vi phạm môi trường trong nước1. Nếu điểu này diễn ra thì chủ quyền quô'c gia còn bị xói mòn nữa. Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác cũng dẫn đến sự xói mòn chủ quyền quốc gia trong vấn đề môi trường như sự xuất hiện các thể chế quốc tế và toàn cầu trong lĩnh vực 1. Ví dụ, Hội nghị Hague về môi trường năm 1989 đã để cập quyền can thiệp vê sinh thái. Ngay cả trong một tổ chức võn tuân thủ triệt để nguyên tắc không can thiệp nội bộ như ASEAN cũng đã từng xuất hiện đề nghị kiêu này. Đó là để nghị về nguvén tắc can dự linh hoạt (flexible engagement) cúa Thái Lan đưa ra năm 1997 trước tình trạng cháy rừng của Inđônêxia gây ra hậu qua mói trường cho các nước khác trong khu vực. Chính trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 15 môi trường sẽ khiến các quốc gia phải nhượng lại một phần chủ quyền của mình để các thể chế này có thể hoạt động một cách có hiệu lực. Tuy nhiên, trong vấn đề này, các nhà chính trị xanh vân còn tranh luận và có quan điểm hai chiều về vai trò của quốc gia. Nhiều người phản đối mô hình đề cao vai trò quốc gia của chủ nghĩa hiện thực khi cho rằng chủ quyền quổc gia tuyệt đối chính là nguyên nhân gây ra vấn đề môi trường. Đôi với một số người khác, quốc gia vẫn cần thiết đê đề ra chính sách môi trường và chính sách đối ngoại phù hợp cho dù vai trò của nó có bị suy giảm trong nền chính trị môi trường. Nhận định trong Dự án vể môi trường, dân số và an ninh (Project on Environment, Population and Security) cũng đáng chú ý khi cho rằng sự khan hiếm tài nguyên môi trường sẽ làm tăng nhu cầu của xã hội đối vói quốc gia trong khi đồng thời cũng làm giảm khả năng của quốc gia đáp ứng các nhu cầu đó1. 5. Môi trường là một nguồn của xung đột trong quan hệ quốc tế. Việc môi trường là một nguồn của xung đột quốc tế được thể hiện trên ba phương diện chính: môi trường là đối tượng tranh châ'p trong các xung đột quốc tế, sự xuống cấp môi trường làm tăng nguy cơ xung đột trong quan hệ quốc tế, và những xung đột quốc tế mới trong việc giải quyết vâh đề môi trường. 1. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Relations: Perspectives and Themes, Sdd, tr. 215. 16 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lích sử Trên phương diện đầu tiên, xung đột với các đôi tượng tranh chấp thuộc về mội trường đã diên ra từ lâu trong lịch sử trên khắp thế giói. Các cuộc xung đột này diễn ra nhằm tranh giành những lợi ích từ môi trường như đâ't đai, tài nguyên, nguồn nước1 và đại dương. Sự phân bố không đều tài nguyên môi trường là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng xung đột này trong lịch sử. Trên phương diện thứ hai, sự xuống cấp môi trường góp phần làm tăng thêm khả năng xung đột trong quan hệ quốc tế. Trong vấn đề này, nguy cơ cạn kiệt tài 1. Có thể nêu một số ví dụ về tranh chấp nguổn nước như sau: tình trạng bâ't ổn kéo dài ở Trung Đông và Bắc Phi có m ột trong những nguyên nhân là cuộc tranh châ'p nguồn nước kéo dài trong lịch sử giữa các quốc gia trong vùng. Ixraen và các nưóc Arập tranh châ'p với nhau về con sông Gioócđan. Cuộc tranh chấp về nguổn nước năm 1965-1966 là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng và góp phần dẫn đến chiến tranh Ixraen-Arập năm 1967. Mâu thuẫn giữa Palextin và Ixraen cũng sâu sắc thêm bời Ixraen đã bơm và sử dụng nước ngầm gâ'p năm lần so với người Palextin trong vùng đất khô cằn như vậy. Hay m ột loạt ví dụ khác: tranh chấp giữa Xuđăng và Ai Cập về sông Nil; M ali và Xênêgan tranh nhau con sông Xênêgan; tranh châp nguổn nước giữa M ali và Buockina Phaxô, giữa Hunggari và Xlôvakia... Sự tranh chấp này còn liên quan đến việc sử dụng nước giữa quốc gia đầu nguổn và hạ nguổn. Sự tranh châ'p giữa Thô Nhĩ Kỳ - Xyri - Irắc về khai thác sông Ecephrates và Tigris cũng là một ví dụ điển hình khi Thó N hĩ Kỳ triển khai dự án Đại Anatolia xây dựng một nhà máy thủy điện lớn và các đập chắn trên sông Ecephrates đê tưới tiêu đã gáy thiẽu nước cho Xyri và Irắc. Ngoài ra, ví dụ tương tự cũng có the tìm thây trong trường hợp khai thác sông Mê Kông hiện nay. Chính trị xanh - một cách tiếp cân trong quan hệ quốc tế 17 nguyên, đặc biệt là năng lượng có thê là nguyên nhân quan trọng dẫn đến xung đột trong tương lai. Khi nguy cơ cạn kiệt chưa xảy ra, chi sự phân bố tài nguyên không đều cũng đã dân đến vô vàn cuộc xung đột. Khi tài nguyên trở nên khan hiếm, sự cạnh tranh sẽ tăng lên, xung đột sẽ xảy ra nhiều hơn và thậm chí là trên quy mô toàn c ầ u M ộ t số người theo chủ nghĩa tương lai đã chi ra rằng "sự đô vỡ của môi trường tới giữa thế kỷ XXI sẽ dẫn đên các cấp độ 1. Nguy cơ xung đột tăng lên ở đại dương là ví dụ điên hình. Nhu cầu an ninh và phát triển đã khiến lợi ích quốc gia ngày càng được mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia. Quan hệ đối ngoại của quôc gia ngày càng tiến ra đại dương. Và xung đột liên quan đến đại dương cũng vì th ế mà tăng lên. Bên cạnh đó, sự xuống câp môi trường cũng đang đóng vai trò là nguồn xung đột của đại dương. Do nguy cơ cạn kiệt tài nguyên trên đất liền, do hệ sinh thái ven bờ bị suy giảm, các quốc gia ngày càng tiến ra xa đại dương đê khai thác tài nguyên biển và đáy biển. Vì thế, các tranh chấp liên quan đến hải phận và tài nguyên biển củng tăng lên trong quan hệ quốc tế. Mặc dù lãnh hải rồi vùng đặc quyền kinh tế trên biển đã dần được xác định, nhưng tranh chấp không vì th ế mà giảm đi. Tinh trạng tranh châp hải phận giữa các quốc gia vẫn phổ biến trên th ế giói. Vấn để xâm phạm quyển lợi kinh tế giữa ngư dân các nước không còn là chuyện hiếm. Sự tranh giành lãnh hải và quyền khai thác biển ngày càng trở thành vấn để lớn trong quan hệ quốc tế dù đã có Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982. Nguy cơ xung đột đặc biệt cao ở những vùng biển có tiềm năng dầu mo. Nhiều vấn để chưa được giải quyết như xác định đường cơ sở, vùng chổng lấn, quyền khai thác vùng biển quốc tế, nhu cẩu đối với tài nguyên biển, vấn đề khai thác dầu mò ngoài khơi... đang tiếp tục nuôi (átrỡng khả_nạiịig Ịìày. 18____ Một số vấn đê lý luận quan h ệ quốc tế d ư ớ i góc nhìn lỊ C h sư xung đột ác m ộng"1. Đây chính là hàm ý về cuộc chiến tranh giành tài nguyên môi trường trong tương lai. Trên phương diện thứ ba, trong quá trình hợp tác quôc tê giải quyết vâh đề môi trường, đã bộc lộ các mâu thuân và xung đột không hề nhỏ. Đó là các mâu thuẫn vê trách nhiệm và quyền lợi giữa các nước, mâu thuân vê cách thức giải quyết và cách tính toán, mâu thuân vê khà năng can thiệp sinh thái,...2. Đó là chưa kê sự suy thoái môi trường cũng là nguyên nhân gián tiếp của những hình thức xung đột quốc tê khác. Ví dụ, tình trạng đất đai bạc màu, nguồn nước ô nhiễm và hệ sinh vật bị giảm sút thường là nguyên nhân của tình trạng đói nghèo và hiện tượng di cư ở một sô noi trên thế giới. Nếu đói nghèo đang đóng góp chính cho mâu thuẫn Bắc - Nam và làm tăng nguy cơ tranh đoạt tài nguyên môi trường thì hiện tượng di cư dễ gây ra xung đột giữa quốc gia xuất cư và quôc gia nhập cư, giữa cư dân bản địa với cư dân nhập cư... Những vân đê và nguy cơ nêu trên cho thấy, vai trò là nguồn xung đột của vâh đê 1. Conway Henderson, International Relations: C on flk t and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, M cGraw -Hill, Singapore, 1997. Bản dịch cùa Khoa Quốc t ế học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, t.2, tr. 126. 2. Có thê thây một ví dụ vê' điều này qua các mâu thuẫn va tranh cãi tại 19 kỳ họp cúa Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên họp quổc (COP) vói lần gần đây nhâ't là COP tại Warsaw (Ba Lan) vẫn chưa đạt được tiến bộ đáng kề trong khi mâu thuẫn vẫn còn rát nhiéu. Chính trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 19 môi trường là một thách thức không nhỏ đối với quan hệ quôc tê và tương lai của nhân loại. 6. Sự xuống cấp môi trường đã làm sâu sắc thêm sự chênh lệch Bắc - Nam và theo đó là mâu thuẫn giữa hai nhóm nước này. Những tranh cãi về môi trường giữa hai nhóm nước này đã tăng lên cùng với sự nổi lên của vãn đê môi trường. Cả hai nhóm nước đều quy lỗi cho nhau và đòi nhóm kia phải chịu trách nhiệm. Các nước phương Bắc phê phán các nước phương Nam về việc khai thác tài nguyên bừa bãi, gây hủy hoại môi trường nghiêm trọng. Các nước phương Nam chỉ trích phương Bắc vể các hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm, sự nóng lên của Trái đâ't và chủ nghĩa tiêu dùng thái quá của họ. Các nước phương Nam không thể ngừng khai thác tài nguyên bởi đó là lợi thế so sánh của họ và bị bức bách phải thu hẹp khoảng cách phát triển. Các nước phương Bắc cũng không thể ngừng phát triêh công nghiệp bởi nhu cầu không ngừng nâng cao tiêu chuẩn sông, và ngừng phát triển cũng có nghĩa là sụp đổ. Các nước phương Bắc nêu lên quyền can thiệp về sinh thái. Những nước phương Nam tố cáo chủ nghĩa thực dân sinh thái của các nước công nghiệp phương Bắc. Cả hai theo đuổi những chiến lược riêng rẽ và cùng làm tổn hại tới môi trường trong khi vẫn tiếp tục chỉ trích lẫn nhau. Mâu thuẫn Bắc - Nam vì th ế mà tiếp tục sâu sắc thêm cùng với sự xuống cấp của môi trường. Xuất phát điểm khác nhau, nhận thức khác nhau, lợi ích khác nhau, chi phí cho việc bảo vệ môi trường khác 20 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn IJch_si[ nhau... đã làm sâu sắc thêm sự bất đổng này. Tinh trạng xuống cấp môi trường đang đóng góp cho sự chia rẽ BăcNam - sự chia rẽ có thê là lớn nhất trong quan hệ quôc tê thế kỷ XXI. Đây là quan điểm có sự chia sẻ nhất định với chủ nghĩa mácxít mói. 7. Môi trường giúp phổ biến ý thức vê những giá trị chung của nhân loại hay toàn cầu {global value) và từ đó giúp hình thành cộng đổng toàn cầu (global community) và công dân toàn cầu {global citizen). Khi nguy cơ môi trường đang đe dọa cả thê' giới, con người càng ý thức sâu sắc hơn về cái chung của nhân loại. Điều này được quy định bởi một số lý do sau. Thứ nhất, Trái đât là ngôi nhà chung, môi trường là của chung và đó là không gian sông duy nhâ't của nhân loại. Thế giới quan này đang đưa con người vượt khỏi khuôn khô và giá trị quốc gia dân tộc. Lòi tuyên bố "Đ ất nước của chúng ta, đó là hành tinh này" của Hội nghị Hague về môi trường năm 1989 chính là tuyên ngôn cho ý tưởng đó. Thứ hai, trong mối tương tác và sự phụ thuộc vào môi trường, con người ngày càng có ý thức rằng nhân loại là một trước môi trường, rằng sự hòa hợp giữa con người sẽ giúp đem lại sự hòa hợp vói tự nhiên. Nhân sinh quan này đang giúp con người trở nên gần gũi với nhau hon và dễ chia se vói nhau hon. Nhân sinh quan này cũng tạo điểu kiện cho sự hình thành các giá trị toàn cầu mới và tính cộng đồng mới trên quy mô toàn cầu. Thứ ba, vân để môi trường cửng đặt ra trước con người những mục tiêu chung. Mục tiéu Chinh trị xanh - một cách tiếp cân trong quan hệ quốc tế 21 chung có tác dụng đưa các quan hệ riêng rẽ vào trong củng một hướng chung, làm nên tính hướng đích cúa cả hệ thông. Thứ tư, vấn để môi trường cũng được cho rằng sẽ tạo ra cái gọi là đạo đức sinh thái (ecological ethics). Đạo đức sinh thái được kỳ vọng sẽ ngày càng phổ biến trên phạm vi toàn cầu và làm tăng giá trị và chuẩn mực ứng xử chung với môi trường, từ đó đóng góp cho sự hình thành cộng đồng toàn cầu. Theo các nhà chính trị xanh và những người trong phong trào môi trường, các giá trị toàn cầu này sẽ ngày càng tăng và từ đó làm tăng ý thức về Trái đất là ngôi làng toàn cầu và sự hình thành các công dân toàn cầu. Từ đó, chính trị xanh đã phê phán sự khuyến khích chủ nghĩa địa phương và tư tưởng cục bộ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ phản đối cộng đổng địa phương và sự đa dạng. Chính các nhà chính trị xanh là những người chủ trương ủng hộ sự đa dạng văn hóa và mím tìm cộng đổng toàn cầu của các cộng đồng địa phương, trong đó cá nhân là thành viên của một cộng đổng phụ thuộc lẫn nhau. Và rằng Trái đất được tạo bởi những khu vực sinh học gắn kết với nhau. Về mặt dân tộc, Trái đất là một vùng đa dạng, một nhân loại đa dạng1. 8. Môi trường đang làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Thứ nhất, việc cùng phụ thuộc vào một 1. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Relations: Perspectives and Themes, Sdd, tr. 224-225. 22 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhĩn l Ị C h sủ môi trường chung khiến các quốc gia phái tương tac vcn nhau. Không một quốc gia nào phát triển được má chi dựa vào mỗi môi trường quốc gia. Quốc gia ngày cáng có nhiều lợi ích liên quan đến môi trường bên ngoài biên giới và buộc phải hướng ngoại nhiều hơn. Điều này làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong quá trình phát triển của mình. Thứ hai, nguy cơ môi trường khiến số phận của chúng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn. Các quốc gia buộc phải tương tác vói nhau để cùng đôi phó bởi nhiêu nguyên nhân môi trường xuất phát từ bên ngoài. Không chi có vậy, các quốc gia cũng đang phải chịu áp lực ngày càng tăng từ bên ngoài trong những vẩn đề liên quan đên môi trường. Thứ ba, sự phụ thuộc này tăng lên bơi nhận thức về tính chung của môi trường và nhân loại như ưên đã để cập. Con người có thê nhất trí với nhau về sự phụ thuộc lẫn nhau ưong vấn đề môi trường dễ dàng hơn nhiều lĩnh vực khác. Thứ tư, việc ngày càng xuâ't hiện nhiều chu thể phi quốc gia trong lĩnh vực môi trường đã làm quan hệ quốc tế trở nên giằng chéo, đan xen chặt chẽ với nhau. Và vì thế, đối tượng liên quan, kênh quan hệ và mức độ tương tác giữa các chủ thể cũng tăng lên, tạo thành một hệ thống đa diện, đa tầng. Kết quả là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng củng phức tạp và sâu sắc hơn. Thư năm, bơi sự tương tác chặt chẽ giữa kinh tế và chính trị với môi trường, sự phụ thuộc lẫn nhau trong nén chính trị - kinh tê quôc tê đang góp phần làm tăng sự phụ thuộc lân nhau trong vâh để môi trường. Ngược lại, boi Chinh trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 23 các khía cạnh chính trị và kinh tê cùa môi trường, vâr» đê môi trường cũng đang góp phần làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lân nhau về kinh tế và chính trị giữa các quốc gia. 9. Môi trường giúp làm tăng hợp tác quốc tế. Điều này do bàn chất khách quan của môi trường quy định. Môi trường là một và không thê chia cắt. Bởi tính chỉnh thê của hệ thống môi trường, sự tổn hại môi trường ở quốc gia này cũng gây ảnh hưởng sang quổc gia khác nên vấn để môi trường ngày càng không còn là vấn đề riêng. Và rằng, việc giải quyết vâri đề môi trường sẽ không thế thực hiện được nếu không có hợp tác quốc tế. Bên cạnh yếu tố này, môi trường còn làm tăng hợp tác quốc tế bời tác động từ sự phụ thuộc lẫn nhau và sự hình thành các giá trị chung mang tính toàn cầu. Trong sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, con đường tương tác thích hợp nhất giữa các quốc gia chính là hợp tác. Khi đã phụ thuộc vào nhau, hợp tác có thê giúp hai bên cùng được, trong khi không hợp tác chắc chắn cả hai bên cùng mất. Đồng thời, hợp tác trong lĩnh vực môi trường sẽ thúc đẩy hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác, tạo bầu không khí thuận lợi cho môi trường họp tác quốc tế nói chung. Trong khi đó, sự phô biến các giá trị chung đang tạo điều kiện cho sự hiếu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Các giá trị chung này đang góp phần tác động thuận lợi cho cơ sờ chủ quan của hợp tác quốc tế. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, các quốc gia dễ dàng đổng ý với nhau về các giá trị chung trong vân đề 24 M ot so van de ly luan quart he quoc te drfdi gdc nhin Itch su moi truong hon nhieu linh vuc khac. Chung ta cung dang chiing kien su chia se cac gia tri chung ve moi truong qua cac hoi nghi toan cau va cac hiep dinh trong linh vuc nay. Cac cong uoc, hiep dinh quoc te ve moi truong ra doi tu dau the ky XIX va so luong da len toi hon 170 tinh den cuoi the ky XX1. 10. Moi truong va van de cong bang xa hoi trong quan he quoc te. Su tac dong ve van de nay dien ra theo hai huong. Thu nhat, bat binh dang duoc coi la mot trong nhung nguyen nhan dan den van de moi truong khi bat binh dang dan den ngheo doi, ngheo doi dan den nhu cau khai thac moi truong de phat trien. Ket qua la van de moi truong thuong xau di nhanh chong 6 cac nuoc kem phat trien. Vi kem phat trien nen nhung nuoc nay lai cang khong muon hy sinh loi ich phat trien cho loi fch moi truong. Nhu vay, co su gain gui vod quan diem cua chu nghia macxit mod, chinh tri xanh coi bat binh dang xa hoi la mot nguyen nhan dan den su suy thoai cua moi truong. Dieu do cung co nghia la muon kh^c phuc van de moi truong thi can phai giai quyet tinh trang bat binh dang xa hoi ca trong nuoc lan trong quan he quoc te. Thu hai, su ton tai van de moi truong cung dem lai co hoi cho su binh dang hon trong quan he quoc te. Quoc gia du Ion hav nho thi deu la nhung phain cua moi truong the gioi. Giai quvet 1. Conway Henderson, International Relations: Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, t.2, tr. 150. Chinh trị xanh - một cách tiếp cân trong quan hệ quốc tế 25 vấn đê' môi trường không thê bò qua bất kỳ quốc gia nào. Điều đó có nghĩa là quốc gia nào cũng có quyền lợi và nghĩa vụ đối vói môi trường. Quốc gia nào cũng có vai trò và vị trí nhât định trong nỗ lực chung này. Sự phụ thuộc lân nhau giữa các quốc gia trong lĩnh vực môi trường không bất tương xứng quá nhiều như trong kinh tế và chính trị. Hơn nữa, khi môi trường đang ngày càng trở thành nghĩa vụ quốc gia và trách nhiệm quốc tê, khía cạnh môi trường đang tạo thêm tính hợp pháp trong các nỗ lực của các nước nhỏ trong việc giải quyết mâu thuẫn Bắc Nam. Điều này làm cho các nước nhỏ có thêm cơ hội cải thiện vị thế quốc tế của mình trong lĩnh vực chính trị và kinh tế thông qua vấn đề môi trường. 11. Chính trị xanh chủ trương giải quyết các vấn đê chính trị môi trường theo phương thức phi bạo lực. Môi trường cũng đem lại điều kiện thuận lợi cho hợp tác khi làm tăng cơ hội sử dụng công cụ ngoại giao hơn là bạo lực. Tính chưng nhất và không thể chia sẻ của môi trường làm cho việc giải quyết vấn đề này chỉ có thể trên cơ sở hợp tác. Xung đột và bạo lực dễ làm tăng thêm sự chia rẽ, lòng hận thù và làm giảm cơ hội giải quyết vấn đề môi trường. Ngoại giao chính là công cụ thích hợp đê thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Với mục tiêu đi tìm điểm chung, ngoại giao là phương tiện tốt nhất đê đạt được sự nhâ't trí giữa các quốc gia. Ngoại giao là cách thức duy nhâ't có thế huy động mọi quốc gia - dân tộc tham gia vào vân đề nàv. Ngoại giao củng là công cụ mà các quốc gia 26 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lỊ C h sử dễ chấp nhận hơn so vói nhiều công cụ quan hệ quỏc te khác. Ngoài ra, vai trò của ngoại giao củng cần thiết cho môi trường khi nó giúp duy trì hòa bình và ổn định như điều kiện cần thiết để giải quyết vân đề môi trường. Như vậy, vấn đề môi trường làm tăng cơ hội sử dụng các phương thức phi bạo lực trong quan hệ quôc tê. Đên lượt mình, việc sử dụng phổ biến các phương thức phi bạo lực và công cụ ngoại giao lại giúp tạo bâu không khi thuận lợi và làm tăng cơ hội hợp tác. Ngoại giao đang đem lại nô lực hợp tác từ song phương tới đa phương, từ khu vực tới toàn cầu trước nguy cơ xuống cấp cúa môi trường. Sự xuất hiện nền ngoại giao xanh là một minh chứng cho thây điều này1. 12. Môi trường giúp hình thành những thê chế quốc tế trong lĩnh vực này. Sự phụ thuộc lẫn nhau và yêu cáu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường đang dẫn đêh điều đó. Các thể chế quốc tế sẽ góp phần tạo ra khuôn khổ, mục tiêu, nguyên tắc cho sự hợp tác quốc tế trong vấn để môi trường. Các thể chế này còn là nơi điểu hòa tranh chấp và giải quyết bất đồng, nơi tập trung ý chi họp tác chính trị quốc gia, noi phối hợp khả năng khoa học và 1. Ví dụ điên hình là Kê hoạch Địa Trung Hài. Đó là sự hợp tác về môi trường giữa các nước có chê' độ chính trị, văn hóa và trinh độ phát triên kinh tê khác nhau như Pháp và Italia - là những nưóc phát triên với nên dân chu kiêu phương Tây; Angiêri và Ai Cập la những nước đang phát triên với nền văn hóa Hổi giáo; còn Anbani là một nước nho với những khác biệt vê chê độ chính trị. Chinh trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 27 kinh tê của các nước trong công cuộc bảo vệ môi trường thê giới. Ngoài ra, sự tổn tại và phát triển của các thê chế cũng đang góp phần nâng cao nhận thức chung, hình thành giá trị chung và giúp nâng cao năng lực của các quôc gia trong vâh đề môi trường. Điểu này có thê thấy được qua sự phát triển của các hình thức thê chế trong lĩnh vực môi trường hiện nay. Đó là các tô chức quốc tế từ liên chính phủ tới phi chính phù, từ cấp độ song phương tới khu vực và toàn cầu, từ các tô chức chuyên môn tới các tô chức có chức năng chung...1. Đó là sự hình thành hệ thống luật pháp quốc tế và chế độ quốc tế về môi trường thông qua hai quá trình: từ luật quốc gia đi ra thành luật pháp quốc tế, từ các công ước quô'c tế đi vào thành luật pháp quốc gia2. Theo các nhà chính trị xanh, sự hình thành và phát triển ngày càng tăng của thê chế quốc tế trong lĩnh vực môi trường không chi đóng góp vào xu hướng hợp tác quốc tế nói chung, mà còn góp phần làm giảm tinh trạng 1. Ví dụ nhu tô chức Hòa bình xanh, Hiệp hội quốc tế về đánh giá tác động (IAIA), Quỹ quốc tê'bào vệ thiên nhiên (WWF), Hiệp hội quốc tế về bao tổn thiên nhiên (IUCN), ủ y ban liên chính phu về biến đối khí hậu (IPCC), Uy ban hải dương học liên chính phù (IOC),... 2 Ví dụ nhu Công ước WashiQgton năm 1973, Công ước Marpol năm 1973, Công ước Bonn nầm 1979, Công ước Vienna năm 1985 Dịnh ước Montreal năm 1987, Công ước Espoo năm 1991, Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đối khí hậu năm 1992, Công ước về đa dạng sinh học năm 1992, Công ước vể hoang mạc hóa năm 1994... 28 Một số vắn đê lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhìn lích sư vô chính phủ trong quan hệ quốc tế. Đó là tác động quan trọng đối với quan hệ quốc tế thế giới. Đây là quan điêm có sự gần gũi với quan điểm thê chế cùa chu nghía tụ do mói với điểm khác là sự nhâh mạnh chủ yếu đến môi trường như động lực cho quá trình này. 13. Đê giải quyết vấn đề môi trường, cần thay đôi cấu trúc quốc tế hiện tại theo hướng phi tập trung. Hệ thông và cấu trúc quốc tế hiện nay đang được coi là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái môi trường trên phạm vi thế giới. Hệ thống quốc tế này được xây dụng theo hướng tập trung vào quốc gia. Các quôc gia thường ưu tiên lợi ích quốc gia và các lợi ích liên quan đến quyền lực nên coi nhẹ vấn đề môi trường chung. Hệ thống các quốc gia như vậy khó giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường. Trong quan hệ quốc tế, cấu trúc của thế giới cũng tập trung quyển lực vào tay một số nước lớn. Điểu này sinh ra bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và từ đó là sự khai thác môi trường cùa các nước yếu phục vụ cho các nước mạnh. Ngoài ra, cơ câu của các xã hội và thế giới cũng là cấu trúc được xây dựng dựa vào công nghiệp, văn hóa tiêu dùng, bóc lột, tập trung vào vật chât,... Câu trúc tập trung như vậy chính là nguyên nhân sinh ra vâh đề môi trường. Thay vì cách tiếp cận quôc gia, chính trị xanh khuvén nghị cách tiếp cận trên quy mô toàn cầu. Quan niệm cua chinh trị xanh là hướng tới một cộng đổng toàn cáu dựa trên những câu trúc khác chứ không phải là hệ thông quốc tê dựa trên câu trúc phân bô quyển lực với quyển lực tập Chinh trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 29 trung vào tay các cực. Cấu trúc mói của chính trị xanh bao gồm cả con người và môi trường. Nó được xây dựng trên những nhận thức chung về môi trường và con người, chuẩn mực chung trong ứng xử với môi trường, đạo đức sinh thái,... Vì thế, cần thay đổi cơ cấu hiện tại theo hướng tản quyển hơn. Sự tản quyền này được cho là đi theo hai cấp độ. Trên binh diện quốc gia, đó là sự phân quyền cho các giai tầng trong xã hội theo hướng bình đẳng hơn. Trên bình diện quan hệ quốc tê' đó là sự giảm bớt quyền lực trong tay các quôc gia và nhât là chuyển quyền lực từ các nước lớn sang các thể chế toàn cầu và các phong trào xã hội. Quyền lực của "người quyền uy xanh" đề cập ở trên sẽ được tạo ra từ sự tản quyền của các quô'c gia. Sự tản quyền như vậy đế tránh tình trạng lạm dụng quyền lực của quốc gia theo hướng bất lợi cho môi trường cũng như giúp hình thành cộng đồng toàn cầu theo sự hình dưng của các nhà chính trị xanh. 14. Một trong những mô hình tương lai thế giới để khắc phục vấn đê môi trường là quản trị toàn cầu. Đây cũng là quan điểm về thế chế nhưng có sự đi xa hơn chủ nghĩa tự do mới vốn chỉ dừng lại ở các chế độ quốc tế về môi trường. Sự hình thành và phát triêh của những thê chế quốc tế đang lát đường cho sự phối hợp bảo vệ môi trường trên quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế thế giới vẫn chưa tổn tại một cơ chế thực sự cho hợp tác toàn cầu về môi trường. Trong khi không có được một thế c h ế như vậy, Liên hợp quốc dường như đang đóng vai trò ch u y ến tiếp tạm thời thông qua các tổ chức môi trường 30 Một số vắn đê lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhin Itch sử trong hệ thống của mình1. Mặc dù vậy, các nô lực hiện thời là không đủ và cần phải hình thành những thiết chê có hiệu quả và hiệu lực hơn. Đó chính là quản trị toàn câu. Sau Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992, ủ y ban quản trị toàn cầu gồm 28 nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới đã kêu gọi thành lập Tô chức môi trường toàn cầu như một hình thức quản trị toàn cầu trong lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, quan niệm về quản trị toàn cầu là rất khác nhau với sự tham gia của các học giả thuộc nhiều trường phái lý thuyết khác nhau2. Mặc dù vậy, có thể hiếu quàn trị toàn cầu là một hình thức thể chế trên quy mô toàn cấu, có những thẩm quyền nhât định ở trên quốc gia, được hình thành nhằm thúc đẩy sự phối hợp đê đôi phó với các vấn đề toàn cầu. Trong SỐ này, quản trị toàn cầu trong lĩnh vực môi trường được coi là có tính khả thi hơn cả bời ý thức toàn cầu về tính chung nhất của môi trường, bời nguy cơ xuống cấp môi trường ngày càng trầm trọng, bài 1. Các tô chức môi trường trong hệ thống của Liên hợp quốc là Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), ú y ban mói trường và phát triển th ế giới (WCED), ủ y ban vể phát triển bén vững (CSD) và Uy ban liên cơ quan vê phát triển bển vững (IACSD). Trên thực tê; Liên hợp quốc đã tiên hành triển khai nỗ lực phối hợp toàn câu thông qua việc bào trọ cho các hội nghị cáp cao toàn câu vê môi trường. 2. Tham khao thêm Hoàng Khắc Nam: "Một s& vân để lý luận về quàn trị toàn cầu”, Tạp chí Những vấn đ ê kinh t ế và chính trị t h ế giới, sô' 4 (156), 2009, tr. 10-21. Chmh tri xanh - mot cach tiep can trong quart he quoc te 31 xu huong the che hoa dang tang trong linh vuc nay va cung boi linh vuc nay de dat duoc thoa thuan hon. Quan tri toan cau dang duoc ky vong nhu mot cach thuc thiet lap trat tu the gioi moi va dem lai nhung thay doi quan trong trong chinh tri quoc te. Va cung rat co the, nhan thuc ve quan tri toan cau se cung cap them mot cach tiep can de danh gia cac van de quoc te hien dai cung nhu giup du bao nhieu van de cua tuong lai1. Nhin chung, ly luan ve quan tri toan cau dang dat ra nhung thach thuc cho cac ly thuyet chinh tri quoc te hien hanh. DANH GIA VE CHINH TRj XANH Cho du con co nhung nghi ngo nhung chinh tri xanh da co nhung dong gop dang ke vao nghien cun quan he quoc te duong dai. Cac dong gop cua chinh tri xanh the hien 6 may diem sau: Thu nhat, chinh tri xanh da bo sung them mot cach tiep can moi cho nghien cuu quan he quoc te. Do la cach tiep can tir goc do moi truong khi dem them yeu to moi truong vao nghien cun quan he quoc te. Truoc do, gain nhu khong co cach tiep can nao tir goc do nay. Cach tiep can cua chinh tri xanh la huu ich trong boi canh hien nay va tuong lai boi van de moi truong dang ngay cang tram trong hon va tac dong ngay cang nhieu toi quan he quoc te. 1. Xem Bjom Hettne & Bertil Oden, Global Governance in the 21st Caiturt/: Alternative Perspectives on World Order, EGDI, Stockholm, 2002. 32 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhìn Itch sủ Nó mang thêm yếu tố mới vào giải thích nhiêu hiện tượng trong quan hệ quốc tế như xung đột và hợp tác, ban sắc và cộng đổng,... Đây là đóng góp có ý nghĩa vể mặt phưcmg pháp luận trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Thứ hai, chính trị xanh nhấn mạnh sự gắn bó giữa mỏi trường và cuộc sống con người, từ đó giúp chi ra và phán tích mối quan hệ qua lại giữa môi trường và quan hệ quốc tế. Chính trị xanh cho rằng cần tính thêm đến môi truờng như một động lực cho nền chính trị toàn cầu bên cạnh các động lực an ninh và phát triển như một số lý thuyết quan hệ quốc tế khác đã chi ra. Cách tiếp cận bô sung này giúp phân tích quan hệ quốc tế và chính trị quốc tế toàn diện hơn khi giúp phát hiện thêm những nguyên nhân, điêu kiện, chiêu cạnh và tác động khác nhau trong mối quan hệ qua lại giữa các hiện tượng quan hệ quốc tế và vẩn để môi trường. Đây là đóng góp cho việc nghiên cứu quan hệ quốc tế được đẩy đù hơn và toàn diện hơn. Thứ ba, chính trị xanh được vận dụng bổ sung cho các lý thuyết quan hệ quốc tế. Đối với chủ nghĩa hiện thực, chính trị xanh giúp lý giải thêm một nguyên nhân dẫn đên hiện tượng xung đột trong quan hệ quốc tế như tranh châp tài nguyên chăng hạn. Đôi với chủ nghĩa tự do, nó giúp cho thấy một nguyên nhân góp phấn quy đinh xu hướng hợp tác quôc tê ngày càng tăng. Đôi với chủ nghĩa mácxít mới, chinh trị xanh giúp chi ra thêm một hậu qua tai hại bởi sự phân công lao động quốc tế và hệ thống thế giới bât binh đăng cua chu nghĩa tư bản, cũng như chi ra Chinh trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 33 một nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo Bắc Nam. Đôi với chủ nghĩa kiến tạo, chính trị xanh giúp đem lại những lý giài vê' nhận thức toàn cầu và tác động của nó đôi với việc hình thành cộng đổng an ninh theo mô hình của lý thuyết này. Thứ tư, chính trị xanh giúp nâng cao ý thức bào vệ môi trường cũng như đặt cơ sở cho hợp tác quốc tế vê vấn đê môi trường trong chính sách của quốc gia cũng như các tô chức quốc tế. Nó khuyến khích đạo đức sinh thái và trách nhiệm toàn cầu trong vârt đề môi trường. Trong hoạch định chính sách giờ đây, bảo vệ môi trường không chì là mục tiêu chính sách đôi nội, đối ngoại, mà còn là yếu tố phái tính đến trong các vấn đề chính trị và kinh tế. Thông qua chính sách, ý thức và hành động thực tiễn nhằm bào vệ môi trường sẽ dễ lan tỏa, phô biến và đi vào cuộc sống hơn. Hiện nay, rất nhiều quốc gia và tô chức quốc tế lớn như Liên họp quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... đều đã có những chính sách hợp tác quốc tế nhằm bào vệ môi trường. Đây là đóng góp về mặt thực tiễn của chính trị xanh. Thứ năm, chính trị xanh đóng góp cho việc xây dựng các mô hình hợp tác tương lai cho thế giới dưới cách nhìn xanh (green perspective). Không chi khuyến khích một cách nhìn quan hệ quốc tế hướng tới tương lai nhiều hơn là giải thích quá khứ và hiện tại, chính trị xanh còn đưa ra các khuvến nghị nhằm thay đổi cấu trúc quan hệ quốc tế hiện 34 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sừ nay và đưa ra các gợi ý vể cơ cấu, mô hình và tô chức theo hướng thúc đây hợp tác, bảo đảm công bằng xã hội và bao vệ môi trường. Các gợi ý này vừa giúp nâng cao hiệu qua trong việc bảo vệ môi trường, vừa giúp thúc đây hợp tác trong quan hệ quốc tế. Cả hai mục tiêu này đểu có ý nghĩa tích cực đối với nhân loại và thế giói. Đây là đóng góp cho tương lai của thế giới và giúp đem lại hy vọng vê một thê giới tốt đẹp hơn trong tương lai. Bên cạnh đó, chính trị xanh cũng hứng chịu những phê phán nhất định. Sự phê phán chính trị xanh được tập trung vào một số luận điếm chính dưới đây: Thứ nhất, chính trị xanh chỉ là một cách tiếp cận bô sung hơn là một lý thuyết về quan hệ quốc tế. Đôi khi, nó chi được coi là cách nhìn xanh {green perspective). Du môi trường là vârt đề quan trọng nhưng nó chì là một trong những vấn đê lớn mà nhân loại phải đôi mặt. Vì thế, chính trị xanh - lý luận dựa chủ yếu vào môi trường - không có khả năng giai quyết mọi vâh đề trong quan hệ quốc tê' mà chỉ giải thích được một số vârt đề quan hệ quốc tế có liên quan đến môi trường mà thôi. Đổng thòi, phạm vi thơi gian của nó khá hạn chê' chủ yêu phục vụ cho hiện tại và tương lai khi vấn đề môi trường bắt đầu rõ nét hơn là bao gồm cà quá khứ khi vẩh đê môi trường hầu như chưa hiện diện trong quan hệ quôc tê. Điểu này cho thây tính quy luật cùa nó là hạn chê. Vê mặt lý luận, cơ sờ cua nó cũng được coi là khá nghèo nàn cả về bàn thể luận lẫn nhận thức luận và phương pháp luận. Đối với kho táng lý Chính trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 35 thuyết quan hệ quốc tế, chính trị xanh không có khả năng thay thê bất kỳ lý thuyết nào, mà chỉ tạo thêm giá trị bô sung. Nhìn chung, chính trị xanh không hoàn toàn được coi là một lý thuyết quan hệ quốc tế đầy đủ và toàn diện, mà chi là cách tiếp cận bô sung bởi phạm vi ứng dụng khá hạn hẹp của nó. Thậm chí, có tác giả còn không xếp cách tiếp cận chính trị xanh vào hệ thống các lý thuyết vê quan hệ quốc tê\ Thứ hai, chính trị xanh bị phê phán là không hoàn toàn chính xác khi đề cao quá mức vai trò của yếu tố môi trường đôi với quan hệ quốc tế. Môi trường đứng là một vấn đê' lớn nhưng vói tư cách là một lợi ích thì nó vẫn chưa thực sự trở thành một lợi ích cơ bản hay có tính sống còn đối với quốc gia. Quốc gia có quá nhiều việc phải làm, phải lo cho các lợi ích chính trị và an ninh, kinh tế và phát triển hơn là vân đề môi trường. Thực tế đang cho thâ'y điều này. Dù tât cả các nước đều chú ý tới vâh đề môi trường nhưng lợi ích môi trường vẫn chiếm vị trí khiêm tôn trong chính sách đối ngoại của quốc gia. Môi trường chưa phải là vâh đề ưu tiên và khi cần thiết, người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích môi trường cho các lợi ích an ninh và phát triển. Khi chưa đủ lớn, lợi ích môi trường khó có thê trở thành động lực lớn 1. Ví dụ, trong một số công trình có tính tông họp vê' lý thuyết quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh như International Relations Theory fo r Twenty-First Century năm 2007 cua Martin Griffiths, The Oxford Handbook o f International Relations năm 2011 cùa Đại học Oxford... đả không có một phần nào dành riêng cho chính trị xanh. 36____ Một số ván đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhin Itch sủ hướng dẫn chính sách và hành vi của quốc gia ưong quan hệ quốc tế. Và khi đó, môi trường tác động đêh quan hệ quốc tế cũng chỉ ở mức vừa phải. Cho dù có vịn có là bởi tẩm nhìn ngắn và sự quan tâm tới lợi ích trước mắt thì điếu này vẫn sẽ được tiếp tục trong thời gian dài nữa. Thứ ba, chính trị xanh cũng được coi là phiên diện khi nhâín mạnh chủ yếu đến quan hệ qua lại giữa môi trường và chính trị. Quan hệ quốc tế là đa lĩnh vực. Môi trường thực tế không chỉ ảnh hưởng đến chính trị mà còn tác động đến nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là kinh tê phát triên. Tất cả chúng đều tác động đêh quan hệ quốc tế chứ không phài qua mỗi kênh chính trị. Việc chi phân tích tập trung vào tác động của môi trường tới quan hệ quốc tế qua kênh chính trị như vậy là không đủ. Thực tế cho thấy, kinh tế mới là ncri có quan hệ qua lại nhiều nhất vói vâh đề môi trường, cho nên quan hệ kinh tế quổc tế - một lĩnh vực của quan hệ quốc tế - mới là noi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của vân đê môi trường. Cách tiếp cận thiên về chính trị như vậv cua chính trị xanh vì thê'được coi là không đủ và phiên diện. Thứ tư, cả hai cách tiếp cận thuộc hai trường phái chủ nghĩa môi trường nông và chủ nghĩa môi trường sâu1 đẽu bị 1. Chù nghĩa môi trường nông (shallow environm entalism ) cho răng các vấn đê vê môi trường có thê được giải quyết với hệ thống các tô chức chính trị, xã hội và kinh tê hiện có của con người. Chu nghĩa môi trường sâu (deep environmentalism) cho rằng cẩn thav đối hoàn toàn câu trúc chính trị, xã hội và kinh tê' trong xã hội loài người thì mới giải quvết được vấn để môi trường. Chmh trị xanh - một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 37 phê phán. Cách tiếp cận chủ nghĩa môi trường nông được cho là chi góp phần giảm nhẹ sự suy thoái môi trường chứ không giải quyết được căn bản vấn để. Cách tiếp cận này cũng được cho rằng có xu hướng thúc giục các nước nghèo làm theo những gì các nước giàu nói hơn là như những gì họ làm1. Trong khi đó, cách tiếp cận chủ nghĩa môi trường sâu thì bị coi là tính khả thi không cao khi việc thay đổi cấu trúc quô'c gia, thế giói và quan hệ quốc tế hiện tại là rất khó, gặp nhiều mâu thuẫn, đòi hỏi nhiều thòi gian nên tính khả thi bị hạn chế. Lập luận cái chung toàn cầu tăng lên trong mối quan hệ với cái riêng của địa phương hay cá nhân cũng bị đặt dấu hỏi lớn khi thiếu vắng những quyền lực thực sự về vật chất và chính trị như một chính phủ thế giói chẳng hạn. Phải có một quyền lực như vậy mói đủ sức tạo ra cái chung toàn cầu và hạn chế cái riêng địa phương. Trong khi trên thực tế, chính cái riêng đang thúc đẩy việc khai thác tàn phá môi trường và tà đó tiếp tục làm tổn hại cái chung. Đó là điều mà nhà văn Garrett Hardin và một số người khác gọi là "bi kịch của cái chung"2. Thứ năm, một số quan điếm của chính trị xanh củng được cho là khó khả thi và thậm chí là mâu thuẫn. Ví dụ như quan điểm về sự công bằng xã hội như cách thức giải quyết vân đề môi trường. Chính một nhà chính trị xanh 1. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to Intenmtwnal Relations: Perspectives and Thanes, Sđd, tr. 226. 2. John Vogler, "Envừonmental Issues", John Baylis & Steve Smith, The Globalization o f World Politics, Oxford University Press, 1997, tr. 354. 38 Một số vấn đê lý luận quan hê quốc tế dưới góc nhirt lịch sù như Andrew Dobson cũng cho rằng công bằng và phát triển bền vững không thê bô sung cho nhau. Muốn báo vệ môi trường thì cần một xã hội ổn định. Muốn ổn định, xã hội đó phải là có thứ bậc, tức là phải có sự bất bình đăng. Điều đó có nghĩa là công bằng và bảo vệ môi trường có sụ mâu thuẫn với nhau. Một quan điểm khác của Dobson cũng đáng chú ý khi cho rằng bảo vệ môi trường có thê đồng nghĩa vói phát triển kém hơn và điểu này sẽ anh hưởng lớn hơn đến các nước nghèo trên thế giới1. Và nếu như vậy thì liệu các nước nghèo có sẵn sàng hy sinh lợi ích phát triển đê bảo vệ môi trường? Thực tế được nhiểu người chi ra là không. Tương tự như vậy, sự kỳ vọng vê cái gọi là đạo đức sinh thái của các nhà chính trị xanh cũng được coi là ít khả thi, và nếu có thì cũng không nhiểu tác dụng. 1. Dan theo Jill Steans & Lloyd Pettiford, introduction to international Relations: Perspectives and Themes, Sđd, tr. 223. 39 THUYẾT PHỤ THUỘC DI/01 GÓC oộ QUAN HỆ QUỐC TỄ Thuyết phụ thuộc (theory of dependency) vốn là một lý thuyết vê kinh tế chính trị quốc tế. Tuy nhiên, nó cũng được coi là một lý thuyết quan hệ quốc tế. Điều này được quy định bởi hai lý do. v ề phương diện thực tiễn, quan hệ quốc tế ngày càng bị chi phôi bởi kinh tế chính trị quốc tế nên việc áp dụng lý thuyết này vào quan hệ quốc tế cũng ngày càng tỏ ra thích hợp. v ề phương diện lý luận, thuyết phụ thuộc đã góp thêm vào nghiên cứu quan hệ quốc tế một cách nhìn riêng về sự vận động của quan hệ quốc tế củng như giúp lý giải nhiều hiện tượng quan trọng trong quan hệ quôc tế mà các lý thuyết quan hệ quốc tế khác không giải thích được hoặc giải thích chưa thỏa đáng. Điều này góp phần đem lại tinh chất quan hệ quốc tế cho lý thuyết này. Trong kho tàng lý thuyết quan hệ quốc tế hiện nay, thuyêt phụ thuộc được xê'p vào chủ nghĩa mácxít mới (neomarxism ). Việc sắp xếp như vậy là do thuyết phụ thuộc chịu anh hương cua chu nghĩa Mác về cà bản thê luận và nhận thức luận. Đồng thời, do vẫn có sự khác biệt đáng kê với chu nghĩa Mác và lại xuất hiện sau nên nó được coi nhu một trường phái của chủ nghĩa mácxít mới cùng 40 Một số vấn dề lý luận quan hệ quốc tế dưới goc nhìn Itch sử với các trường phái khác như thuyết hệ thống thé giói (world system theory) của Immanuel YVallerstein và các quan điểm cua Antonio Gramsci,... Bài viết này giới thiệu về thuyết phụ thuộc với những pội dung chủ yếu của nó là quá trình hình thành va phát triển, các dòng quan điếm, những luận điêm chu yếu và sự đánh giá. Qua đó, bài viết hy vọng có thê cung cấp thêm một cách tiếp cận trong nghiên cứu quan hệ quốc tế một cách tiếp cận mà theo chúng tôi vẫn có ích trong việc lý giải nhiều hiện tượng quan hệ quốc tê hiện nay. 1. Sự hình thành và phát triển của thuyết phụ thuộc So với nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế, thuyết phụ thuộc ra đời tương đối muộn. Thuyết này bắt đầu nổi lên va mạnh nhất trong những thập niên 1950-1960 và phần nào đó là cả thập niên 1970. Thuyết phụ thuộc được bắt đáu chù yếu tù Mỹ Latinh, sau đó lan sang Bắc Mỹ. Sự nôi lén cua thuyết phụ thuộc ơ Mỹ Latinh diễn ra trong bối canh quan niệm hiện đại hóa1 (modernisation) vốn được ủ y ban 1. Quan niệm nàv cho rằng con đường phát triển gắn liên với chủ nghĩa tu ban, công nghiệp hóa, đổi mới công nghệ, chu nghĩa tiêu dùng, kinh tê thị truong và gia tăng dán sô. Hiện đại hóa cũng gắn liẽn vói nâng câp giáo dục, mo rộng vai trò cua nhà nước, đa nguyên vẽ chính trị, chính phu dân chu, tôn trọng tụ do và quvền cua công dán. Con đường này sẽ tạo ra các xã hội hiện đại thay cho các xã hội lạc hậu truyên thông trưóc kia. Nhìn chung, đó lá một quá trinh gổm sự lién két kinh tê và nhũng thay đổi cóng nghệ, công nghiệp, văn hóa, xã hộí va chính trị. (Theo Jill Steans & Llovd Pettiford, introduction to international Relations: Perspectives mid Themes, 2005, tr. 82). Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 41 kinh tê Mỹ Latinh của Liên hợp quốc khuyến khích áp dựng, nhưng sau đó tỏ ra không những không hiệu quà, mà dường như còn đem lại sự trì trệ kinh tế cho Mỹ Latinh. Đến cuôi thập niên 1960, lý thuyết này lan sang Mỹ và được chào đón ở đây khi ở Mỹ cũng đang diễn ra nhiêu van đề xã hội, tình trạng lạm phát mãn tính và sự suy giảm của đổng đôla. Sau Chiên tranh lạnh, lý thuyết này không có thêm phát triển gì mới nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định trong quan hệ quốc tế. Thuyết phụ thuộc được bắt đầu bởi hai học giả là Hans Singer và Raul Prebisch. Hans W olfgang Singer (1910-2006) là một nhà kinh tế học người Đức di tản sang Anh dưới thời Hitler và đã có khoảng 20 năm làm việc cho các tô chức về kinh tế của Liên hợp quốc. Năm 1950, Hans Singer xuât bản bài báo "Sự phân phôi lợi nhuận giữa các quốc gia đầu tư và vay mượn" (The Distribution of Gains between Investing and Borrowing Countries). Raul Prebisch là một nhà kinh tế học người Áchentina, đã từng là người đứng đầu ủ y ban kinh tế Mỹ Latinh (ECLAC) và Tông Thư ký Hội nghị thương mại và phát triển (UNCTAD) đểu cua Liên hợp quốc. Cũng vào năm 1950, Raul Prebisch công bô' bài viết "Sự phát triển kinh tế của Mỹ Latinh và những vân để chính yếu của nó", “The Economic Development of Latin America and its Principal Problems". Hai tác giả này không liên hệ gì với nhau nhưng cùng chung một ý tưởng và x u ấ t ban gần như cùng thời điểm nên ý tưởng cua họ được gọi chung là gia thuyêt Singer-Prebisch. 42 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Cả hai công trình này đểu là những nghiên cứu có tinh kinh nghiệm. Qua quan sát và tìm hiếu về nến thương mại quốc tế lúc đó, các tác giả đã rút ra nhận định răng nển kinh tế thế giới đang được phân công hóa theo hướng các nước nghèo sản xuất những hàng hóa thô rồi xuất sang cho các nước giàu với giá rẻ. Còn các nước giàu sàn xuât các thành phẩm và những hàng hóa tiên tiến hơn và bán lại cho các nước nghèo vói giá cao. Trong quá trình buôn bán này, các nước giàu thường thu lợi nhiều hơn. Và kết quả là lợi nhuận chủ yếu của thương mại quốc tê sẽ rơi vào tay các nước giàu. Từ đó, Hans Singer để nghị thanh lập một quỹ tín dụng đê cung cấp vốn cho các nước nghèo với lãi suất thâp, trong khi Raul Prebisch lại cho rằng các nước nghèo cẩn phải duy trì một số mức độ bảo hộ nhát định và đi theo con đường phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Trong chừng mực nào đó, gia thuvết Singer-Prebisch đã đánh dấu sự hình thành của thuvết phụ thuộc. Từ gia thuyết Singer-Prebisch, thuyêí: phụ thuộc đã được bô sung và phát triến bơi nhiều học giả khác nhau, ơ Mỹ Latinh có Celso Furtado, Henrique Fernando Cardoso, Enzo Faletto và Pinto Anibal,... Ngoài Mỹ Latinh có Paul A. Baran, Paul Sweezy, Andre Gunder Frank... Trong the giới Hổi giáo có nhà kinh tếhọc người Ai Cập Samir Amin. Celso Furtado (1920-2004) là một nhà kinh tế học người Braxin. Ong là một trong những người phát trién kinh tê học cáu trúc và cững là một trong những ngươi Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 43 đầu tiên sử dụng thuật ngữ "thuyết phụ thuộc". Celso Furtado từng là Thông đốc Ngân hàng Phát triển Braxirt. Tác phâm nổi tiếng nhất của ông là Sự tăng trưởng kinh tế của Braxin: Khảo sát từ thời thuộc địa đến thời hiện đại (The Economic Growth o f Braxin: A Survey from Colonial to Modern Times) xuất bản năm 1959 và Phát triển và kém phát triển (Development and Underdevelopment) xuất bản năm 1964. Các nghiên cứu của ông đã đóng góp nhiều luận điểm cho thuyết phụ thuộc, như phát triển và kém phát triển là hai mặt của một cơ cấu kinh tế, cách thức ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế quốc tế đối với sự phát triển kinh tế nội địa,... H enrique F ernando C ard oso (1931) là một nhà xã hội học cấp tiến người Braxin. Ông đã từng tham gia đấu tranh chống chế độ độc tài và sau này trở thành tổng thống Braxin trong hai nhiệm kỳ từ năm 1994 đến 2002. Ông đã cùng Enzo Faletto xuất bản cuốn sách Sự phụ thuộc và phát triển ở Mỹ Latinh (Dependency and Development in Latin America). Trong thời gian cầm quyền, ông đã thi hành các chinh sách cài cách ruộng đất, xóa đói giảm nghèo,... ở Braxin. Các nghiên cứu và hoạt động của Henrique Cardoso đã đóng góp cho thuyêt phụ thuộc cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trong số các học giả ngoài Mỹ Latinh, Paul Baran và Andre Gunder Frank là hai nhân vật nổi tiếng nhất. P aul A. Baratt (1909-1964) là một nhà kinh tế học người Do thái gốc Nga và đã rời nước Nga từ năm 1920. Ống 44 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin Itch sử sau này trở thành giáo sư tại trường Đại học Stanford (Mỹ). Năm 1957, ông xuất bản cuốn Kinh tê chính trị và tăng trưởng (The Political Economy and Growth). Phát triên từ ý tưởng của Prebisch, công trình của Baran đã đóng góp nhiều cho việc phát triển thuyết phụ thuộc khi phê phán sự phát triển của kinh tế quốc tế theo mô hình chu nghĩa tư bản, chi ra tính châ't đ ế quốc của hệ thống thế giới, lý giải tình trạng kém phát triển của các nước thuộc Thế giói thứ ba,...1. Ngoài ra cũng cần kê đến Andre Gunder F rank (19292005) - nhà lịch sử kinh tế người Mỹ gốc Đức. Các công trình của ông đã góp phần duy trì thúc đẩy thuyết phụ thuộc trong thập niên 1970 với công trình tiêu biểu là Chù nghĩa tư bàn và sự kém phát triêh ở Mỹ Latinh (Capitalism and Underdevelopment in Latin America) xuất bàn năm 1967. Sau này, từ năm 1984, Andre Gunder Frank đã tham gia phát triển thuyết hệ thống thế giói. Chính các học giả và những công trình nêu trên đã đem lại sự phát triển cho thuyết phụ thuộc trong các thập niên 1950, 1960 và 1970. 2. Các dòng quan điểm trong thuyết phụ thuộc Thuyết phụ thuộc được phân loại thành các dòng khác nhau dù đôi khi ranh giới giữa các dòng này là khá mò 1. John Bellamy Foster, "The Im perialist World System - Paul Baran's The Political Economy and Growth After Fifty Years'Monthlỵ Review, Vol. 59, May 2007, New York. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 45 nhạt và giữa chúng chia sẻ nhiều điểm chung. Các dòng này được phân chia theo các cách khác nhau. Có ít nhất ba cách phân loại: Cách phân lo ạ i đầu tiên dựa trên quan niệm khác nhau vê sự kém phát triển trong nền kinh tế thế giới. Theo đó, thuyết phụ thuộc được phân chia thành ba mô hình quan điểm khác nhau: - Mô hình phụ thuộc tân thực dân (Neocolonial Dependence Model) chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênirt nhiều nhất và có tính cấp tiến nhâ't. Mô hình này cho rằng hệ thống thế giới đã trở thành hệ thống đế quốc của chủ nghĩa tư bản. Trong hệ thống này, các nước giàu và giai cấp tư sản thông trị đang bóc lột các nước nghèo dưới hình thức của chủ nghĩa thực dân mới thông qua những ưu thế về kinh tế trong hệ thống thế giới chứ không phải bóc lột thuộc địa như trước kia. Mô hình này quy sự kém phát triêh của các nước đang phát triển là do sự bất công trong nền kinh tế quôc tế và đến từ bên ngoài hơn là bởi những nguyên nhân bên trong nền kinh tế nội địa. Từ đó, mô hình này khuyến khích tiến hành cách mạng xã hội để thay đổi sự bất công này. - Mô hình quy chiêu sai (False Paradigm Model) cho rằng các nước phát triển giàu có có ý định thực sự giúp các nước nghèo hơn cùng phát triển. Tuy nhiên, sai lầm là ở chỗ các nhà hoạch định chính sách ở các nước nghèo lại nhận thức sai. Họ áp dụng máy móc mô hình phát triến của các nước giàu có mà không tính đến những điều kiện đặc thù 46 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử về kinh tế - xã hội nước mình. Kết quả của sự áp dụng sai lầm này dẫn đến sự kém phát triển của các nước thuộc Thê giói thứ ba và phụ thuộc vẫn hoàn phụ thuộc. Cách thức đem lại sự phát triển ở đây là phải chọn lựa mô hình phát triển phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước. - Mô hình phát triển nhị nguyên (Dualistic Development Model xuất phát từ thuyết nhị nguyên nói chung khi cho rằng phát triển và kém phát triển là hai mặt khác nhau của nển kinh tế. Thế giới luôn phát triển không đểu, có nước lớn ắt có nước nhỏ, có nước giàu thì ắt phải có nước nghèo. Các nước nhỏ và nghèo sẽ phải châ'p nhận sự phụ thuộc vào nưóc lớn, nước giàu hơn là ngược lại. Mô hình này khuyến khích sự châ'p nhận thực tiễn phát triển không đều như vậy. Cách phân lo ạ i thứ h ai dựa trên xu hướng câp tiêíi hay ôn hòa trong quan điểm và cách thức giải quyêt vấn đề phát triển. Theo cách phân loại này, thuyết phụ thuộc có thể được chia thành hai dòng chính: - Xu hướng cấp tiên chịu ảnh hưởng nhiều của chủ nghĩa Mác - Lênin và vì thế mà nó còn được gọi là lý thuyết Mác vê sự phụ thuộc. Đại biêu nổi bật của xu hướng cấp tiên là Paul Baran. Xu hướng này cho rằng nguồn gốc nghèo đói ở các nước đang phát triển là do sự bóc lột giá trị thặng dư dưới thời thực dân. Đến thời hiện đại, sự bóc lột và nghèo đói vân tiếp tục bởi sự tham lam của chù nghĩa tư bàn và thói quen áp bức của chù nghĩa phong kiên vổh tổn tại nặng nê ờ các nước này. Giai cấp tư sản trong nước Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc té 47 chi là tác nhân cho chu nghĩa tư ban quốc tê khi dùng thặng dư có được tù bóc lột trong nước chuyên sang nước ngoài hoặc tiêu dừng xa hoa. Các nước này dù có tiếp xúc vói khoa học công nghệ nhưng không sư dụng được, dù có hội nhập kinh tế quốc tế nhưng lại chiu thêm sự bóc lột từ chủ nghĩa tư bàn quôc tế. Chủ nghĩa tư bàn quốc tê trong thê kỷ XX dù đã thay đổi so với trước nhưng vẫn tìm cách duv trì tình trạng lạc hậu và sự nghèo đói ờ ngoại vi bời đó là nguồn phát triên cho chúng. Giống như Mác cho rằng chủ nghĩa tư bản có ca sự sáng tạo và sự tàn phá, xu hướng cấp tiên cho rằng sự tàn phá của chủ nghĩa tư bàn được phàn ánh ỡ chính sự kém phát triên cúa các nước Thế giói thứ ba. Đi theo con đường tư bàn chu nghĩa chi dẫn đên khủng hoảng và nghèo đói. Vì th £ cần tiến hành cách mạng và đi theo chú nghĩa xã hội. - Xu hướng ôn hòa không chịu ảnh hường nhiều cua chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó còn được gọi là lý thuyết câu trúc về sự phụ thuộc. Đại biếu nổi bật của xu hướng này là Henrique Fernando Cardoso. Vê đại thế, xu hướng này cho rằng sự hội nhập với chủ nghĩa tu bàn quôc te cũng chứa đựng nhiều vêu tố tích cực bên cạnh các mặt trái. Dù ỡ ngoại vi nhung những nước đang phát triên vẫn có thê phát triến được. Chúng vẫn có thê tích lũy tư bản thông qua sự phát triên có tính phụ thuộc. Chúng có thế bị phụ thuộc và bị nước ngoài can thiệp nhưng vẫn có thế định hình vận mệnh của mình. Sự phụ thuộc không phai là trò chơi tông sô' bằng 0, tức là có thế cả hai bên đểu cùng 48 ' Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin ỊệCh sử được. Sự phát triển vói sự phụ thuộc vào chu nghía tu bản quốc tế có thể đem lại sự phát triển kinh tê nội địa và làm tăng tiêu chuẩn sống. Sự hợp tác giữa tư bản trong nước và các công ty xuyên quốc gia nước ngoài có thê đem lại những tác động tiến bộ cải thiện đòi sống công nhân và bộ máy nhà nước. Vì thế, xu hướng này phàn bác sự thay đổi bằng con đường cách mạng chính trị ờ các nước kém phát triển. Thay vào đó, các nước này có thế phát triển bằng những chính sách kinh tế linh hoạt và thận trọng. Cách phân lo ạ i thứ ba là cách phân loại của Matìas Vemengo, một nhà kinh tế thuộc trường Đại học Utah. Cách phân loại này có hình thức dựa trên sự phân chia vê địa lý nhưng về nội dung có phần giống vói cách phản loại thứ hai. Theo Matias Vemengo, có hai dòng chính trong thuyết phụ thuộc: - Chủ nghĩa cấu trúc Mỹ Latinh với các đại biêu như Prebisch, Celso Furtado và Pinto Anibal. Đây là dòng có nội dung hoi giống với xu hướng ôn hòa. - Chủ nghĩa Mác Mỹ với các đại biếu như Paul Baran, Paul Sweezy và Andre Gunder Frank. Đây là dòng có nội dung hoi giống với xu hướng cấp tiên. v ể đại thế, thuyết phụ thuộc được xây dựng trên một SỐ cơ sớ lý luận và thực tiễn chính như ban chất con ngươi do xã hội và lịch sử quy định, cách tiếp cận kinh tê chinh trị quôc tê, cách tiêp cận hệ thông vói giả định kinh tê thế giới đã trơ thành hệ thông, lý thuyết câu trúc kinh tế vón Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 49 ra đời từ Pháp trước năm 19451, sự phát triển không đều của lịch sử dân đến địa vị khác nhau của các quốc gia trong hệ thống, môi quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tê giữa các quốc gia ngày càng tăng,... Từ các cơ sở đó, thuyết phụ thuộc có các luận điếm chính về quan hệ quôc tế sau đây: 3. Chủ thể và hệ thống quốc tế trong quan niệm của thuyết phụ thuộc Chủ thê trong quan hệ qu ốc t ế bao gồm cả giai cấp và quốc gia. Nhưng khác vói chủ nghĩa Mác - Lênin đề cao và gần như tuyệt đối hóa chủ thế giai cấp, thuyết phụ thuộc có xu hướng nhấn manh nhiều hơn đến quốc gia' với sự phân biệt theo tiêu chí trình độ phát triêh kinh tế. Tuy nhiên, ngay trong thuyết phụ thuộc cũng có sự bâ't nhất trong đánh giá vai trò của hai loại chủ thể quan hệ quốc tế này. Xu hướng cấp tiến chú ý đến giai câ'p trong phân tích nguyên nhân dẫn đêh mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế nhưng cách giải quyết lại quy cho cả hai. Trong khi đó, xu hướng ôn hòa thì lại tập trung vào chủ thể quốc gia mà ít tính đến chủ thể giai cấp. Ngoài ra, cũng có sự khác nhau trong đánh giá vai trò chủ thể của công ty 1. Jose Gabriel Palma, "Tại sao truyền thống tư duy phê phán của Mỹ Latinh trong khoa học xã hội trớ nên gần như tuyệt chùng"; Mark Blyth (chu biên), Cẩm nang Kinh tê'chính trị quõc t ế - Kinh t ế chính trị CỊUỐC tê'với tư cách là cuộc đ ô ĩ thoại mang tính toàn cầu, Khoa Quốc tê'học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2011, tr. 390. 50 M ot so van de ly tuan quart he quoc te dddi goc nhin hch sCi xuyen quoc gia (TNC). Mot loai quan diem cho rang TNC cung la chu the quan he quoc te khi la nguoi true tiep tao ra cac quan he kinh te lien quoc gia va xuyen quoc gia cung nhu la tac nhan chinh dem lai sir phu thuoc cua cac nuoc dang phat trien vao cac nuoc phat trien. Nhung cung co y kien cho r^ng TNC khong phai la chu the quan he quoc te ma chi la cong cu nham thuc hien loi ich quoc gia hay loi ich cua giai cap thong tri ma thoi. Tuy nhien, co the nhan thay su tap trung phan tich Ion nhat cua nhirng nguoi theo thuyet phu thuoc la vao chu the quoc gia. Cac nen kinh te tuong tac va gan bo voi nhau ngay cang chat che, dan den hinh thanh he thong the gi&i. He thong the gioi duoc xay dung theo ca chieu doc va chieu ngang. Ve chieu doc, do la moi quan he thu bac giua cac quoc gia giau manh voi cac quoc gia ngheo yeu. Ve chieu ngang, do la moi quan he giai cap ma chinh la quan he giua gioi tinh hoa cua ca hai nhom nuoc giau - ngheo. Gioi tinh hoa cua hai nhom nuoc nay lien ket voi nhau va cung chia se loi ich trong viec duy tri he thong nay boi vi chiing thuc sir cung co loi trong viec boc lot cac nhom xa hoi khac1. He thong nav duoc bat dau va thuc day boi chu nghla tu ban. No co xu huong ngay cang mo rong va loi cuon ngay cang nhieu nuoc tham gia. Chu nghia tu ban chinh la dong luc de giai cap tu san vuon ra ben ngoai khai 1. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to Intem atw nal Relations: Perspectives and Themes, Sdd, tr. 90-91. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 51 thác thị trường, nguyên liệu và lao động. Sau năm 1945, hệ thông này đã vươn ra tầm thế giới và bao gồm cả các nước mới giành được độc lập. Sự tham gia vào hệ thống kinh tê th ế giới của các nước này là xu thế gần như không tránh khỏi bởi nhu cầu phát triển và yêu cầu mở rộng của nền kinh tế thị trường trong nước. Hon nữa, sự tham gia này còn bị quy định bởi chính sự phụ thuộc vào các nước phát triển. Vì thế, hệ thống thế giới trước kia cũng như hiện nay đều là hệ thống chịu sự chi phối của chủ nghĩa tư bản, do giai cấp tư sản thống trị và nhằm đem lại lợi ích cho chúng. Đây là luận điểm giông với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhìn chung, thuyết phụ thuộc cho rằng "quan hệ kinh tế toàn cầu được cơ cấu đê đem lại lợi ích cho những giai câ'p xã hội nhất định và tạo ra "hệ thông th ế giới" cơ bản là không công bằng"1. Trong hệ thống này đang diễn ra sự phân công lao động qu ốc t ế b ấ t bình đẳng theo hướng các nước đang phát triển sản xuất các hàng hóa thô như nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp hay sàn phẩm sơ chế và xuất sang các nước phát triển với giá thấp. Trong khi đó, các nước phát triển sàn xuất những hàng hóa thành phẩm có chất lượng tốt hơn, có hàm lượng chất xám nhiều hơn và tất nhiên từ đó là giá cao hơn với lợi nhuận nhiều hơn. 1. Jill Steans & Llovd Pettiford, lììtroduction to International Relations: Perspectives and Themes, Sđcì, tr. 75. 52 Một số vấn để lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin Itch sù Trước kia, các nước đang phát triển cung cấp nguyên liệu thô và hàng nông nghiệp nhưng vẫn nghèo đói thì nay vẫn vậy nhưng dưới hình thức khác mà thôi. Đó là sự chuyên đổi từ hình thức bị bóc lột trực tiếp sang hình thức tham gia phân công lao động quốc tế. Sự phát triển công nghiệp sau này ở các nước đang phát triển không hăn là những ngành công nghiệp mũi nhọn và thực tê phần nhiều vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Trong sự phân công này, các nước nghèo phải thiết k ế nền kinh tê của mình theo hướng phục vụ lợi ích của các nước giàu. Thậm chí, họ nhiều khi buộc phải vét cạn tài nguyên và hy sinh môi trường sinh thái hòng đổi lấy một sự phát triển có hạn. Xu hướng này vẫn sẽ tiếp tục duy trì bởi ưu thế của các nước phát triển là lớn hơn hẳn và chính các nước này đang là người tạo ra luật chơi kinh tế quốc tế, nắm giữ các thể chê kinh tế thê giới trong khi các nước đang phát triển gần như không có khả năng tác động để thay đổi sự phân công lao động quốc tế. Cái gọi là sự tham gia chuỗi giá trị hay chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay có thế bô sung thêm một ít thuận lợi cho các nước đang phát triẽn nhưng bản chất vẫn là sự phân công lao động quốc tế bất binh đăng và chịu sự chi phôi của các nước phát triển. Kết quà của môi quan hệ kinh tê này là sự phân h ó a giàu nghèo tiep tục g ia tăng. Sự phân công lao động như vậy và câu trúc kinh tê của hệ thông thê giói giúp các nước giàu có cơ hội giàu lên, còn các nước nghèo lại có nguy cơ nghèo đi. Dòng đầu tư, thương mại quốc tế và Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 53 chuyến giao công nghệ tiên tiến phần lớn diễn ra giữa các nước giàu vói nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài rõ ràng theo đuổi lợi nhuận cho chính họ chứ không phài nhằm giúp các nước nghèo tăng trưởng. Ưu thế kinh tế, các luật lệ và điều kiện thương mại hiện nay đang góp phần duy trì tình trạng bất bình đẳng này khi tạo điều kiện cho các nước phát triển có thể ép giá bán cao, ép giá mua thấp trong khi các nước đang phát triển không có hoặc có Tất ít sự lựa chọn khác. Thặng dư thấp khiến các nước đang phát triển có ít cơ hội tích lũy tư bản cho phát triển, trong khi điều này là ngược lại đối với các nước phát triển. Tuy nhiên, ở đây các học giả thuyết phụ thuộc có hai quan điểm khác nhau. Xu hướng cấp tiến cho rằng các nước phát triển ngày càng giàu lên, còn các nước đang phát triển ngày càng nghèo đi. Xu hướng ôn hòa lại cho rằng các nước đang phát triển cũng có sự tăng trường nhưng đó là sự kém phát triển chứ không phải là phát triển khi khoảng cách giàu - nghèo giữa hai nhóm nước này có xu hướng ngày càng gia tăng. Dù quan điểm nào thì thực tế chung vẫn là sự chênh lệch trình độ phát triển giữa hai nhóm nước và từ đó là sự phân hóa giàu - nghèo trong quan hệ quốc tế vẫn đang có xu hướng tăng lên. Xu hướng phần hóa giàu nghèo quy định địa vị khác nhau giữa các quốc gia và dẫn đến sự phân tầng trong hệ thông thê giới. Trong hệ thống thế giới này, các nước phát triển đóng vai trò chi phối, còn các nước đang phát triển đóng vai trò phụ thuộc. Sự phân tầng này được các học 54 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lích sủ giả thuyết phụ thuộc mô tả bằng nhiêu hình thức khác nhau như trung tâm và ngoại vi, quốc gia chi phôi và phụ thuộc, trung tâm và vệ tinh. Thậm chí có học gia như Paul Baran, chịu ảnh hưởng của Lênin về chủ nghĩa đ ế quốc, còn coi đây là hệ thống đ ế quốc, trong đó các nước giàu nô dịch và bóc lột các nước nghèo. Các nước phát triên cố gắng duy trì hệ thống phân tầng này bơi có lợi cho họ. Cơ cấu phân tầng như vậy đã tạo thành một trật tự chi phối quan hệ giữa các quốc gia, buộc quan hệ liên quốc gia đi vào quỹ đạo và trật tự của hệ thống, tức là theo ý chi và lợi ích của các nước phát triển ờ tầng trên. Một hệ thống như vậy đã tạo điểu kiện cho sự chi phối và thông trị cua các nước phát triển ờ tầng trên đối với các nước đang phát triển ở tầng dưới. Hình thức thống trị này trong thòi hiện đại còn được gọi là chủ nghĩa đế quốc mới hay chủ nghĩa thực dân mới. Như vậy, quan hệ quốc tế đã được quy định bời câu trúc kinh tế cúa hệ thống thế giới tư ban chủ nghĩa. Trong đó, sự yếu kém về kinh tế dẫn đến địa vị thấp kém vê chính trị. Và quan hệ kinh tế không nên chi đơn thuần được coi như sự trao đổi lợi ích, mà còn có đặc trưng là sự không công bằng. 4. Tinh trạng kém phát triển, sự phụ thuộc và mâu thuân kinh tê trong quan hệ quốc tế theo quan niệm của thuyết phụ thuộc Tư câu trúc và sự phân công lao động của hệ thóng quôc tê nói trên, nguyên nhân tình trạng kém p h á t triến Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hê quốc tế 55 của các nước đang phát triển chính là do cấu trúc bất bình đăng của hệ thống thế giới đang tạo điều kiện cho sự bóc lột quôc tế theo kiểu chủ nghĩa tư bản. Trong hệ thống đó, tài nguyên, sức lao động và thặng dư của các nước đang phát triển bị bòn rút và đưa về các nước phát triển. Tình trạng kém phát triển thường được những người theo thuyết phụ thuộc cho rằng là do tài nguyên của các nước nghèo đem lại lợi nhuận cho các nước giàu nhiều hơn là cho chính các nước nghèo. Công ty xuyên quốc gia (TNC) của các nước phát triển là công cụ chính thực hiện sự bòn rút này. Đầu tư nước ngoài của họ sang các nước đang phát triển tuy có thể đem lại sự tăng trưởng nhất định nhưng kèm theo là những hậu quả lớn có thể gia tăng tình trạng kém phát triến như công nghệ lạc hậu, tàn phá môi trường, cạn kiệt tài nguyên và chuyển thặng dư về các nước phát triển. Giai cấp tư sàn trong nước đã tiếp tay cho quá trình này khi vừa bóc lột khai thác trong nước, vừa cấu kết làm ăn với tư sản các nước phát triển. Giới tư sàn trong nước tuy có thê có tích lũy nhưng hoặc chuyên ra nước ngoài, hoặc tiêu dùng xa xỉ nên đầu tư lại vào kinh tế không được bao nhiêu. Cho nên giai cấp tư sản trong nước cũng chính là tác nhân của giai cấp tư sản quốc tế. Nói chung, các nước này nghèo bởi vì họ bị buộc phải tham gia vào sự phân công lao động quốc tế bất lợi cho họ và tham gia vào thương mại quốc tế bất bình đẳng với cái giá thu về ít hơn cái họ đáng được nhận. Hệ thống thế giới như vậy đem lại sụ bất lợi và cản trở sự phát triêh của các 56 Một số vấn để lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhìn lỊCh sử nước nghèo. Hay nói cách khác, trong hệ thông nay, các nước ơ trưng tâm là nguyên nhân, còn các nước ơ ngoại vi là kết qua cua sự kém phát triển. Những học già cua thuyết phụ thuộc quy nguyên nhân bên ngoài này là nguyên nhản chính dẫn đến tình trạng kém phát triển cua các nưóc đang phát triển1. Dù họ không thống nhất vói nhau liệu đây có phải là nguyên nhân duy nhất hay không, nhưng họ đểu đổng ý rằng nguyên nhân bên ngoài này là thu phạm lớn nhất gây ra sự kém phát triển của các nước đó chứ không phải sự yếu kém trong đường lối kinh tê nội địa. Tình trạng kém phát triển nói trên đã dẫn đên sự phụ thuộc của các nước đang p h á t triển v ào các nước phát triển. Sự phụ thuộc là một quá trình lịch sừ rất lâu dài, bắt nguồn tù quá trình quốc tế hóa của chù nghĩa tư ban. Nó là một phân thiết yếu của hệ thống tư bản trên toàn thế giới. Mối quan hệ phụ thuộc này có thê biến đổi tùy tưng thời kỳ và sự phụ thuộc bây giờ không giống như sự phụ thuộc theo kiêu nô dịch, áp bức, trắng trọn và bạo lực như trước kia, nhưng tính chât một chiều và bâ't bình đăng cao là không thay đối. Tình trạng kém phát triển buộc các nước đang phát triến phai tham gia vào hệ thống thế giới 1. Một loạt các lý do bên ngoài khác cũng được đưa ra nhu hạ tâng co so và giao dục yêu kém là do di san cua chù nghĩa thực dán, nen kinh te truoc kia cua họ được xâv dựng chu yêu nhằm phục vụ kinh te chinh quôc và sau này đuọc định hướng cung cáp nguvén liệu va tieu thụ hang hóa cho các nưóc này, việc không chịu mơ cua thi truơng và chuyên giao công nghệ cua các nước phát triển hiện nav,_ Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 57 vốn được định hình và chi phối bơi các nước phát triền. Tham gia vào hệ thống bất bình đẳng như vậy cũng có nghĩa là phải chấp nhận chịu sự phụ thuộc và chi phối cùa các nước giàu. TNC đang góp phần làm gia tăng sự phụ thuộc này thông qua hoạt động làm ăn cùa chúng ở các nước đang phát triển. Nhìn chưng, các nước đang phát triển đã bị dàn xếp một cách vô tình hay hữu ý trong một mối quan hệ phụ thuộc và bị thống trị bời các nước giàu. Sự phụ thuộc này là khá lớn và khá toàn diện cà về hàng hóa, vốn, công nghệ, thị trường, luật lệ, tô chức quốc tê'... Có thể nói ưong chừng mực nào đó, cơ cấu kinh tế và hoạt động thương mại quốc tế của các nước phụ thuộc là do các quốc gia chi phối áp đặt. Hơn nữa, do sức mạnh và sự chi phối kinh tê của các nước giàu được chuyên hóa thành sức manh và sự chi phối về chính trị nên đối với các nước nghèo, sự lệ thuộc vê kinh tế sẽ dân theo sự lệ thuộc vê chính trị, bất bình đăng về kinh tế sẽ dẫn theo bất bình đẳng về chính trị. Sự phụ thuộc một chiều này khiên các nước nghèo vẫn tiếp tục bị đây ra ngoại vi và đóng vai trò cung cấp nguvên liệu thô. Và quan trọng, chính sự phụ thuộc một chiểu này đã góp phần tạo ra quyền lực của quốc °ia chi phối đối với quốc gia phụ thuộc. Đây chính là điều mà thuyết phụ thuộc gọi là hình thức "thống trị thực dân mới'' cua nước giàu đôì với nước nghèo thay cho xâm chiếm thuộc địa và can thiệp thô bạo trước kia. Tinh trạng kém phát triên của các nước đang phát triên sự phân hóa giàu nghèo gia tăng, sự bất bình đằng 58 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhirt lịch sử trong quan hệ kinh tế quốc tế và sự phụ thuộc cua các nước đang phát triển vào các nước phát triên đã tạo ra hình thức bóc lột mói thông qua kinh tế quốc tê và từ đó quv đinh nên m âu thuẫn kinh tê' trong quan hệ qu ốc tẽ giữa họ. Địa vị thấp kém cộng với sự lệ thuộc khién các nước đang phát triển ở vị trí thương lượng yếu hơn nhiểu so với các nước phát triển nên rât khó giải quyết mâu thuẫn này. Kết quả là mâu thuẫn không được giải quyết và ngày càng tích tụ. Các học giả của thuyết phụ thuộc coi mâu thuẫn kinh tế này là cơ ban và có kha năng chi phối các tương tác liên quốc gia khác trong quan hệ quốc tế. Mâu thuẫn này hiện nay hay được gọi là mâu thuẫn Bắc - Nam, tức là giữa các nước phát triển phần lớn nằm ở bán cãu Bắc và các nước đang phát triển chủ yếu nằm ở bán cẩu Nam1. Trước kia, còn có mâu thuẫn kinh tê'giữa các nước giàu và mâu thuẫn này có kha năng dẫn đến chiên tranh giữa họ nhằm tranh giành các quốc gia phụ thuộc. Nhưng nay, mâu thuẫn này đã nhường chỗ cho mâu thuẫn Bắc Nam và mâu thuẫn này ít dẫn đến khả năng chiến tranh. Đây là điếm khiên cách phân tích của thuyết phụ thuộc hơi giông chu nghĩa hiện thực khi tập trung vào máu thuẫn trung tâm có kha năng chi phối quan hệ quốc tế. Mâu thuẫn trung tâm cua chu nghĩa hiện thực là máu 1. Chu tịch Ngân hàng Thê giới (WB) trong thời gian 1995-2005 là Jam es Wolfensohn đã tùng coi mâu thuần Bắc - Nam là sụ chia rẽ lớn nhất tronơ th ế kỳ XXI. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hê quốc tế 59 thuân quyển lực, còn đối vói thuyết phụ thuộc, đó là máu thuẫn kinh tế. 5. Quan niệm của thuyết phụ thuộc về một số xu hướng trong quan hệ quốc tế hiện nay và con đường phát triển của các nước phương Nam Thuyết phụ thuộc cũng được vận dụng đê xem xét một sô xu hướng vận động trong quan hệ quốc tê hiện nay như toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế và sự phụ thuộc lẫn nhau. Các xu hướng này không hoàn toàn là tất yếu khách quan mà được xuất phát và thúc đây nhiều bời các nước phát triễn. Điều này được quy định bời lợi ích to lớn đem lại cho họ, bời vị th ế chi phối quan hệ quốc tế thế giói, bơi chúng nắm được nhiều phương tiện duv trì xu hướng như ưu thế về thực lực vật chất, thê chế quốc tế, thông tin và phương tiện thông tin đại chúng,... - Toàn cần hóa là sự gia tăng ảnh hướng và ưu thế của các nước đang phát triển trong việc duy trì hệ thống thế giới hiện hành và những điều kiện thương mại có lợi cho họ. Thực tế toàn cầu hóa là sự phô biên các giá trị và điều kiện có lọi .cua các nước giàu sang các nước nghèo chứ không phải ngược lại. Và điều này đang làm cho sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục trong quan hệ quôc tế như đã được chứng minh trong nhiều công trình nghiên cứu. - Nền kinh tế tri thức giúp nâng cao khả năng thu được lợi nhuận nhiều hon và thường xuyên hơn từ lợi thế khoa 60 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sử học công nghệ vốn do các nước phát triên nắm giữ. Đấu tư nước ngoài chi chuyên giao công nghệ hạn chê va đã lạc hậu. CỐ gắng bảo vệ bản quyển phát minh sáng chê là một cách thức quan trọng để duy trì lợi thế khoa học công nghệ này1. Trong nền kinh tế dựa trên nguyên liệu, các nước đang phát triển có thể có vị trí nào đó dựa trên ưu thê nguyên liệu thì nay trong nền kinh tế tri thức, vị trí này là không còn nữa. - Tự do hóa thương mại cũng đem lại nhiểu lợi thế và lợi nhuận nhiều hơn cho các nước phát triển vốn có năng lực cạnh tranh cao hơn so với các nước đang phát triển. Không những thế, tự do hóa thương mại cũng kèm theo những rùi ro có thê còn lớn hơn lợi nhuận thu được cho các nước đang phát triển như sàn xuất nội địa bị chèn ép chẳng hạn. - Hội nhập kinh tê' quốc t ế đ ối vói các nước đang phát triến cũng có nghĩa là tham gia vào sự phân công lao động quốc tế bất công và hệ thống thế giới phân tầng, là sự chấp nhận các điêu kiện thương mại quốc tế bất binh đẳng hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế vói những ràng buộc lớn hơn hợp tác thông thường nên có khả năng trói buộc cao hon các nước đang phát triên vào sự bât bình đẳng này. Từ đó, nguy cơ phân hóa giàu nghèo và sự bất lợi trong phát triên đôi với các nước này vân được tiếp tục. 1. Cũng có ý kiên phan biện đáng chú ý là các nước đang phát trien không thực sự quan tâm tới phát triển khoa học công nghệ cung nhu có chuyên giao thì không áp dụng tốt hoặc thậm chí không áp dụng được. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hê quốc tế - 61 Trong khi đó, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nhóm nước phát triên và đang phát triển rõ ràng là sự phụ thuộc bât tương xứng khi các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển hơn là ngược lại. Điều này đang biến thành sự lệ thuộc một chiều và ngày càng tăng của các nước này đối với các nước phát triển. Nhìn chung, nhiều học giả thuyết phụ thuộc cũng thừa nhận các xu hướng kê trên có đem lại lợi ích ít nhiều cho các nước đang phát triển nhưng tổng thê là bất lợi lớn hơn và lợi nhuận chủ yếu sẽ tiếp tục đô về các nước phát triển. Trong bối cảnh đó, thuyết phụ thuộc cho rằng có nhiều con đường p h át triển kh ác nhau chứ không phải chi có con đường duy nhât với những giai đoạn phát triển nhất định cho tất cả các nước. Thuyết phụ thuộc phê phán lý thuyết về các giai đoạn tăng trường kinh tế của w.w. Rostow1. 1. Tác phẩm Các giai đoạn tăng trưởng kinh tế (Stages o f Economic Growth) của w. w. Rostow mà đôi khi được coi là Tuyên ngôn không cộng sàn đã cô' vũ cho đường lối phát triển theo kiểu chủ nghĩa tư ban. Rostovv đưa ra năm giai đoạn phát triển bao gổm: 1/ Xã hội truyền thống; 2/ Tiền đề cho sự cất cánh; 3/ Cất cánh; 4/ Vận động tói sự trưong thành; 5/ Thời, kỳ tiêu dùng cao cho nhân dân. Theo Rostow, đây là con đường phát triển chung cho tất cà các nước. Những vân đề mà các nước đang phát triển hiện nay phái đối mặt cũng chính là những vấn đề mà các nước phát triển trước kia đã trai qua. Vì thế, các điều kiện cho sự cất cánh bao gổm sự phát tán văn hóa Tâv Âu, công nghệ, vốn đẩu tư và việc khắc phục các di san cua sụ trì trệ kinh tế và văn hóa. Đây là lý thuyết cổ vũ cho mô hình phát triên chu nghĩa tư bàn theo kiểu phương Tây. 62 Một só vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử Thuyết phụ thuộc cho rằng không thê áp dụng mô hình tăng trưởng cua các nước tư bản phát triên cho các nước đang phát triển bởi những điều kiện đặc thù vể kinh tể, văn hóa, xã hội, lịch sử và con người. Những người theo thuyết phụ thuộc cũng cho rằng hoàn cảnh, điểu kiện, con đường, vị thế trong nền kinh tê thế giói của hai nhóm nước là khác nhau cả trong lịch sử lẫn hiện tại1. Theo họ, có hai con đường chính đê giải quyết. Xu hướng cấp tiến cho rằng cần tiến hành cách mạng đê thay đổi hệ thống thê' giói hiện thời. Còn xu hướng ôn hòa chù trương con đường tiến hóa khi cho rằng các nước đang phát triển cần có những chính sách kinh tế khôn ngoan, linh hoạt, thận trọng để đem lại sự phát triển cho mình và hạn chế những tác động bất lợi trong hệ thống thế giới. Sự phát triển sẽ cải thiện địa vị của họ trong hệ thông cùng với sự thay đổi cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ đem lại cho họ những lợi thế lớn hơn trong sự phân công lao động quôc tê. Thậm chí, còn có quan điếm cho rằng các nước này nên theo đuổi con đường riêng, hạn chế bớt sự liên hệ với thị trường thế giới, giảm bớt sự lệ thuộc vào các nước đang phát triển và thi hành sự bảo hộ nhất định. Hội nhập không phải là cứu cánh cho sự phát triếh 1. Một trong những lập luận của những người theo lý thuvẽt phụ thuộc vê hoàn canh lịch sừ khác nhau giữa hai nhóm nưóc náy là các nước tu ban phát triển không phái trải qua môi quan hệ phụ thuộc một chiêu vào các nước khác như các nước đang phát triển phái chịu hiện nay. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 63 của các nước đang phát triển. Với sự phân tích từ góc độ câu trúc kinh tế thế giới, thuyết phụ thuộc cho rằng các lý thuyết kinh tế cô điên của Adam Smith và Ricardo không phù hợp với bối cảnh phụ thuộc của các nước đang phát triển. Đây là quan điểm trái ngược với chủ nghĩa tự do trong kinh tế. 6. Các đánh giá khác nhau dối với thuyết phụ thuộc Trong chừng mực nào đó, thuyết phụ thuộc là sự chi trích đối vói quan niệm hiện đại hóa. Hiện đại hóa vốn đã được xem là nguyên nhân của tiến bộ xã hội, giờ lại được thuyết phụ thuộc nhìn nhận như nguyên nhân đói nghèo trên thế giới. Còn trên bình diện quan hệ quốc tế, thuyết phụ thuộc là lý thuyết về sự phân hóa giàu nghèo trong thế giới hiện đại. Thuyết phụ thuộc đã có một số đóng góp quan trọng vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Thứ nhất, lý thuyết này đã đóng góp yào phương pháp luận nghiên cứu quan hệ quốc tế như cách tiếp cận kinh tế chính trị quốc tế, cách tiếp cận hệ thống kinh tế quốc tế và phân tích cấu trúc kinh tế. Thứ hai, thuyết phụ thuộc đã chi ra một trong những nguyên nhân lớn nhất quy định tình trạng kém phát triển cua các nước đang phát triển là do cấu trúc kinh tế thế giới bâ't bình đẳng theo kiểu chủ nghĩa tư bản. Thứ ba nó cũng chỉ ra những mặt trái và sự bất lợi cho các nước đang phát triển trong nhiều hiện tượng kinh tế quốc tế hiện nay như toàn cấu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau, tự 64 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sù do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế,— Thư tu, thuyết phụ thuộc góp phần làm rõ thêm bàn chát cua quan hệ quốc tế qua phân tích mâu thuẫn kinh té trong quan hệ quôc tế. Thứ năm, lý thuyết này đã chi ra tình trạng phụ thuộc bất tương xứng khó tránh khỏi giữa quôc gia chi phôi và quốc gia phụ thuộc cũng như sự biên đối mô hình phụ thuộc này qua các thòi kỳ. Thứ sáu, nó "đóng góp quan trọng cho sự hiểu biết của chúng ta về cách thức chủ nghĩa tư bản hoạt động ở khu vực ngoại v i"1. Thứ bảy, lý thuyết này cũng có sự đóng góp cho chủ nghĩa Mác Lênin khi được coi là lý thuyết về hậu quà của chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa Mác - Lênin được coi là lý thuyết vê nguyên nhân của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, thuyết phụ thuộc cũng bị phê phán khá mạnh mẽ. Các phê phán lý thuyết này tập trung vào một SỐ điểm. Thứ nhất, lý thuyết này không có khả năng trở thành lý thuye't bao quát về quan hệ quốc tế khi chủ yếu chi đê cập một số nước nào đó thuộc nhóm các nước đang phát triển và một vài vấn đề của họ như tình trạng kém phát triển kinh tế chăng hạn. Nó chưa đánh giá đầy đu vai trò của các nước lớn, bỏ sót các nước đang phát trién ở 1. Jose Gabriel Palma, 'Tại sao truyền thông tư duy phê phán của Mỹ Latinh trong khoa học xã hội trở nên gân như tuvệt chung", Mark Blỵth (chu biên), Cẩm nang Kinh t ế chính trị quôc t ế - Kinh t ẽ chinh trx cjuoc tẽ với tư cách là cuộc đõì thoại mang tính toàn câu, Khoa Quôc tê học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hã X ội, 2011, tr. 404. Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệ quốc tế 65 vùng bán ngoại vi củng như không tính đến nhiều vâri đê quan hệ quốc tế khác. Thứ hai, nó tập trung vào các nguyên nhân và điểu kiện khách quan bên ngoài mà ít chú ý đến các nguyên nhân nội tại bên trong quy định tình trạng kém phát triển của các nước nghèo mà vốn đã rất nhiều. Thực tế cho thấy các nguyên nhân bên trong của sự trì trệ kinh tế và kém phát triển là nhiều và lớn. Thứ ba, thuyết phụ thuộc khuyến khích con đường phát triển đa dạng nhưng lại không tính đến sự đa dạng hết sức vể điều kiện phát triến của các nước đang phát triển. Nó có xu hướng quy đồng vâh đề này. Thứ tư, lý thuyết này được coi là không chính xác khi mô tả mối quan hệ phụ thuộc giữa các nước phát triển và đang phát triển là có tổng số bằng 0. Thực tế cho thấy mối quan hệ này cũng có thể dẫn đến việc cả hai bên cừng được. Thứ năm, lý thuyết này không giải thích được cách thức hàng loạt các nước đang phát triển như Hàn Quốc, Xữìgapo,... đã tăng trưởng cao và thoát khỏi cành nghèo. Nguyên nhân thực chứng này khiến thuyêt phụ thuộc đã giám giá trị trong việc giải thích quan hệ quốc tế và quan hệ kinh tế quốc tế. Thứ sáu, nó cũng được coi là phiến diện khi cho rằng chủ nghĩa tư bàn đã thất bại mà không tính đên những hình thái phát triển mới của chu nghĩa tư ban. Nó cũng có xu hướng không tính đê'n nhũng mặt tích cực mà chủ nghĩa tư bản đem lại ờ các nước ngoại vi mà chỉ quan tâm tới những mặt tiêu cực. Có thể tóm lược sự phê phán thuyết phụ thuộc bằng nhận xét của Jose Gabriel Palma rằng lý 66 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử thuyết phụ thuộc "là sai lầm không chi vì lý thuyết đ ó không phù hợp với thực tế, mà còn vì bàn chât chính thống máy móc của lý thuyết đó khiến nó vừa c ó tính chất tĩnh, vừa phi lịch sử "1. Có lẽ vì thế mà hiện nay, thuyết phụ thuộc tuv vẫn được sử dụng nhiều trong lịch sử, nhân học,... nhưng trong quan hệ quốc tế, nó thường chi được sử dụng như một cách tiếp cận bô sung. Còn trong kinh tế, nó cũng được dùng đê chi ra một trong sô'các nguyên nhân mà thôi. Mặc dù vậy, với vai trò là một cách tiếp cận, việc vận dụng thuyết phụ thuộc vào nghiên cứu quan hệ quổc tế vẫn là hữu ích. ít nhất, nó cũng giúp đem lại một cách nhìn về quan hệ quốc tế thế giói vốn râ't phức tạp và đa diện nên cần sự đánh giá đa chiểu. Nó cũng giúp lý giải thêm nhiều xu hướng trong đời sống quổc tế hiện nay nhu toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau, tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tê quốc tế, mâu thuẫn Bắc - Nam, mối quan hệ qua lại giữa kinh tế với chính trị quốc tê'— Nó cũng hoàn toàn có thê vận dựng vào việc phân tích quan hệ nước lớn - nước nhỏ trong quan hệ quốc tế hiện nay, trong đó có Việt Nam. 1. Jose Gabriel Palma, "Tại sao truyên thống tư duy phê phán cua My Latinh trong khoa học xã hội trở nên gần như tuyệt chung", Mark Blyth (chu biên), Cấm nang Kinh te chính trị CỊUOC tê'- Kinh tẽ chmh tụ quoc té VỚI tư cách là cuộc đõi thoại m ang tính toàn câu Sđd, tr. 397. 67 Cơ sở CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN IHựC VÀ Sự PHÊ PHÁN Xu hướng ngày càng mở rộng tương tác với bên ngoài khiên quan hệ quổíc tế trở thành tác nhân định hình lịch sử quốc gia. Xu hướng giao lưu, mở cửa và hội nhập ngày càng lan rộng cũng khiến quan hệ quốc tế ưở thành yếu tô' chi phôi lịch sử thê'giới. Bởi thê' việc nghiên cứu quan hệ quốc tế ngày càng trở nên thiết yếu ữong nghiên cứu lịch sử. Trong quan hệ quôc tế có nhiều lý thuyết. Mỗi lý thuyết là một cách giải thích sự vận động của quốc gia và thế giới khác nhau. Trong sô' này, chủ nghĩa hiện thực (realism) thuộc loại nôi bật và có lịch sử lâu đòi nhâ't. So với các lý thuyết khác, đây cũng là lý thuyết có hệ thông lý luận tương đôi đầy đủ và có khả năng bao quát nhiều vẩn đề trong quan hệ quốc tế hơn cả. Nó củng có ảnh hưởng lớn trong quan hệ quốc tế cà trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nhất là trong thế kỷ XX. Giới nghiên cứu lịch sừ thế giới của phương Tây cững như các nước xã hội chủ nghĩa trước kia đều chịu ảnh hưởng khá nhiều của chủ nghĩa hiện thực. Điều này được 68 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử phản ánh trong sự phân kỳ theo các cuộc chiên tranh củng như trong sự luận giải vê nhiều vâh đề lịch sử khác nhau. Ảnh hưởng này vẫn được tiếp tục đến tận bây giờ bâ't châp sự phê phán chủ nghĩa hiện thực. Xuất phát từ vai ưò đó của chủ nghĩa hiện thực, bài viết này cố gắng trình bày những cơ sở chính của lý thuyết này cũng như sự phê phán nó từ các lý thuyết khác. Do khuôn khô có hạn, bài viết chi có thê giói thiệu các cơ sờ chính mà không có điều kiện đi sâu giới thiệu các luận điểm cụ thế. Tuy vậy, bài viết cũng hy vọng đóng góp thêm được điều gì đó cho việc nghiên cún lịch sử, nhât là đôi với lịch sử thế giới và một lĩnh vực hẹp của nó là lịch sử quan hệ quốc tế. CÁC C ơ SỞ CHÍNH CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THựC Xu hướng nghiên cứu quan hệ quốc tế của chủ nghĩa hiện thực xuất hiện rất sớm từ thời cổ đại. Có thể tạm chia lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện thực thành ba thời kỳ chính. Thời kỳ đầu tiên kéo dài tà thòi cổ đại đên trước Chiến tranh thế giới thứ haí. Đây là thời kỳ xuất hiện các quan điểm đầu tiên cùa lý thuyết này vói các học già chính như Thucydides, Nicollo Machiavelli và Thomas Hobbes. Thời kỳ thứ hai từ Chiến tranh thê giới thứ hai đến cuối những năm 70 thế kỷ XX. Đây là thòi kỳ chủ nghĩa hiện thực phát triển và trờ thành một lý thuvết quan hệ quôc tê với các đại biêu ưu tú như Edward Carr vá Hans Morgen thau. Thời kỳ thứ ba bắt đấu tù năm 1979 Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 69 được ghi dấu âíi bằng sự ra đời của trường phái chủ nghĩa hiện thực mới với đại diện là Kenneth Waltz. Sau Chiến tranh lạnh, lý thuyết này tiếp tục được làm giàu thêm bằng cách bô sung các luận điểm và những biến thê mói như chủ nghĩa hiện thực tấn công, chủ nghĩa hiện thực phòng thủ và chủ nghĩa hiện thực tân cổ điến. Chủ nghĩa hiện thực quan tâm chủ yếu tới các nhân tố quy định hành vi và quan hệ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế hơn là việc các quổc gia hành động như thế nào. Các lý luận và luận điểm của nó được xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định. Các cơ sở này bao gồm quan niệm về môi trường vô chính phủ bâ't biến, vai trò chủ thế cơ bản của quốc gia, bản chất của con người, chủ nghĩa duy vật, thực tiễn lịch sử chiến tranh và xung đột, hệ thông quốc tế. Cụ thể như sau: - Thế giới mà các quốc gia đang sông trong đó có đặc tính là vô chính phủ (anarchy). Bởi thê' môi trường của quan hệ quổc tế cũng là vô chính phủ. Thuật ngữ "vô chính phủ" ở đây là đê chi tình trạng không có một quyền hành hay chính phủ siêu quốc gia nào ở trên quốc gia. Chủ nghĩa hiện thực cho rằng môi trường vô chính phủ sẽ là bâ't biến. Đơn giản bởi vì không quốc gia nào lại muốn bị chi phối, bị áp chê' bị can thiệp bời một thế lực bên ngoài khác. Luận điểm này còn được chứng giải thêm bằng quan niệm về chủ quyền quốc gia. Đối với mọi quốc gia, chủ quyền quốc gia chính là sự tự do cao nhât tựa như lẽ sống của quốc gia. Vì thê' mọi quốc gia đểu tìm mọi cách đấu tranh để bảo vệ 70 Môt số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử chủ quyền quốc gia của mình. Khi tất cà các quốc gia đêu muôn giữ vững chủ quyền quốc gia thì tình trạng vó chính phủ sẽ được duy trì. Trong chừng mực nào đó, đáu tranh bảo vệ chủ quyển quốc gia chính là góp phần duy tn tình trạng vô chính phủ. Môi trường vô chính phủ được chu nghĩa hiện thực coi là cơ sở điều kiện quan trọng quy định tình trạng xung đột trong quan hệ quốc tế. - Để phát triển hơn, con người cần tập hợp trong những cộng đồng có tổ chức. Cộng đổng đó chính là quốc gia. Quốc gia hình thành sẽ nuôi dưỡng chủ nghĩa quốc gia. Đến lượt mình, chủ nghĩa quốc gia là cái đã gắn kết các cá nhân vào trong quốc gia - dân tộc. Trong quốc gia, có nhà nước được thành lập1 đê thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia. Nhà nước chính là đại diện của quốc gia trong việc hoạch định chính sách đối ngoại và thực hiện các mục tiêu trong quan hệ quốc tế. Vì thế, quốc gia - dân tộc chính là chủ thế quan hệ quốc tế cơ bản và quan trọng nhất. Điều đó có nghĩa là chi có quốc gia - dân tộc mới là người làm ra quan hệ quốc tế và có khà năng quyết định sự vận động của quan hệ quõc tế. Điểu đó củng có nghĩa chi quan hệ giữa các quốc gia mới 1. Quôc gia o đây là quôc gia nói chung bao gổm ca các mỏ hình quôc gia so khai có từ thời cô trung đại chứ không phài chi mỗi quốc gia theo mô hình W estphalia thời cận hiện đại. So đĩ phai chú giai điêu này vì có quan điếm cho rằng trước năm 1648, chi có nha nưoc trong các thực thê địa-chính trị chứ chưa phai quốc gia. Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 71 được coi là quan hệ quốc tế. Các chu thê phi quốc gia1 khác nếu có cũng chỉ là công cụ của quốc gia và đóng vai trò thứ yếu. Quan hệ quốc tế của các chủ thê này nếu có thì cũng chịu chi phôi bời quan hệ giữa các quốc gia và nhăm thực hiện lợi ích quốc gia trong quan hệ quốc tế mà thôi. Vì vậy, nghiên cứu quan hệ quốc tế là việc nghiên cứu các quôc gia và cách thức những quốc gia này tương tác với nhau2. Theo các nhà hiện thực chủ nghĩa, chủ thế quốc gia - dân tộc này có đặc điểm là chủ thể đơn nhất và có lý trí trong quan hệ vói bên ngoài. Đơn nhất (unitary) ờ đây có nghĩa quốc gia là một thực thê’ thống nhất, luôn hành động vì lợi ích quốc gia; lợi ích quốc gia là rành mạch, rõ ràng bất kể nhà lãnh đạo hay lực lượng nào nắm quvền trong nước3. Trong khi đó, chủ thê có lý trí (rational) 1. Chu thê phi quốc gia là những chu thê không phải là quôc gia, như tô chức quốc tế, công ty xuyên quốc gia,... 2. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Rektions: Perspectives and Themes, Sđd, tr. 54. 3. Trong phân tích, chu nghĩa hiện thực cô điên xuất phát nhiều từ ban châ't con người, đặc biệt là các nhà lãnh đạo hay lực lưọnơ cầm quvển. Tuv nhiên, nhà lãnh đạo hay nhóm lợi ích nào thì cũng thưòng thống nhâ't với nhau trong những vân để đối ngoại co ban nhu chu quyển, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và nhiểu lợi ích quốc gia khác. Nói cách khác, khi lên nắm quyền thì họ đều là "tù nhân" của các lợi ích đối ngoại đó. Họ suy nghĩ và hành động nhân danh quốc gia, vì lợi ích quốc gia và sử dụng các nguồn lực cua quốc gia đê thực hiện chính sách đối ngoại. Vì thê' chu n^hìa hiện thực vẫn coi chu thế quan hệ quốc tê' ờ đây là quốc gia chứ không phái là các nhà lãnh đạo hay nhóm cầm quvền. 72 Một số vấn để lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử tức là có thê nhận biết được lợi ích của mình, luôn tính toán đế đạt được lợi ích cao nhất, có khả năng phán tích hậu quả lợi - hại của các hành vi, biết lựa chọn các ưu tiên, giải pháp và phương tiện ứng xừ thích hợp. Tính toán ]ý trí có' thế đúng, có thể sai nhưng bao giờ cũng được sừ dụng trong quan hệ đối ngoại của quôc gia. Tính toán lý trí chính là một trong những cơ sở để chuyển hóa các năng lực quốc gia thành hành động đối ngoại nhằm thực hiện lợi ích quốc gia. - Chủ nghĩa hiện thực có cái nhìn tương đôi bi quan vê bản chất con người khi cho rằng con người cơ bản là ích kỷ (egoism) và thực lợi. Mặc dù không hoàn toàn bác bỏ những tính cách và đặc điểm khác, nhưng chủ nghĩa hiện thực coi ích kỳ và tư lợi là hai đặc tính nổi trội cua con người. Chính các đặc tính sinh học này đã ảnh hường nhiều đến cách xác định lợi ích trong chính sách đối ngoại của quốc gia, đến cách ứng xừ trong quan hệ với các chủ thê khác và trong cách nhìn nhận về bàn chất quan hệ quốc tế. Chính các đặc tính sinh học như vậy đã dân đêh xu hướng tuyệt đối hóa lọi ích quốc gia, đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích của người khác và từ đó góp phán quy định nên sự tranh giành lợi ích và quyền lực trong quan hệ quôc tê. Một đặc tính khác cũng được Hans Morgen thau và nhiều nhà chủ nghĩa hiện thực đê cập lã xu hướng ham muôn quyền lực. Mặc dù thừa nhận con người có ba phương diện là sinh học, lý trí, tinh thán, và Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 73 ba phương diện này kết hợp với nhau đê quy định nên hành vi của con người trong những bôi cảnh khác nhau, song trong lĩnh vực chính trị, chủ nghĩa hiện thực, mà cụ thê ờ đây là Hans Morgenthau, vẫn tập trưng đề cao ý chí vươn tới quyền lực như đặc tính xác định của con người. Đặc tính chính trị này của con người có sự nổi trội hơn so với lý trí đê đạt được thịnh vượng trong kinh tế hay tinh thần đạo đức trong tôn giáo. Trong chính trị, lý trí và tinh thần chỉ đóng vai trò lệ thuộc vào ý chí quyền lực tựa như những công cụ nhằm đạt được và biện minh cho quyền lực mà thôi1. Về đại thể, chủ nghĩa hiện thực coi quyền lực như sự tổn tại tất yếu không chỉ bởi sự thôi thúc của lợi ích quôc gia, mà còn là nhu cầu mặc định của con người, và rằng "việc sử dụng sức mạnh và quyền lực hình như bao giờ cũng kích thích người ta thèm muốn có thêm sức mạnh và quyền lực"2. - Nhận thức luận và phương pháp luận của chủ nghĩa hiện thực được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Với quan điếm thực tại xã hội quyết định ý thức xã hội, chu nghĩa hiện thực cho rằng tính toán và hành vi của con người trong quan hệ quốc tế bị chi phối nhiều 1. Martin Griffiths, Steven c. Roach & M. Scott Solomon, Fifty Key Thinkers in international Relations (2nd Edition), Routledge, New York, 2009, tr. 51. 2. Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, Lý luận quan hệ C]U0C tế, Học viện Quan hệ quôc tê' Hà Nội, 2001, tr. 65. 74 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử bời các yếu tố hiện thực khách quan như môi trường vô chính phủ, hệ thống quốc tế, sự chia cắt thê giới thanh những quốc gia, xu hướng theo đuổi quyển lực cua mọi quốc gia khác,... Chủ nghĩa hiện thực củng dựa đáng kê vào chủ nghĩa hành vi (behavioralism) như cơ so nhận thức và phương pháp luận của mình. Hành vi được coi là phản ứng của chủ thể tới tác nhân kích thích từ thực tiễn bên ngoài. Dựa trên cách tiếp cận hành vi, chủ nghĩa hiện thực đề cao hành vi hơn giá trị và động cơ không quan sát được, từ đó coi hành vi là đối tượng nghiên cứu đúng đắn trong nghiên cứu khoa học. Cũng dựa trên cách tiếp cận hành vi, chủ nghĩa hiện thực coi trọng thực tế diễn ra hơn trải nghiệm nhận thức khi coi thực tế là cơ sờ duy nhất để xây dựng lý thuyết, và lý thuyết chỉ có giá trị khi có khả năng kiểm chứng trong thực tế. So với nhiểu lý thuyết quan hệ quốc tế khác có tính tiên nghiệm nhiẽu hơn, chủ nghĩa hiện thực dựa nhiều vào thực tế lịch sử được đúc kết qua hàng nghìn năm nên cũng dễ có sức thuyết phục hơn. Đây là cơ sở quan trọng mà chu nghĩa hiện thực dựa vào trong cuộc tranh luận với các lý thuyết quan hệ quốc tế khác đế chứng minh cho tính đúng đắn của mình. - Chu nghĩa hiện thực được xây dựng trên co sơ thực tiễn là lịch sử đầy rẫy chiên tranh và xung đột. Những lý luận cơ bản và các tác phẩm kinh điên cùa chủ nghĩa hiện thực đểu ra đời trong bối cành chiến tranh và 75 Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán xung đột1. Dưới cái nhìn duy vật, quan điểm coi xung đột là bản chât của quan hệ quốc tế và các luận điểm chủ yếu khác của chủ nghĩa hiện thực đều được đúc rút và chứng minh từ thực tiễn này. Lịch sử chiến tranh và xung đột kéo dài liên tục hàng nghìn năm được coi là biếu hiện cho tính quy luật của xung đột. Còn sự phổ biến chiến tranh và xung đột khắp mọi nơi được coi như minh chứng cho tính phổ quát của xung đột. Xuâít phát từ thực tiễn như vậy, chủ nghĩa hiện thực đi đến kết luận xung đột là bản chất của quan hệ quôc tế. Đổng thời, lý thuyết này cũng nhìn sự vận động của tiến trình lịch sử thế giói nói chung, lịch sử quan hệ quốc tế nói riêng là có tính chu kỳ. Trong đó, lịch sử là sự nôi tiếp của chiến tranh và xung đột, hết cuộc này đến cuộc khác, cuộc trước chấm dứt thì có cuộc sau thay thế. 1. Hầu hết các tác phẩm kinh điển cùa chủ nghĩa hiện thực đều ra đời trong bối cảnh chiến tranh và xung đột. Lịch sử chiêk tranh Peloponnese Peloponnese của Thucydides giữa Athen ra đời và Sparta; trong cuộc chiến The Prince của tranh Nicollo M achiavelli ra đờútrong cuộc chiến tranh giữa các công quốc của Italia; Leviathan của Thomas Hobbes ra đời trong thời kỳ xung đột và loạn lạc sau Cách mạng tư sàn Anh; The Twenty Years' Crisis của Edward Hallett Carr ra đời trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thê'giới; Politics Among Nations: The Struggle fo r Power and Peace cùa Hans Morgen thau ra đời ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai; Theory o f International Politics của Kenneth Waltz ra đời trong bối cành Chiến tranh lạnh. 76 Môt số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sừ - Hệ thống quốc t ế (international system) là sự bó sung quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện thực mới vể yếu tố tác động từ bên ngoài đối với quan hệ quốc tế. Theo Kenneth Waltz - người sáng lập ra trường phái này, hệ thống quòc tế được cấu thành từ những quốc gia có chủ quyển và sự tương tác giữa chúng. Khi đã hình thành, hệ thống quôc tế có tác động ngược lại tới quô'c gia và chi phối quan hệ giữa chúng. Sự thay đổi hệ thông quôc tế, đặc biệt sự thay đổi cách sắp xếp hay trật tự các bộ phận trong hệ thống thường dẫn đến những biên đổi lớn lao trong quan hệ quốc tế. Trong chừng mực nào đó, có thể coi hệ thống quốc tế như những điều kiện khách quan quy đinh hành vi của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Theo chủ nghĩa hiện thực mới, yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống là cấu trúc. Kenneth Waltz cho rằng câu trúc chính trị của hệ thông quốc tế gồm ba yếu tố: nguyên tắc trật tự (vô chính phủ hay thứ bậc), đặc điểm của các phần tử (giông nhau hay khác nhau về chức năng) và sự phân bô' các năng lực1. Khi nguyên tắc vô chính phủ không thay đổi, khi lợi ích cơ bản của các quốc gia tương đối giống nhau và không thay đổi, biến số có thể làm thay đổi quan hệ quốc tế chính là sự phân bô' quyền lực giữa các quôc gia trong hệ thông. Vi thê' sự phân bố quyền lực chính là câu trúc của hệ thóng. 1. Colin Elman, "Realism ", Martin Griffiths (editor), Interm tiom l Relations Theory fo r Twenty-First Century, Routledge, New York, 2007, tr. 13. Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 77 Cơ cấu phân bố quyền lực được thể hiện bằng các cực và sự phân tẩng phản ánh mức độ chênh nhau về quyển lực. Sự phân bố quyền lực này nằm trong tay các cường quốc và sự thay đổi của hệ thông quốc tế cũng phụ thuộc vào sự thay đổi tương quan quyền lực giữa chúng. Hệ thống quốc tế ở đây chính là hệ thống quyền lực. Và các cường quốc là những đon vị chủ yếu trong hệ thông quốc tế. Xuất phát từ sáu cơ sở trên đây, chủ nghĩa hiện thực đã đưa ra hàng loạt luận điểm về quan hệ quốc tế, như môi trường quốc tế vô chính phủ quy định nên tình trạng xung đột giữa các quôc gia, yêu cầu tổn vong và tính tự lực của quốc gia, sự chi phôi của chủ nghĩa quốc gia và lợi ích quốc gia trong quan hệ đối ngoại, vai trò to lớn của chính trị và thành tố lực lượng quân sự, vai trò của các cấu trúc hệ thống quôc tế đối với quan hệ quốc tế, quyền lực là mục đích và phương tiện chủ yếu của quốc gia trong quan hệ quốc tế, sự bâ't tận và thường xuyên của đấu tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế, sự chi phối của quyền lực đối với nhiều hiện tượng quan hệ quốc tế như chiến tranh, bá quyền, liên minh, sự lưỡng nan an rành, chạy đua vũ trang, cân bằng lực lượng,... Tất cả những cơ sở và luận điểm này đều được áp dụng trong nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là lịch sừ quan hệ quốc tế. PHÊ PHÁN CHỦ NGHĨA HIỆN THựC Như trên đã đề cập, chủ nghĩa hiện thực có thời gian "hoàng kim" của mình từ sau Chiên tranh thế giới thứ hai. 78 Mót số vấn đề lý luận quan hệ qbốc tế dưới góc nhìn ỈỊC h sù Tuy nhiên, từ cuối thập niên 1970 và nhất là sau Chiên tranh lanh, chủ nghĩa hiện thực đã bị phê phán nhiếu. Sụ phê phán này xuất phát từ sự thay đổi của thực tiễn cũng như sự xuât hiện của nhiều trường phái lý thuyết mới trong quan hệ quốc tế. Đây cũng là lý thuyết quan hệ quóc tế chịu nhiều phê phán nhất mà có phần cũng bời ành hưởng lớn nhất của nó. Cùng một lúc, cả cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như nhiều luận điếm của chủ nghĩa hiện thực đều bị tấn công. Tuy nhiên, sự phê phán lý thuyết này cũng như nhiều lý thuyết khác không những nhằm chỉ ra các khiếm khuyết, mà còn có tác dụng bô sung. Thậm chí, sự phê phán chủ nghĩa hiện thực còn giúp hinh thành các lý thuyết và cách tiếp cận mói. - Trong cơ sở đầu tiên vê' môi trường vô chính phủ, nhiều lý thuyết đổng ý với chủ nghĩa hiện thực rằng môi trường vô chính phủ là thực tế lớn và điều kiện quan trọng quy định nên tình trạng xung đột giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, các ý kiến phê phán tập trung vào hai điểm: tính tất yếu của xung đột quốc tê trong môi trường vô chính phủ và tính bất biến của mỏi trường đó. Trong điêm đầu tiên, chủ nghĩa tự do mói cho răng môi trường vô chính phủ có thê là bât biến nhưng xung đột không phải là tât yêu. Lý thuyết này tin rằng do con người có lý trí nên vẫn có thê chọn lựa hợp tác trong môi trường vô chính phủ, hợp tác sẽ ngày càng tăng và thay thê dấn cho xung đột. Ngược lại, những người đi theo chủ nghĩa toàn cầu tin rằng vô chính phủ là nguón Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 79 sinh ra xung đột quốc tế nhưng lại không đồng ý với điểm thứ hai vê' tính bât biến của môi trường vô chính phủ. Họ cho răng cần phải xóa bỏ tình trạng vô chính phú đê ngăn chặn xung đột quốc tế bằng việc thiết lập một hình thức thê chế nào đó có quyền lực thực sự trên đầu các quốc gia, và xu hướng của thế giói sẽ là như vậy. Chủ nghĩa Mác có cách lập luận khác nhưng cũng đi đến kết luận tương tự về tương lai thế giới khi không còn quốc gia và sẽ trở thành đại đồng, tức là không còn tình trạng vô chính phủ. Trong khi đó, chủ nghĩa kiến tạo lại phê phán theo cách riêng khi không đổng ý với cả hai điểm trên. Lý thuyết này cho rằng môi trường vô chính phủ là sản phẩm do con người tự tạo ra. Do đó, khi nhận thức thay đổi thì môi trường vô chính phủ và các tác động xung đột của nó cũng thay đổi theo chứ không còn nguyên tính nhân quả hay mối liên hệ phổ biến giữa chúng như quan niệm của chủ nghĩa hiện thực. - Trong cơ sở thứ hai về vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của quốc gia, quan điếm tập trung vào quốc gia (Statecentrism) của chủ nghĩa hiện thực cũng bị phê phán về thái độ đề cao đến mức độc tôn vai trò này. Chủ nghĩa tự do mới với trường phái đa nguyên của nó dựa vào thực tế nổi lên ngày càng nhiều của các chủ thể phi quốc gia trong quan hệ quốc tế từ sau năm 1945 đế cho rằng quốc gia không còn là chủ thế duy nhất và vai trò của nó đang ngày càng bị xói mòn. Xu hướng này sẽ ngày càng tăng lên nên vai trò cùa quốc gia vói tư cách là người quy định 80 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ sự vận động của quan hệ quốc tế cũng sẽ ngày càng giảm. Chủ nghĩa Mác thì bác bỏ tư cách chủ thế của quốc gia khi cho rằng nhà nước hay quốc gia chi là công cụ cua giai cấp đế thực hiện lợi ích giai cấp nên chủ thể quan hệ quổc tế thực sự ở đây phải là giai cấp chứ không hẳn là quôc gia. Chủ nghĩa hiện thực còn bị phê phán bời hai luận điếm coi quốc gia là nhất thể và có lý trí. Nó bị coi là cứng nhắc khi coi quốc gia là nhất thể mà không tính đến các nhóm lợi ích và tác động bên trong đối với hành vi đối ngoại cùa quốc gia và từ đó đã coi nhẹ quá trình hoạch định đối với nội dung của chính sách đối ngoại. Nó cũng bị coi là phiêíi diện khi chi dựa trên sự lựa chọn có lý trí mà không tính đến lịch sử, văn hóa, tâm lý... Chủ nghĩa kiến tạo và lý thuyết phê phán là những ví dụ như vậy khi quan tâm tới những yếu tố chi phối nhận thức và định hình nên hành vi của quốc gia trong quan hệ quốc tế hơn là chính quốc gia. Hay nói cách khác, các lý thuyết này đề cao yếu tố nhận thức con người hon là quốc gia trong vai trò chủ thê quan hệ quôc tê. Chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán chủ nghía hiện thực quá tập trung vào các cường quốc mà khóng tính đến các nước Thê'giới thứ ba. Trong khi đó, một số lý thuyết khác lại tìm cách bô sung thêm các chủ thê quan hệ quôc tê khác bên cạnh quôc gia như giới của chủ nghĩa vị nữ chăng hạn. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện thực còn bị phê phán bời phớt lờ bàn sắc và cộng đồng khi coi ban sắc con người mang tính chât quôc gia - dân tộc và cộng đóng lại cũng chi là quôc gia - dân tộc. Ngoài ra, khi nhâri manh C a sd cua chu nghTa hien thUc va sU phe phan 81 van de trung tam la quoc gia va loi ich quoc gia, chu nghla hien thuc khuyen khich moi nguoi quan sat the gioi tu mot goc nhin vi chung rat hep1. - Co so thu ba cua chu nghia hien thuc ve dac tinh ich ky, tu loi cua con nguoi cung bi phe phan la mot chieu va bo hep. Day la van de da duoc tranh luan tir lau khong chi trong triet hoc phuong Tay ma ca trong triet hoc phuong Dong nhu quan niem "nhan chi so, tinh ban thien" cua Manh Tu va "nhan chi so, tinh ban ac" cua Tuan Tu. Cuoc tranh luan nay keo dai xuyen the ky ma chua nga ngu don gian boi vi ca hai quan niem deu dung tuy tung truong hop va khong co gia tri quy dong. Vi the, su khang dinh mot quan niem nao do la duy nhat va coi la he quy chieu chung deu la su phien dien. Con nguoi co nhieu tinh cach khac nhau ma ich ky, tu loi la mot trong so do chu khong phai la duy nhat. Hon nua, lieu giua tinh ich ky, tu loi nhu vay co tat yeu dan den nhung hanh vi quoc gia trong quan he quoc te nhu chu nghia hien thuc quan niem hay khong cung la van de gay tranh cai. Tinh ich ky, tu loi cua con nguoi khong phai luc nao cung duoc the hien trong quan he voi ben ngoai, ma con bi nhieu yeu to khac nhau kiem che. Va khi bi kiem che' hanh vi chac cung se thay doi. Quan diem ve con nguoi cua chu nghia hien thuc cung bi cho la phu nhan kha nang thay doi va tien bo. Chu nghia tu 1. Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Relations: Perspectives and Themes, Sdd, tr. 70. Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế ơưới góc nhìn Itch sủ 82 do mới cũng dựa trên sự tính toán lý trí như chu nghĩa hiện thực nhung lại cho rằng chính sự tính toán lý tn nàv mà con người sẽ nhận biết được ưu thê của lợi ích chung. Tù đó, chủ nghĩa tự do mói cho rằng thái độ phu nhậm khả năng hòa hợp giữa con người với nhau cua chu nghĩa hiện thực là không đúng. Ngoài ra, lý thuyết này củng cho rằng càng phát triển, sự ích kỷ, tư lợi của con người càng có xu hướng giảm bớt. Trong khi đó, chủ nghĩa ki én tạo lại coi chuẩn mực tập thê ảnh hưởng đến quan hệ quổc tê nhiều hơn là tính ích kỷ, tư lợi. Chuẩn mực tập thê không phải là bất biến mà hoàn toàn có thể thay đổi qua các thời kỳ tùy theo sự thay đổi của nhận thức. Chuẩn mực tập thê vì thế có thê là tính ích kỷ, tư lợi nhưng cũng có thê là cái gì đó khác, hoặc nếu là ích kỷ, tư lợi thì cũng hoàn toàn có thê thay đổi. Chính trị xanh không bàn đến chuyện nàv nhưng lập luận của nó cũng phản đối cơ sờ này cua chu nghĩa hiện thực. Theo lý thuyết này, sự gia tăng cua các vấn để toàn cẩu sẽ khiến quốc gia và con người ngày cáng tiết giảm sự ích kỷ, tư lợi đê cùng nhau đối phó với các nguy cơ chung. Tương tự như vậy là chủ nghĩa toàn cáu. Cái đích của thê giới là đại đổng cũng có nghĩa con nguơi sẽ phấn đâu cho cái chung đê đạt được sự đại đống chú không phai là vì cái riêng vôn đem lại sự chia rẽ. Cái chung phai lớn hơn cái riêng thì mói làm cho thê giới trơ thành "đại đồng". - Trong co so thứ tư, chu nghĩa hiện thực bị phê phán nhiêu bói sự hạn chê vê nhận thức luận và phưcmg pháp Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 83 luận. Sự tổn tại nhiều trường phái, biến thê và các luận điêm khác nhau trong chính chủ nghĩa hiện thực cho thấy cơ sở nhận thức của nó có tính thống nhất chưa cao. Bên cạnh đó là những phê phán đến từ các lý thuyết khác. Chủ nghĩa kiên tạo vốn dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy tâm chủ quan nên đương nhiên phê phán nền tảng duy vật và lôi nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa hành vi của chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa kiến tạo và lý thuyết phê phán cho rằng chủ nghĩa hiện thực đã khiếm khuyết nặng khi bỏ qua các yếu tô' thuộc về nhận thức con người mà vốn ảnh hưởng rất nhiều đên quan hệ quốc tế, nếu không nói là có vai trò quyết định. Ở đây, cũng giôíng như trên, chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm quyết định nhau cũng là cuộc tranh luận kéo dài nhiều thê kỷ và chưa có câu trả lời cuôi cùng. Chủ nghĩa tự do có cùng nền tảng lý luận là chủ nghĩa duy vật nhưng vẫn phê phán chủ nghĩa hiện thực ở cách tiếp cận bó hẹp vào lĩnh vực chính trị mà không tính đêh thực tế quan hệ quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực, và trong đó, kinh tế ngày càng nổi lên và ảnh hưởng nhiều đến chính lĩnh vực chính trị. Chủ nghĩa tự do còn không đổng ý với chủ nghĩa hiện thực ở chỗ coi quôc gia và con người như "tù nhân" của quy luật lịch sử, chỉ có cách thích nghi và lợi dụng chứ ít khả năng thay đổi chúng. Chủ nghĩa mácxít mới cũng có sự phê phán tương tự trong cách tiếp cận chính trị của chủ nghĩa hiện thực hơn là kinh tế c h ín h ch ù trị. Lý thuyết phê phán chỉ trích tất cả những gi mà nghĩa hiện thực cho là khách quan và không thay đổi, 84 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử tức là những gì mà chủ nghĩa hiện thực cho răng có tinh quy luật như môi trường vô chính phủ, vai trò quỏc gia, bản chất xưng đột của quan hệ quốc tế và sự vận động cua lịch sử có tính chu kỳ,... Lý thuyết này cho rằng cách nhìn quan hệ quốc tế như vậy của chủ nghĩa hiện thực là cứng nhắc và bị đinh kiên chi phôi. Chủ nghĩa hậu hiện đại thì phê phán cô gắng khái quát quan hệ quốc tế thành mô hình của chủ nghĩa hiện thực khi cho rằng mô hình này bó hẹp, đơn giản hóa quá mức mà không phản ánh được thực tế quan hệ quốc tế vốn đa dạng và phức tạp hơn nhiều. - Cơ sở thứ năm - cơ sở thực tiễn của chủ nghĩa hiện thực là lịch sử chiến tranh và xung đột cũng như tiêh trình vận động của quan hệ quốc tế có tính chu kỳ cũng bị phê phán. Những phê phán này đã làm bộc lộ ra những vâín đề trong bàn thể luận của chủ nghĩa hiện thực. Sự phê phán đầu tiên đến từ chủ nghĩa tự do mói. Những người theo lý thuyết này nhâh mạnh rằng thực tiễn thê' giới bây giờ đã đổi thay với nhiều xu hướng mới đang ngày càng tăng như hợp tác và hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, vai ưò của các chủ thê phi quốc gia,... Theo họ, chủ nghĩa hiện thực chi giúp giài thích được một sô" chiều hướng hiện tượng trước và trong Chiên tranh lanh và đang tò ra không thích hợp trong việc giải thích nhiêu xu thê mới trong quan hệ quôc tê hiện nay. Chù nghĩa hiện thực đã không thê dự báo được ngay cả sự kiện rất lớn là sự sụp đô của Liên Xô. Tóm lại, theo những người chủ nghĩa tụ do mới, cơ sờ thực tiên của chủ nghĩa hiện thực là có vâín Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 85 đề, tức là chi dựa trên một phần của thực tiễn nên mới dân đến sự thiếu vững chắc như vậy. Chủ nghĩa tự do mới cũng bác bỏ quan niệm về tính chu kỳ của tiên trình lịch sử của chủ nghĩa hiện thực là thiếu quan điểm phát triển và bảo thủ khi cho rằng thế giới và quan hệ quốc tế không thể thay đổi được. Theo họ, lịch sử không phải là sự lặp lại của xung đột theo vòng xoáy trôn ốc, mà là sự đi lên theo đường thăng của tiến bộ và phát triển, trong đó hợp tác sẽ ngày càng tăng và thay thế cho xung đột. Một vài lý thuyết khác cũng phê phán cơ sở thực tiễn của chủ nghĩa hiện thực theo những cách khác nhau. Chù nghĩa toàn cầu bác bỏ tính chu kỳ của tiến trình lịch sử khi đề nghị tương lai th ế giói đi từ riêng rẽ đến thành tổng thể. Còn chính trị xanh bổ sung thêm cơ sở thực tiễn về sự nổi lên của các vân đề toàn cầu đang góp phần làm quan hệ quô'c tế thay đổi, như điểm chưng nhiều lên, hợp tác tăng lên... - Cơ sở thứ sáu là hệ thống quốc tế cũng bị phê phán bởi việc đề cao quá mức vai ưò của nó. Hệ thống quốc tế không phải là yếu tố bên ngoài duy nhất, và tác động của nó ở mức vừa phải hơn nhiều so vói quan niệm của chủ nghĩa hiện thực mói. Mô hình hệ thống quốc tế cũng được coi là rút gọn và giản lược quá mức khi cho rằng hệ thông có cấu trúc giống nhau sẽ cho các tác động và kết quả tương tự nhau bất chấp sự khác nhau của cơ cấu chính trị trong nước và đặc điếm quốc gia'. Thực tế lịch sử cho thây không hoàn toàn như vậy. Các hệ thống đa cực trong lịch sử là khá khác nhau. Hon nửa, tác động của hệ thống quốc 86 Một số vần đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sủ tế tới quốc gia là không như nhau. Đây chính là điếu mà chủ nghĩa hiện thực cô điển mới đã phải tìm cách bô sung. Hệ thống quốc tế chi bao gồm phần tử và sự tương tác giữa chứng như quan niệm của Kenneth Waltz bị coi là quá sơ lược và thiếu nhiều yếu tô' khác như môi trường bên trong, môi trường bên ngoài, chức năng, tính bến vững, quá trình,...1. Chính sự giản lược này đã dân đên sụ ra đời của chủ nghĩa hiện thực phòng thủ và chu nghĩa hiện thực tẩn công. Việc chú trọng đến vai trò cua các cường quốc như những người tạo ra các mẫu hình quan hệ chi phối trong hệ thống quô'c tế cũng bị phê phán lá bò sót các lực lượng khác, nhất là trong thòi hiện đại khi vai trò của các nưóc vừa và nhỏ đã tăng lên. Trong khi đó, chú nghĩa tự do tuy có sử dụng khái niệm hệ thống quòc tế nhưng thiết kế không giống như chủ nghĩa hiện thực mới. Thậm chí có lý thuyết như chủ nghĩa kiến tạo còn phù nhận hoàn toàn sự tổn tại của hệ thống quốc tế. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện thực còn bị phê phán ờ nhiều vân đề. Lý thu vết này bị coi là công thức hóa và quv luật hóa quan hệ quôc tê một cách quá đơn giản, dẫn đén việc không phàn anh được tính đa dạng phức tạp của quan hệ quôc tê củng như bò sót nhiêu yếu tô quan trọng khác. Nó cũng được cho là có tính phổ quát hạn chế do không 1. Xem thêm Hoàng Khăc Nam, "Nhận thức vê hệ thống quốc tế', Tạp chí Những vấn đ ẽ kinh t ế và chính trị th ế giới, số 8 (160), 2009, tr. 3-13. Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sư phê phán 87 giải thích được nhiều vấn đề trong quan hệ quốc tế, do công thức của nó không áp dụng được cho mọi trường hợp. Và vì thê' có lẽ chi nên áp dụng nó trong những trường hợp cụ thê mà không phải là tất cả. Cho dù Morgenthau có ghi nhận vai trò nhât định của chính trị đối nội nhưng lý thuyết này vẫn được coi là có sự chia tách quá mức giữa chinh trị đôi nội và quan hệ quốc tế. Nó cũng bị phê phán bởi không giúp đoán định được quốc gia sẽ làm gì và như thê nào mà chỉ giúp giải thích tại sao quốc gia hành động như vậy. Điều này cũng được một số học giả của chủ nghĩa hiện thực thừa nhận khi biện luận rằng lý thuyết này được tạo ra chỉ nhằm nắm bắt bản chất cốt lõi của quan hệ quốc tế là quyền lực chính trị hơn là giải thích quốc gia hành động như thế nào. Nó bị chi trích vì phớt lờ các giá trị đạo đức khi cho rằng chính trị có hệ đạo đức riêng và công lý cao nhất là thực hiện lợi ích quốc gia. Nó cũng không quan tâm tới các lợi ích trong những lĩnh vực khác khi cho rằng quyền lực và chính trị là lợi ích và lĩnh vực độc tôn trong quan hệ quốc tê1. Trong lợi ích quốc gia, nó củng bị chỉ trích bởi coi nhẹ lợi ích tuyệt đối nên dẫn đến thái độ xem thường xu 1. Sau này, một số học gia chù nghĩa hiện thực đã điều chinh quan điẽm nàv khi phân chia chính trị quốc tê'thành hai lĩnh vực là: chính trị cao (high politics) gổm nhũng vấn đề liên quan đến quyền lực và xung đột giữa các quốc gia, và chính trị thâp (loiv politics) gổm những vân để liên quan trong lĩnh vực khác. Tuy nhiên, chính trị cao vẫn được coi là quan trọng và chi phối. 88 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử hướng hợp tác quốc tế. Sự quy kết tranh chấp quyển lực cho nguyên nhân xung đột của chủ nghĩa hiện thực được coi là không hoàn chinh khi thực tế xung đột có nhiêu loại nguyên nhân khác nhau. Bản thân công thức tổng số bang 0 như nguyên nhân của sự tranh giành quyền lực cũng bị cho là phiến diện và cứng nhắc1. Thái độ phủ nhận khả năng hòa hợp lợi ích của con người và quốc gia cua nó được coi là khiếm khuyết quan trọng. Các mệnh đê này của chủ nghĩa hiện thực bị nghi ngờ là có tính quvết định luận và tính nhân quả trong các mối liên hệ đó được cho là khiên cưỡng. Đối với quan điểm vê' chiến tranh, nó cũng bị phê phán vì không tính đến hoặc coi nhẹ một số yếu tố có khả năng làm giảm xung đột quyển lực và chiến tranh như sự nối lén của chủ thê phi quốc gia, thê chế hóa đang làm giảm tinh trạng vô chính phủ, vai trò thúc đẩy hợp tác của lợi ích kinh tế - văn hóa - xã hội, vai trò của giá trị như đạo đức và chuẩn mực trong xung đột quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, sự bừng nổ những vâh đề toàn cầu,... Cho đến nay, cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa hiện thực với các lý thuyết khác vẫn đang diễn ra. Hàng loạt 1. Ví dụ, theo tinh thân chu nghĩa hiện thực phòng thú (defense realism), một quôc gia có thê gia tăng sức mạnh quân sự cũa minh nhưng chi vê năng lực phòng thù. Điều này không khiên nuóc khac lo ngại mát cân băng quyên lực, từ đó không dần đến tinh trạng lương nan vê an ninh và chạy đua vũ trang. Trong truỡng hợp này, công thức tông sô băng 0 không còn phù hợp. Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 89 quan điểm của nó vẫn đang được tranh luận, sự đa dạng ý kiến vân phổ biến và câu trả lời vẫn chưa ngã ngũ. Chúng tôi không có ý định bàn chuyện đúng sai ở đây bởi môi lý thuyết đều chi phản ánh được một phần của cuộc sống. Việc trình bày cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán nó chỉ hy vọng có thể bổ sung thêm những cách nhìn phong phú hơn trong việc áp dụng vào nghiên cứu quan hệ quốc tế và lịch sử. 90 PHÂN ĐỊNH KHU vực TRONG NGHIÊN cúu QUỐC TẾ Khu vực (region) là thuật ngữ được sử dụng cà vào bối cảnh trong nước lẫn quốc tế. Vì thế, một sô7 khái niệm chung vê khu vực đã được để ra. Ví dụ, khu vực là ncri "có sự đồng nhất trong tiêu chí xác định được lựa chọn và có sự phân biệt khác với những vùng hoặc khu vực kế cận theo những tiêu chí này"1. Hay khu vực là "vùng chiếm hữu những đặc điếm chung giúp phân biệt nó với các vùng khác hoặc chiếm giữ các đặc điểm đem lại cho nó tính thống nhất"2. Một khái niệm khác cho khu vực "là một phần bê' mặt, không gian có biên giới hoặc có những đặc điểm nhất định"3. Các cách hiểu trên về khu vực đểu có thể áp dụng cho hai trường hợp bên trong quốc gia và 1. The New Encyclopedia Britanmca (1991). Dẩn theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", The Indonesian Quarterly, Vol. XXIII, No. 4, 1995, tr. 304. 2. Hugo F. Reading, A Dictionary o f the Social Sciences. Dan theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific R egion"", ĩĩđ d , tr. 305. 3. Hutchinson, Concise Encyclopedic Dictionary. Dan theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", Tlđd, tr. 305. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 91 liên quốc gia. Điểu đó có nghĩa rằng, "Thuật ngữ này được áp dụng cho một vùng có thê khác nhau vê' quy mô từ các bộ phận nhỏ trong một vùng thủ đô tới các tiểu khu vực lớn hơn trong một lục địa"1. Phân định khu vực củng được cụ thê hóa trong từng bối cảnh quốc gia và quốc tế. Trong khuôn khổ quốc gia, khu vực được hiểu là "sự phân chia tiếp lãnh thổ quốc gia được phân định ranh giới một cách chính thức cho một chức năng cụ thê nào đó"2, hay "sự phân chia hành chính của một đất nước"3. Trên quy mô quốc tế, khu vực là "một vùng lãnh thô được cấu tạo từ hai hay nhiều quốc gia được phân định ranh giới cho một mục đích cụ thể nào đó". Bài viết này chi đề cập khu vực liên quốc gia, tức là khu vực bao gồm các quốc gia. Việc phân định khu vực có ý nghĩa đối với thực tiên quan hệ quốc tế của quốc gia. Khu vực là môi trường trực tiếp và chứa đựng nhiều lợi ích quốc gia. Khu vực là nơi diễn ra nhiều hiện tượng quan trọng trong đời sông quốc tế hiện nay như khu vực hóa, hội nhập khu vực, chủ nghĩa khu vực,... Khu vực quy định cách tiếp cận khu vực trong hoạch đinh chính sách và tạo nên những đặc thù trong 1. The McGrcni'-Hill Dictionary o f Modem Economics (1983). Dan theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", Tldd, tr. 305. 2. Hugo. F. Reading, A Dictionary o f the Social Sciences. Dan theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", Tldd, tr. 305. 3. Hutchinson, Concise Encyclopedic Dictionary. Dan theo A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", Tldd, tr. 305. 92 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhirrÍỊCh sù quan hệ đối ngoại. Đổng thời, các hiện tượng này củng đang góp phần quy định xu hướng vận động cua thê giới, xây dựng nên hệ thông quốc tế thế giói và từ đó tác động ngược trở lại quốc gia. Tất cả những điểu này đếu anh hường lên mục tiêu, lợi ích và quy mô hoạt động cua quổc gia trên trường quốc tế. Ý nghĩa thực tiễn đó quy định sự cần thiết phán định khu vực trong nghiên cứu quốc tế. Phân định khu vực không chỉ giúp chia vùng trong đối tượng nghiên cứu quốc tế. Đó còn là cách tiếp cận và cơ sở phân tích nhiểu hiện tượng trong đời sống quốc gia và quốc tế. Vai trò của khu vực cũng góp phần quy định câp độ phân tích khu vực trong nghiên cứu quốc tế... Bời thế, đã xuâít hiện nghiên cứu khu vực (regional studies) trong ngành quổc tế học (international studies). Thế nhưng, trong nghiên cứu quốc tê' quan niệm vê khu vực tương đối khác nhau. Sự khác nhau này nằm trong cà hệ tiêu chí lẫn nội dung từng tiêu chí. Tiêu chi khác nhau dẫn đến cách tiếp cận khác nhau và từ đó là sự phân định khu vực khác nhau. Bên cạnh đó, trong bôi canh quôc tê hóa và toàn cầu hóa hiện nay, thực tiễn khu vực đang thay đổi đã khiến cho các quan niệm khu vực trước kia tò ra chật hẹp. Điêu này đặt ra yêu cấu điẽu chinh nhận thức về khu vực. Với mong muốn làm rõ hơn vân đê đó, bài viết sẽ lần lượt xem xét các tiêu chí phán định khu vực. Sau đó, một số nhận định vê khu vực trong bôi canh hiện nay cũng sẽ được rút ra. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 93 TIÊU CHÍ PHÂN ĐỊNH KHU vự c Thứ nhất là tiêu chí địa lý. Sự phân định khu vực theo tiêu chí địa lý giúp phản ánh không gian - một yếu tô không thể thiếu của khu vực. Là sự phân đinh dựa trên các yếu tố vật chất cụ thế, nó dễ đem lại sự hình dung về khu vực hơn. Dựa trên tiêu chí địa lý, có một số cách phân định khu vực. Cách thường thấy vốn đã hình thành từ lâu và được vận dụng khá nhiều là dựa trên bản đổ địa-chính trị. Tiêu chí có tính lịch sử và theo thói quen này tương đôì khó áp dụng cho thực tiễn hội nhập khu vực hiện nay khi liên kết liên quốc gia không hoàn toàn dựa vào việc quô'c gia thuộc châu lục nào. Ví dụ, Thổ Nhĩ Kỳ ở châu Á đang có xu hướng hội nhập khu vực với EU thuộc châu Âu, Ôxtrâylia và Niu Dilân ở châu Đại Dương đã tham gia tích cực vào quá trình hội nhập khu vực ở Đông Á thuộc châu Á. Một cách xác định khác coi khu vực là một tập hợp các quốc gia nằm trong một vùng đặc thù về địa lý1. Tuy nhiên, yếu tố địa lý đặc thù nào làm nên khu vực? Địa hình, khí hậu hay yếu tố khác? Các yêu tố này đóng góp th ế nào cho nhận thức về khu vực và sự hình thành chủ nghĩa khu vực? Trên thực tế, hầu hết các khu vực hiện nay đều chứa đựng sự đa dạng về địa lý. Giữa các khu vực lại 1. Edward D. M ansfield & Helen V. Milner, "The New Wave of Regionalism ", International Organization, Vol. 53, No. 3, Summer 1999 The M assachusetts Institute of Technology Press, tr. 590. 94 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch SIÌ có nhiều điểm tương đổng về địa hình và khí hậu. Vì thê’ câu hỏi trên vẫn chưa được trả lời. Mặc dù vân được sử dụng ít nhiều nhưng những cách trên tò ra không hoàn toàn thích hợp với thực tiễn khu vực hiện nay. Cách phân chia này dường như thích hợp trong địa lý - nhân văn hơn là trong nghiên cứu quốc tế. Cách phân định khu vực thứ ba đang tỏ ra có sức sống hơn cả là dựa trên sự gần gũi về mặt địa lý {geographical proximity). Sự gần gũi về địa lý là yêu tô' quy đinh nên "khu vực" với tư cách là một không gian liền thế và tương đối thống nhất. Đó cũng là tiền đề tạo nên tình riêng của khu vực so với các nơi khác trên thế giới. Không có sự gần gũi về địa lý, sẽ không có khu vực và cũng không có chủ nghĩa khu vực. Sự gần gũi địa lý tạo nên cơ sở lịch sử của sự liên quan, gắn bó và phụ thuộc lân nhau giữa các quốc gia trong vùng. Đó cũng là môi trường chung, là nơi chứa đựng lợi ích chung và là yếu tố ràng buộc cuộc sông của các thành viên vói nhau. Sự gẩn gũi địa lý còn có vai trò đối với các tiêu chí phân định khu vực khác dưới tác động địa - nhân văn, địa - văn hóa, địa - kinh tế và địa-chính trị. Từ đó, nó có khả năng ảnh hưởng đến sự cô' kết và tính thông nhất giữa các quô'c gia trong cùng khu vực. Ngoài ra, sự gần gũi địa lý cũng đem lại cho khu vực vai trò địa bàn và phạm vi cua nhiều hiện tượng quốc tế liên quan đến khu vực. Đãv là cơ sở không thể thiếu của khu vực. Điểu này đã được chứng tỏ bởi hầu hết các khu vực trên thế giói hiện nav Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 95 đểu được xây dựng dựa trên sự gần gũi về địa lý. Nhìn chưng, các học giả nhất trí tương đối cao về vai trò của sự gần gũi địa lý với việc hình thành khu vực. Tuy nhiên, sự vận dụng tiêu chí này không hoàn toàn thông nhât. Sự gần gũi là theo nghĩa hẹp như sự tiếp giáp lanh thổ, hay theo nghĩa rộng chi khoảng cách địa lý nhất định mà không nhât thiết phải tiếp giáp? Quan niệm phô biến hiện nay thường theo nghĩa rộng khi coi khu vực gồm các quốc gia không chỉ liền kề mà còn ở gần nhau. Bởi thế, Philíppin được coi là thuộc Đông Nam Á, còn Aixơlen thuộc về Tây Âu. Nhưng như thế nào là sự gần gũi về địa lý thì khá mơ hổ trong thực tế vận dụng. Trong khu vực Đông Á, Nhật Bản và Mianma không thể được coi là gần gũi nhau vê' mặt địa lý. Trong khi đó, Mianma tiếp giáp vói An Độ nhưng lại không cùng khu vực Nam Á. Đối với cái gọi là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự thê lại còn đi xa hơn khi coi các nước Nam Mỹ như Chilê và các nước Đông Nam Á như Thái Lan cùng thuộc một khu vực. Thực ra, trong những trường hợp kể trên, việc xác đinh khu vực gồm những quốc gia nào không chi dựa vào mỗi sự gần gũi về địa lý. Bất châp những bất đồng và khó khăn trên, sự gần gũi trong phân bố địa lý giữa các quốc gia vẫn là tiêu chí cần thiết trong phân định khu vực. Nói đến khu vực là phải có sự gần gũi về mặt địa lý. Nhưng cũng rõ ràng, sự bất nhất trong quan niệm về tiêu chí gần gũi địa lý cho thấy đó không phải là tiêu chí duy nhât đế xác định khu vực. 96 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới goc nhìn Itch sù Những vân đê chưa được giải quyết đó dân đên việc tim kiếm thêm các yếu tố phi địa lý. Thứ hai là tính thuần nhất (homogeneity) hay sụ tuơng đồng (similarity) vê văn hóa - xã hội. Sự thuần nhát này được xác đinh bằng các nhân tô văn hóa - xã hội như: chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và các giá trị văn hóa khác... Tiêu chí này mang tính lịch sử rõ rệt. Theo đó, quá trình sinh sống lâu đời bên nhau dẫn đến sự giao lưu giữa các cộng đồng gần kê nhau. Kết quả của sự giao lưu lịch sử đã tạo nên những tương đồng văn hóa - xã hội giữa các cộng đổng. Quá trình giao lưu dài lâu giúp tạo nên tính vững bền nhất định của các tương đổng văn hóa xã hội. Các tương đồng này tạo nên bản sắc chung của khu vực và giúp phân biệt với các khu vực khác. Đên lượt mình, bản sắc tạo nên ý thức vê' khu vực, tình cảm cộng đổng và những cái "của chúng ta". Trên cơ sờ đó, ý thức về khu vực chung được hình thành. Tất cả những điều này đều có xu hướng thúc đẩy các quốc gia trong khu vực hướng vê nhau nhiêu hơn, chủ nghĩa khu vực dễ hình thành và phát triển hơn. Và từ đó, khu vực cũng dễ được xác định hơn. Những người theo chủ nghĩa kiến tạo xã hội (socml constructivism) nhân mạnh cơ sở văn hóa - xã hội cua sự hình thanh khu vực. Ví dụ, Peter J. Katzenstein cho rằng "việc thiết kê khu vực địa lý là không "thực", không "tự nhién", và không "ban chât". Chúng được xây dựng về mật xã hội, được tranh gianh vê mặt chính trị, cho nên là mo đé Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 97 thay đổi"1. Một xu hướng khác liên quan đến nghiên cứu vùng văn hóa - xã hội và coi đó là khu vực của thế giới. Ví dụ, có quan niệm coi khối Thịnh vượng chung, Pháp và một sô quôc gia nói tiếng Pháp ở Tây Bắc Phi, hay nhóm Mỹ - Anh - Ôxtrâylia là những khu vực. Chúng tôi đổng ý rằng tiêu chí thuần nhất văn hóa xã hội có thê xác định nên nhận thức khu vực và là một cơ sở của chủ nghĩa khu vực. Tuy nhiên, cách phân đinh như vậy vân chứa đựng những hạn chế nhất định. Thứ nhất, cách hiểu chỉ dựa trên yếu tố văn hóa - xã hội gần vói cộng đổng văn hóa hon là khu vực vô'n rất đa diện. Rõ ràng, việc coi nhẹ yếu tố địa lý và bỏ qua yếu tô' khác ngoài văn hóa - xã hội là không ổn. Thứ hai, cách hiểu này mang tính siêu hình khi có xu hướng tập trung vào những tương đổng hình thành trong quá khứ để tạo nên bản sắc khu vực. Trong khi đó, bản sắc lại là cái hoàn toàn có thê hình thành trong cả hiện tại và tương lai. Thứ ba, cách hiếu này không tính đến những giao lưu văn hóa - xã hội đương đại giữa khu vực với bên ngoài trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay. Do vậy, nó đã không tính đến những giá trị mới và tương đổng mới vượt khỏi quy mô khu vực truyền thống. 1 Dần theo Edward D. Mansfield & Helen V. Milner, "The New W ave of Regionalism ", International Organization, Vol. 53, No. 3, Sum m er 1999, The M assachusetts Institute of Technology Press, tr. 591. 98 Môt số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch SLI Một số quan niệm hiện nay thường kết hợp tính thuần nhất văn hóa - xã hội với sự gần gũi địa lý và coi đây là hai tiêu chí cơ bản xác định nên khu vực. Tuy nhiên, cho dù có kết hợp với địa lý thì tiêu chí nàv cũng không phải là trọn vẹn. Trong nhiều khu vực, sự thuẩn nhất văn hóa - xã hội chỉ là tương đối, sự tương đổng chưa hẳn đã lấn át được sự dị biệt. Ví dụ, như đã biết, Đông Nam Á là khu vực đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa với nhiều khác biệt xã hội giữa các quổc gia. Thậm chí, giữa các nước Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo có sự khác nhau khá nhiều và khá lớn về văn hóa xã hội. Trung Đông với người Arập và văn hóa Hổi giáo nhưng vẫn đầy ngoại lệ như Ixraen, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ,... Ngay cả châu Âu được coi là nơi thuần nhâ't hơn cà vê văn hóa - xã hội nhưng mức độ tương đồng chưa hán là cao với sự hiện diện của nhiều tộc người, nhiều nển văn hóa từ German, Latinh đến Slave. Ngoài ra, trong một số trường hợp, sự kết hợp hai yếu tố trên không nhát thiết dẫn đến khu vực. Ví dụ, Việt Nam tiếp giáp Trung Quốc, có quan hệ lịch sử lâu đời với Trung Quốc, chịu anh hưởng nhiều của nền văn hóa - xã hội Trung Quốc nhưng Việt Nam vẫn được coi là thuộc khu vực Đông Nam Á, còn Trung Quô'c thì không. Những hạn chê'trên đã hướng các học giả tìm kiếm thêm các tiêu chí khác. Đó là tiéu chi kinh tế, chính trị. Thứ ba là sự chia sẻ kinh tế hoặc/và chính trị. Tiéu chí này xuâít hiện muộn hơn và là kết quả của sự phát triẽn Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 99 quan hệ quốc tế. Đây là cách xác đinh khu vực dựa trên sự chia sẻ giữa các thành viên nhiều hơn là phạm vi không gian của khu vực, dựa trên các yếu tố phi địa lý nhiều hơn là yếu tô địa lý. Trong nghiên cứu quốc tế, việc áp dụng riêng rẽ tiêu chí kinh tế và chính trị đê phân đinh khu vực là khá phô biến. Theo đó, sự hiện diện nhiều hơn và tập trưng hơn của các dòng kinh tế liên quốc gia ưong một phạm vi không gian nào đó có thê’ được coi là sự hình thành nên khu vực kinh tế. Một số dấu hiệu kinh tế khác cũng được vận dụng như tỷ trọng thương mại hay đầu tư nội vùng cao hơn so vói bên ngoài, quá trình xây dựng thê chế kinh tế khu vực hay sự phối hợp chính sách kinh tế, và nhất là sự tổn tại hiệp định khu vực thương mại tự do (free trade area) hay liên hiệp thuế quan (custom union),... Trong chính trị, cũng có thê căn cứ vào các mục tiêu chính trị và sự lựa chọn chính sách của quốc gia theo hướng ưu tiên hơn đối với vùng nào đó để quy thành khu vực. Chính trị gắn với địa lý tạo nên khu vực địa-chính trị. Một sô' dâu hiệu chính trị khác cũng được áp dụng như thể chế khu vực, phối hợp chính sách, cố gắng xây dựng cộng đổng an ninh - chính trị khu vực,... Dù tiêu chí là kinh tế hay chính trị thì cả hai cách phân đinh này đểu dựa trên mức độ liên hệ hay sự tương tác giữa các thành viên trong khu vực. Đây là điều rất có ý nghĩa đối với chủ nghĩa khu vực và sự cố kết khu vực. Mức độ liên hệ/tương tác là rất quan trọng bởi nó có thể làm tăng hay giảm sự cố kết khu vực, có thể mở rộng hay 100 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sủ thu hẹp khuôn khô khu vực đang tổn tại. Và từ đó có thẻ thay đổi quan niệm và khuôn khô của khu vực. Tuv nhiên, đôi khi cách phân đinh này đã đi xa đến mức bo qua sự gần gũi về địa lý. Theo đó, những noi có chứa đựng lợi ích kinh tê hay chính trị thiết thân thì đều có thê coi là khu vực mà không nhất thiết phải có sự gần gũi địa lý. Ví dụ, một số học giả như Karl Deutsch, Joseph Nye, Kvm Anderson, Hege Norheim cho rằng vẫn có thể dựa vào sự chia sẻ các liên hệ kinh tế và chính trị bên cạnh văn hóa xã hội để xác định khu vực trong khi chưa xác định được tiêu chí địa lý rõ ràng. Cũng dựa trên sự chia sẻ kinh tế và chính trị, có cách xác định khu vực dựa trên sự đồng nhất tương đối vê đặc điếm hơn là mức độ liên hệ/tương tác giữa các thành viên khu vực. Ví dụ, sự tương đồng kinh tế có thể được xác định bằng các nhân tố như mức độ phát triển kinh tế, sự hiện diện của khối thương mại chung, thị trường chung, chính sách thương mại ưu đãi và những khả năng của hội nhập kinh tế. Trong khi đó, sự tương đổng về chính trị có thế dựa trên sự giông nhau về kiêu dạng nhà nước hay hệ thống chinh trị, sự đổng chủ trương phôi hợp trong chính sách đôì ngoại, xu hướng xây dựng thê chế hay khôi chính tri,—’. Một ví dụ thực tiễn là việc EU thường xuyên yêu cáu các nước, từ Bổ Đào Nha, Hy Lạp cho tói các nước Đông Áu 1. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary of International Relations, Penguin Books, London, 1998, tr. 472-473. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 101 gần đây phải cải cách dân chủ trong nước như điều kiện tham gia. Hay Braxin và Áchentina đã đòi Paragoay phải cải cách dân chủ trước khi gia nhập Thi trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR). Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu chi dựa vào mỗi nét tương đổng này thì không ổn. Mỹ, EU và Nhật Bàn có nhiều điểm tương đổng khá cao về kinh tế, song khó mà coi đó là khu vực được. Hay sự tổn tại hai phe trong Chiến tranh lạnh có thể coi đó là khu vực xã hội chủ nghĩa và khu vực tư bản chủ nghĩa hay không? Các đặc điểm tương đồng như trên thực ra đóng vai trò điều kiện hơn là nhân tố dẫn đến sự hình thành khu vực. Chúng giúp tìm hiểu khả năng hình thành khu vực hơn là xác định một khu vực đang tồn tại. Trong phân định khu vực, có lẽ nên dựa nhiều hơn vào mức độ liên hệ hay tương tác giữa các thành viên cả về kinh tế lẫn chính trị. Theo đó, nội dung khu vực bao hàm cả sự liên hệ kinh tế tăng lên vói sự ưu tiên khu vực trong chính sách đối ngoại. Cách xác định khu vực này dựa trên quan điếm lọi ích kinh tế và chính trị đều là những lợi ích cơ bàn của quốc gia. Sự gia tăng hợp tác kinh tế và ưu tiên chính trị phản ánh nhu cầu liên kết với nhau và tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong vùng. Các liên hệ kinh tế hay chính trị ngày càng sâu sắc trong vùng địa lý nào đó sẽ làm tăng giá trị chung được chia sé và dẫn đên sự xác định phạm vi không gian lợi ích quan trọng theo khu vực. Đó chính là nhận thức 102 Môt số ván đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin ụch sù về khu vực. Ý thức về khu vực lợi ích thiết thân này quay trở lại tác động đến sự hình thành chu nghĩa khu vực. Qua đó, nhận thức khu vực càng được cung cố, kha năng cố kết khu vực càng tăng lên, và từ đó, khu vực được hình thành. Ưu điếm của cách xác định khu vực này tò ra tương đối thích hợp với thực tiễn chủ nghĩa khu vực hiện nay. Kinh tế và chính trị chính là hai động lực mạnh mẽ nhảt thúc đẩy liên kết hiện nay, trong đó có liên kết khu vực. Hai tiêu chí này làm cho khu vực có vẻ "thật" hơn là các quan niệm khu vực khác. Hơn nửa, hai tiêu chí nàv phàn ánh được "tính động" của khu vực. Chúng có kha năng tạo nên sự mờ rộng khu vực chứ không bó hẹp trong khuôn khô địa lý và tương đổng văn hóa - xã hội. EU đang mờ rộng từ Tây Âu sang Đông Âu, Đông Á đang hình thành tù Đông Nam Á và Đông Bắc Á, các cố gắng nhằm xây dựng FTA toàn châu Mỹ,... Đó là những ví dụ cho thây khu vực hoàn toàn có thể thay đổi bời nhân tô' kinh tê và chính trị. Tuy nhiên, nêu chi đơn thuần dựa vào các tiêu chí này thì không giải thích được sự liên hệ kinh tê - chính trị diên ra mạnh mẽ trên thê giới nhưng khu vực không nhát thiết được hình thành. Ví dụ, Mỹ và Ixraen khó có thê coi là cùng khu vực cho dù sự liên hệ kinh té chinh trị giữa chúng khá toàn diện và sâu sắc. Việc coi nhẹ tiêu chí địa lý va tương đồng văn hóa - xã hội chính lã điếm yếu cua cách phân định này. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 103 MỘT SỐ NHẬN XÉT Từ các trình bày ở trên về tiêu chí, chúng ta có thê rút ra một sô nhận xét về vấn đề phân đinh khu vực như sau: + Thuật ngữ "khu vực" xuất phát đầu tiên từ góc độ địa lý. Dần dần, nó được bô sung thêm một số điểm tương đổng thuộc lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tê. Về đại thể, đứng từ góc độ nghiên cứu quốc tế, khu vực là một khái niệm chì một phần không gian của thế giói bao gồm một số quốc gia trong đó. Khu vực chứa đựng những đặc điểm riêng giúp phân biệt với các phần khác của thế giói. Không chi có vậy, sau này, khu vực còn được xác định bời mức độ liên hệ/tương tác đáng kê giữa các thành viên, giúp tạo nên sự thống nhất tương đối cũng như khả năng cố kết khu vực. Hai điếm trên tạo nên "tính riêng" của khu vực so với các phần khác cùa thế giới. Khu vực được hình thành và tồn tại ưên cơ sở như vậy. Với cách hiểu về khu vực như trên, khu vực (region) và vùng (area) không hoàn toàn đổng nhất vói nhau, ít nhất là trong nghiên cứu quốc tế. Khu vực là một tập hợp các quốc gia trong khi vùng không nhất thiết phài là như vậy. Khu vực có biên giới rõ ràng hon dọc theo biên giới ngoài của quốc gia, còn biên giới vùng thường không rõ ràng bằng khi có thê chi gồm những phần lãnh thô nhất định cùa các quốc gia. Khu vực được xây dựng cả trên sự tương đổng và quan tâm rất nhiều tới mức độ liên hệ/tương tác giữa các thành viên, trong khi vùng chủ yêu dựa vào sự 104 Mót số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lỊCh sủ tương đồng. Khu vực có tính đa diện hơn boi bao hàm nhiều lĩnh vực quan hệ khác nhau, còn vùng thương tập trung vào một vài lĩnh vực nào đó tuỳ theo mục đích nghiên cứu1. Nhìn chung, vùng là khái niệm lòng lẻo hơn so với khu'vực. Bơi thế, củng tổn tại sự khác biệt giữa nghiên cứu khu vực (regional studies), là một đối tượng ưong nghiên cứu quốc tế, và nghiên cứu vùng (area studies), là một phương pháp nghiên cứu nhiều hơn là một môn học. + Như vậy, có lẽ cách xác định khu vực nghiêm ngặt là dựa trên cả bốn tiêu chí địa lý, văn hóa - xã hội, kinh tế và chính trị. Tất cả các tiêu chí này đều có thể làm thay đổi quan niệm vể khu vực. Sự kết hợp bốn tiêu chí giúp có được khu vực theo nghĩa đầy đủ nhâ't có thê. Bôn tiêu chí phàn ánh bôn phương diện của khu vực và từ đó là các góc độ tiếp cận khác nhau. Sự kết hợp các góc độ tiếp cận giúp đánh giá tương đối toàn diện sự vận động của khu vực cũng như các hiện tượng quốc tế liên quan đén khu vực. Tuy nhiên, đứng trên góc độ nghiên cứu quốc tế, việc xác định khu vực dựa trên bốn tiêu chí vẫn sẽ là không đu nêu chi dựa vào các tương đổng mà không tính đên sự tương tác giữa các phần tư trong khu vực. Sự tương tác 1. Ví dụ, khu vực Đông Nam Á với 10 quốc gia thành vién ASEAN rõ rang có sự khác biệt với vùng văn hóa lúa nưóc, các vùng tôn giáo Phật giáo và Hổi giáo, vùng chịu ành hưởng văn hóa Trung Hoa hay An Độ, vùng kinh tế - xã hội hải đào hay lục địa, tiêu vùng kinh tê sông Mê Công,... o Đông Nam Á. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 105 giữa chúng mới là quá trình căn bản tạo nên khu vực. Sự tương tác có liên quan mật thiết đến cả bốn tiêu chí trên. Sự gần gũi về địa lý là điều kiện đê các tương tác hình thanh và phát triến. Ngược lại, tương tác phát triển mới sinh ra các tương đổng về văn hóa - xã hội, những liên hệ và chia sẻ vê kinh tê và chính trị. Không có tương tác, không có quá trình cô kết đê hình thành khu vực, khu vực nếu có thì chì là khu vực đơn thuần về mặt địa lý. Tuy nhiên, trong thực tế, do sự thiếu rõ ràng của tiêu chí nào đó nên vẫn tổn tại việc phân đinh khu vực dựa trên sự kết hạp một số tiêu chí nào đó mà không phải là tâ't cả. Thậm chí, tuỳ từng mục đích nghiên cứu khác nhau, người ta có thê chỉ vận dụng riêng rẽ từng tiêu chí như khu vực địa lý, khu vực văn hóa - xã hội, khu vực kinh tê hay khu vực chính tri. Bên cạnh đó, do thực tiễn rất đa dạng và các tiêu chí đều có thể thay đổi nên cũng có sự khá linh hoạt đối với mức độ của từng tiêu chí trong việc phân đinh khu vực. Những điều trên phản ánh được thực tế lỏng lẻo của khu vực nhưng lại góp phần dẫn đến sự khác nhau trong quan niệm vể khu vực. Trong quan hệ quốc tế, sự khác nhau có thể xuất phát từ tính toán lợi ích khác nhau, nhưng cũng có thế do hệ tiêu chí phân định khu vực khác nhau, do đánh giá mức độ liên hệ/tương tác trong từng tiêu chí khác nhau. Vì thê', thông qua quan niệm khu vực khác nhau, có thế đánh giá được phẩn nào lợi ích, nhận thức và động thái khu vực cua các đối tác quan hệ. 106 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin Ịịch sử + Khu vực được hình thành từ cả điểu kiện vật chât lẫn các yếu tố tinh thần. Khu vực là một khái niệm có tính vật chất với những biếu hiện cụ thê như đất đai, hệ sinh thái và con người. Nó bao gồm các thực thé chinh trị là quôc gia có lãnh thổ, dân cư và nhà nước. Nó gan liền với các điều kiện không gian nhât định có thuộc tính vật chất, nhất là sự gần gũi về địa lý giữa các quốc gia. Khuôn khô khu vực hay được vẽ theo biên giới tự nhiên, hoặc biên giới quốc gia cũng đểu là những điếu kiện vật chất. Nhưng khu vực cũng là sàn phẩm mang tính tình thẩn. Khu vực và khuôn khô khu vực là do con người nhận thức và quy ước với nhau chứ không phải tự nhiên sinh ra. Khu vực có thể hình thành bởi tư tường, tình cam khu vực hay nhận thức về nhu cầu liên kết giữa các nước gần nhau. Khu vực tổn tại hay thay đôi củng phụ thuộc vào nhận thức. Trong nhiều trường hợp, chủ nghĩa khu vực của các nưóc đã giúp định hình khu vực chứ không phai ngược lại. Các tiêu chí phân định khu vực xuât phát từ nhận thức con người. Tiêu chí và đặc điếm khu vực củng do con người lựa chọn tuỳ theo mục đích cua con người. Trong tùng tiêu chí, đểu tổn tại đồng thòi khía cạnh tinh thần bên cạnh khía cạnh vật chất. Ví dụ, hoan canh tự nhiên với nhận thức về khuôn khô khu vực, ván hóa vật chât và văn hóa tinh thần, hội nhập kinh té và nhận thức vê mức độ cô kết, thực tiễn quan hệ chính trị với kỳ vọng vê cộng đổng khu vực,... Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 107 Như vậy, trong chừng mực nào đó, khu vực cũng là một sự xây dựng về mặt nhận thức.1 Trong bản chât của khu vực, có cả hai phương diện vật chất và tính thần. Điều này càng cho thấy tính đa diện trong quan niệm và tính đa dạng trong thực tiễn của hiện tượng khu vực. + Khu vực không phải là bất biến. Có nhiêu yếu tố quy định khả năng thay đổi của khu vực. Là sản phẩm của nhận thức, khu vực hoàn toàn có thê thay đổi bởi sự thay đổi của nhận thức. Tư tưởng, tình cảm và nhận thức thay đổi dẫn đến sự thay đổi khuôn khô và tiêu chí phân đinh khu vực. Là khái niệm được xác định bởi nhiều yếu tố có khả năng biến đổi, khu vực thường bị co giãn bởi sự vận động không ngừng của các tiêu chí này. Trong đó, kinh tế và chính trị vốn dễ thay đổi nhất nên hay dẫn đến yêu cầu phân định lại khu vực. Ngay yếu tố địa lý khó thay đổi nhất cũng không phải là bất biến. Sự thay đổi biên giói quốc gia - vốn hay được dựa vào để xác định khuôn khổ khu vực - cũng đã từng thay đổi khá nhiều trong lịch sử. Là tập hợp của các quốc gia, khuôn khổ khu vực còn bị chi phối bời sự phát triển của quốc gia và quan hệ quốc tế. Quá trình phát triên của quốc gia đã làm tăng lợi ích quốc gia ở bên ngoài, làm thay đổi không gian sinh sống về mọi mặt, mơ rộng thế giới quan và thúc đẩy quan hệ 1. A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific Region"", Tlđd, tr. 304. 108 Một sổ vấn đề lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhìn lỊ C h sừ giữa các quốc gia gần kể nhau. Quá trình này không chi dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức và nhu cấu đói với khu vực. Nó còn kéo theo sự thay đổi trong quy mô tương tác, mức độ liên hệ và khả năng cố kết giữa các thành viên khu vực. Khuôn khổ khu vực cũng biến đổi cùng với sự vận động của quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tê phát triến không chi tạo thuận lợi cho quá trình trên, mà còn đem lại những tác động từ bên ngoài vào trong quá trình hình thành khu vực. Trong một số trường hợp, khu vực được hình thành từ áp lực bên ngoài nhiều hơn là bời các tác nhân từ bên trong. Nhiểu tô chức khu vực được hình thành nhưng hoạt động nội khối chưa cao chính là bời nguyên nhân từ quan hệ quốc tế. Tất cả những điều này đã khiến khu vực có tính khả biến. Lịch sử đã cho thây sự biến động của khu vực là một thực tế có trong mọi thời gian. Đến thời hiện đại, sự biên động này càng táng lên. Sự chổng lẩn các khuôn khó khu vực hiện nay cho thây thực tiễn khu vực hóa đang vượt khòi các quan niệm truyền thống vể khu vực. Bởi thế, cán có cái nhìn biện chứng trong nghiên cứu khu vực. + Khu vực có tính mờ. Khu vực là một phần của thế giới chứ không phải là phần tách ròi hay riêng biệt. Các tiêu chí hình thanh nên khu vực có sự vận động theo hướng mở rộng. Bất châp sự phản kháng thường xuvén với tinh mờ, xu hướng mơ rộng không gian văn hóa, xã hội, kinh tê và chính trị cua khu vực vẫn không thế bị ngăn cán. Không gian văn hóa mờ rộng bơi sự giao lưu và phát tán Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 109 văn hóa, không gian xã hội mở rộng bởi sự di cư, không gian kinh tế mở rộng bởi nền kinh tế thị trường và không gian chính trị mở rộng bời sự tác động từ môi trường an ninh - chính trị bên ngoài. Đây là quá trình diễn ra thường xuyên trong lịch sử và trở nên mạnh mẽ hơn bắt đầu từ thời cận đại. Trong đó, động lực bên trong quy đinh tính mở của khu vực chính là xu hướng mở rộng lợi ích quốc gia ra bên ngoài. Mọi quốc gia đều bắt đâu quan hệ với các quốc gia lân bang, sau mở rộng dần ra, vượt khỏi châu lục và tiên tới quy mô toàn cầu. Cùng với đó, nhận thức và quan niệm về khuôn khô khu vực cũng được mở rộng theo. Hơn th ế nữa, tính mở của khu vực hiện nay còn chịu chi phôi rất lớn bởi những thế lực và tác động từ bên ngoài. Quan hệ với các nước lớn luôn chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ khu vực. Chúng tạo áp lực cho tính mở của khu vực. Chính các nước lớn là những nước đi đầu trong việc vượt khỏi khuôn khô khu vực và phát triển quan hệ liên khu vực. Hiện nay, việc quốc gia liên kết vói bên ngoài nhiều hơn bên trong khu vực là phổ biến. Trong khi đó, sự phụ thuộc lẫn nhau và các vâri đề quốc tế liên quan ngày càng nhiều buộc lợi ích quốc gia phải kéo dài ra ngoài khu vực. Sự phụ thuộc lẫn nhau của quốc gia không chi diễn ra trên quy mô khu vực, mà còn trên một phạm vi ngày càng rộng hơn. Sự phát triển quan hệ quốc tế buộc hoạt động quốc gia không thể bó hẹp trong phạm vi khu vực. Quy luật phát triển quan hệ quôc tế chính là một động lực quy định tính mở của khu vực. 110 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc té dưới góc nhìn lịch sù Thực tế cho thấy, chủ nghĩa khu vực hiện nay chu yếu là chủ nghĩa khu vực mở. Như vậy, tính mở của khu vực được quy định bởi cả hai quá trình lịch sử và hiện tại, chịu chi phổi bài cả hai luồng tác động từ bên trong và bên ngoài. Thực tê hiện nay cho thấy, khu vực đang được mở theo nhiểu hướng khác nhau dẫn đên sự chổng chéo các khu vực được quan niệm. Bởi thê', thật khó tách rời khu vực ra khòi môi trường thế giới, nhất là trong bối cảnh hiện nay. + Mọi sự xác định khu vực chỉ là tương đối, ít nhất là cho đến tương lai gần. Như các nhận xét trên đã chi ra, phân định khu vực chịu tác động bởi các yếu tô' tính thẩn, khu vực không phải là bất biến và có tính mở nên hoàn toàn có khả năng biến đổi. Ngoài ra, còn có hai lý do quan trọng đê đi đến nhận xét này. Thứ nhất, khu vực dù hội nhập hay khu vực hóa đên đâu thì còn lâu mới thay thê được quôc gia. Thế giói vẫn bị chia rẽ thành các quốc gia. Quốc gia vẫn tiếp tục là chù thể quan hệ quốc tế cơ bản và rất khó bị thay thế bôi thể chê khu vực nào đó. Lợi ích chung khu vực vẫn dựa vào sự hài hòa với lợi ích quốc gia. Sự hình thành khu vực và sự cô kết khu vực vân phụ thuộc vào ý chí và quan niệm của các quôc gia. Quôc gia quyết định khu vực và sự cô kết khu vực hơn là sự tự thân của khu vực. Thứ hai, sự phân định khu vực đang gặp phải thách thức rât lớn từ quôc tê hóa, toàn câu hóa và các lực lượng toàn cầu. Sự tập trung vào khu vực có vẻ như đang nỏi lén Phân đinh khu vực trong nghiên cứu quốc tế 111 nhưng thực ra nó mang trong mình tính hai mặt rất rõ. Là phan ứng đối vói quốc tế hóa và toàn câu hóa, nó làm tăng ý thức và bàn sắc vê khu vực, làm tăng nhu cầu đôi vói liên kết khu vực. Là bước chuẩn bị tham gia toàn cầu hóa, nó làm giảm tính khu vực và có xu hướng xóa nhòa ranh giói khu vực. Sự đấu tranh giữa hai quá trình này làm tăng sự dao động trong quan hệ quốc tế khu vực, ảnh hưởng đáng kê đến khả năng cố kết khu vực. Nếu hiện tượng liên khu vực trở thành khu vực (ví dụ, liên khu vực Đông Á - Mỹ trở thành khu vực châu Á - Thái Bình Dương) phan ánh xu hướng đầu thì hiện tượng khu vực trờ thành tiếu khu vực (Đông Nam Á trờ thành tiểu khu vực của Đông Á) lại là biểu hiện của xu hướng sau. Quan niệm về chủ nghĩa khu vực mói đã phân biệt với chủ nghĩa khu vực cũ chính bời các tác động từ toàn cầu hóa1. Trong tương lai gần, khu vực vân chi là sự cố kết tương đôì. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối vói việc đánh giá vại trò và triến vọng khu vực đôi với quốc gia và thế giới. Đồng thòi, ý nghĩa tương đối cua khu vực củng cho thây, vai trò cua quốc gia, quan hệ song phương, quan hệ liên khu vực và các quan hệ có tính toàn cầu vẫn không thê bị bỏ qua trong nghiên cứu khu vực dưới góc độ quốc tế. 1. Bjorn Hettne & Bertil Oden, Global Governance in the 21st Century: Alternative Perspectives on World Order, EGDI, Stockholm, 2002, tr. 22. 112 Một số ván đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sủ Tóm lại, việc phân định khu vực là rât quan trọng trong nghiên cứu quốc tế. Tuy nhiên, cho đên nay, quan niệm về khu vực vẫn chưa được thống nhất. Điêu này không chi phản ánh trong sự khác nhau về hệ tiêu chi, vê mức độ của từng tiêu chí và về vận dụng trong thực tiên. Vì thế, đã có những C Ố gắng phân chia khu vực thành các loại hình khác nhau. Ví dụ, phân chia thành tiếu khu vực (sub-region), khu vực (region) và liên khu vực (inter-region). Cách phân chia khác là khu vực nhỏ (micro-region), khu vực lớn (macro-region) và khu vực siêu lớn (mega-regiony. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác nhau trong phân định khu vực không phải chỉ bởi quan niệm khác nhau. Sự khác nhau này còn xuất phát từ các lý do thực tiễn. So với quốc gia và thế giới, khu vực kém bền vững hơn. Khu vực được xác định bởi quốc gia và thế giới hơn là ngược lại. Khu vực vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của quốc gia và tác động từ môi trường quốc tế. Điều này có thê tháy được cả trong lịch sử lẫn hiện tại, đặc biệt là trong bối cành hiện nay. Bời thế, khu vực chỉ là một khái niệm có tính tương đối. Trong nghiên cứu khu vực, có thê cần lưu ý một sô điêm sau: khu vực là một hiện tượng đa diện được xáy dựng trên nhiêu phương diện khác nhau. Vì thế, khu vực nên được xem xét một cách toàn diện. Khu vực là một 1. Narihiro Bono, “Regionalism in East Asia: The transformation of regional political economy in East A sia", tr.3. Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế 113 dạng quan niệm và hoàn toàn có thê thay đổi. Vì thế, khu vực cần được nhìn nhận một cách biện chứng. Khu vực là tập hợp quốc gia và là một phần của thế giói. Vì thế, nghiên cứu khu vực khó mà tách khòi nghiên cứu quốc gia và nghiên cứu quốc tế. 114 NHẬN THỨC VẼ CHỦ NGHĨA KHU vực MỞ ĐẦU Chủ nghĩa khu vực (regionalism) là một thuật ngũ được sử dụng vào cả bôì cảnh trong nước lân trong quan hệ giữa các quốc gia, tức là trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa khu vực là một hiện tượng lịch sử vói những tiền đề, động thái và dấu hiệu của nó đã xuất hiện tù lâu. Chu nghĩa khu vực cũng là một nhân tố quan frọng chi phối lịch sử thế giới cận hiện đại. Mặc dù chi thực sự xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX nhưng chủ nghĩa khu vực đã ghi dấu ẩn trong lịch sừ quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Trên quy mô toàn cầu, chủ nghĩa khu vực nổi lên sau Chiến tranh thế giới thứ hai và ngày càng trở nên mạnh mẽ sau Chiên tranh lạnh1. Hiện nay, chủ nghĩa khu vực chi phối rất nhiều hiện tượng trong đời sống quôc gia và quôc tế. Nó không chi quy định lợi ích quốc gia và chính sách đối ngoại cúa các nước, mà còn tác động tới nhiều xu hướng 1. Vê quá trình của chu nghĩa khu vực, tham khảo Hoàng Khắc Nam, Chu nghĩa khu vực trong lịch sử", Tạp chí nghiên cứu lich sử, SỐ 5 (385), 2008, tr. 59-71. 115 Nhan thdc ve chu nghTa khu vUc trong quan hệ quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, khu vực hóa, hợp tác và hội nhập khu vực,... đều được thúc đẩy bởi chủ nghĩa khu vực. Không còn nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa khu vực đang trở thành một đặc điểm của thế giới hiện đại. Thậm chí, nó còn được coi là tác nhân giúp hình thành "trật tự thế giới mới được khu vực hóa" (new regionalised world orderỴ. Bởi thê, chắc hẳn nhận thức chủ nghĩa khu vực là cần thiết trong nghiên cứu lịch sử thế giới và quan hệ quôc tế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chủ nghĩa khu vực mới chi được bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Theo Shaun Breslirt & Richard Higgott, có hai làn sóng nghiên cứu chủ nghĩa khu vực. Làn sóng thứ nhất được bắt đầu từ những năm 1950 và tập trung chủ yếu vào thực tế liên kết khu vực của Tây Âu. Cơ s ở lý luận của làn sóng này dựa nhiều vào lý thuyết hội nhập khu vực của chủ nghĩa chức năng mới. Sau Chiến tranh lạnh, do sự thay đổi của thực tiễn (biến đổi cơ câu địa-chính trị thế giới, sự tăng trưởng của toàn cầu hóa, sự xuất hiện nhiều mô hình chủ nghĩa khu vực khác nhau ở Bắc và Nam Mỹ, ở Đông Á và Nam Á,...) và yêu cầu bô sung những khiếm khuyết về lý luận của làn sóng thứ nhâ't (chưa thây được tầm quan trọng của bàn sắc trong việc xây dựng khu vực và tác 1. the Global Shaun Breslin & Richard Higgott, "New Regionalism(s) in Political Economy. Conceptual Understanding Historical Perspectives", Asia Europe Journal, 1, 2003, tr. 170. in 116 Mot so van de ly luan quart he quoc te dUdi qoc nhin bch sCr dong cua nhung thach thuc tir ben ngoai,...), nen lan song thu hai nghien cum chu nghia khu vuc da noi len1. Nhin chung, tinh hinh nghien cuu chu nghia khu vuc la mot buc tranh da mau sac voi nhieu quan diem va cach nhin khac nhau ve chu nghia khu vuc. Tren phuong dien ly thuyet, su da dang nay xuat phat tir khai niem khac nhau ve chu nghia khu vtrc, tir quan niem khac nhau ve phan dinh khu vuc, tir cach tiep can khac nhau toi hien tuong nay va tir su danh gia khac nhau ve thuc tien khu vuc hoa tren the gioi. Trong thuc tien, do la boi bieu hien phuc tap va da dang cua van de nay nhu Narihiro Bono da chi ra: "Chu nghia khu vuc moi la hien tuong khong dong nhat, toan dien va da dien..."2. Chu nghia khu vuc la mot hien tuong phuc tap va van dang trong qua trinh dien tien. Do do, bai viet nay chi co tinh cach nghien cuu buoc dau va cung chi tap trung vao lam ro nhung noi dung chu yeu cua chu nghia khu vuc. Tir do, bai viet hy vong co the dong gop phan nao vao viec nhan thuc chu nghia khu vuc cung nhu van dung vao nghien cuu mot so van de trong lich sir the gioi va quan he quoc te. 1. Shaun Breslin & Richard Higgott, "New Regionalism (s) in the Global Political Economy. Conceptual Understanding in Historical Perspectives", Tldd, tr. 168-171. 2. Narihiro Bono, "Regionalism in East Asia: The transformation of regional political economy in East A sia", tr. 3. N hận thức về chủ nghĩa khu vưc 117 NỘI DUNG CỦA CHỦ NGHĨA KHU vự c Như trên đã đề cập, chủ nghĩa khu vực hiện diện cả trên quy mô quốc gia lẫn quốc tế. Nhưng do tồn tại khá nhiều sự khác biệt nên đa phần các nghiên cứu về hiện tượng này đều đi theo hai hướng riêng rẽ: trong nước hoặc quôc tế. Trong bài này, chứng ta chi bàn đêh chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế, cụ thể là trong quan hệ giữa các quốc gia trên cùng một khu vực địa lý. Thế nhưng trong vấn đê' này, cũng có nhiều khái niệm khác nhau dựa ưên cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu khác nhau. Dưới đây là một sô' quan niệm khác nhau về nội dung chủ nghĩa khu vực: Đầu tiên là những khái niệm xác định chủ nghĩa khu vực dựa trên ý thức khu vực. Ví dụ, chỉ xây dựng dựa trên nội dung ý thức, Từ điển Merriam-Webster cho rằng chủ nghĩa khu vực là "sự nhận thức và lòng trung thành đối vói khu vực đặc thù với một cư dân tương đồng"1. Từ điển Britanica cũng dựa trên cơ sở ý thức này và có sự nhấn manh nhiều hơn đến vai trò của yếu tố tình cảm và bản sắc. Theo Britanica, "Chủ nghĩa khu vực hay nhận thức khu vực là sự liên quan về tư tưởng với nhận thức phát triển từ tinh cảm về bản sắc bên trong khu vực"2. Cũng trên cơ sở ý thức như nội dung chủ yếu của chủ 1. http://www.m erriam -webster.com/dictionary/regionalism . 2. http://www.britanica.conVbps/search?query=regionalism&source= MYVTEXT. 118 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ nghĩa khu vực, Từ điển Quan hệ quốc tê Penguin đã cô gắng chi tiết hơn những nội dung này và đê cao hơn phương diện tư tưởng của ý thức khu vực khi chi ra "Đó là tập hợp thái độ, lòng trung thành và tư tưởng mà đã tập trung tâm trí của các cá nhân cũng như tập thê vế cái mà họ nhận thức là khu vực "của h ọ ""1. Nhìn chung, đây là dạng khái niệm có trong nhiều cuốn từ điên, tức là được sử dụng khá phổ biến. Điểm đáng lun ý đầu tiên của các khái niệm trên là đã chỉ ra được cơ sở ý thức của chủ nghĩa khu vực. Đó chính là sự nhận thức chung về khu vực như không gian chù yếu và môi trường trực tiếp của mình. Nhận thức này được phản ánh cả về phương diện tình cảm và tư tường. Đây là nội dung rất quan trọng mà nếu thiếu nó, chủ nghĩa khu vực không tồn tại. Nếu tình cảm đem lại sự gắn bó khu vực thì tư tưởng là sự đinh hướng, dân dắt cho chủ nghĩa khu vực. Đó có thể là cách tiếp cận "khu vực" của các nhà lãnh đạo quốc gia trong việc thực hiện chánh sách đối ngoại và các giải pháp khu vực trong việc giải quyết những vấn đề của khu vực2. Hay "nhận thức (khu vực) này thúc đây các quôc gia đó hợp tác cùng nhau theo cách này hay cách khác nhằm đạt được những mục đích chung, thoa mãn các nhu cầu chung, hoặc đê giải quvét cac van đe chinh trị, quân sự, kinh tê và các vâíi để thực 1, 2. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary o f International Relations, Penguin Books, London, 1998, tr. 473. Nhan thCic ve chu nghTa khu vUc 119 tien khac"1. Ngoai ra, trong khong it truong hop, y thuc khu vuc con dong vai trd cho su hinh thanh chu nghia khu vuc khi la cai co truoc va la cai thuc day thuc tien hop tac khu vuc. Dong Nam A la mot vi du nhu vay khi nhan thuc ve khu vuc co tir nua dau the ky XX trong khi chu nghia khu vuc va su hop tac khu vuc xuat hien muon hon trong nua sau the ky XX. Va cudi cung, cac khai niem nay to ra thich hop de chi hien tuong chu nghia khu vuc da hinh thanh trong y thuc nhung vi nhieu ly do khac nhau ma chua duoc trien khai nhieu trong thuc tien. Tuy nhien, cac khai niem nay xem chimg cung co nhung han che nhat dinh. Thu nhat, viec coi y thuc khu vuc nhu diem xuat phat cua chu nghia khu vuc khong han co gia tri pho quat. Tuy co nhung truong hop y thuc khu vuc co truoc nhung khong phai la tat ca. Hop tac khu vuc chau A - Thai Birth Duong da dien ra nhung y niem ve khu vuc nay van chua ro rang va con nhieu khac biet. Thu hai, su tap trung vao co so y thuc khong phan arth duoc het qua trinh cua chu nghia khu vuc. Su ton tai va van dong cua chu nghia khu vuc la ket qua cua moi tuong tac hai chieu mot cach bien chung giua nhan thuc chu quan va hoan canh khach quan. Chu nghia khu vuc Dong A ch^c se kho noi len neu khong co nhung tac dong khach quan moi cua thoi ky hau Chien tranh lanh, 1. A. Hasnan Habib, "Defining the "Asia Pacific R egion"", The Indonesian Quarterly, Vol. XXIII, No. 4, 1995, tr. 304. 12 0 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin Itch sử những dòng thương mại và đầu tư nội vùng tử những năm 1980 và cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Thú ba, việc dựa vào nhận thức khu vực với các dấu hiệu định tính cùa nó (tình cảm, tư tưởng) để xác định chu nghĩa khu vực vừa sẽ khó khăn, vừa là không đủ. Bản thân "ý thức khu vực" là tương đối mơ hồ khi nhận thức của cá nhân và tập thể thường khá khác nhau và đa dạng hon nhiều so với khu vực trong thực tiễn. Chủ nghĩa khu vực còn có những yếu tố vật chất có thế định lượng nhu điểu kiện địa lý, giao lưu văn hóa, hoạt động kinh tế và hành động chính trị,... Thứ tư, trong các khái niệm này, ý thức về bàn sắc được đánh giá cao trong khi nhận thức về lợi ích chung lại khá mờ nhạt. Không bác bỏ vai trò của bản sắc khu vực nhưng lợi ích chung thường tạo ra động lực lớn hơn cho chủ nghĩa khu vực so với bản sắc. Không có lợi ích khu vực chung được nhận thức, chủ nghĩa khu vực khó lòng được thúc đẩy trong thực tế. Có thế thây rõ động cơ lợi ích này nằm trong hầu hết các hiện tượng chủ nghĩa khu vực hiện nay. Có lẽ củng bởi sự quan tâm chủ yêu đến những động thái chủ quan hơn là hoàn canh khách quan của chu nghĩa khu vực nên dân đến sự tách biệt nhât định hiện tượng này với khu vực hóa (regionalisation). Ví dụ, Shaun Breslin & Richard Higgott nhãn mạnh sự phân biệt có tính ban chat giưa khu vực hóa là quá tnnh de facto được thúc đáv bơi thị trường và chu nghĩa khu vực là quá trình de jure Nhận thức về chủ nghĩa khu vưc 121 được thúc đẩy bởi các quốc gia1. Nói cách khác, theo quan điêm này, hai quá trình kê trên đã được phân biệt khá rõ ràng, ít nhâ't về mặt khái niệm. Khu vực hóa là quá trình có tính khách quan nhiều hơn diễn ra bởi các lực lượng thị trường nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực. Trong khi chủ nghĩa khu vực có tính chủ quan nhiều hơn khi được tạo dựng bởi cố gắng của các nhà nước nhằm xây dựng chính sách thúc đẩy hợp tác khu vực. Đây là quan niệm có phần khác với nhóm quan niệm thứ tư (sẽ đề cập ở bên dưới) cho rằng khu vực hóa là một nội dung của chủ nghĩa khu vực. Không giôVig với các khái niệm trên, nhóm khái niệm thứ hai quan tâm nhiều hơn đến các biểu hiện thực tiễn mà ở đây là mức độ hợp tác giữa các chủ thế. Theo đó, chủ nghĩa khu vực được xây dựng dựa trên mức độ phát triển nào đó của sự hợp tác giữa các quốc gia thành viên. Tuy cừng dựa trên cơ sở này nhưng quan niệm về mức độ hợp tác lại tương đối khác nhau. John Ravenhill cho rằng "chủ nghĩa khu vực là sự cộng tác liên chính phủ trên một cơ sở giới hạn về mặt địa lý"2. Trong khái niệm này, sự cộng tác giữa các quốc gia trong vùng lỏng hay chặt, ngắn 1. Shaun Breslin & Richard Higgott, "New Regionalism(s) in the Global Political Economy. Conceptual Understanding in Historical Perspectives", Tlđd, tr. 167. 2. John Ravenhill, "A Three Bloc World? The New East Asia regionalism ", International Relations o f the Asia-Pacific, Vol 2 (2002), tr. 168. 122 Một số vấn đề lý luận quan hê quốc tế dưới góc nhin lệCh sử hạn hay dài hạn, đon lẻ hay toàn diện thì đểu có thê được coi là chủ nghĩa khu vực. Nói chung, khái niệm nàv tuy bao quát nhưng hơi đơn giản. Cụ thê hơn với mức độ hợp tác chặt chẽ hơn, Joseph Nye cho rằng chủ nghĩa khu vực là "sự hình thành hiệp hội hay nhóm liên quốc gia trên cơ sở khu vực"1, o đây, dưới cái nhìn của chủ nghĩa thê chế quốc tế (international institutionalism), chủ nghĩa khu vực được cho là tổn tại khi sự hợp tác giữa các quốc gia trong vùng đã ở mức liên kết tương đối cao với sự hình thành thê chế chung cho khu vực. Thê chế chung dù dưới hình thức nào cũng đểu phản ánh mức độ gắn kết cao hơn, mục tiêu chung xác định rõ ràng hơn, sự hợp tác cũng có tính ổn định và thường xuyên hơn so với sự cộng tác chung chung trong quan niệm của Ravenhill. Nhiều người đã dựa vào khái niệm này đê nói về chủ nghĩa khu vực trong những năm 19801990 ở Nam Á với SAARC (1985) và châu Á - Thái Bình Dương với APEC (1989),... Tiêp theo, dưới cái nhìn hệ thông, chủ nghĩa khu vạrc được quan niệm như "sự phát triển của hệ thống chính trị hay xã hội trên một hay nhiều vùng"2. Việc sử dụng thuật ngữ "hệ thống" ơ đây phàn ánh ít nhất ba điều. Một là, sự hợp tác giữa các thành viên khá chặt chẽ vói những lợi ích 1. Joseph Nye, International Regionalism: Readings, Little Brown and Company, Boston, 1968, tr. vii. 2 . http://ww w.m erriam -webster.com /dictionary/regionalism . Nhận thức vê chủ nghĩa khu vực 123 chung nên mới hình thành được hệ thống quôc tế khu vực. Hai là, sự tương tác trong hệ thống là đa dạng và đa chiều, không chi giữa các thành viên với nhau mà cả giữa các thành viên vói hệ thống. Ba là, hệ thống là một chỉnh thê với những điểm chung giữa các thành viên, giúp phân biệt với các khu vực khác. Trong những năm gần đây, có một xu hướng quan niệm khác về chủ nghĩa khu vực với mức độ hợp tác cao hơn và cụ thê hơn. Đó là các quan niệm coi chủ nghĩa khu vực chính là sự liên kết khu vực1 hay sự hội nhập khu vực2. Theo đó, chủ nghĩa khu vực được coi là tổn tại khi sự hợp tác giữa một nhóm chủ thể nào đó đã đạt tới mức độ liên kết hay hội nhập. Sự hợp tác trong thê chế khu vực có thể lỏng lẻo nhưng sự hợp tác trong liên kết hay hội nhập chắc chắn là phải sâu sắc và mạnh mẽ hơn nhiều. Hội nhập cũng tạo ra hệ thông khu vực chặt chẽ với tính chinh thể rất rõ ràng. Đây là biểu hiện cao nhất, hay nói cách khác là trạng thái cuối cùng của chủ nghĩa khu vực. Với cách tiếp cận của chủ nghĩa hành vi (behavioralism), các khái niệm trên đã đem lại sự bổ sung có ý nghĩa cho việc nghiên cứu chủ nghĩa khu vực. v ề bản thể luận, chứng phản ánh được nội dung của chủ nghĩa khu vực, 1 Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (Chủ biên), Hướng tới Cộng đổng Kinh t ế Đông A, Nxb. Thê'giới, Hà Nội, 2004, tr. 55. 2 Feng Lu, Free Trade Area: Awakening Regionalism in East Asia, W orking Paper No. E2003010, China Center for Economic Research at Peking University, tháng 10-2003, tr. 9. 12 4 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lỊCh sù bao hàm cả nội dung ý thức và vật chất. Các biêu hiện hay trạng thái được đưa ra (sự cộng tác, thê chế khu vực, hệ thống, hội nhập) đều là kết quả của sự nhận thức khu vục sâu sắc và mức độ hợp tác khu vực tương đối cao. Vể nhận thức luận, chúng cũng cho thây nhận thức khu vực có thê biến đổi bởi sự phát triển của hợp tác khu vực. Quá trình mở rộng EƯ là một ví dụ khi đang làm thay đôi nhận thức khu vực từ một phần Tây Âu ban đầu sang phẩn lón châu Âu hiện nay. v ề phương pháp luận, chúng cung cấp thêm những hành vi cụ thể, những biểu hiện định tính và những trạng thái thực tiễn đê xác định được chủ nghĩa khu vực. Mặc dù các khái niệm trên có vẻ toàn diện hơn song vẫn chưa phải là đã hoàn thiện. Việc dựa chủ yếu vào mức độ tương tác giữa các quốc gia trong vùng để xem xét chù nghĩa khu vực xem chừng vẫn gặp khó khăn. Thứ nhãì, sự đa dạng ý kiến ở trên cho thấy chưa có tiêu chí thông nhát trong việc xác định chủ nghĩa khu vực. Mức độ hợp tác khu vực đến đâu thì có thể coi đó là chủ nghĩa khu vực? Hội nhập của EU thì đã đành nhưng tương tác lỏng lẻo vã nhiều xung đột như ờ Nam Á hay vùng Vinh thì liệu ỏ đó có chủ nghĩa khu vực hay không? Đây là những câu hòi vârj còn đê ngỏ và chưa được giải quyết. Thứ hai, các quan niệm này hoi siêu hình khi chi nhấn manh các trạng thái khác nhau của chu nghĩa khu vực mà không cho thâv rõ tinh quá trinh của hiện tượng này. Chủ nghĩa khu vực có quá trinh vận động của nó đi từ giàn đơn đến phức tạp, từ Nhan thtic ve chu nghTa khu vUc 125 bo phan den tong the, tir don tuyen den da tuyen. Co le cac khai mem 6 tren thien ve phan anh ket qua cua chu nghia khu vuc voi nhung muc do manh yeu khac nhau hon la chinh ban than no. Thu ba, neu chi dua thuan tuy vao cac khai niem nay thi cung kho phan anh duoc thuc tien von phuc tap va da dang hon. Vi du, chau A - Thai Binh Duong co the che day (APEC), co hop tac day nhimg quan niem ve khu vuc chau A - Thai Binh Duong co dong nhat hay khong giua cac thanh vien? Va lieu 6 day la chu nghia khu vuc hay lien khu vuc? Do su noi len cua yeu to kinh te trong quan he quoc te sau Chien tranh lanh, duoi anh huong cua xu huong tiep can kinh te chinh tri quoc te, da xuat hien them xu huong thu ba xem xet chu nghia khu vuc tren goc do kinh te. Dua vao thuc tien cac dong kinh te dang dien ra manh me trong nhieu khu vuc cua the gioi hien nay, mot so hoc gia nhu Paul Kruman, Frankel, Stein va Wei dinh nghia chu nghia khu vuc nhu mot qua trinh kinh te dua tren cac dong kinh te tang truong nhanh giua mot nhom quoc gia nao do trong cung mot khu vuc hon la giua cac nuoc nay voi cac nuoc khac 6 noi khac tren the gioi1. Tir dien Bach khoa toan thu cua Viet Nam cung dinh nghia theo cach nhu vav. "Chu nghia khu vuc la harth dong cua chinh phu 1. Edward D. M ansfield & Helen V. Milner, "The New Wave of Regionalism ", International Organization, Vol. 53, No. 3, Summer 1999 jh e M assachusetts Institute of Technology Press, tr. 590. 12 6 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử nhằm tự do hóa hoặc thuận lợi hóa thương mại trong phạm vi khu vực, đôi khi với sự thành lập khu vực thương mại tự do hay liên minh hải quan"1. Quan niệm này có sự tương tác đáng kê với chủ nghĩa tự do mới ịneoliberalism) trong nghiên cứu quan hệ quốc tê. Theo đó, kinh tế thị trường được coi là một trong những động lực chủ yếu thúc đẩy hợp tác và hội nhập khu vực. Lợi ích phát triển khiến các nước có nhu cầu mở rộng thị trường ra bên ngoài biên giới và tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực. Từ đó, họ coi kinh tế là yếu tô' cơ bản định hình nên chủ nghĩa khu vực. Những người theo quan điểm này thường coi các thành viên tham gia hiệp định ưu đãi thương mại (Preferential Trade Agreement - PTA) khu vực là một nhóm có tính khu vực2. Thậm chí, những người ủng hộ quan điểm này còn đưa ra thuật ngữ "chủ nghĩa khu vực m ói" (new regionalism) để chỉ làn sóng chủ nghĩa khu vực thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Họ cho rằng toàn cầu hóa kinh tế và những biến đổi kinh tế - chính trị sau Chiến tranh lanh đã quy định sự nổi lên của làn sóng chủ nghĩa khu vực mới với những đặc thù mới. Wilfred J. Ethier đưa ra sáu đặc thù của chủ nghĩa khu vực mói mà đa phần chúng là về kinh tê. Đó là: (a) Sự tham gia của các nước nhỏ cùng với 1. http.//dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param. 2. Edward D. Mansfield & Helen V. M ilner, "T h e New W ave of Regionalism ", Tldd, tr. 592. Nhan thitc ve chu nghTa khu vuc 127 các nưóc lớn như Hiệp đinh thương mại tự do Bắc MỸ (NAFTA) là một ví dụ; (b) Các nước nhò thường tiêh hành cãi cách đơn phương như Mêhicô với NAFTA hav một sô nước Scandinavia đối với EU; (c) Tự do hóa thương mại diễn ra với tốc độ vừa phải như NAFTA và MERCOSUR; (d) Tự do hóa đạt được chủ vếu là bơi các nước nhò chứ không phải các nước lớn như trường hợp Canada và Mêhicô trong NAFTA; (đ) Các thoa thuận khu vực thường hướng tới sự hội nhập "sâu" như EU là điẽn hình; (e) Các thòa thuận khu vực thường dựa theo khu vực địa lý, tức là các thành viên là những quổc gia láng giềng1. Xây dựng khái niệm chủ nghĩa khu vực dưới góc độ kinh tê có những cơ sờ hợp lý của nó. Thứ nhất, lợi ích kinh tê - động lực quan trọng cua chu nghĩa khu vực - đủ mạnh và khá bền vững nên tạo được kha năng hình thành và niêm tin vê' sự ôn định của chu nghĩa khu vực. Thứ hai, lĩnh vực kinh tế là nơi dễ đạt được V chí hợp tác chung giữa các quốc gia ửong một khu vực hơn là các lĩnh vực khác. Vì thế, khu vực hóa dễ diễn ra hơn trong lĩnh vực kinh tế, tạo điểu kiện cho chu nghĩa khu vực nảy nỡ. Thứ ba, cách tiếp cận từ góc độ kinh tê to ra hữu ích trong việc tim hiếu chu nghĩa khu vực sau Chiên ưanh lạnh khi làn sóng chu nghĩa khu vực hiện nav đang tăng mạnh trong lĩnh vực kinh tế, khi hợp tác kinh tê khu vực đang diên ra 1. Wilfred J. Ethier, 'Th e New Regionalism ", The Economic Jounwl, No. 108, July 1998, Royal Economic Society, UK, tr. 1150-1152. 12 8 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ nhiều hơn bất cứ lĩnh vực nào khác với hàng trăm PTA tràn lan trên thế giới và khá nhiều PTA này thường năm trong khuôn khô khu vực nhất định. Tuy nhiên, khái niệm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Thứ nhất, dường như khái niệm này chi tương đối thích hợp đối với hiện tượng chủ nghĩa khu vực thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Nó không giúp giải thích được nhiều hiện tượng chủ nghĩa khu vực trước đó vổh chịu chi phối của nhiều yếu tố khác hơn là kinh tế. Chủ nghĩa khu vực Đông Nam Á là một ví dụ. Chủ nghĩa khu vực Đông Nam Á được ghi dâu âh năm 1967 với việc thành lập ASE AN nhưng hợp tác kinh tế nội khôi là không đáng kể trong khi hợp tác chính trị tỏ ra ấn tượng hơn nhiều. Thứ hai, việc chỉ dựa vào kinh tế như động lực và biểu hiện của chủ nghĩa khu vực tỏ ra hoi phiến diện, kê cả đôi với thời kỳ sau Chiến tranh lạnh khi thực tế đây là một hiện tượng đa dạng và đa diện hơn nhiều những gì nó có trong kinh tế. Nếu chỉ dựa vào kinh tế thì cũng không giải thích được sự hình thành và vận động của chủ nghĩa khu vực Đông Á hiện nay. Đó là một quá trình không chỉ được thúc đẩy bời yêu tô kinh tê, mà còn chịu chi phôi manh mẽ của yếu tô địa lý, chinh trị, văn hóa, xã hội. Thứ ba, trong môi tương tác giữa chủ nghĩa khu vực và kinh tế, rất khó quy cho chủ nghĩa khu vực là nguyên nhân làm tăng dòng kinh tế nội vùng. Vậy những dòng kinh tê tăng manh giữa các quốc gia thuộc những khu vực địa lý khác nhau có được xếp chung vào khái niệm chủ nghĩa khu vực hay không? Nhan thitc ve chu nghia khu vuc 129 Nhằm khắc phục khiếm khuyết của những khái niệm kể trên, có xu hướng tìm hiếu chủ nghĩa khu vực một cách tống hợp hơn với hệ tiêu chí mờ rộng hơn. Một trong số đó là ý kiên của Andrew Hurrel. Tác giả này cho rằng nội dung của chủ nghĩa khu vực được tạo hợp bởi năm thành phần: 1/ Khu vực hóa; 2/ Nhận thức khu vực và bản sắc; 3/ Hợp tác liên quốc gia khu vực; 4/ Hội nhập khu vực do quốc gia thúc đẩy; 5/ Sự cố kết khu vực1. Cũng đi theo cách như vậy, Narihiro Bono đã cố gắng làm rõ hơn tính đa diện, đa tầng và đa cấp độ của hiện tượng này. v ề lĩnh vực, Narihiro Bono cho rằng chủ nghĩa khu vực bao gồm các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, an ninh và môi trường. Về chủ thể, chủ nghĩa khu vực có sự tham gia của cà thị trường (chủ thể kinh tê), chủ thê xã hội và quõc gia dân tộc (chủ thê chính trị),...2. Cách xác định chủ nghĩa khu vực dựa trên những dâ'u hiệu như vậy rõ ràng có những ưu điểm đáng kể. Thứ nhất, chúng có tính toàn diện hơn về nội dung, ít nhâ't là so với nhóm khái niệm thứ nhất chỉ đề cập ý thức khu vực. Nội dung của chủ nghĩa khu vực theo cách hiếu này bao gồm cà phương diện ý thức chủ quan (nhận thức và bàn sắc, hợp tác và thúc đẩy hội nhập) lẫn hoàn cành vật chất khách quan (khu vực hóa). Thứ hai, chứng cũng hợp lý hơn khi phàn ánh được tính quá trình của chủ nghĩa 1, 2. Narihiro Bono, "Regionalism in East Asia: The transformation of regional political econom y in East A sia", Tldd, tr. 2, 3. 130 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử khu vực với những mức độ hợp tác khác nhau và tăng dần lên (hợp tác, hội nhập, cố kết). Cách hiểu này ít siêu hình hơn nhóm khái niệm thứ hai vôn có xu hướng quv chủ nghĩa khu vực vào một trạng thái tương tác nhất định. Thứ ba, chúng cũng phản ánh đầy đủ hơn về những khía cạnh khác của chủ nghĩa khu vực như Narihiro Bono đã làm rõ. Lĩnh vực của quá trình chủ nghĩa khu vực ở đây rõ ràng là đa dạng hơn nhóm quan niệm thứ ba thiên về kinh tế. Chủ thể ở đây cũng mở rộng khi bao gồm cả quốc gia và phi quốc gia chứ không thiên về quổíc gia như khái niệm của Ravenhill. Vói những ưu điểm như vậy, cách hiểu thứ tư có thể là công cụ phân tích chủ nghĩa khu vực phổ quát hơn cả về không gian và thời gian nghiên cứu. Mặc dù vậy, xu hướng nhìn nhận chủ nghĩa khu vực một cách tổng hợp hóa không phải là không có vân đề. Vân đề đầu tiên là sự đúc rút thành khái niệm hay bị đê ngỏ mà có lẽ là do hệ tiêu chí hoi rộng. Cả Andrew Hurrel và Narihiro Bono đều chi nêu các nội dung đa dạng của chủ nghĩa khu vực mà không đi vào khái niệm, vấn đề thứ hai là hoàn toàn có thể rút gọn bằng cách kết hợp các nội dung 3, 4 và 5 (hợp tác, hội nhập và cố kết). Thực ra, cả ba nội dung này đều phản ánh quá trình của chủ nghĩa khu vực đi từ hợp tác đên hội nhập. Và cùng vói đó, sự cô kê't khu vực cũng được củng cố theo. Vân đề thứ ba liên quan đến nội dung khu vực hóa. Narihiro Bono cho rằng khu vực hóa là một quá trình liên quan chủ yêu đêh các chủ thê phi quôc gia (các công ty xuất nhập khẩu và đáu Nhận thức vê chủ nghĩa khu vực 131 tư với các nền kinh tế láng giềng)1. Có lẽ quan niệm khu vực hóa như vậy là hoi bị hẹp và có thể dẫn đến sự không rõ ràng trong khái niệm chủ nghĩa khu vực. Theo chúng tôi, khu vực hóa là quá trình phô biến các giá trị chung có tính khu vực. Các giá trị này là đa diện chứ không phải chì bó hẹp trong phạm vi kinh tế. Quá trình khu vực hóa được thúc đẩy khá nhiều bởi quốc gia chứ không phải chỉ mỗi chủ thế phi quốc gia. Vâh đê' thứ tư là về quan hệ giữa khu vực hóa và chủ nghĩa khu vực. Các tác giả trên cho rằng khu vực hóa là một nội dung của chủ nghĩa khu vực. Đây là ý kiến khác vói Shaun Breslin & Richard Higgott (đã nêu trong nhóm ý kiên đầu tiên), có sự tách biệt rõ ràng giữa khu vực hóa và chủ nghĩa khu vực. Theo chúng tôi, nhập hay tách hoàn toàn hai quá trình này đều không Ổn. Khu vực hóa có sự vận động khách quan của nó và chịu tác động của nhiều nhân tố chứ không phải mỗi chủ nghĩa khu vực. Hơn nữa, khu vực hóa nhiều khi diễn ra trước và trở thành môi trường cho sự thúc đẩy chủ nghĩa khu vực. Khu vực hóa nói chung rộng hơn chù nghĩa khu vực. Vì thê' khó có thế coi khu vực hóa như một thành tô nằm trọn vẹn trong chủ nghĩa khu vực như ý kiến của nhóm thứ tư. Ngược lại, sự phân biệt khu vực hóa và chù nghĩa khu vực có thê cần thiết về mặt lý thuyết nhưng sự chia tách hoàn toàn như ý kiến của Shaun Breslin & 1. Pablo Bustelo, The Impact o f the Financial Crises on East Asian Regionalism, tháng 8-2000, tT. 10, http://www.ucm.es/info/geeao.htm 13 2 Một số vấn để lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Richard Higgott thì lại không phản ánh đầy đủ môi quan hệ qua lại giữa chúng. Trên thực tế, chủ nghĩa khu vực và khu vực hóa có cả sự đan xen, tương hỗ và hòa quvện nhau, khá khăng khít. Nhìn chung, khu vực hóa hoàn toàn có thế đóng vai trò là động lực và cơ sở khách quan thuận lợi cho chủ nghĩa khu vực. Trong nhiều trường hợp, khu vực hóa lại là kết quả của chủ nghĩa khu vực. Rõ ràng, giữa chúng có sự nằm trong nhau, dù không phải tất cả. Do vậy, cũng khó mà tách biệt hoàn toàn hai quá trình này. Giữa chúng có sự giao thoa vói nhau. Trong đó, một phần khu vực hóa là nội dung của chủ nghĩa khu vực. Ngược lại, chủ nghĩa khu vực là một trong những tác nhân thúc đẩy khu vực hóa. ĐÔI ĐIỀU RÚT RA Từ những trình bày và phân tích ở trên, bài viết đưa ra một số nhận xét xung quanh khái niệm và nội dung của chủ nghĩa khu vực. 1. Chủ nghĩa khu vực vốn rất đa dạng trên thế giới, khá khác nhau trong lịch sử và hiện tại. Vì thế, đã có nhiều cô gắng xây dựng khái niệm và xác định những nội dung chủ yếu của hiện tượng này. Có ít nhất bôn cách tiếp cận được đưa ra. Trong đó, nhóm ý kiến đầu tiên dựa chủ vêu vào nội dung ý thức khu vực. Nhóm thứ hai quan tâm đên mức độ hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực. Nhóm thứ ba nhẩn mạnh vai trò động lực của kinh tê và sự hợp tác kinh tê. Và nhóm thứ tư mưu tìm một sự tổng hợp vói Nhận thức về chủ nghĩa khu vực 133 nhiều nội dung hơn. Nhìn chung, các quan niệm đó đều chứa đựng đồng thời những cơ sở hợp lý cũng như các hạn chế nhất định. Do tính phức tạp của vân đề, cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chủ nghĩa khu vực nào được châp nhận rộng rãi. 2. Cho dù có sự đa dạng cả về thực tiễn lẫn trong lý luận, chủ nghĩa khu vực vẫn có những nội dung chung. Dựa vào những điếm hợp lý của các quan niệm trên, theo chúng tôi, chủ nghĩa khu vực có thê được bao gồm ba nội dung chính với những biểu hiện khác nhau. Ba nội dung này là: - Nhận thức khu vực: Nhận thức khu vực ở đây chính là ý thức về khu vực như không gian trực tiếp của mình. Bên cạnh đó, có thể có thêm ý thức về bàn sắc tùy từng nơi. Ý thức khu vực ít nhất phải được phản ánh trong tư tưởng với nhu cầu gắn bó giữa các thành viên. Ở một số nơi, có thê có thêm sự phản ánh qua tình cảm khu vực. Trong tư tưởng khu vực, nhận thức về lợi ích chung của khu vực là quan trọng nhât bởi đây là động lực và cái đích cho chủ nghĩa khu vực. - Hợp tác khu vực: Hợp tác khu vực ở đây cần được hiểu là sự ưu tiên trong chính sách cũng như những cố gắng thực tiễn thúc đẩy hợp tác trên quy mô khu vực. Sự hợp tác này bao gồm cả phương diện song phương và đa phương. Đó phải là quá trình có tính hướng đích tói hội nhập khu vực. Nó có thê được phản ánh cả về phương diện thê chế hóa với hình thức tô chức khu vực nào đó nhằm tạo điều kiện cho sự thúc đẩy hợp tác khu vực. Nó 134 Môt số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ có thế diễn ra chỉ trên kênh nhà nước - nhà nước hoặc cả trên kênh nhân dân - nhân dân với sự tham gia của các chủ thê phi quốc gia. - Khu vực hóa: Khu vực hóa ở đây là quá trình hình thành ngày càng nhiều các điểm chung có tính khu vực. Các điểm chung này có thể được thể hiện qua lợi ích chung và mục đích chung, qua sự củng cô' bản sắc truyền thống và nảy sinh những bản sắc khu vực mói, qua sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc trong khu vực, qua sự phôi hợp và liên kết khu vực ngày càng tàng,... 3. Tuy nhiên, bởi thực tiễn chủ nghĩa khu vực rất đa dạng nên việc bó buộc vào một khái niệm chung xem chừng sẽ làm nghèo nội dung. Vì thế, có thê phân chia thành hai cấp độ hay khái niệm hẹp và khái niệm rộng. Khái niệm hẹp chỉ gổm nội dung và những dấu hiệu đâu tiên, tức là nhận thức khu vực. Thực tế cho thây vẫn có thê coi đó là chủ nghĩa khu vực khi đã có nhận thức khu vực được phàn ánh trong tư tưởng hay chính sách cho dù kết quả hợp tác chưa cao. Theo đó, chủ nghĩa khu vực có thê là: "Ý thức về khu vực vói những giá trị chưng mà tù đó thúc đây hợp tác khu vực". Đây là sự xây dựng khái niệm dựa chủ yếu vào cơ sở chủ quan. Khái niệm rộng bao gổm cả ba nội dung kế trên. Trong trường hợp này, chủ nghĩa khu vực có thế là: "Ý thức khu vực và những cô gắng thúc đẩy hợp tác khu vực nhằm thực hiện những lợi ích chung trong khu vực." So vói khái Nhận thức về chủ nghĩa khu vực 135 niệm hẹp, khái niệm này rộng hơn khi bao gổm thêm những nội dung về mặt thực tiễn. Bài viết nàv còn có thêm mong muốn đóng góp phần nào cho việc nghiên cứu chủ nghĩa khu vực cũng như công cuộc hội nhập khu vực của nước ta. Cho dù sau này Việt Nam mơ rộng quan hệ đêh đâu, khu vực vẫn là môi trường trực tiếp cua chúng ta, lợi ích khu vực vẫn là thiết thân đối với chứng ta. Và vì vậy, chu nghĩa khu vực vẫn luôn là yếu tố phải tính đêh trong quan hệ đối ngoại cua chúng ta. 136 CHÚ NGHĨA KHU Vực TRONG LỊCH sử Trong hàng nghìn năm lịch sử, thế giới bị chia rẽ bời các hình thức tổ chức con người khác nhau. Con người và thế giới được phân chia theo những ranh giới khác nhau, từ địa lý, chính trị, kinh tế cho tới sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ,... Bước sang thế kỷ XXI, cơ hội cho sự thông nhát thế giới trở nên lớn hơn bao giờ hết. Cơ hội này được quy định bởi xu thế toàn cầu hóa, sự hình thành nền kinh tế và chính trị thế giới, sự nổi lên của những vấn đề toàn cầu, vai trò ngày càng tăng của các lực lượng toàn cầu, sự xói mòn chủ quyền quốc gia, và bởi mong mỏi về một thế giới hòa bình hon. Trong bối canh đó, vấn đê' "th ế giới tiếp tục được ngự trị bơi các quốc gia hay sẽ trờ nên đại đổng?" đã sôi nổi trờ lại. Đỏ là cuộc tranh luận giữa những người theo chu nghĩa quôc gia (statism) và những người theo chú nghĩa toàn cầu {globalism). Bên dưới hai chủ nghĩa này, hàng loạt các câu hoi khác cũng được đặt ra. Nếu thê giới vẫn gổm những quôc gia thì quốc gia sẽ thay đôi như thế nào? Quan hệ giữa chúng sẽ ra sao? Nếu thế giới đại đóng thì Chủ nghía khu vực trong lịch sử 137 mô hình cua nó sẽ là gì? Các bộ phận nhỏ hơn của nó là gì? Sự liên kết giữa chúng sẽ ra sao?... Ngoài hai xu hướng trên, còn có một quan niệm xuất hiện muộn hơn và chịu ảnh hương nhất định của chủ nghĩa tự do mới (neoliberalism) và phần nào là chủ nghĩa kiến tạo (constructivism) trong quan hệ quốc tế. Quan niệm nàv cho rằng thế giới có thê sẽ được phân chia thành các khu vực. Những người theo quan điếm này cho rằng phương án khu vực có thể khắc phục được những khó khăn của hai lý thuyết trên. Đôi vói quan niệm đầu của chủ nghĩa quô'c gia, hội nhập khu vực là sự tập hợp quốc gia đê phản ứng vói tác động của toàn cầu hóa. Hội nhập khu vực vẫn cho phép quốc gia tổn tại, đồng thời đem lại cho nó kha năng thích ứng với bôi cảnh mới. Ngoài ra, cơ chế họp tác khu vực có thê hạn chế phần nào tình trạng vô chính phu vốn được coi là nguồn gốc gây nên xung đột giữa các quốc gia. Mà khi xung đột được giam bớt, quốc gia có thêm lý do đê tổn tại. Đôi vói quan niệm sau cua chu nghĩa toàn cầu, hội nhập khu vực được coi là phương án trung gian, là bước chuvên tiếp lên hội nhập toàn cầu. Trong quá trình tiên tới hội nhập khu vực, một số nội dung thuộc chu quvền quốc gia sẽ dẩn được chuyển giao cho những thê chế chung. Tính mơ cua khu vực cho phép thế giói vẫn giai quyết được các vẩn đề toàn cầu và thực hiện được toàn cầu hóa. Vai trò cua các thê chê khu vực sẽ ngày càng tăng, kha năng liên 138 Một số vắn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử kết giữa chúng ngày càng lớn. Và hội nhập toàn cấu hoàn toàn có thê được hình thành. Cuộc tranh luận này còn lâu mới ngã ngủ. Tuy nhiên, bất chấp sự khác biệt, cả ba quan điểm đều chia sé với nhau ở chỗ: chủ nghĩa khu vực (regionalism) là tác nhân quan trọng đối với sự phát triển của thê giới, và sự tổn tại của nó là một thực tế. Thực tế này đang được sự ung hộ của các hiện tượng hợp tác khu vực, khu vực hóa, thê chê hóa khu vực, hội nhập khu vực... diễn ra mạnh mẽ từ sau Chiến tranh lạnh. Bài viết này không nhằm chứng minh cho bất kỳ quan niệm nào mà chi mong muốn góp phần làm rõ quá trình vận động của chủ nghĩa khu vực trong lịch sử. Lịch sử luôn là một phần của câu trả lời cho tương lai. Vì thế, việc xem xét quá trình của hiện tượng này trong lịch sừ có thế giúp ích phần nào cho việc trả lời các câu hỏi nói trên. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA KHU vự c TRƯỒC THÒI CẬN ĐẠI Chủ nghĩa khu vực không phải là cái gì riêng biệt của thời cận đại và hiện đại. v ề mặt lịch sử, những dâu hiệu của chu nghĩa khu vực đã xuât hiện từ khá sớm. Dâu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa khu vực chính là ý thức vê một không gian lợi ích chung gắn bó với sự sinh tổn của các cá nhân. Y thức này trờ thành động cơ tập hợp cá nhân hav đơn vị vào trong cùng một cộng đổng trên khu vực địa lý nào đó. Y thức về khu vực ngày càng manh lên trong quá Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 139 trình hình thành quốc gia hay nhà nước cô đại. Vói sự ra đời của nhà nước và quốc gia, khu vực càng được định hình rõ rệt hơn vói một cộng đồng cư dân và bộ máy nhà nước riêng được xác lập trên một khuôn khô địa lý nhât định. Dấu ấn tiếp theo của ý thức khu vực là sự xuất hiện các đế chế. Trong chừng mực nào đó, hiện tượng đ ế chế củng được thúc đẩy bởi mong muốn mờ rộng khu vực và phản ánh quá trình vận động của khu vực. Cùng vói đó, chủ nghĩa khu vực đã dần được định hình. Những dấu hiệu chính của chủ nghĩa khu vực là mối quan hệ hay sự liên kết tăng lên giữa các nhóm người, sự hình thành các giá trị chung và ý thức về khu vực1, sự xuất hiện các cơ sở vật chất chung và sự tập trung vào một khu vực địa lý nào đó... Đôi khi, sự tập hợp hay sáp nhập các đơn vị chính trị kiêu quôc gia thành một quốc gia lớn hơn như Đ ế quốc La Mã, Đ ế quốc Hy Lạp, Đức hay Italia được gắn cho chu nghĩa quốc gia nhưng thực ra hơi hướng của chủ nghĩa khu vực là có trong đó. Đó là sự hướng tới nhiều hơn hay sự tập trung quan hệ với các đơn vị gần kề về địa lý. Vói sự hình thành quốc gia, các dấu hiệu của chủ nghĩa khu vực liên quốc gia cũng bắt đầu xuất hiện. Mọi nhà nước đểu có chức năng đối ngoại rnọi quốc gia đều có 1. Bắt đấu từ đây, khái niệm khu vực được đê cập chì là những khu vực liên quốc gia, không phải là khu vực bên trong một quốc gia (TG). 14 0 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sử quan hệ đối ngoại. Tất cả chúng đều bắt đấu quan hệ đối ngoại với các nước lân bang. Tất cả chúng đều sống trong mối quan hệ khu vực hàng trăm năm trước khi đi ra thế giới. Nhìn chung, quan hệ giữa các quốc gia gấn kể thường có quá trình lâu dài và sự tương tác chặt chẽ với nhau, tạo nên cơ sở lịch sử cho chủ nghĩa khu vực. Môi quan hệ giữa các quốc gia gần kề thường được tiến hành trên cả hai kênh nhà nước-nhà nước và nhân dân-nhân dân, tạo điều kiện cho sự giao lưu nhiêu mặt cũng như sự hình thành bản sắc văn hóa và tinh thần chung. Những điểm chung này được củng cố thêm bằng các yếu tô' sắc tộc, tôn giáo, di cư... góp phần hình thành nên ý thức và tình cảm cộng đồng - nển tảng tinh thẩn quan trọng cùa chủ nghĩa khu vực. Kinh tế là một động lực thúc đẩy mối quan hệ này. Kinh tế không chi giúp hình thành các liên hệ đâu tiên trong khu vực, mà còn là yếu tố duy trì chúng. Điểu này được chứng tỏ bời sự phát triển quan hệ thương mại giữa các quôc gia gần kê vốn là một thực tiễn khá phổ bién trong lịch sử. Chính trị là một động lực quan trọng khác. Quá trình sinh sông gần kê đã làm này sinh ngày càng nhiêu vấn đê trong quan hệ đôi ngoại, làm tăng sự tương tác đa diện giữa chúng, và từ đó làm tăng ý thức vẽ một khu vực chung. Theo quy luật phát triển quan hệ quốc tế, cà hai quá trình này đểu tăng lên và khiên cho nhận thức khu vực càng được mo rộng. Cùng với quy luật phát triẽn, ca hai quá trình này đêu liên quan ngày càng nhiêu tới lợi Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 141 ích cơ bản của quổc gia, nhận thức khu vực vì thế càng trở nên sâu sắc. Nhận thức khu vực tăng lên cùng quá trình phát triển tương tác đã đặt nền móng cho sự xuất hiện tư tưởng khu vực sau này. Đồng thời, quan hệ đôi ngoại càng mở rộng, con người và quốc gia càng đi ra thế giới, quan niệm về khu vực cũng càng được xác định rõ ràng hơn. Tác động từ môi trường quốc tế ngày càng tăng trong khi năng lực quốc gia là không đủ, năng lực toàn cầu là không có. Điều này dẫn đến xu hướng quan tâm nhiều hơn đên khu vực. Và chủ nghĩa khu vực lại có thêm những động lực từ bên ngoài. Rõ ràng, quá trình lịch sử dài lâu của những liên hệ khu vực là một cơ sở quan trọng cho sự hình thành chủ nghĩa khu vực sau này. Chứng cứ lịch sử của điều này không phải là hiếm vói sự tổn tại của các cộng đổng khu vực liên quốc gia như cộng đổng Hổi giáo/Arập ở Trung Đông, cộng đồng Thiên chúa giáo ở Tây Âu, Liên minh kinh tếH ansa ở châu Âu... Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào đó mà coi chủ nghĩa khu vực đã tồn tại như một dòng chảy trong lịch sử và quan hệ quồc tế thì không hẳn như vậy. Sự hình thành chủ nghĩa khu vực có tính liên quốc gia chi xuất hiện ưong một số điều kiện nhất định. Đó là sự hình thành nhà nước và quốc gia - chủ thể chính của hợp tác khu vực. Đó là sự tương đối chúi muồi của một số tiền đề khác như địa lý, bản sắc văn hóa - xã hội để có được sự chia sẻ vể nhận thức và tình cảm đối với khu vực. Đó là sự lớn mạnh của 142 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sủ các lợi ích chung về kinh tế - chính trị đủ đê tạo ra tư tưởng liên kết khu vực và sự hướng dẫn chính sách hợp tác khu vực của các thành viên. Đó là sự phát triển quan hệ giữa chúng cả về bề rộng lẫn bề sâu đủ đê tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau và khả năng duy trì quan hệ. Đó là sự phát triển của chủ nghĩa đa phương trong chính sách đối ngoại như một cơ sở cho tư tưởng liên kết khu vực. Đó là sự thắng thế của hợp tác so với cạnh tranh và xung đột trong quan hệ giữa các thành viên khu vực. Thực tế lịch sử trước cận đại cho thấy, những dấu hiệu và điều kiện trên của chủ nghĩa khu vực chỉ dừng ờ mức tạo tiền đề cho chủ nghĩa khu vực (liên quốc gia) sau này. Không thể nói đó chính là chủ nghĩa khu vực với đầy đù ý nghĩa như thời hiện đại bởi ý niệm về "khu vực của chúng ta" chưa được khẳng định rõ ràng bằng một khuôn khô địa lý tương đối cụ thê và ổn định. Cũng không thể coi đó là chủ nghĩa khu vực khi không có nhiều các biêu hiện định lượng của chủ nghĩa khu vực như chính sách khu vực, dự án hợp tác khu vực, thế chế khu vực, tỳ trọng quan hệ nội vùng... cũng như những biểu hiện đinh tính như tư tường khu vực, tình cảm khu vực, chủ nghĩa đa phương,... Nhìn chung, đa phần quan hệ giữa các nước gần kê khi đó chưa đủ mạnh đê môi quan hệ giữa chúng trở thành phụ thuộc lẫn nhau, chưa đủ sâu sắc đế ý thức và lợi ích khu vực trờ thành ý thức và lợi ích quốc gia, chưa đủ rộng mở với thê giói đê ý niệm khu vực được hình thành chắc chắn hơn. Chủ nghía khu vực trong lịch sử 14 3 Rõ ràng, sự tương tác khu vực có tăng trong lịch sử nhưng chưa đủ để hình thành nên chủ nghĩa khu vực giống như ngày nay. Sự tổn tại của chủ nghĩa khu vực nếu có thì cũng yếu ớt và thưa thớt, không đủ đế tạo ra một dòng chảy trong lịch sử quốc gia và thế giới. Sự mờ nhạt của chủ nghĩa khu vực trước thời cận đại còn biểu hiện ở chỗ nó không đóng vai trò gì nhiều ưong việc thúc đẩy tương tác khu vực. Sự tương tác khu vực tăng lên chủ yếu là bởi hoàn cảnh sống gần kề và năng lực thực hiện quan hệ quốc tế còn hạn chế khi đó chứ không phải nhờ động lực của chủ nghĩa khu vực. Mặc dù vậy, với sự hiện diện phô biên khắp các cộng đổng, với sự tồn tại dài lâu trong lịch sử, các dấu hiệu trên vân là những nhân tố lịch sử quan trọng giúp tạo nên tiền đê lịch sử cho chủ nghĩa khu vực hiện tại. It nhất, vai trò này cũng, được thê hiện qua việc hình thành và củng cố mối liên hệ nhiều mặt giữa các cộng đổng/quốc gia gần kề vê' địa lý, góp phần đặt nền móng cho tình cảm và tư tưởng khu vực. Trên thực tế, lịch sừ không đóng vai trò tiền đề như nhau cho mọi liên kết khu vực. Nhiều học giả không đánh giá cao vai trò của tiền đề lịch sử. Điều này dường như hợp lý khi những động thái thúc đẩy hợp tác khu vực hiện nay thường là kinh tế hoặc chính trị. Tuy nhiên, khó có thê bác bò vai trò của lịch sử. Hầu hết các quốc gia trong một khu vực đều có những mối quan hệ lịch sừ khá lâu dài. Có những quan hệ đã được hình thành cách đây 144 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lẹch sủ hàng nghìn năm. Mối quan hệ này tổn tại ca trên hai kênh nhân dân - nhân dân và nhà nước - nhà nưóc. Sụ liên hệ giữa chúng diễn ra trong nhiều lĩnh vực cua đời sông, từ kinh tế, chính trị tới văn hóa, xã hội. Một cơ sở lịch sừ như vậy chắc chắn sẽ tác động ít nhiêu đến hiện tại và tương lai. Nếu địa lý là không gian thì lịch sử là thời gian cua một cộng đổng khu vực. Sự gần gũi về mặt địa lý tạo điểu kiện cho quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc được hình thành sớm và được duy trì suổt chiều dài lịch sừ. Lịch sừ quan hệ lâu dài giúp tạo dựng các liên hệ nhiều mặt giữa chúng. Quá trình lịch sừ lâu dài làm tăng sự hiếu biết lẫn nhau và sự tương tác với nhau, làm tăng khả năng nhận thức về khu vực. Các quá trình tương tác chính trị, trao đổi kinh tê' giao lưu văn hóa, các cuộc di cư... trong lịch sừ giúp hình thành nên những giá trị chung giữa các cộng đổng/quốc gia gẩn kề, góp phần hình thành bản sắc riêng của khu vực. Lịch sử chính là một yếu tô' quan trọng làm nên những đặc thù riêng, những vấn đề riêng, những quan niệm riêng và cách hành xừ riêng trong quan hệ quôc tê khu vực. Trong thời hiện đại, dù mức độ mạnh yêu khác nhau, lịch sử vẫn tiếp tục tác động lên V thức khu vực, quan niệm vê hợp tác khu vực và quá trình hình thành thê chế khu vực. Rõ ràng, quá trình quan hệ lâu dài giữa các quốc gia gần kê vê địa lý là tiên đê cần được tính đên cho sự hình thành chu nghĩa khu vực. Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 145 Hơn nữa, cách tiếp cận chủ nghĩa khu vực dựa trên lịch sừ là cần thiết bởi chủ nghĩa khu vực không phải là hiện tượng mói. Việc xem xét khía cạnh lịch sừ của nó có thê giúp tìm hiểu thêm nguyên nhân hình thành, cơ sờ duy trì và những yếu tô' tác động tói diễn biên của chủ nghĩa khu vực. Đồng thời, cách tiếp cận này cũng có thể giúp nhận biết thêm cơ sở lịch sử đang đóng vai trò như thế nào trong làn sóng chủ nghĩa khu vực hiện nay. Vậy chủ nghĩa khu vực được bắt đầu từ bao giờ? Sự bất nhất trong khái niệm và hệ tiêu chí xác định chủ nghĩa khu vực dẫn đêh sự bất đổng về thời điểm này. Hơn nữa, thực tế lịch sừ rất khác nhau giữa từng khu vực nên càng khó đi đêíì nhận định chung. Có thê đây là một lý do khiến cho vâh đề thời điểm đã bị né ưánh trong nhiều nghiên cứu về chủ nghĩa khu vực. CHỦ NGHĨA KHU Vực TRONG THỜI CẬN ĐẠI Căn cứ ưên các điều kiện hình thành chù nghĩa khu vực như mức độ phụ thuộc lẫn nhau, sự phát triển của kinh tê' chủ nghĩa đa phương, nhận thức về khu vực,... có thể thây rằng chủ nghĩa khu vực là hiện tượng sau này mới nổi lên và bắt đầu trờ thành dòng chày trong lịch sử và quan hệ quõc tế thế giới từ những giai đoạn sau của thời cận đại. Trong "The New Wave of Regionalism", hai tác giả Edward D. Mansfield và Helen V. Milner đã khái quát về quá trình vận động của chu nghĩa khu vực trong lịch sử. Chiu chi phối đáng kế của cách tiếp cận kinh tế với sự tập 146 Mot so van de ly luan quan he quoc te dudi gdc nhin Itch sit trung vao thoa thuan uu dai thuong mai (PTA) nhu bieu trung dien hinh cua chu nghia khu vuc, cac tac gia nay da cho rang co it nhat hai lan song chu nghia khu vuc trong thoi can dai. Theo cac tac gia tren, lan song chu nghia khu vuc dan tien dien ra trong nua sau the ky XIX den Chiert tranh the gioi thu nhat voi dia ban chu yeu la o chau Au. Vao luc nay 6 chau Au, chu nghia tu ban, cach mang cong nghiep, tien bo cong nghe, thuong mai phat trien, vi tri ba quyen cua chau Au trong nen chinh tri the gioi... da giup quan hf giua cac nuoc chau Au kha phat trien va tro nen sau sac. Thuong mai trong vung tang nhanh va chiem ty trong Ion trong nen thuong mai toan cau. Su hoi nhap kinh te bat dau mo rong khi chau Au ngay cang hoat dong vcri chuc nang nhu mot thi truong rieng xet ve nhieu mat1. Nhu cau mo rong thi truong cho thuong mai va xuat khau tu ban da thuc day su phat trien quan he lien quoc gia va qua trinh quan he kinh te 6 chau Au. Tuy nhien, trong boi canh chu nghia da phuong da bat dau noi len 6 chau Au tir the ky XIX nhung van chua du manh, dinh huong cua qua trinh nay van la chu nghia song phuong. Dau hieu noi bat nhat la su no ro cac hiep dmh thuong mai song phuong va nhung lien minh thue quan. Duoc thuc day bang Hiep dinh thuong mai Anh - 1. Edward D. Mansfield & Helen V. M ilner, "The New Wave of Regionalism ", Tldd, tr. 596. Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 147 Pháp năm 1860, các cường quốc châu Âu nhanh chóng mờ rộng hợp tác kinh tế song phương qua hàng loạt hiệp định ưu đãi với việc trao cho nhau quv chế tối huệ quốc (MFN) một cách vô điểu kiện. Bước sang đầu thế kỳ XX, mặc dù làn sóng này đã thoái trào trước nguv cơ xung đột giữa các cường quốc, Anh đã kv hiệp định thương mại song phương với 46 quốc gia, Đức ký với 30 nước, Pháp ký với hơn 20 nước. Đáng chú ý, mức độ tự do thương mại với các điều khoăn MFN và quy mô cắt giảm thuế quan ở cả trong và ngoài châu Âu có sự khá giông với ý tưởng tự do thương mại đa phương của GATT/WTO sau này. Biểu hiện thứ hai là sự hình thành liên minh thuế quan ỡ châu Âu. Ngoài Zollverein của Đức, còn có các liên minh thuế quan do Thụy Sĩ thành lập năm 1848, do Áo thành lập năm 1850, Đan Mạch năm 1853, Italia trong những năm 1860... Đó là chưa kê những cô' gắng xúc tiến thành lập liên minh thuế quan giữa Thụy Điên với Na Uy và Mônđôva với Walachia... Mặc dù một số liên minh thuế quan được hình thành trên co sỡ tương đối thống nhất về chính trị (tức là trên cơ sờ liên bang như Thụy Sĩ và Áo hoặc giữa các chu thê sau nàv cùng nằm trong một quốc gia như ỡ Italia), nhung tính chất quốc tế của các liên minh này là rõ nét. Tâ't ca những điều nàv đã tạo nền tàng cho sự hình thành hệ thông kinh tế châu Âu và thổi luồng sinh khí cho chu nghĩa khu vực ò châu lục này. Cũng có những học giã như Kindleberger hav Pollard cho rằng làn sóng chủ nghĩa khu vực trong thòi kỳ này 148 Mot so van de ly luan quart he quoc te dudi goc nhin lich su khong chi dien ra 6 moi chau Au ma con ca 6 chau A. Hq dua ra hai truong hap de chung minh. Mot "khoi thuong mai lien ket chat" giira Anh voi An Do va Trung Quoc nam 1880 va su b k ih truong thuong mai cua Nhat Ban 6 chau A dau the ky XX1. Theo chiing toi, nhan dirth nay la khong chinh xac boi An Do va Trung Quoc la nhung nude thuoc dia hoac phu thuoc da tham gia khoi nay khong tren co so tu nguyen, ma hoan toan chiu sir ap che cua Anh. Con truong hop Nhat Ban, tuy co tac dung nhat dinh doi voi y niem khu vuc va phat trien thuong mai trong \aing, song day chi la co gang don phuong cua mot nuoc nen cung lam cung chi co the coi day la mot tac nhan cua chu nghia khu vuc ma von doi hoi co su tham gia cua nhieu diu the quan he quoc te tren co so tu nguyen. Va noi chung, cac truong hop nay khong the so sanh duoc voi chau Au. Ldn song thu hai bat dau ngay sau khi ket thuc Chien tranh the gioi thu nhat va dien ra trong khoang thoi gian giua hai cuoc chien tranh the gioi (1918-1939). Mac dii lan song nay co nhung buoc lui (xet tren muc do phu hop voi xu the tu do hoa thuong mai va hinh thanh he thong kinh te toan cau), nhung su ton tai cua chung bat chap dieu kien chinh tri - kinh te cang thang thoi gian do cung cho thay, su phat trien cua chu nghia khu vuc kinh te la mot dong chay tuong doi lien tuc trong lich sir can hien dai. 1. Edward D. Mansfield & Helen V. M ilner, "The New Wave of Regionalism ", Tldd, tr. 596. Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 149 Cũng vẫn những dâu hiệu chính là hiệp định ưu đãi song phương và liên minh thuế quan, nhưng so với thòi kỳ trước, sự vận động của chủ nghĩa khu vực kinh tế thời kỳ này có những điếm khác trước. Thứ nhất là sự xuât hiện mạnh mẽ hơn của chủ nghĩa đa phương trong liên kết kinh tế quốc tế. Thứ hai là tính phân biệt đôi xử cao hơn. Thứ ba, vếu tô chính tri bắt đầu tăng sự chi phôi đôi với tiên trình của chủ nghĩa khu vực. Trong thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện những cô' gắng xúc tiên hợp tác đa phương như hội nghị Genoa 1925 và các đàm phán về thương mại và tài chính quốc tế mà đã bất thành vào đầu những năm 1930. Nhưng sự tăng lên của chủ nghĩa đa phương là có. Pháp thành lập liên minh thuế quan với các nước phụ thuộc và thuộc địa vào năirt 1928. Anh thiết lập hệ thống ưu đãi trong khối Thịnh vượng chung năm 1932. Cả hai nhóm đa phương này đều có tính phân biệt đối xừ với bên ngoài khi dành sự ưu đãi lớn hơn cho các thành viên trong khối so vói bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, mức độ phân biệt đối xừ đều cao hơn so với làn sóng đầu. Hon nữa, mối quan hệ trong từng nhóm đều có tính cách một chiều, bất bình đàng, tập trung vào cường quốc đứng đầu và gồm cả những chủ thê không có chu quyền. Động cơ chính trị của các khối này rất rõ ràng khi nhằm tập hợp và củng cố lực lượng trong bối canh căng thăng và đối đầu" ờ châu Âu. Cùng với sự tan mác vê' địa lý, hai khối nàv không phải là điên hình cua chù nghĩa khu vực thực sự. Tuy nhiên, sự tồn tại của 150 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lich sù chúng cũng có ảnh hưởng ít nhiều đối với chu nghĩa này khi đánh dấu sự phát triển của chủ nghĩa đa phương kinh tế, có tác dụng nhất định thúc đẩy phát triển thương mại và đem lại mẫu hình thực tiễn cho chủ nghĩa khu vực. Và bất chấp những tác động tiêu cực của chủ nghĩa thực dân trong các khối nhóm này, chúng không phải là không đế lại dấu ấn gì cho chủ nghĩa khu vực ở châu Đại Dương với CER, ở Tây Phi với ECOWAS, ở Nam Á với SAARC và ờ cả Đông Dương,... Ngoài hai khối trên, ở một quy mô nhỏ hơn nhưng có tính khu vực rõ rệt hơn, còn có Hiệp ước Rome năm 1934 với vai trò của Italia trong việc thiết lập một PTA gổm Italia, Áo, Hunggari. Các cường quốc khác như Đức củng có mục đích chính trị và kinh tế tương tự nhưng vẫn tiêp tục theo đuổi con đường liên kết song phương mang tính bảo hộ. Trong những năm 1930, Mỹ cũng ký hơn 20 hiệp định thương mại song phương mà phần lớn trong sô đó là các nước Mỹ La tinh, góp phần đưa chủ nghĩa khu vực kinh tế bắt đầu nổi lên ở châu lục này. Đồng thời, Mỹ đã đưa ra Học thuyết Monroe mà trong chừng mực náo đó cũng có tác dụng thúc đẩy hợp tác đa phương và chù nghĩa khu vực ở châu Mỹ. Tuy nhiên, quá trình này không chỉ được thúc đáv bới các nền kinh tê lớn. Dòng chảy của chủ nghĩa khu vực vẫn được phan anh qua nhiêu cô gắng thiết lập các thoả thuận ưu đãi thương mại khu vực. Bi, Đan Mạch, Phán Lan, Lúcxămbua, Hà Lan, Na Uy và Thụy Điển đều ký một loạt Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 151 các hiệp định kinh tế trong suốt thập niên 1930. Các nước Hunggari, Rumani, Nam Tư và Bungari đều cố gắng xúc tiến thương lượng với các nước châu Âu khác đê thiết lập hệ thống ưu đãi thuế quan trong nông nghiệp... Điếm đáng chú ý nhất của làn sóng chủ nghĩa khu vực thòi kỳ này chính là sự liên quan giữa kinh tế và chính trị trong tiên trình chủ nghĩa khu vực. Điều này một lần nữa cho thây việc nghiên cứu chủ nghĩa khu vực sẽ là phiến diện nếu chi thuần tuý đứng trên góc độ kinh tế. Cả ba đặc điểm nêu trên đều có phần xuất phát từ sự mâu thuẫn chính trị - quân sự tương đôi sâu sắc giữa các cường quốc khi đó. Mâu thuẫn chính trị dẫn đến yêu cầu tập hợp lực lượng và các hiệp định ưu đãi thương mại đã được ký kết nhằm chạy đua lôi kéo quốc gia khác vào vòng ảnh hường. Kết quà, các khôi nhóm thương mại thường được hình thành xung quanh một cường quốc nào đó. Sự đối đầu chính trị giữa các cường quốc khiến cho các khối nhóm này thường đóng kin và có tính phân biệt đối xừ cao với bên ngoài. Khối thương mại này trở thành công cụ của các nước lớn nhằm làm hại đối phương, chẳng hạn như ngăn chặn đường tiếp cận thị trường. Sự hình thành các khối nhóm như vậy đã làm tăng sự kình địch giữa các đế quôc, làm tăng sụ căng thẳng chính trị và đối đầu an ninh ở châu Âu. Cả kinh tế và chính trị đã đồng hành trong trường hợp này. Trong thời gian giữa hai cuộc chiên, phần lớn các PTA được hình thành là để thi hành chính sách con buôn và phàn ứng lẫn nhau. Bởi thế, có tác giả đã quy 152 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lích sử cho chủ nghĩa khu vực là một trong các nguyên nhản dẩn đến cuộc Đại suy thoái 1929-1933 và sự bùng nó Chiên tranh thế giói thứ nhất, đế từ đó có thái độ phan đối chu nghĩa khu vực. ' Không thể chỉ dựa vào những đặc thù riêng cua làn sóng chu nghĩa khu vực thứ hai đê khái quát cho mọi thời kỳ lịch sử. Trong trường hợp này, chủ nghĩa khu vực là nạn nhân của những toan tính chính trị của các cường quốc nên đã vận động lệch ra khòi xu hướng chung. Nhắc đến điều này bời hiện tượng trên vẫn còn tiếp tục trong thời hiện đại. Nhưng có điều, kiêu cách chủ nghĩa khu vực thời kỳ này với tính bảo hộ và phân biệt đối xừ cao củng gây ra những tác động tiêu cực tới sự tăng trương và mờ rộng cua nền thương mại quốc tế. Cũng trong giai đoạn này, chủ nghĩa khu vực ơ các châu lục khác cũng bắt đầu lộ diện nhiều hơn, đóng góp cho sự tiến triển chung của hiện tượng này trong lịch sử và quan hệ quôc tế thế giới. Ở châu Phi, từ cuối thếkỳ XLX đâu thê kỷ XX, chủ nghĩa toàn Phi với mục tiêu đoan kết thống nhất châu Phi vì độc lập đã bắt đầu xuát hiện. Phong trào này đã xây dựng được cho mình ít nhiẽu vẽ mặt lý luận và tô chức. Đã có năm hội nghị toàn Phi đuợc tô chức từ năm 1900 đến 1945. Đó là cơ sờ quan trọng đé dân đến việc thanh lập Tô chức thống nhát cháu Phi (OAU) và Liên minh châu Phi (AU) sau này. o cháu Á, ý niệm vê khu vực cũng bắt đâu trơ nên rõ ràng o Trung Đông, Đông Nam A và Nam Á. Chu nghĩa khu vực cua Chủ nghía khu vực trong lịch sử 153 các vùng này tuy chưa hội đủ các điều kiện vật chất nhưng lại có được cơ s ở nhận thức là tình cảm và tư tưởng khu vực. Cơ sở nhận thức này xuât phát từ yêu cầu đoàn kết đê giải phóng dân tộc, từ ý thức về số phận chung và từ sự mờ rộng thế giói quan qua quá trình tương tác Đông Tây. Và củng như trên, xu hướng này của chủ nghĩa khu vực củng mang màu sắc chính trị đậm nét. CHỦ NGHĨA KHU Vực TRONG THÒI HIỆN ĐẠI Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, bất chấp sự đối đầu và phân liệt của Chiên tranh lạnh, ỉàn sóng chủ nghĩa khu vực thứ ba vẫn diễn ra với những bước phát triển đáng kể. Làn sóng này đã chịu tác động mạnh mẽ của các nỗ lực hợp tác kinh tế đa phương ưên quy mô toàn cầu1. Đầu tiên là sự hình thành liên minh tiền tệ và vai trò mới của đổng đôla Mỹ (USD) như phương tiện thanh toán và dự trữ quốc tế sau Hội nghị Bretton Woods tháng 7-1944. Trong năm 1945, hai thể chế tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng được thành lập. Tiếp theo là các cố gắng của Liên hợp quốc nhằm thúc đẩy hợp tác phát triển toàn cầu như 1. Trên thực tế, đa phần các cô' gắng này chưa đạt được quy mô toàn cầu trong Chiến tranh lạnh do sự phân liệt sâu sắc khi đó. Tuy nhiên o đây, chúng tôi vẫn coi chúng có tính chất toàn cầu bời mục đích, bàn chât và quá trình cùa chúng đểu hướng tới quy mô toàn cầu, nhâ't là sau Chiến tranh lạnh. 15 4 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử thiết lập Hội đồng Kinh tê - Xã hội (ECOSOC) nhu một trong năm cơ quan chính của mình, ý đồ thanh lập Tô chức Thương mại quốc tế(ITO) 1947-1948, và cô gắng tỏ chức Hội nghị thương mại và phát triển (UNCTAD) tù năm 1964,... Nhưng tác động mạnh nhất đến chủ nghĩa khu vực kinh tế và hệ thống thương mại toàn cầu chính là các vòng đàm phán đa phương của GATT nhằm cắt giảm các hàng rào thuế quan, thúc đẩy tự do hóa thương mại. GATT được khởi động ngày 30-10-1947, trải qua tám vòng đàm phán và đến năm 1995 thì chuyên thành Tô chức Thương mại thế giới (WTO). Với 23 nước tham gia ban đẵu, đến nay số thành viên của WTO đã lên đến trên 150 nước. Đây là điểm khác vói thời kỳ cận đại khi các nỗ lực tương tự gần như không có trong làn sóng đầu tiên, hoặc nếu có thì ít ỏi và đều thất bại trong làn sóng thứ hai. Không chi tạo ra sức ép bên ngoài cho sự nổi lên của chù nghĩa khu vực, xu hướng tăng cường hợp tác kinh tê đa phương còn góp phần tạo ra sự tương thích nhát định giữa toàn cầu hóa và khu vực hóa trong lĩnh vực kinh tế. Ví dụ, ngay từ khi bắt đầu, GATT đã có quy định vế sự thành lập PTA khu vực. Điều 24 của GATT cho phép các quốc gia được xác lập những thoả thuận hội nhập khu vực theo những điểu kiện nhất định. Những quy đinh tương tự kiểu này đã góp phẩn hạn chế sự đối lập, làm tăng sự hô trợ giữa chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa toàn cấu trong lĩnh vực kinh tế. Sự xuất hiện các nhân tô toán cáu đã làm cho chủ nghĩa khu vực ngày càng không còn lá váín Chủ nghía khu vực trong lịch sử 15 5 đê thuần khu vực nữa, mà có tính cách toàn cầu rõ rệt vói sự tương tác ngày càng nhiều với môi trường thế giới. Bởi thế, thòi kỳ này đã chứng kiến sự phát triển mới khá âh tượng của chủ nghĩa khu vực cả về bề rộng và bề sâu. Ngay trong thòi kỳ Chiên tranh lạnh, chủ nghĩa khu vực trong thương mại đã tăng đáng kế vói sự hình thành vô SỐ các PTA khu vực cả song phương lẫn đa phương. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này là không đều. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, số lượng PTA khu vực bắt đầu tăng lên nhưng sô' lượng bình quân hằng năm vẫn tương đối ít ỏi (dưới 5 PTA/năm). Đến nửa đầu thập niên I960, s ố lượng PTA hằng năm được ký kết tăng nhiều lên (trên 10 PTA/năm) do có sự tham gia của các nước mới giành được độc lập. Nhưng rồi số lượng bình quân này lại giảm bớt trong nửa sau thập niên này (dưới 10 PTA/năm). Bước sang thập niên 1970, sô' lượng PTA tăng vọt (trên dưới 20 PTA/năm) nhưng lại giảm mạnh trong thập niên 1980 (trên 5 PTA/năm)1. Mặc dù không đều nhưng đó vẫn là sự tăng trường nếu xét trong toàn thời kỳ. Điều này cho thấy, chủ nghĩa khu vực kinh tế đã ngày càng phô biến và trờ thành một xu hướng đáng kê trong đời sông quốc tế. Củng khác với thời kỳ trước, trong thời kỳ này, chu nghĩa khu vực bắt đầu lan mạnh sang các khu vực khác cua thế giới chứ không còn tập trung ờ châu Âu. Ví dụ, 1. World Trade Organization 1995, dẫn tfieo Edward D. Mansfield & Helen V. Milner, "The New Wave of Regionalism", Tlđd, tr. 601. 156 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới goc nhin lệch sủ Mỹ đã đưa ra Kế hoạch Clayton năm 1945 (nhăm thực hiện tự do hóa thương mại đầu tư giữa Mỹ và các nước châu Mỹ), Sáng kiến lòng chảo Caribê (Caribbean Basin Initiative) năm 1982 và thành lập NAFTA năm 1988. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là sự nổi lên mạnh mẽ của chủ nghĩa khu vực ngay ưong chính các nước Thế giới thứ ba chứ không đủ xuất phát từ các nền kinh tế lớn như trước kia. Ngay sau khi giành được độc lập, nhất là trong những năm 1960 và 1970, các nước Á, Phi và Mỹ Latinh đã thành lập hàng loạt PTA ở mọi trình độ khác nhau. Đa phấn các PTA này được tổ chức trên quy mô song phương hoặc khu vực với định hướng chủ yếu là thay thế nhập khâu. Loại hình của chứng có thê là khu vực thương mại ưu đãi1 hoặc liên hiệp thuế quan2. Sự hình thành PTA giữa các nước đang phát triển mà không có sự tham gia của các nền kinh tế lớn là một điểm mới so vói các thời kỳ trước. Tuy nhiên, các PTA này thường gặp nhiều vấn đê. Do trình độ phát triển còn thấp, khả năng bổ sung cho nhau còn hạn chế nên các PTA này không làm tăng thương mại nhiều. Thương mại tăng đáng kế chi trong nhóm Hiệp ước Adea và Cộng đổng kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS)... Đổng thời, do vẫn tiếp tục phụ thuộc nhiều vào các nẽn 1. Ví dụ các khu vực mậu dịch tự do như LAFTA/LAIA (1960), EFTA (I960), CEAO (1972/1974), ECOWAS (1975), CEPGL (1976), PTA (1981/1984), ANZCERTA (1983), M ERCOSUR 1991. 2. Ví dụ như CACM (thiêt lập năm 1960), SACU (1969), AP (1969), MRƯ (1973), UDEAC (1973), CARICOM (1973), GCC (1981)... Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 157 kinh tế lớn nên mục tiêu độc lập kinh tế và phát triển thương mại nội khối của các PTA này chưa được như mong muôn. Hơn nữa, các thành viên của những PTA đó luôn gặp phải bài toán hài hòa giữa bảo hộ và tự do hóa. Một khó khăn khác là khả năng đạt được thoà thuận thực tế về k ế hoạch và bước đi cũng như sự phân chia quyền lợi nghĩa vụ giữa các thành viên. Đây là khó khăn đối vói mọi quốc gia trong hợp tác khu vực, nhưng chúng có vẻ khó khăn hơn đôi với các nước nhỏ vì những vướng mắc chính trị, nhận thức khác nhau, năng lực hạn chê' sự chưa sẵn sàng của toàn xã hội, khả năng bô sung cho nhau không cao,— Hai khó khăn trên dẫn đến sự lưỡng lự trong chủ nghĩa khu vực khiến nhiều PTA rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng, nửa vời hoặc gần như tê liệt. Trên bình diện chính trị, động cơ chính trị của các PTA khu vực là râ't rõ, thậm chí nhiều khi lấn át cả nguyên nhân kinh tế. Hoặc liên kết nhằm chống lại sự can thiệp và lôi kéo của hai phe, hoặc nhằm củng cố quá trình phi thực dân hóa, hoặc nhằm giảm bớt mâu thuẫn giữa các thành viên... Không phủ nhận những tác dụng chính trị tích cực của PTA đối với các nước Thế giới thứ ba, nhưng trong nhiều trường hợp, động cơ chính trị chiếm vị trí quá lớn đã gây hạn chế trong việc đạt được những thoả thuận kinh tế hoặc làm nản lòng các nỗ lực hợp tác kinh tế khu vực. 15 8 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin tjch sủ Một dâu hiệu khác của sự phát triển chu nghĩa khu vực là sự tăng cường thê chế hóa hợp tác khu vục qua việc thành lập các tổ chức khu vực. Ngoài các khối quản sự, chính trị hay kinh tế giữa hai phe đối đấu nhau như NATO ở Tây Âu và Khôi Warsaw/SEV ở Đông Âu, các tô chức khu vực lớn nhỏ đã xuất hiện ngày càng nhiêu ờ châu lục khác. Ví dụ, từ những năm 1960 đến khi kết thúc Chiến tranh lạnh, các nước châu Phi đã thành lập khoảng 200 tô chức khu vực với nhiều hình thức khác nhau. Nhiều tô chức trong số đó hoạt động yếu ớt hoặc không hiệu quả. Tuy nhiên, cũng có nhiều tổ chức khu vực với mức độ thê chế hóa khác nhau đã chứng tò được sức sống của mình như Liên đoàn Arập thành lập năm 1945, Tố chức các nước châu Mỹ (OAS) năm 1948, Tô chức thống nhâ't châu Phi (OAU) năm 1963, ASEAN năm 1967, SAARC năm 1985 ở Nam Á, APEC năm 1989,... Cho đến khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trừ một vài nước ở Đông Á và Nam Thái Bình Dương, hầu hết các quốc gia còn lại đểu tham gia tô chức khu vực nào đó. Rõ ràng, sự phát triẽn các tô chức khu vực là một bước tiến lớn của chủ nghĩa khu vực cả vê bê rộng (sự phô biến rộng khắp) và bê sâu (sự nâng cấp và thế chế hóa hợp tác khu vực). Trên thực tế, những thể chế khu vực đậm nét nhát trong thời kỳ này lại liên quan chặt chẽ đến sự phán liệt thê giới thành hai phe. Đó là sự hình thành Hội đóng Tương trợ kinh tế(SEV) của các nước xã hội chu nghĩa và Chủ nghía khu vực trong lịch sử 159 các khối kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) hay Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (EFTA). Các khôi nhóm này được hình thành củng dựa trên sự gần gũi địa lý bởi liên quan đêh phạm vi phòng thủ và không gian kinh tế của mỗi bên. Cũng giông như thòi kỳ trước, sự hình thành các khối nhóm này có cà nguyên nhân kinh tế lẫn chính trị. Ngoài mục đích phát triển kinh tê' SEV còn là sự tập hợp lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa nhằm chống lại ảnh hường kinh tê' tư bản chủ nghĩa. EEC được thành lập còn có mục tiêu ngăn chặn tái diễn xung đột lịch sừ Pháp - Đức. EFTA được thành lập bời Anh sợ mâ't ảnh hưởng ở lục địa châu Âu trước trục Pháp - Đức. Trong các khôi nhóm này đều có vai trò lãnh đạo của các cường quốc: Liên Xô trong khối SEV, Pháp - Đức trong EEC và Anh trong EFTA. Cả hai nhóm nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đều thi hành chủ nghĩa bảo hộ có tính phân biệt cao trong quan hệ với nhau. Vì nhiều nguyên nhân, sự cô' kết khu vực giữa hai bên không giống nhau cả về mức độ, cách thức và loại hình. Trong khối SEV, tính một chiều cao hơn, cơ sờ tự nguyện kém hơn, nhưng mức độ liên kết lại sâu sắc hơn. Khối SEV tiên ngay đến hình thức gần như liên minh kinh tế vói sự phân công lao động, đổng rúp chuyến nhượng chung, hợp tác tương đối toàn diện. EEC đi theo con đường hợp tác chức năng đầu tiên trong ngành than và thép rồi sau mới mở rộng dần. EFTA thì đi 160 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lỊCh sử theo hướng thiết lập khu vực thương mại tự do giữa các thành viên. Từ năm 1973, các thành viên EFTA đã lần lượt gia nhập EEC. Đến năm 1991, EEC chuyến thành Liên hiệp châu Âu (EU) và ngày càng hội nhập sâu hon. Hiện nay, EU là thể chế khu vực hiệu quả nhâ't với mức độ liên kết cao nhâ't. Chiến tranh lanh kết thúc đem lại những thav đổi to lớn trên toàn thế giới và tạo điều kiện cho làn sóng chủ nghĩa khu vực thứ tư nôi lên, đặc biệt về mặt kinh tế. Ngay trong lúc giao thời 1988-1992, số lượng các PTA khu vực tăng đột ngột lên tới 40%’. SỐ lượng PTA được ký kết bình quân hằng năm trong thời gian 1990-1994 lên tới 30 PTA/năm2, hơn hẳn bất kỳ thòi điếm nào trước đó. Sau khi WTO được thành lập tháng 1-1995, số lượng các hiệp định thương mại khu vực (RTA) được ký kết càng tăng mạnh. Từ năm 1995 đến nay, số lượng các RTA được thông báo cho WTO là trên 240, vượt hẳn con số 124 RTA trong thời kỳ GATT (1948-1994)3. Nếu bao gồm cả những RTA không được thông báo hay đã ký kết nhưng không hoạt động thì con số RTA ước tính hiện nay là gần 4004. Trong tương lai gẩn, 1. Mari Pangestu & Sudarshan Gooptu, New Regionalism: Option for East Asia, East Asia Integrates: A Trade Policy Agenda for Shares Growth, tr. 79. 2. World Trade Organization 1995, dẫn theo Edward D. Mansfield & Helen V. Milner, "The New Wave of Regionalism", Tlđd, tr. 601. 3. 4. http://www.wto.org/english/fratop_e/region_e/regjon_e.htin. Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 161 chắc chắn con số này sẽ tăng lên bởi còn nhiều RTA đang trong quá trình nghiên cứu hoặc đàm phán. Gần như tất cả các thành viên WTO (chi trừ Mông Cổ) đều tham gia vào các hiệp định thương mại khu vực. Cùng với đó, số lượng các tổ chức hợp tác khu vực cũng tăng nhanh, cho thấy xu hướng phát triển chủ nghĩa khu vực cả về lượng và chât. Vào thời điểm Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, có 3.603 tổ chức khu vực thông thường. Năm 2005-2006, con số này đã lên tới 5.902, tăng hơn gấp rưỡi so với năm 19911. Hình thức tổ chức khu vực hiện nay chiếm tới 78,15% trong sô' các tổ chức quốc tế của thế giới2, phản ánh ưu th ế nhâ't định của chủ nghĩa khu vực so vói chủ nghĩa toàn cầu trong chính sách đối ngoại các nước. Hiện nay, tổ chức hợp tác khu vực đã phổ biến trên khắp th ế giới và thu hút mọi quốc gia tham gia. Trong đó, số lượng các tổ chức khu vực phi chính phủ cũng tăng khá mạnh và chiếm tỷ trọng cao (78,35% trong số các tổ chức khu vực)3, cho thấy chủ nghĩa khu vực không chì diễn ra trong quan hệ nhà nước nhà nước, mà đang hiện diện khá mạnh trong quan hệ nhân dân - nhân dân. 1. Union of International Associations, Yearbook o f International Organizations 1909/1999 & 'Yearbook o f International Organizations 2007, http://w w w .uia.org. 2, 3. Union of International Associations, Yearbook o f International Organizations 2007, http://ww w.uia.org. 162 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc tế dưới goc nhin lịch sủ Tất cả những số liệu thống kê trên đây cho thây làn sóng thứ tư cùa chủ nghĩa khu vực đã trò thanh một xu thế lớn trong quan hệ quốc tế, một dòng cháy lớn cua lịch sử thế giới đương đại. Hiện nay, làn sóng này vẫn đang diên ra mạnh mẽ. Mặc dù sẽ còn nhiều thay đổi nhưng chúng ta có thẻ nhận thấy một số nét đáng chú ý trong làn sóng này. Thứ nhót, xu hướng liên kết khu vực vẫn có khả năng tiếp tục tăng do cái lợi của chủ nghĩa khu vực kinh tế đã được nhận thức chung. Thứ hai, tất cả các nưóc lớn đều tích cực ung hộ tự do hóa thương mại, tạo nên lực đẩy lớn cho quá trình này. Thứ ba, hầu hết các quốc gia đểu thi hành mở cưa, tham gia hội nhập kinh tế khu vực. Gần như không một quốc gia nào muốn đứng ngoài cuộc. Thứ tư, sự nổi lên của chù nghĩa đa phương trong kinh tế vói vai trò ngày càng tăng của các thê chế lãnh tế toàn cầu, đặc biệt là WTO. Háu hết các PTA hiện nay được thành lập dựa trên sự phù hợp với các quy định của WTO. Thứ năm, dưới tác động của Điểu 5 Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ, các RTA đã mở rộng sự hội nhập khu vực không chỉ trong thương mại hàng hóa như trước kia, mà sang cả lĩnh vực thương mại dịch vụ. Thứ sáu, mức độ hội nhập kinh tế cũng cao hon so vói các PTA trước kia khi trong số RTA hiện nav có hơn 90% hướng tới tự do hóa thương mại khu vực và gãn 10% liên quan đến việc thiết lập liên minh thuế quan’. Thứ bảy, 1. http://ww w.wto.org/english/tratop_e/region_e/region_e.htin. Chủ nghĩa khu vực trong lich sử 163 đó là quá trình tiếp tục tăng cường thê chế hóa hợp tác khu vực đang diễn ra khắp nơi trên thế giới1, tạo điều kiện cho sự tiếp tục của chủ nghĩa khu vực. Thứ tám, đó là sự tương tác ngày càng tăng giữa toàn cầu hóa và xu hướng kinh tế tri thức với chủ nghĩa khu vực. Nếu toàn cầu hóa vừa tạo cơ hội, vừa tạo sức ép cho chủ nghĩa khu vực nổi lên hơn nữa thì kinh tế tri thức lại đang đòi hỏi nâng cấp về chất cho hợp tác khu vực. Tất cả những điếm ưên đều đang tác động mạnh mẽ đến chủ nghĩa khu vực và cho thấy chủ nghĩa khu vực hoàn toàn có thể tiếp tục trong tương lai. KẾT LUẬN Như vậy, nhìn lại lịch sừ, chủ nghĩa khu vực là một hiện tượng đã manh nha từ lâu. Nó nảy sinh cùng với quá trình phát triển cộng đổng/quốc gia và mở rộng quan hệ quốc tế. Vì nhiều nguyên nhân, trước thòi cận đại, chủ nghĩa khu vực chưa thực sự phát triển, chưa đóng vai trò nhiều trong lịch sừ thê' giới. Tuy nhiên, sự tổn tại của những dấu hiệu gắn kết khu vực vân có giá trị như những tiền đề cho sự phát triên chủ nghĩa khu vực sau này. 1. Có thê’ nêu hai ví dụ điển hình, v ề bê' rộng, đó là sự phát triến nhiều thế ch ế hợp tác ò Đông Á - một khu vực mà thê’ ch ế hóa thuộc loại ít nhất trong Chiến tranh lạnh - với ASEAN+3 năm 1997, EAS năm 2005, ASEAN với ba cộng đổng và Hiến chương ASEAN... Về bê' sâu, đó là việc EU đạt được Hiệp định cải tổ ơ Lisbon tháng 10-2007 nhằm nâng cấp thể ch ế hơn nữa. 164 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới gõc nhìn lịch sủ Chủ nghĩa khu vực bắt đầu trờ thành một xu hướng trong quan hệ quốc tế từ thời cận đại, nhất là tù nưa sau thế kỷ XIX. Sang thòi hiện đại, chủ nghĩa khu vực đã có những bưóc phát triến mạnh mẽ và hiện đang là một xu thê' lớn trong đòi sống quốc tế. Cho dù đây không phải là một quá trình dài lâu, liên tục và luôn bị giằng co giữa lợi ích đối nội và đôi ngoại, giữa xung đột và hợp tác trong quan hệ quốc tế, giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa quốc tế, đó vẫn là một quá trình phát triển. Sự chi phôi chủ nghĩa khu vực đối với thê giới là một thực tê lịch sử và hiện nay vẫn đang tiếp tục tăng lên. Trong chừng mực nào đó, có thê nói, chủ nghĩa khu vực là một tác nhân chi phối lịch sử thế giới. Cùng vói toàn cẩu hóa và sự phát triển quan hệ quốc tế, tác nhân này đang góp phần biến lịch sử thế giới gồm lịch sử riêng cua tùng quốc gia thành lịch sử toàn cầu {global history) vói những bối cảnh chung, các môi quan hệ gắn bó chung, mục tiêu chung trong quá trinh vận động chung và sự ràng buộc số phận chung giữa mọi quốc gia trên thế giới. Cho dù đang diễn ra mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực kinh tế nhưng chủ nghĩa khu vực kinh tế vẫn chịu sự chi phôi không nhỏ cùa các yếu tố chính trị. Sự chi phối này nằm trong cả điều kiện lẫn mục đích và kết qua cua chù nghĩa khu vực. Sự tổn tại của chủ nghĩa khu vực kiêu này đang góp phần làm tăng sự tương tác giữa kinh tế và chính trị, góp phần hình thành nên kinh tế - chính trị quốc tế, góp phần tạo sự chuyên dịch cua th ế giới tir địa- Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 165 chính trị sang địa - kinh tế - những đặc điểm quan ưọng của lịch sử đương đại. Cho dù là một thực tế song chủ nghĩa khu vực liệu có lấn át được chú nghĩa quổc gia và chủ nghĩa toàn cầu hay không? Điểu này phụ thuộc đáng kê vào việc nó sẽ đẩy thế giới tiếp tục phát triển như thế nào. Câu trả lời vẫn chưa có. Nhưng ít nhất, chủ nghĩa khu vực là một yếu tố định hình nên thế giới trong lịch sử và hiện tại. Và điều này không thê’ loại trừ trong tương lai. Và như vậy, có lẽ cách tiếp cận lịch sử vẫn là cần thiết trong nghiên cứu về khu vực nói chung, về chủ nghĩa khu vực nói riêng. 166 Tổ CHỬC QUỐC TẾ VÀ CHỦ THỂ PHI QUỐC GIA ít nhâ't cho đến trước nửa cuối thế kỷ XX, quan hệ quốc tế thế giới vẫn bị chi phôi bởi quốc gia. Quốc gia là người làm ra và định đoạt quan hệ quốc tế. Trong chùng mực nào đó, sự phát triển của lịch sử thế giói là kết quà tổng hòa của sự phát triển quốc gia. Bời thực tiễn lịch sử như vậy, truyền thông nghiên cứu quan hệ quốc tế, đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực, vẫn coi quốc gia là chu thể duy nhất trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, truvển thống này đã bị thách thức bởi một thực tế mới. Đó là sự xuât hiện các chủ thê mới trong quan hệ quốc tế mà không phải là quốc gia. Các chủ thế này được gọi chung là chu thế phi quốc gia. Chủ thê phi quốc gia (nonstate actors) là những chủ thê quan hệ quốc tê nhưng không phải là quốc gia. Do chúng vân còn có sự lệ thuộc đáng kê vào quôc gia nên có học già gọi chúng là chủ thể hỗn hợp (mixed actors). Nó còn có những cách gọi khác nhưng ít phô biến hem như "chu the mới" (Smout M.K.), "chu thê ngoài chủ quyển" (Rosenau D.), Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 167 "lực lượng xuyên quốc gia" (Merle м.), "tổ chức xuyên quốc gia" (Zorgbibe s.),... Chủ thê’ phi quốc gia là một lực lượng mới trong quan hệ quốc tế. Chúng bắt đầu xuất hiện từ thòi cận đại và phát triển mạnh mẽ trong thời hiện đại. Hiện nay, sự tồn tại của các chủ thê phi quốc gia đang tác động đến quốc gia và đem lại những thay đổi đáng kê trong quan hệ quốc tế. Sự nổi lên của lực lượng này đã trở thành cơ sở cho nhiều trường phái lý luận khác nhau và tạo ra thách thức đáng kê đôi với chủ nghĩa hiện thực. Thậm chí, đi xa hơn, có quan điểm còn cho rằng sự xuất hiện các chủ thể phi quốc gia là nhân tố mới đang làm thay đổi thế giới. Sự tổn tại và vai trò của chủ thể phi quốc gia đã trở thành một trong những điểm tranh luận chính giữa các trường phái nghiên cứu quan hệ quốc tế. Hàng loạt các câu hỏi được đặt ra. Chủ thể phi quốc gia có làm xói mòn chủ quyền quốc gia? Chứng có khả năng lâh át quốc gia? Chúng thúc đẩy hợp tác và hội nhập đến đâu? Chúng tác động đến sự thống nhất của thế giới như thế nào? Vai trò của chúng đối với tương lai thế giới?... Bài viết này xem xét một trong những chủ thể phi quốc gia điển hình và quan trọng nhất - tổ chức quốc tế. Trong đó, bài viết tập trung nhiều hơn tói tổ chức quốc tế phi chính phủ vốn là loại hình mang tính phi quốc gia đậm nét. Không nhằm trà lời tất cả các câu hỏi nói trên, 168 Một số vẩn để lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhin lệch sủ bài viết chi hy vọng đóng góp phán nào vào việc đánh giá vai trò của chủ thể phi quốc gia thông qua trường hợp tô chức quốc tế. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ Khái niệm tổ chức quốc tế có thể được xâv dựng dựa trên các dâ'u hiệu đặc trung mang tính bản chất. Tô chức quốc tế nói chung thường có bôn dâu hiệu chính. Trong đó, ba dâu hiệu đầu là dấu hiệu của tô chức nói chung, riêng dấu hiệu thứ tư phản ánh tính quốc tế cùa tổ chức: 1/ Ý chí hợp tác được thể hiện trong các văn bàn thành lập (tuyên bố chung, hiệp định,...); 2/ Bộ máy thường trực (ban thư ký, ủy ban thường trực, hay các cơ câu tổ chức khác) giúp duy trì hoạt động thường xuyên; 3/ Có tính tự trị và thẩm quyền đối với các quvết định của mình (được trao cho tô chức quốc tế theo thoa thuận giữa các thành viên); 4/ Có thành viên từ hai quốc gia trở lên hoặc có hoạt động xuyên quốc gia, hoặc cả hai. Dựa trên các dấu hiệu chủ yếu này, tô chức quốc tế có thể được định nghĩa là "thể chế có thẩm quyên xác đinh, được íhành lập trên cơ sở thoả thuận đa phương của nhiều đôi tác có cơ sở quổc gia khác nhau và nhăm mục đích hợp tác qua biên giới". 169 Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia Có nhiều cách phân loại tổ chức quốc tế. Cách thứ nhất dựa trên lĩnh vực hoạt động chức năng của tổ chức quốc tế. Theo đó, có tổ chức quốc tế là đơn chức năng hay chuyên môn (unifunctional) hoạt động trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó, và tổ chức quốc tế đa chức năng hay chức năng chung (multifunctional) hoạt động đổng thời trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, tô chức quốc tế đơn chức năng như NATO, Khối Hiệp ước Varsaw, WB, INTERPOL, ICAO, IMO,...; tô chức quốc tế chức năng chung như Liên hợp quốc, EU, ASEAN,... Cách thứ hai dựa trên địa bàn hoạt động của tổ chức quốc tế là toàn cầu hay khu vực. Theo cách này có hai loại tô chức quốc tế khu vực (hay địa phương) và tô chức quốc tế toàn cầu. Cách phân chia này có thể được cụ thể hóa hơn như tổ chức quô'c tế toàn cầu {global), liên lục địa (intercontinental), khu vực (regional) và tiểu vùng (subregional). Ví dụ, tô chức quốc tế toàn cầu như WTO, IMF, ủ y ban Chữ thập Đỏ quốc tế,...; liên lục địa hay liên vùng như ASEM, Tổ chức Hồi giáo quốc tế,...; khu vực như ASEAN, OAU, OAS...; tiểu vùng như ủ y hội sông Mê Công.... Cách thứ ba dựa trên chế độ thành viên là công (public) hay tư (private). Theo cách này, một tổ chức quốc tế công có chế độ thành viên là quốc gia. Còn tổ chức quốc tế tư có thành viên là các cá nhân và các nhóm. Trên bình diện quan hệ quốc tế, tô chức quốc tế công chính là tô 170 Một số vấn đê lý luân quan hê quóc tế dưới góc nhin lịch SL chức quôíc tế liên chính phủ (intergovernmental organừation IGO), còn tổ chức quốc tế tư chính là tô chức quòc tế phi chính phủ (international nongovernmental organization - ĨNGOy. Ví dụ, IGO như Liên hợp quổc, IMF, EU, NATO, ASEAN, NAM,...; INGO như Green Peace, CARE, PLAN, Hiệp hội các thư viện quốc tế... Nói chung, các cách phân loại nói trên đều mang tính tương đối và có thế sử dụng kết hợp. Trong sô này, cách thứ ba được sử dụng phổ biến nhất cả trong thực tiễn lẫn nghiên cứu. Bài viết này cũng chủ yếu dựa theo cách phân loại đó. Cách phân loại thứ tư của Liên hiệp các hiệp hội quốc tế (Union o f International Associations - UIA) cũng rất đáng quan tâm. Đây là sự phân loại kết hợp cả ba tiêu chí nói trên nhưng mở rộng thêm cả sự hiện diện thực tế cũng như hình thức tô chức. Sự phân loại của UIA khá chi tiết khi chia các tổ chức quốc tế thành ba nhóm khác nhau là "thông lệ" (conventional), "khác" (other) và "đặc biệt" (speáaiy. Trong đó, tô chức quốc tế thông lệ là những tô chức đã có sự thừa nhận chung là tô chức quốc tế. Tổ chức quôc tế khác là những tô chức có hình thức riêng biệt và tính quổíc tế chưa 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, M cGraw-Hill, Boston 1998, tr. 386-387. 2. Union of International Associations, Yearbook o f Intenwtwnal Organizations 2007, http://ww w.uia.org. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 171 cao. Còn tô chức quốc tế đặc biệt là những tổ chức chưa rõ ràng cả vê' hoạt động, thể chế và tính quoic tế. Trong mỗi nhóm lại có những loại hình cụ thế khác nhau. Trong mỗi loại hình lại được phân chia tiếp thành hai kiểu dạng IGO và INGO. Trên thực tê' chi có các tô chức quổc tế theo thông lệ mới đóng vai trò nổi bật trong quan hệ quốc tế. Cách phân loại thứ tư cũng có thể áp dụng khá thích hợp vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Nhìn chung, cách phân loại này cũng dựa nhiều vào sự phân chia IGO và INGO như cách phân loại thứ ba ở trên. Quá trình ra đòi và phát triến của tổ chức quốc tế nói chung, của IN GO nói riêng có một số nguyên nhân chính như: nhằm hạn chế tranh chấp và xung đột trên cơ sở hợp tác giữa các thành viên, nhu cầu điều phôi hành động chung đê tăng hiệu quả trong những vấn đề nhất định, sự tương tác tăng lên giữa các thành viên dẫn đến nhu cầu thể chế hóa để duy trì hợp tác và ổn định quan hệ, sự xuất hiện các vâh đề chung đòi hỏi phải thành lập tô chức nhằm thống nhất nỗ lực đê đối phó,... TỔ chức quốc tế có một quá trình khá lâu dài. Liên minh là dấu hiệu sơ khai của tổ chức quốc tế và đã xuất hiện từ thời CỔ đại. Ví dụ, ở Hy Lạp, có Liên mirth Delian được thành lập năm 478 trước Công nguyên nhằm đối phó với Đ ế quốc Ba Tư, các liên minh do Athen và Sparta đứng đầu trong cuộc chiến tranh Peloponnese... Dưới thời Xuân Thu - Chiên Quốc ở Trung Quốc, hiện tượng liên 172 Một số vấn đề lý luân quan hê quóc té dưới goc nhin lỊCh sử minh cũng diễn ra râ't phô biêh mà đién hình là thuyết tung hoành. Trong thời kỳ phong kiến ò cháu Au, một liên mirth rất nổi tiêng là Liên đoàn Hanseatic (Hcmseatĩc League). Đây là liên minh thương mại giữa nhiều thành phô ờ châu Âu được thành lập năm 1241 và mang nhiêu dáng dâp của một tô chức quổc tế. Tuy nhiên, trình độ tô chức và sự liên kết trong các liên minh này khá lỏng lẻo nên chúng chưa phải là tổ chức quốc tế. Sang đầu thế kỷ XIX, sự phổ biến của hình thức ngoại giao hội nghị (conference diplomacy) đã tạo tiên đế cho sự ra đời các tô chức quô'c tế. Trong văn kiện cuối cùng cua Hội nghị Vienna năm 1815, các nước châu Âu đã tu vén bố việc thành lập một tô chức quốc tế vể thủy vận trên sóng Rhine. Ngay sau đó, ủ y ban trung ương về thủy vận sóng Rhine (Central Commission for the Navigation o f Rhine) đã được thành lập năm 1815 và đên năm 1856, có thêm ủy ban sóng Danube (Danube River Commission). Đó là những hình thức sơ khai đầu tiên của tô chức quốc tế. Sự phát triển tô chức quốc tê bắt đầu ghi dấu âh trong quan hệ quốc tế cùng với sự xuâ't hiện hình thức liên hiệp quôc tê trong hợp tác chức năng như Liên minh điện túi quốc tế (International Telegraph Union) năm 1865 và Liên minh bưu điện toàn cầu (Universal Postal Union) năm 1874. Nhiều người coi đây là sự bắt đấu của tô chức quốc tế. Tiếp theo là Ban Quốc tế vế chiếu dài và trọng lượng thành lập năm 1875, Liên minh bao vệ sờ hữu công nghiệp thành lập năm 1883... 173 Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia Sự p h át triể n cá c tổ chức quốc tế 1909-2006 Nhóm Tô chức quốc tê thông lệ Tổ chức quốc tê'khác Kiểu 1909 1951 1991 2006 IGO 37 123 300 246 INGO 176 832 4.620 7.306 Tống 213 955 4.917 7.552 IGO Chưa có Chưa có 1.497 1.717 INGO Chưa có Chưa có 11.493 13.622 12.990 15.339 17.907 22.891 Tống Tổng số cả hai nhóm 213 955 Nguôn: Tập hợp theo Union of International Associations, Yearbook o f International Organizations 1909/1999 & Yearbook o f International Organizations 2007, http://vvww.uia.org. Sang thế kỷ XX, tô chức quốc tế bắt đầu phát triển khá nhanh, đặc biệt là sau Chiến tranh lạnh. Trong vòng gần 100 năm qua, số lượng tổ chức quốc tế thông lệ tăng gấp hơn 35 lần (7.552 năm 2006 so với 213 năm 1909). Nếu tính cả tổ chức quốc tế khác thì tỷ lệ này là gấp hơn 107 lần (22.891 năm 2006 so với 213 năm 1909). Xu hướng này còn tăng manh hơn sau Chiến tranh lạnh. Chi ưong vòng 15 năm sau Chiên tranh lạnh, đã có thêm 2.635 tổ chức quốc tế thông lệ. Nêu tính cà tổ chức quốc tế khác thì con số tổ chức quốc tế mói xuất hiện sau Chiến tranh lạnh lên đến gần 5.000. T Ố C độ tăng bình quân hằng năm của thời k ỳ nàv là khoảng 176 tô chức/năm. Mức này cao hơn nhiêu 174 Một số vấn đề lý luân quan hè quốc té dưới góc nhìn lịch sủ tốc độ 99 tô chức/năm trong thời gian 1951-1991 cua thòi kỳ Chiến tranh lạnh. Bảng trên cũng cho thấy sự phát triển nhanh chóng của INGO. Tốc độ phát triển của INGO nhanh hơn nhiều so với IGO, ít nhất về mặt số lượng. Chi tmh các tô chức quốc tế theo thông lệ, từ năm 1909 đến 2006, sô lượng INGO tăng gấp 41,5 lần (7.306 năm 2006 so với 176 năm 1909) trong khi số lượng IGO chi tăng gán 6,7 lẩn (246 năm 2006 so với 37 năm 1909). Năm 2006, nếu chi tính các tổ chức quốc tế theo thông lệ thì số lượng 7.306 các INGO gấp gần 30 lần so với 246 IGO. Nếu tính cả dạng tổ chức quốc tế khác thì số lượng INGO cũng gấp gần 13 lần so với IGO. Rõ ràng, đây là sự phát triển khá mạnh vói tính liên tục cao và tốc độ tăng trưởng lớn bâ't chấp tình trạng chia rẽ, đối đầu, xung đột và chiến tranh của thế kỳ XX. Sau Chiến tranh lạnh, sự phát triển tiếp tục của tô chức quốc tế nói chung, của INGO nói riêng lại càng có thém nhiều điều kiện thuận lợi. Đó là sự mở rộng và phát triến quan hệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau, xu thế toàn cầu hóa, xu hướng hợp tác và hội nhập quốc tế, nhu cẩu ổn định quan hệ và yêu cầu hạn chế tình trạng vô chính phù trong quan hệ quốc tê' sự nổi lên của các vấn để toan cẩu, cách mạng thông tin và điều kiện dân chủ,... ít nhất, xu hướng tăng vê lượng của tô chức quốc tế nói chưng, của INGO nói riêng đã cho thấv vai tro cua tô chức quốc tế đối với quốc gia và con người đang ngày Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 175 càng tăng. Xu hướng này cũng cho thấy sự tham gia ngày càng đông đảo của các tầng lớp khác nhau vào tô chức quốc tế, đặc biệt là INGO. Với sự phát triển liên tục và tốc độ tăng trưởng như vậy, có thể tin rằng xu hướng này vẫn được tiếp tục trong tương lai. Nhìn chung, sự phát triến mạnh mẽ của các tô chức quốc tế là một đặc điểm quan trọng của quan hệ quốc tế hiện đại. Hiện nay, hầu như không có quốc gia nào không tham gia tổ chức quốc tế. Bên cạnh quốc gia, các nhóm và cá nhân cũng tham gia ngày càng nhiều vào các tô chức quốc tế khác nhau. Tổ chức quốc tế đã trở thành một phần quan trọng trong đòi sống quốc tế. Cùng với xu hướng này, khả năng tác động đa dạng của tổ chức quốc tế đối vói quan hệ quốc tế cũng sẽ tăng lên. Vậy liệu tổ chức quốc tế có khả năng đóng vai trò như chủ thê quan hệ quổc tế được không? Trong nghiên cứu quan hệ quổc tế, câu trả lòi là khá khác nhau. QUAN NIỆM VỂ VAI TRÒ CHỦ THỂ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA TỔ CHỨC QUỐC TỂ Liên quan đên vân để này, có ba câu hỏi chính vẫn đang được tranh luận. Thứ nhất, tổ chức quốc tế có vai trò trong quan hệ quốc tế hay không? Nếu có vai trò, tổ chức quốc tế mới có thể được coi là chủ thể quan hệ quốc tế. Nếu có thê được coi là chủ thể quan hệ quôc tế nhưng lại không thể xếp chúng vào chủ thê’ quốc gia thì lại này sinh câu hòi thứ hai: Có tồn tại cái gọi là chủ thể phi quốc gia 176 Một số vấn đê lý luân quan hê quốc tế dưới góc nhm lỊCh sù hay không? Nếu có thể xếp vào chủ thê phi quôc gia thì lại nảy sinh tiếp câu hỏi thứ ba: Tất cà các loại hĩnh tố chức quốc tê hay chi mỗi INGO mới có thê được coi là chu thê phi quốc gia? Trong câu hỏi đầu tiên, liệu tô chức quốc tê có đú vai trò đê có thê được coi là chủ thể quan hệ quổc tế hay không, ý kiến rất khác nhau giữa các trường phái lý luận quan hệ quốc tế chủ yếu. Chủ nghĩa hiện thực vẫn giữ truyền thống đề cao quốc gia, coi trọng yếu tố quyển lực trong quan hệ quốc tế. Từ đó là thái độ coi nhẹ tô chức quốc tế. Hans Morgenthau cho rằng chi có quôc gia mới có khả năng kiểm soát quyền lực chứ không phai bằng sự liên minh dưới hình thức tổ chức quốc tế. Chủ nghía hiện thực mới với các học giả như Kenneth N. Waltz hay Emst w. Lefever có chú ý hơn đến vai trò của tô chức quốc tế nhưng lại coi đó chỉ là những cách thức hỗ trọ hoặc bình phong cho chính sách đối ngoại quốc gia mà thôi. Nói chung, các học giả chủ nghĩa hiện thực ít quan tám đến tổ chức quô'c tế và không giải thích được tại sao hệ thống tô chức quốc tế, đặc biệt là các INGO hiện đang ngày càng phát triển. Chủ nghĩa tự do có quan điểm ngược lại với chu nghĩa hiện thực khi đề cao vai trò và sự cấn thiết cua to chức quốc tế. Tuy nhiên, không có sự thống nhát giữa các trường phái khác nhau của chủ nghĩa tự do. Chu nghĩa lý tường (idealism) với đại biếu ưu tú la Woodrow Wilson chi quan tâm tói tô chức quốc tế liên chính phu trên quy mô Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 177 toàn cầu. Ông cô vũ cho sự ra đời của Hội quổc liên vói niềm tin rằng tô chức quốc tế chính là cơ sở tạo sự hợp tác liên quốc gia đê bảo vệ hòa bình. Chủ nghĩa chức năng ựunctionalism) của David Mitrany thì cho rằng việc hình thành các tổ chức quôc tế hợp tác kỹ thuật, kinh tế tò dưới lên sẽ thúc đẩy hợp tác chức năng giữa các quốc gia, góp phần đảm bảo hòa bình và phát triển. Chủ nghĩa chức năng mói (neo-functionalism) của Emst B. Haas rất đề cao vai trò của tô chức quôc tế khi ông cho rằng đòi sống quốc tế sẽ khó khăn hon, đáng sợ hơn, nguy hiểm hơn nếu không có các tổ chức quốc tế. Tuy vẫn quan tâm tới hợp tác chức năng, Ernst в.Haas lại tập trung nhiều tói tổ chức quốc tế liên chính phủ từ trên xuống hơn là INGO từ dưới lên. Chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) cho rằng ngày càng có nhiều vân đề quốc tế mà các quốc gia không thê tự giải quyết một mình. Vì thê^ sự ra đời của tô chức quốc tế là cần thiết và tất yếu để thúc đẩy hợp tác. Dựa trên chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa xuyên quốc gia (transnationalism) đề cao vai trò của tô chức quốc tế đối với sự suy giảm vai trò quốc gia và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong quan hệ quốc tế. Cả hai chủ nghĩa này đều kỳ vọng vào những thay đổi tiếp tục cùa quan hệ quốc tế cũng như sự hình thành cái gọi là quản trị toàn cầu {global governance) do tô chức quốc tê đem lại. Trong khi đó, chu nghĩa siêu quốc gia (supranatìonalism) và chủ nghĩa toàn cầu (globalism) đánh giá vai trò của tổ chức quốc tế dựa trên vai trò tương lai cùa chúng nhiều 178 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dơCH góc nhìn lịch sử hơn là hiện tại. Chủ nghĩa siêu quốc gia cho rằng cán thiết lập ra các tô chức quốc tế siêu quốc gia đế hạn chê tình trạng vô chính phủ và thúc đây sự thống nhát của thê giới. Còn chủ nghĩa toàn cầu (Barton D., Mitchell s.,...) quan niệm thế giói như một mạng nhện nhiều tầng lớp các liên hệ lân nhau một cách thống nhâ't giữa quốc gia và các chủ thê’ phi quốc gia1. Nhìn chung, cả hai lý thuyết này đểu đánh giá cao vai trò của tổ chức quốc tế như chất xúc tác cần thiêt cho sự phối hợp toàn cầu và thậm chí còn kỳ vọng vào khả năng thay thế quốc gia của chúng. Đối vói câu hỏi thứ hai, có hay không cái gọi là chủ thê phi quốc gia, những người theo chủ nghĩa hiện thực bác bỏ hoàn toàn vai trò của những chủ thê phi quốc gia. Họ không quan tâm sự tồn tại cũng như không hể tính đên vai trò của chủ thể phi quốc gia trong quan hệ quốc tế. Gần đây, trước thực tế tăng trưởng của những lực lượng mới không hoàn toàn thuộc quốc gia, những người theo chủ nghĩa hiện thực mới bắt đầu chú ý nhiều hơn tới loại hình này. Mặc dù vậy, họ vẫn cho rằng các lực lượng phi quốc gia còn lâu mới có vai trò đáng kê trong quan hệ quốc tế. Chúng tiếp tục chịu sự chi phối của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chúng chi có khả năng nhát định tiết chế hành vi đối ngoại của quốc gia chứ không thay đổi được động cơ, hành vi và kết quả trong tương tác giữa các 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, с. 171. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 179 quốc gia. Thậm chí trong nhiều trường hợp, chúng đi cùng quốc gia và là công cụ thực hiện lợi ích quốc gia. Điểu quan trọng, theo họ, thực lực có hạn và thiếu hụt nhiều thứ của các lực lượng phi quốc gia sẽ không cho phép chúng có thể thách thức được địa vị hiện thòi của quốc gia và càng không bao giờ có thể bình đẳng với quốc gia. Đối với họ, chỉ có quổc gia mới là chủ thể quan hệ quốc tế cần tính đến trong quan hệ quốc tế. Đối với những người theo chủ nghĩa tự do mới, sự tồn tại và phát triển của chủ thế phi quốc gia được coi là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng trong lý thuyết của họ. Họ cho rằng sự xuất hiện của các chủ thê phi quốc gia không chỉ chứng tỏ sự khiếm khuyết lớn của chủ nghĩa hiện thực về vẩn đề chủ thể, mà còn đang làm thay đổi quan hệ quốc tế thê' giói. Sự nổi lên của chủ thể phi quốc gia đang tạo ra sự xói mòn chủ quyền quốc gia. Sự phát triển của chúng đang làm suy giảm vai trò của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Quá trình vận động và phát triển của chúng đang tạo cơ sở cho hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau thay dần cho xung đột quyền lực giữa các quốc gia. Vai trò và tác động ngày càng tăng của chúng trong quan hệ quốc tế đang đặt nền móng cho việc tổ chức lại thế giới... Từ đó, những người này cố gắng mở rộng đối tượng thuộc thành phần chủ thế phi quốc gia. Tuy nhiên, có sự khác nhau trong quan niệm về vân đề này. Loại thứ nhất chi công nhận tư cách chủ thể phi quốc gia của tổ chức 180 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ quốc tế và công ty xuyên quốc gia. Loại thứ hai muôn bô sung thêm một số nhóm chính t r ị - x ã hội khác như tô chức tôn giáo, nhóm sắc tộc, tổ chức tội phạm quốc tế,... Loại thứ ba còn mở rộng hơn khi bao gồm cả chính quyển địa phương và cá nhân. Có lẽ tình trạng bâ't nhất này xuất phát từ chỗ chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa chù thê với tiền chủ thể (là những đổi tượng có tiềm năng trỏ thành chủ thể quan hệ quốc tê). Trên thực tế, có những tiẽn chù thể chưa chắc đủ khả năng trở thành chủ thế. Chúng chi dừng ở mức gây ra vâh đề trong quan hệ quốc tế hơn là trở thành chủ thế quan hệ quốc tế thực sự. Mặc dù vậy, vẫn có sự nhất trí tương đôi cao trong việc coi tổ chức quôc tế là chủ thể phi quôc gia hoặc ít nhất là loại chù thể không hoàn toàn thuộc về quổc gia (chủ thể hỗn hợp). Những người đi theo chủ nghĩa kiên tạo (constructivism) và một số lý thuyết hậu thực chứng lại có cách tiếp cận khác hẳn. Họ chú ý tới con người trong nhiểu tập hợp khác nhau như cá nhân, giới tinh hoa (elite), phong trào xã hội,... Ví dụ, chủ nghĩa kiến tạo cho rằng hành vi của quốc gia được hướng định bởi niềm tin của giới tinh hoa, chuẩn mực xã hội và bản sắc xã hội1 chứ không hoàn toàn vì lợi ích chính trị hay kinh tê như quan niệm của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do. Trong quan niệm của chủ nghĩa 1. Margaret p. Kam & Karen Mingst, Bài giảng "Between Theory and Practice of International Relations in the Beginning of the 21st Century", Khoa Quốc tế học - Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hạ Long, tháng 4-2007. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 181 kiên tạo và một số lý thuyết hậu thực chứng, vai trò chu thê quan hệ quôc tế của tô chức quốc tế không được để cập trực tiếp. Tuy nhiên, có thế thây được bóng dáng đằng sau tô chức quốc tế. Chủ nghĩa kiến tạo và lý thuyết phê phán nhâri mạnh tác động của giao tiếp xã hội đôi với quan hệ quốc tế, mà tô chức quốc tế chính là công cụ hữu hiệu đê thực hiện giao tiếp xã hội giữa các quốc gia. Thông qua đó, tô chức quốc tế góp phần phô biên niềm tin chung, phát triên chuẩn mực xã hội và định hình bàn sắc xã hội trên quy mô quốc tế. Tiếp theo, khi xem xét vai trò chù thê phi quốc gia của tô chức quốc tế thì lại này sinh câu hỏi thứ ba: tâ't cả các loại hình tô chức quốc tế hay chi môi INGO mới có thê được coi là chủ thê phi quốc gia? Trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, có quan điểm coi tô chức quốc tế nói chung, bao gồm cả INGO và IGO, đều là chủ thể phi quốc gia, nhưng cũng có quan điểm chi coi INGO thuộc phạm trù này. Trong khi vai trò chủ thê phi quốc gia của INGO không bị đặt thành vấn để thì sự tranh luận xảy ra ở chỗ IGO là chủ thê quốc gia hav chủ thê phi quốc gia. Quan điếm đâu cho rằng IGO có thê được xếp vào chủ thê phi quốc gia bởi chúng được tạo ra nhằm thực hiện vâh đê' chung cua cộng đổng quốc tê’ nhiều hơn là cúa quốc gia, và rằng chúng có xu hướng ngày càng phàn ánh ý chí chung hon là lợi ích riêng. Hơn nửa, IGO được quốc gia trao một phần quyền hạn của mình đê tạo nên thám quyền riêng nên IGO vẫn có khả năng độc lập hơn với 182 Một số vấn đề lý luận quart hê quốc tế ƠUCH góc nhìn tịch sù quốc gia. Tính tự chủ, sự tự quyết cùa quòc gia trong IGO cũng bị giới hạn bởi sự ràng buộc từ nghĩa vụ chung và những quy định của tổ chức cũng như bới sự ước thúc từ các thành viên khác. Thực tê' cũng cho thấy nhiêu trường hợp IGO vẫn ra quyết định trái với quan điếm của quốc gia thành viên nào đó và quốc gia này vẫn phải tuân thủ quyết định của tô chức cho dù điều đó không hoàn toàn phù hợp vói lợi ích quốc gia của mình. Quan điểm sau cho rằng IGO vẫn thuộc chủ thê’ quốc gia mà không phải là chủ thê phi quốc gia bải sự ra đời của nó thuộc ý chí quô'c gia và nhằm thực hiện lợi ích quốc gia. Thành viên của IGO chính là quốc gia và hoạt động của nó chịu sự chi phối hoàn toàn của quốc gia. Cho đến nay, mặc dù có những IGO được quô'c gia trao thêm một số thẩm quyền và có tính độc lập tương đối, nhưng sự lệ thuộc của loại hình tô chức quốc tế này vào quốc gia vẫn là rất lớn. Thậm chí, bởi "cái tôi" cùa quốc gia vẫn Tất lớn nên thường xuyên diễn ra sự đấu tranh giữa quyền lợi riêng và mục tiêu chung. Kết qua là tình trạng khó khăn, tính không chắc chắn và sự thiếu hiệu lực trong hoạt động của các IGO. Điêu này khóng dễ giải quyết nên khả năng độc lập hơn của IGO la khá xa vời. Ngay cả trường hợp IGO ra quyết định không phu hợp với lợi ích của quốc gia thành viên nào đó cũng được giải thích là câu chuyện giữa các quốc gia vì đó là sự áp đặt cua các nước lớn chi phối IGO đối vói các thành vién nho hơn. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 183 Vì thế, quan điếm này cho rằng khó mà coi IGO là chủ thê phi quốc gia. Sự khác nhau giữa hai quan điếm này chủ yếu nằm trong sự đánh giá khác nhau về mức độ phụ thuộc của IGO vào quốc gia. Sự khác nhau thứ hai nằm ở chỗ quan điểm đầu mang tính tiên nghiệm nhiều hơn trong khi quan điểm sau lại dựa chủ yếu vào thực tiễn lịch sử. Cả hai quan điểm này đều thống nhất coi INGO là chủ thể phi quốc gia. Có lẽ đánh giá cao nhất vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của INGO chính là quan điểm của chủ nghĩa đa nguyên (pluralism). Xu hướng lý luận này được gọi là đhủ nghĩa đa nguyên bởi chính quan niệm về sự đa nguyên của nó. Trên phương diện quan hệ quốc tê' chủ nghĩa này cho rằng quốc gia không phải là chủ thể duy nhất, mà còn có các chủ thể phi quôc gia, trong đó INGO chính là trường hợp điển hình. Còn đối với chủ nghĩa kiến tạo, như trên đã đề cập, vai trò chủ thể quan hệ quốc tế được dành cho cá nhân hơn là quốc gia. Vì thế, nếu lý thuyết này có quan tâm tới tổ chức quốc tê' thì đó chắc chắn là INGO chứ không phải IGO. Cho dù có quan niệm khác nhau về vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của IGO hay INGO, sự tồn tại của tổ chức quốc tế vẫn là một hiện tượng quan trọng của quan hệ quốc tế và thê'giới. Việc xem xét vai trò chủ thể của INGO có thê giúp thây rõ hon điều này. 184 Một số vấn đê lý luân quan hê quốc té dưới góc nhìn lịch sù VAI TRÒ CHỦ THỂ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA INGO Như trên đã đề cập, INGO đã có sự tăng trương khá nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng. Cùng với đó, vai trò của INGO trong quan hệ quốc tế củng tăng lên, đem lại cho nó khả năng của một chủ thê quan hệ quốc tế chủ thê phi quốc gia. Điều này được thê hiện trên bốn tiêu chí của chủ thế quan hệ quốc tế là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh hường trong quan hệ quốc tế. Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, vê mặt thời gian, INGO ra đời từ cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ tù đầu thế kỷ XX. Như trên đã đề cập, xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong tương lai. v ề phạm vi hoạt động, hàng nghìn INGO đang triển khai hoạt động trên khấp thế giới. Gần như không còn quôc gia nào nằm ngoài "vùng phu sóng" cua các INGO. Vê lĩnh vực, các INGO lam việc trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế như kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội,...1. Tuy không có nhiều INGO trong chính trị nhưng hoạt động cua chúng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp 1. Ví dụ, Hiệp hội các Phòng Thương mại quôc tế trong kinh tê' Hiệp hội Mã vạch quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuần hóa, Hoa bình xanh trong vấn đề môi trường, Uy ban Chữ thập Đo quốc tế trong lĩnh vực nhân đạo, FIFA hay IOC trong lĩnh vực thê thao, Hội Liên hiệp phụ nữ th ế giới trong giới phụ nữ, Hiệp hội nhà báo ASEAN trong giới nhà báo... Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 185 tới lĩnh vực này1. Không chi về bề rộng, mức độ tham gia quan hệ quô'c tế cùa INGO cũng tương đôi sâu sắc. Chúng đang có xu hướng tham gia ngày càng sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp2, v ề lực lượng, chúng củng cuốn hút được nhiều giai tầng xã hội khác nhau vói số lượng ngày càng đông đảo tham gia vào quan hệ quốc tế, tạo nên khả năng tăng ảnh hưởng trong đời sông xã hội quốc tế 3. Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, các INGO đều có mục đích tôn chi rõ ràng trong văn bản thành lập. Do dựa trên sự tham gia và đóng góp tự nguyện, INGO sẽ không 1. Ví dụ, trong thập niên 1990, hàng trăm INGO với sự phối hợp của Chính phủ Canada đã mở chiến dịch nhằm loại bỏ mìn mặt đâ't. Cuối cùng, lệnh cấm sừ dụng mìn đã được ban hành. Đây là một trong những thành công lớn nhất của các INGO. Các tổ chức hoạt động nhân đạo cũng thường liên quan đến chính trị trong các vấn đề như dân chủ và nhân quyền. 2. Ví dụ, trong lĩnh vực môi trường, có INGO quan tâm tới nhiều vấn đề cúa môi trưòng như Hòa bình xanh, có INGO chi quan tâm tới vấn đề môi trường nhâ't định nhu WWF đối với sinh vật thiên nhiên, hay có INGO chì quan tâm tới một loài sinh vật chẳng hạn như Hiệp hội bao tổn cừu biến. 3. Ví dụ, CARE là tô chức tư nhân với sự tham gia và đóng góp của các nhóm tôn giáo, nghiệp đoàn và ậhà kinh doanh. CARE được thành lập năm 1945 tại New York vói mục tiêu ban đầu là tích trữ lương thực đề phòng sự xâm lược cùa Nhật Ban. Sô' lương thực này không được dùng đến và được chuyên sang giúp châu Âu khôi phục sau chiến tranh. CARE từ NGO trờ thành INGO. Sang thập niên 1950, CARE bắt đấu mò rộng hoạt động sang nhiều lĩnh vực khác nhu у tê' giáo dục, nông nghiệp và môi trường... qua hệ thông văn phòns cua nó о nhiều noi trên thê'giói. 186 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h è q u ố c tế dưcn g ó c nhìn lịch sù thê tổn tại nếu không có mục tiêu cụ thê và có sức thuyết phục. Mục đích chủ yêu của INGO thường là thuc đây hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu phát triêh hoặc giai quyết vân đê trong lĩnh vực nào đó. Mục đích của chúng phù hợp với ý nguyện của quốc gia và công chúng nên tính hướng đích trong hoạt động của chúng là rõ ràng và thuận lợi. Hơn nữa, nguyên tắc xây dựng và hoạt động của INGO là tụ nguyện và hợp tác nên càng tạo điều kiện cho mục đích hợp tác phát triêh của chúng. Cho đêh nay, hoạt động của các IN GO đang đóng góp khá nhiều cho hợp tác và phát triển1. Do hoạt động trong nhiều lĩnh vực và vấn đê khác nhau nên mục tiêu của các INGO khá đa dạng và ngày càng phong phú2. Ngay trong từng lĩnh vực, các INGO cũng có nhiểu mục tiêu khác nhau tù chưng tói riêng, từ lớn tới nhò3. 1. Có thể nêu một ví dụ điển hình là trường hạp ù y ban Oxford cứu trợ nạn đói (Oxford Com m ittee for Famine Relief) hay còn gọi là Oxfam. Oxfam được thành lập năm 1942 ờ Anh. Với mục tiêu ban đẩu là cứu trợ tình trạng thiếu lương thực, hoạt động cua Oxfam dân dần đã được mở rộng ra nước ngoài với mục đích xóa đói giam nghèo trên thê'giới. Oxfam cộng tác với VVB và IMF trong cắt giám nợ cho các nước nghèo không chi với tư cách chuvén gia, mà còn tham gia hoạch định chính sách. Hiện Oxfam có bav nhóm độc lập. Các dự án của nó thường tập trung vào việc cung cáp công cụ và hạt giống, nước sạch, thủy lợi. 2. Ví dụ, các INGO đâu tranh với Nike đòi Nike cai thiện điểu kiện lao động tại các nhà máy cùa hãng ở nước ngoài, với Nestlé vể việc bán sữa bột cho trẻ em ở các nước nghèo, với M onsanto vể thực phâm biến đổi gen,... 3. Xem chú thích 2, trang 185. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 187 Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các INGO có nguồn nhân lực và tài lực từ cá nhân và các nhóm thành viên. Ngoài ra, chúng còn có thêm sự ủng hộ của các lực lượng khác như quốc gia, nhà tài trợ hay các phong trào xã hội. Điều này đem lại cho các INGO khả năng tự chủ nhất định về tài chính và lực lượng. Bên cạnh đó, năng lực của INGO còn được phản ánh ở sự độc lập tương đối. Là một tô chức có tính tự nguyện, tôn chỉ mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và hoạt động của INGO đều được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, không chịu sự chi phối, cưỡng ép của bất cứ quôc gia hay tổ chức nào khác. Chúng cũng tự tạo cho mình những thẩm quyền riêng ngay từ khi thành lập. Tất cả những điều trên góp phần tạo ra tính độc lập tương đối trong quyết định và sự tự trị trong hoạt động của các INGO1. Cho dù vẫn có sự phụ 1. Ví dụ điển hình là trường họp Hòa bình xanh (Grempeace). Hòa bình xanh được thành lập năm 1971. Đây là INGO về môi trường lớn nhất thê'giới vói sụ tham gia cúa gần 5.000.000 người ở khoáng 150 nước trên thế giới. Hòa bình xanh tham gia vào 25 tổ chức khác, có văn phòng ờ hàng chục nước, có đội ngũ nhân sự làm việc thưòng xuyên tới hàng nghìn người, có ngân sách lên tới 140-150 triệu USD và có một hạm đội nho. Hoạt động môi trường cùa nó khá đa dạng và nhiều khi sẵn sàng đối đầu với chính phù các nước lớn. Trong thực tế, Hòa binh xanh vẫn là một thê' lực môi trường mà các quốc gia và công ty xuvên quốc gia không thể xem nhẹ. Các ví dụ khác là CARE có ngân sách hằng năm lên tới hàng trăm triệu đôla Mỹ. WWF có thành viên tù 570.000 người năm 1985 tăng lên khoang 5.000.000 nguời cuối những năm 1990. 188 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ó c tế dưới g ó c nhi rì lịch sủ thuộc nhất định vào quổc gia song tính độc lập tương đôì của nó là rõ ràng khi có xu hướng tăng tác động lên quổc gia và can thiệp nhiều hơn vào khu vực thuộc thẫm quyển quổc gia. Bên cạnh đó, năng lực của các EMGO còn tăng lên bởi mối quan hệ hợp tác với các quốc gia và tô chức quốc tế khác1. Đáng chú ý, xu hướng phối hợp và liên két giữa các INGO đã bắt đầu diễn ra.2 Nếu xu hướng này tiếp tục tăng, năng lực tác động của các INGO cũng sẽ tăng lên. Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế, vai trò của các INGO là dễ nhận thấy. Các INGO góp phần thúc đẩy xu hướng hợp tác, hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế. Hoạt động của các INGO đang dệt kết quan hệ xuyên quốc gia giữa các nhóm và cá nhân, góp phần tạo sự liên kết và hợp tác chức năng giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Các INGO cũng tham gia vào việc xây dựng hệ thông quốc tế qua sự đóng góp vào toàn cầu hóa và xu hướng thông nhâ't hơn cùa thế giới. Chúng hình thành nên một mạng lưới hỗ trọ cho hệ thống 1. Ví dụ, nhiều INGO có được quy ch ế tư vân với Liên hợp quốc. Ngân hàng Thê giới (VVB) đã rất coi trọng việc đối thoại với các NGO. Dưới thời Jam es W olfensohn, thường có hơn 70 chuyên gia NGO làm việc tại WB. Năm 1998, hơn một nưa dự án cua WB có sự tham gia cua các NGO. Jam es Wolfensohn đả xây dựng nén một “liên minh" với rất nhiều NGO. 2. Ví dụ, trưóc khi Hội nghị Seatle cùa VVTO diễn ra, khoang 1300 NGO đã ký vào tuyên bố phản đối WTO và INGO bao vệ quvẽn cua người tiêu dùng là Public Citizens đã đưa lên mạng Internet- Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 189 các quốc gia qua việc thực hiện nhiều nhiệm vụ hợp tác chuyên môn thay cho quốc gia. Các cố gắng của chúng đang góp phần hình thành chuẩn mực chung và luật lệ trong quan hệ quốc tế. Hoạt động của chúng đang tạo nên những giá trị chung xuyên quốc gia. Anh hưởng của INGO trong quan hệ quốc tế còn thể hiện ở tiếng nói tăng lên của chúng đối vói quốc gia trong nhiều vâh đề. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, chúng còn tác động lên các quốc gia và chủ thê khác, buộc chúng phải điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại1. Nhìn chung, ảnh hưởng của INGO ngày càng tăng trong mọi lĩnh vực, trừ chính trị. Tuy nhiên, tác động gián tiếp của INGO trong lĩnh vực này củng có xu hướng tăng. Phương pháp hoạt động cơ bản của INGO trong lĩnh vực chính trị quốc tế thường là tuyên bố hay phát biếu và dựa vào sự lảng hộ xã hội2. 1. Có thê những dấu âh quan trọng mà các INGO tạo ra trong quan hệ quốc tếlà từ Hội nghị Rio de Janeiro năm 1992. Khi đó, chúng tạo được áp lực đù mạnh đê dẫn đến thoả thuận về việc kiểm soát khí thải CƠ 2. Năm 1994, chiến dịch "Năm mươi năm là đủ" của các INGO đã chi phối hội nghị VVB và buộc VVB phải thay đổi tư duy và biện pháp của nó. Năm 1998, các INGO đã góp phần ngăn cản sự ra đời của Hiệp ước đa phương về đầu tu (MAI), là một dự thào hiệp định nhằm hòa hợp các luật lệ về đầu tư dưới sự bào trợ của OECD. 2. Hòa bình xanh, Tô' chức Ân xá quốc tế, Liên hiệp quốc tế về quyên con người, Tô chức toàn thê giới đâu tranh chông tra tân... đều có phương thức hoạt động như vậy. Ví dụ, Tổ chức toàn thế giới đấu tranh chống tra tân đã quy tụ được hơn 150 tô chức quốc gia vào việc gây áp lực và du luận quốc tế chống lại việc áp dụng nhục hình. 190 Một số vấn đề lý luàn quan hê quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Một cách thường thây khác là gây áp lực xã hội lên quổc gia thông qua các IGO, đặc biệt là Liên hợp quòc1. Vì thê mà nhiều khi INGO còn được gọi bằng thuật ngũ xã hội chính trị học là "nhóm áp lực quốc tế". Vói bôn điểm trên, INGO có khả năng đóng vai trò của một chủ thê quan hệ quốc tế. Do có tính độc lập tương đối với quốc gia, INGO có thể được coi là chủ thê phi quốc gia. Tuy nhiên, INGO vẫn còn nhiều hạn chê đê có thê đạt được vai trò ngày càng lớn hơn trong quan hệ quốc tế như kỳ vọng của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa toàn cấu. Những hạn chế chủ yếu này là: - Tính thê chế của INGO thường không chặt chẽ. Quan hệ trong tô chức của INGO thường mang tính tự nguyện và hợp tác, việc thực thi quyết định dựa trên cơ sở tự giác. Các INGO hầu như không có bộ máy cưỡng chế thi hành. Chúng không có được sự bào hộ cua quốc gia. Kết quả là tính ràng buộc yếu, khả năng ra quyết định bị hạn chế, khả năng ứng phó chậm, tính hiệu lực của các quyết định thấp,... - Tỷ trọng của INGO trong quan hệ quốc tế còn tháp hơn nhiều so với quôc gia cả về quy mô lẫn vai trò cũng như địa vị pháp lý quốc tế. Có nhiều lĩnh vực nhu chính 1. Ví dụ, Tô chức Ân xá quốc tè' (International Amnesty) cũng như một số INGO khác, có quy ch ế tư vân đối với Lién họp quốc nên đã tác động qua tố chức này và một sô' nước lớn đế vận động cho việc ra đcri công ước chống tra tấn. Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 191 trị quốc tế vẫn thuộc "đặc quyền" của quốc gia mà các INGO không thê xen vào được. Dù đã phát triến mạnh nhưng thực lực của chúng vẫn còn khoảng cách khá xa so vói quốc gia và IGO. Tỷ trọng và thực lực thâ'p quy định tiếng nói thấp trong quan hệ quốc tế. - INGO vẫn phụ thuộc đáng kê vào quôc gia khi phải tuân thủ luật quốc gia ưong thành lập và hoạt động. Quốc gia có thê ra quyết định pháp lý đôi với các INGO trong khi quyết định của chúng không có tính'ràng buộc đôi với quốc gia. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động của chúng vẫn phải dựa vào quốc gia đê triển khai. Thậm chí, vẫn có những INGO đã bị biến thành công cụ của quốc gia hoặc nhà tài trợ. - Hiện nay, hoạt động của các INGO vẫn tương đối riêng rẽ trong từng lĩnh vực. Sự phối hợp và liên kết giữa chúng không cao. Sự hợp tác giữa chúng với quốc gia và IGO chưa nhiêu. Đây là điểm khác với IGO - là một hệ thống đan xen với quốc gia và xoay quanh vai trò trung tâm của quốc gia. Thiếu vắng sức mạnh tập thê chính là một điểm khiên cho tiêng nói và ảnh hường quốc tế cua INGO còn khá khiêm tốn. * * * Rõ ràng vai trò chủ thế quan hệ quốc tế của tổ chức quốc tế nói chung, của INGO nói riêng là không thế bác bò. Chúng không chi là sụ hỗ trợ quốc gia, mà còn là sự bô 192 Một s ố vấn đ ề lý luân qu an h ê q u ố c tế duck g ó c nhìn lịch sù sung cho quốc gia trong một số hoạt động. Chúng không thuần tuý ở dưới quốc gia mà còn có xu huơng độc lập hơn so với quốc gia trong nhiều trường hợp. Chung đang góp phần tạo sự liên kết giữa các thực thê khác nhau cua thế giới, từ cá nhân cho tói quốc gia. Chúng đang đóng góp tích cực trong việc giải quyết nhiều vân đê lớn cùa nhân loại. Chúng đang hiện diện ngày càng tăng trong mọi lĩnh vực của đời sông. Tất cả những điểu này cho thây khả năng tác động đến quốc gia và con người cua tô chức quốc tế đang ngày càng đáng kế. Sự phát triển tổ chức quốc tê là một xu hướng rất quan trọng của thế giới đương đại. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Cùng với đó, vai trò của tổ chức quốc tế cũng sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với thê giới nói chung, đôi với quan hệ quổc tế nói riêng. Và vi thê' vai trò chủ thê quan hệ quốc tế của tô chức quốc tế là một thực tế khó bác bỏ. ít nhất, lịch sử thế giói đương đại không thế bò qua các lực lượng mới này. Bò qua hoặc coi nhẹ chúng sẽ không thể giải thích được nhiều xu hướng, nhiều hiện tượng đang xảy ra. Bỏ qua chúng cũng sẽ khó dự báo được sự vận động tiếp tục của thế giới. Mặc dù vậy, cũng sẽ là quá lạc quan nếu cho răng sự nổi lên của tổ chức quốc tế có thê làm giảm nhanh chóng vai trò quốc gia và đem lại những thay đôi to lớn trong quan hệ quốc tế. Sự phát triển của chúng vẫn gặp nhiều khó khăn, kha năng chi phôi quan hệ quốc té cua chúng Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia 193 vẫn mang tính tiên nghiệm nhiểu hơn là thực tiễn. Cho dù độc lập với quôc gia nhiêu hơn IGO, các INGO vẫn chứa đựng nhiếu hạn chế khiên khả năng chúng vượt khòi sự chi phối của quôc gia vẫn còn xa vời. INGO vẫn còn nhiêu hạn chế so với quốc gia trên nhiều phương diện cả về thực lực lẫn địa vị pháp lý. Khà năng cạnh tranh với quốc gia vẫn là kỳ vọng hơn là thực tế. 194 CỐNG TY XUYÊN QUỐC GIA CHỦ THỂ QUAN HỆ QUỐC TẾ Trong phần lớn chiều dài lịch sử, quan hệ quốc tê bị chi phối và định đoạt bởi quốc gia. Đến thời hiện đại, thế độc tôn đó dần dần bị phá vỡ bởi sự nổi lên các chủ thê mói bên cạnh quốc gia. Đó chính là chủ thê phi quốc gia ( nonstate actor). Sự tổn tại của các chủ thể phi quốc gia đã tác động mạnh mẽ lên quốc gia và dẫn đên những thay đôi đáng kể trong quan hệ quốc tế. Thậm chí, sụ phát triển của chúng được nhiều người kỳ vọng sẽ còn đem lại những thay đổi to lớn hơn cho tương lai thế giới. Công ty xuyên quốc gia là một trong những chù thế phi quốc gia quan trọng nhất. Đó là những tô chức kinh doanh có quyền sở hữu hoặc hoạt động kinh doanh diễn ra trên địa bàn nhiều quốc gia. Trong kinh tế, thương có sự phân biệt giữa công ty quốc tê' (international Corporation) vói công ty đa quốc gia (m ultinational Corporation ) va cóng ty xuyên quốc gia (transnational Corporation). Trong đó, công ty quốc tế là công ty có sự quốc tế hóa thị trương, tức là hoạt động ờ ca thị trường nội địa lẫn thỊ trương Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hê quốc tế 195 nước ngoài. Công ty đa quốc gia là công ty có sự quốc tế hóa nguồn vổn, tức là có chủ đầu tư thuộc các quốc tịch khác nhau. Công ty xuyên quốc gia là công ty có sự quổc tế hóa hoạt động kinh doanh nhưng chủ đầu tư thường thuộc một quôc tịch. Nhìn chung, các cách phân loại nói trên không được sừ dựng phô biến trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Đôi với quan hệ quốc tế, một sự xếp hạng theo quy mô địa lý và doanh sô', sự phân biệt quốc tịch của công ty mẹ hay mức độ ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế thường có ý nghĩa nhiều hơn sự phân loại bởi những tiêu chí trên giúp đánh giá được khả năng tương tác và vai trò của chúng trong quan hệ quổc tế. Tuy nhiên, trong bài này, xuất phát từ góc độ có ảnh hưởng xuyên quốc gia trong quan hệ quốc tế, thuật ngữ công ty xuyên quốc gia được sử dụng chung đê chi tất cả các công ty hoạt động trên quy mô quôc tế, tức là bao gồm cả ba loại nói trên1. Với cách hiểu công ty xuyên quốc gia như vậy, bài viết này xem xét quá trình và đặc điểm của công ty xuyên quốc gia trong quan hệ quốc tế để từ đó đánh giá vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của chúng. Việc tìm hiểu vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của công ty xuyên quốc gia 1. Nguyễn Thiết Son (Chù biên), Các công ty xuyên quốc gia: Khái niệm đặc trung và những biểu hiện mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr. 17-50. 196 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c tế dưới g ó c nhin lịch sủ không chi có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu quan hệ quốc tế, mà còn có thê là cần thiết đối vói nước ta trong bối cảnh mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CỒNG TY XUYÊN QUỐC GIA Công ty xuyên quốc gia (TNC) ra đời trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỹ đẩu cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, mục đích lợi nhuận và sự phát triển sản xuâ't đã làm tăng yêu cầu vê thị trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hóa và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đấy việc tăng cường khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt cũng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài. Quá trình này được tạo điểu kiện bởi sự phát triển của thương mại quô'c tế đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được tạo điếu kiện bởi sự ủng hộ của các nhà nước tư bản chủ nghĩa vá chủ nghĩa thực dân. Đổng thòi, quá trình đi từ hợp tác giàn đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tu bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng nav. Trên cơ sở đó, các tô chức kinh doanh quốc tế bắt đẵu được hình thành và phát triển. Những tô chức kiêu nàv được biết đến sớm là vào đầu thế kỷ XVII như các Cóng ty Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hê quốc tế 197 Đông An của Anh, Hà Lan hay Công ty Hudson Bay. Vào thcri bấy giờ, các công ty đó đã có ành hưởng nhất định đến quan hệ quốc tế như khuyến khích hoặc trực tiếp thi hành chủ nghĩa thực dân. Có những đoàn thám hiểm thực dân do các công ty này tô chức. Nhiều cuộc xâm lược do chính các công ty này khuyến khích và hỗ trợ. Khi ách thực dân được thiết lập, những công ty này đã đi đầu trong việc bóc lột và khai thác thuộc địa. Các TNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thòi kỳ chủ nghĩa đ ế quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn sản xuất - kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bàn vói sự thôn tính cá lớn nuôt cá bé cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền lớn từ Syndica qua Trust tới Conglomerate. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tàng rinh quốc tế của các công ty này. Sự nổi lên cua các công ty độc quyền và sự vươn manh ra thế giói còn nhờ sự kê't hợp chặt chẽ giữa quyển lực kinh tế của chúng với quyển lực chính trị cua nhà nước tư ban chu nghĩa. Điều này đã thúc đẩy sự phát triến của chù nghĩa đế quốc trong quan hệ quốc tế. Hai quvển lực này đã song hành cùng nhau trong nhiều nỗ lực 198 Một số vấn đê lý luận quan hê quóc tế dưòt goc nhin lịch sù tranh giành thị trường quốc tê' mở rộng khu vực anh hưởng và chiến tranh đế quốc. Sau Chiến tranh thê' giới thứ hai, sự phát triẽn của nển kinh tế thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tê quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các nưóc tu ban chù nghĩa đã tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục cua các TNC, đặc biệt trong th ế giới tư bản. Nhiều TNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Sự phát triên cùa TNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tê trọng yếu, năng lực tài chính và khoa học kỹ thuật,— mà còn ờ sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp thế giới tư bản. Vai trò của TNC trong quan hệ quốc tế cũng vì thế mà tăng lên qua sự đóng góp râ't lớn vào việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thuơng mại xuyên quô'c gia và mở rộng phân công lao động quốc tế. Bên cạnh đó, sự ra đời của hàng loạt quốc gia mới thuộc Thế giới thứ ba cùng vói sự yếu kém của các nền kinh tế đó cũng vẫn duy trì cơ hội cho TNC mở rộng kinh doanh tại thị trường này. Tuy nhiên, quá khứ gắn liển với chù nghĩa thực dân và chủ nghĩa đ ế quốc đã tạo nên sự phàn ứng và nghi ngờ đối vói các TNC. Trong những năm 1960 và 1970, nhiều nước mới giành được độc lập đã coi các TNC là "kẻ bóc lột", "thực dân kinh tế" hay "động vật ăn thịt" các nước nghèo. Các TNC còn bị lén án bởi xuất khẩu công nghệ lạc hậu, khai thác quá nhiẽu tài nguyên không tái tạo được, tranh giành thu hút lao động chuyên môn, chèn ép sản xuất nội địa và tạo пел một Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 199 tầng lớp giàu xổi ỏ nước sở tại... Vì thế, tài sản nước ngoài của các TNC được quốc hữu hóa ở nhiều nơi. Các TNC phải rút lui khỏi thị trường của một số nước Thế giới thứ ba. Mặc dù vậy, điều này cũng không ngăn càn được sự lớn mạnh của các TNC, đặc biệt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ những năm 1980, nhất là sau Chiến tranh lạnh, các TNC đã phát triển rất mạnh mẽ và đóng vai ưò ngày càng quan ưọng trong quan hệ quốc tế. Xu thế hòa dịu sau Chiến tranh lạnh, sự phát triển của kinh tế thị trường như con đường phát triển chung, xu thế hợp tác cùng phát triển, trào lưu thúc đẩy thương mại tự do và hội nhập kinh tế... đã tạo điều kiện cho các TNC mở rộng địa bàn, phát triển hoạt động ra khắp thế giói. Vai ưò chính trị và thực lực kinh tế to lớn cũng như sự chi phối nền kinh tế thế giới của các nước phát triển - nơi xuâ't phát của hầu hết các TNC lớn tiếp thêm điều kiện cho sự phát triển và vai ưò của các TNC. Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về TNC đã góp phần đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các TNC. TNC ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thu thuê' là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Điều kiện chính trị thay đổi ở nhiều nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyến đổi, sự phát triển của hệ thống luật lệ quốc tế và pháp luật quốc gia liên quan đến TNC cũng làm giám bớt sự nghi ngại chính trị đối với các TNC. Bời thê' các nước đều mờ của thị trường, 200 Một số vấn đề lý luận quan hè quốc tế dưới góc nhin hch sủ khuyên khích FDI và thậm chi còn canh tranh với nhau trong việc thu hút TNC. Nhờ đó, các TNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sông quôc tế. 800 600 ■ 400 Số lượng TNC (nghìn) □ 200 Số lượng chi nhánh nước ngoài (nghìn) 0 Đẩu thập niên 1990 Năm 2004 Sự phát triển của TNC sau Chiên tranh lạnh Sau Chiến tranh lạnh, TNC đã có sự phát triển chóng mặt vói số lượng các TNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập niên 1990 tăng lên gần 70.000 công ty vào năm 2004. Đổng thời, mức độ quốc tế hóa của chúng cũng phát triển chưa từng thấy với sô' lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập niên 1990 tăng lên gần 690.000 chi nhánh vào năm 20041. Một điếm khác củng đáng chú ý, TNC không còn là độc quyến cua các nước phát triên hàng đầu của phương Tây, mà đã xuát hiện cả ưong các nền kinh tê đang phát triển hoặc mới nôi ở châu Á. Tuy nhiên, quy mô và vai trò cua các TNC 1. UNCTAD, World Investment Report 2005, tr.13. Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 201 này vân còn Tất khiêm tốn. Chúng chỉ chiếm 4 trong tổng số 100 TNC phi tài chính lớn nhất thế giới năm 20031, chiếm 3 trong tổng sô' 50 TNC tài chính lớn nhất thế giói năm 20042. Sức mạnh kinh tế của TNC râ't lớn với tài sản trong năm 2003 của 100 TNC lớn nhất thế giói là 8.023 tỷ USD, trị giá kinh doanh là 5.551 tỷ USD3. Các TNC cũng là người nắm giữ hầu hết vôn đầu tư nước ngoài4. Các TNC 1. Trong sô' 100 TNC lớn nhâ't, 25 thuộc Mỹ, 50 thuộc EU (37/50 thuộc Đức, Pháp, Anh), 9 thuộc Nhật Bản. Các nước phát triển khác như Canada, Ôxtrâylia, Thụy Sĩ,... có 12 TNC. Trong khi đó, các nển kinh tế đang phát triển chì có 4 TNC là Hutchison Whampoa Lim ited của Hồng Công (Trung Quôc) (xếp hạng 16), Singte Ltd. của Xingapo (66), Petronas của M alaixia (72) và Samsung của Hàn Quốc (99). [UNCTAD, World Investment R qjort 2005, tr. 267-269]. 2. Đó là ba ngân hàng của Trung Quốc mới tham gia danh sách 50 TNC tài chính lớn nhất th ế giới với vị trí xếp hạng lẩn lượt là Ngân hàng Công thưong Trung Quổc (23), Ngân hàng Trung Quốc (34), và Ngân hàng Xây dụng Trung Quốc (39). [UNCTAD, World investment Report 2005, tr. 273]. 3. UNCTAD, World Investment Report 2005, tr .l7. 4. Trong thời gian 1995-2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài cua các TNC dưới hình thức mua cổ phần cùa cốc doanh nghiệp nước ngoài hoặc lập công ty 100% vốn nước ngoài dao động trong khoáng 58-71%, đầu tư dưới hình thức cho vay trong công ty chiếm bình quân 23% và tái đầu tư từ lợi nhuận cua công ty mẹ chiếm bình quân 12% tổng đầu tư của thê' giới. [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr.10]. 202 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc tế dưới goc nhm hch sứ thực hiện hơn 80% thương mại thế giới1. Các TNC chi phôi hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng cua thế giói. Các TNC cũng nắm giữ phẩn lớn công nghệ tiên tiến và quá trình chuyên giao công nghệ. Các TNC vân tiếp tục nằm ở trung tâm của sự phát triển. Thé và lực của TNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng sáp nhập và thu nhận (M&A) đê hình thành các tập đoàn lớn2, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như truyền thông, ngân hàng - tài chính, giao thông vận tải, năng lượng,... Tất cả những điều này đang làm tăng vai trò cùa TNC đối với quôc gia và quan hệ quốc tế. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ TNC được nhiều người coi là một loại hình tô chức quốc tế phi chính phủ (INGO) trong kinh tế. Giữa INGO và TNC có những đặc điểm giống nhau. Nhưng cũng có nhiều người khác tách TNC như một chủ thê phi quốc gia riêng. Sở dĩ như vậy là bời vì TNC có những đặc điếm 1. Conway Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 22s' Century, M cGraw-Hill, Boston 1998, Bàn dịch của Khoa Quổc tế học, t.2, tr. 57. 2. Từ năm 1987-2004, chi tính riêng các giao dịch M&A qua b)én giới có trị giá trên 1 ty USD thì sô' lượng đã là 993 cuộc với tống trị giá hơn 3.270 ty USD, chiếm tống trị giá giao dịch M&A toan cáu tư thâ'p nhất là 25,2% năm 1991 đêh cao nhâ't là 75,7% năm 2000. [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr. 9]. Công ty xuyên quốc gia - chù thể quan hê quốc tế 203 riêng không chi trong tô chức, hoạt động mà cà trong tác động của nó tới quan hệ quốc tế. Điều này tạo nên vị trí riêng của nó đối với quốc gia và trong quan hệ quốc tế. Duới đây là một số đặc điếm chủ yếu của TNC trong quan hệ quốc tế: - Tính cá nhân trong tô chức và hoạt động. C ơ cấu tô chức, nguyên tắc hoạt động, thành phần tham gia, nguồn tài chính đóng góp... của các TNC xuất phát chủ yếu tù nguổn cá nhân hơn là nhà nước. Điều này khiến cho tô chức và hoạt động của các TNC dựa trên ý chí cá nhân của những người góp vốn hơn là ý chí quốc gia. Các TNC theo đuổi lợi ích của chính mình hon là lợi ích quốc gia. Trên thực tế, có nhŨTìg TNC thuộc sờ hữu nhà nước hoặc do nhà nước nắm cô phần quyết định nhưng số lượng tương đôi ít1. Vì thế, tính cá nhân vẫn là đặc điếm phô biêíì của TNC. - Tính quôc tê'trong thành phần, mục đích và hoạt động. Chủ sờ hữu và thành viên góp vốn của TNC thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Mục đích của các TNC là lợi nhuận trên thị trường quốc tế chứ không bó hẹp trong thị trường nội địa. Hoạt động kinh doanh của nó là xuyên quốc gia vói việc khai thác thị trường quốc tế, thiết lập chi nhánh 1. Ví dụ trong số 100 TNC phi tài chính hàng đầu th ế giói hiện nay chi có Petronas cua Malaixia là công tv do nhà nước chi phối. Tronơ số 50 TNC tài chinh lớn nhâ't thế giới, chi có ba ngân hàng cua Trung Quốc là Ngân hàng Công thương Trung Quốc, Ngân hàng Trunơ Quôc và Ngân hàng Xâv dụng Trung Quốc là thuộc so hữu nhà nước. Còn lại đểu thuộc so hũu tư nhân (Sô liệu năm 2003). 204 Một số vấn đê lý luận quan hê quốc tế ớơcx goc nhìn lích sử nước ngoài và sử dụng nguồn nhân lực đa quốc gia. Hiện nay, tỷ ưọng tài sản nước ngoài, giá trị thương mại cua các chi nhánh nưóc ngoài và nhân công nước ngoài của TNC đều tăng lên1. Đây là điểm giúp phân biệt TNC với các công ty quốc gia (national Corporation). - Tính tự nguyện trong thành lập và hoạt động. Mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và hoạt động của TNC chủ yếu được thực hiện trên co sỏ thoả thuậri kinh tế hay dân sự một cách tự nguyện chứ không hoàn toàn chịu chi phôi, cưỡng ép của quôc gia. Tâ't nhiên, tính châ't này không bao gồm các TNC thuộc sờ hữu nhà nước, nhưng trong thực tế, các TNC đó cũng được trao quyền tụ chủ kinh doanh khá lớn. - Khác với các INGO có mục tiêu và chương trình nghị sự rất đa dạng, các TNC thường chi có mục đích là lợi nhuận. Hoạt động của chúng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Chứng có thê hoạt động trong một hay nhiêu ngành kinh tế. Tuy nhiên, nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh, ngày càng có nhiều TNC hoạt động đổng thời trong nhiều ngành kinh tế khác nhau. So vói INGO thường ít thay đổi vể mục tiêu và chương trinh nghị sự, ì . Năm 2003, tài san nước ngoài và nhân công nưóc ngoái cua 100 TNC lớn nhât th ế giới chiếm gân 50%, trị giá thương mại nước ngoài chiếm hon 54%. Các chi sô' này tăng lẩn lượt là 1,7%, 0,4% vá 2,6% so với năm 2002. [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr .l7]. Cóng ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 205 TNC linh hoạt và dễ thay đôi hơn nhiêu trong mục tiêu cụ thê và hoạt động kinh doanh1. - Khác với INGO ít gắn trực tiêp với chính trị, TNC có sự gắn bó đáng kểvới chính trị. Sự chi phôi lẫn nhau giữa chính trị và kinh tê' mục đích lợi nhuận quá lớn của các TNC đã quv định điều nàv. Không kê quá khứ gắn với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đê' quốc, sự can thiệp của TNC vào công việc nội bộ nước khác là hiện tượng không hề hiêm trong trong thời hiện đại2. Hiện nay, các phương pháp hoạt động chính trị của TNC thường là gây sức ép đôì với nước sờ tại và vận động hành lang ờ chính quôc3 đê thav đổi chính sách và luật pháp. Ngược lại, hoạt động của TNC cũng chịu ảnh 1. Ví dụ điển hình là Công ty Sony đã mò rộng hoạt động từ công nghiệp điện từ sang lĩnh vực giãi trí như âm nhạc, phim ảnh... 2. Vụ một SỐ TNC của Mỹ, nhất là Công tv điện thoại và điện tín quốc tê'(ITT) khuyến khích CIA và lực lượng cua tưóng Pinoche tiến hành đào chính lật đô chính phủ Algende nãm 1973 о Chilê là một ví dụ điễn hình. Thắng lợi cua chính phu cánh ta Algende đe dọa lợi ích của hơn 100 công tv Mỹ đanơ kiếm soát phần lớn kinh tế Chilê. Trong số đó, có đủ 24 công ty lớn nhất cua Mỹ như General Motor, General Cable, RCA, Xerox, Phelps Dodge... 3. Ba cônơ ty sàn xuất ôtô hàng đầu cua Mỹ là General Motor, Ford và Chrysler đă tuns; nhiểu lần thúc giục Chính phu Mỹ thi hành các biện pháp hạn chế sự phat triển ôtô Nhật Ban ơ thị trường Mỹ. Điểu nàv đã gâv ra các cuộc "chiêh tranh ôtô" Mỹ - Nhật và sự tham crja oiai CỊUyêt CHŨB chinh phu hâi nưoc. Hav СЭС \T cỉụ Khác như sự phan đôì cùa cac TNC Mỹ đôì với lệnh câm vận Liên Xô sau sự kiện Apganixtan năm 197S và sự kiện thiết quàn luật о Ba Lan năm 1981. Mot số TNC Mỹ cũng đã tùng vận động dò bo lệnh cấm vận và đòi bình thườnơ hóa với Việt Xam sau khi Chiên tranh lạnh kêt thúc. 206 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dướt góc nhìn lịch sủ hưởng khá lớn của môi trường chính trị chinh quốc và nước sở tại cũng như mối quan hệ chính trị giữa chúng. - Tính thể chế của TNC chặt chẽ hơn nhiếu so với các INGO. TNC là loại hình tô chức kinh doanh quôc tê với tô chức, nguyên tắc hoạt động và sự quản lý khác hán vói INGO. Co câu tổ chức của TNC thường theo hình kim tự tháp với mức độ ràng buộc cao và sự phân nhiệm rõ ràng. Chúng có hệ thông các quy định chặt chẽ cho mọi công đoạn hoạt động tù tổ chức xuôhg từng cá nhân. Các nguyên tắc hoạt động được quy định rõ ràng và có tính bắt buộc. Tính chất quan hệ trong TNC thường mang tính phục tùng. Tính thê chế của TNC thường được thể hiện trong điều lệ công ty, quy chê hoạt động, nội quy và các phương án kinh doanh cụ thế. - Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức, tài lực và nhân lực. Chúng hoạt động vì lợi ích của bản thân nhiếu hơn là vì lợi ích quốc gia. Nhìn chung, các TNC được tự do định đoạt quy mô, đôi tượng và phương án thực hiện hoạt động kinh doanh mà ít có sự can thiệp của nhà nước. Sự độc lập của TNC còn được tăng lên bởi những quy định pháp lý của nhà nước cho phép nó được quvển tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm đôi với két quá kinh doanh. Bản thân thế lực khá lớn của các TNC cũng giúp trao thêm tính độc lập tương đôi cho chứng. - Tuy nhiên, hoạt động của TNC vẫn phụ thuộc vào quốc gia khi chịu sự điều chinh của luật pháp chính quốc cũng như của nước sờ tại. Tại chính quô'c, các hoạt động cùa Cõng ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 207 chúng chịu sự kiểm soát ít nhiểu của nhà nước dưới hình thức như thuế hay luật chông độc quyền1. Tại quốc gia sở tại, TNC có thê bị quốc hữu hóa như trước kia hoặc những hạn chế như hiện nay về quy mô và lĩnh vực hoạt động như ngành nghề được phép kinh doanh, tỷ lệ góp vốn tối đa, quy định về kiêm toán, khuyến khích về kinh tế nhưng hạn chế về chính trị và văn hóa,... Các TNC vẫn cần sự ủng hộ hay bảo hộ của quốc gia trong hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoài nước. Sự phụ thuộc vào quốc gia còn biếu hiện ở chỗ nhiều khi TNC được sừ dụng như công cụ chính sách đôì ngoại, như bao vây cấm vận quốc gia nào đó. Các TNC buộc phải tuân theo quyết định của quốc gia dù điều đó trái với lợi ích của chúng2. 1. Ví dụ, các nước phát triên đểu ban hành luật chống độc quvền nhằm ngăn chặn sự lũng đoạn cúa các TNC. Một trong những vụ nổi tiếng gần đây là việc Bộ Tư pháp Mỹ đã đưa Công ty Microsoft ra tòa vì sự vi phạm luật chống độc quyền trong sàn phẩm phần mềm Windows. Một số nước còn có cà quy định về hoạt động của TNC ờ nước ngoài, như Nhật Bàn có quv định mức lương tôì thiếu mà TNC phai trà cho nhân công ò nước ngoài. 2. Chính sách cấm vận cúa MỸ đối với Iran sau cuộc Cách mạng Hổi giáo năm 1979 là một ví dụ. Lệnh cấm vận này được áp dụng không <±u đôì với TNC cua Mỹ mà cà các TNC cua nước khác. Năm 1995, công tv dầu lửa Conoco cua Mỹ bị chính quyền Clinton buộc phái huy bo hợp đổng phát triẽn một mo dầu о ừan. Ngay lập tức, Royal Dutch Shell cua Hà Lan và Total cua Pháp nháy vào thay thế. Mỹ đã đe dọa trừnơ phạt các TNC châu Âu và điều này đã gây nên cuộc cãi vã giữa MỸ và EU. Tương tự nhu vậy, Công ty dầu mo Texaco cúa Mv cũng phái rút khoi Mianma vì sức ép tTong vấn đề nhân quyển. 208 Một số vấn đề lý luân quan hê quóc tế dươi góc nhìn lệCh sủ - Hiện nay, hoạt động của các TNC ngáy cáng có sự liên quan gắn bó đến nhau. Điều này được quy định bơi tính hệ thống của nền kinh tế, xu hướng thống nhât cua thị trường thế giới, quá trình phân công lao động và bởi cố gắng chính trị của nhà nước nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Sự liên quan này có nhiều phan ánh khác nhau như kết hợp vổn, mua cô phần của nhau, phối hợp sản xuất, M&A, hợp đồng liên kết công nghệ, phối hợp cùng gây áp lực chính trị,... Đây là điểm khác vói INGO mà hoạt động vẫn đang còn khá riêng rẽ. Những đặc điểm trên không chi tạo ra "bản sắc riêng" mà còn góp phần đem lại vai trò chủ thê quan hệ quốc tê' cho TNC. VAI TRÒ CHỦ THỂ QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn vế chát, vai trò to lón đối với sự phát triển kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong quan hệ quô'c tế đang đem lại cho TNC khả năng của một chủ thể quan hệ quốc tế. Điểu này được thê hiện trên bôn tiêu chí của chủ thê quan hệ quốc tế là tham gia, mục đích, năng lực và ảnh hường. Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, TNC bắt đầu ghi dấu âh lớn trong quan hệ quô'c tế vói việc vươn ra thị trường nước ngoài từ nửa cuôĩ thế kv XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Vẽ mặt không gian, ngày nay, các TNC đã "phủ sóng" háu như khắp mọi quốc gia trên thế giới (xem bàng dưới đáy). Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 209 Thậm chí, nhiều TNC có tầm hoạt động trên quy mô toàn cầu1. Vê kênh quan hệ, các TNC tham gia vào quan hệ quốc tế không chi qua quan hệ giữa TNC vói quốc gia khác, giữa TNC với công ty khác, mà còn trong nội bộ công ty qua quan hệ giữa trụ sở với các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Vê' hình thức quan hệ, đó là sự phân công lao động quốc tê' đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc gia, giao dịch tài chính quốc tê' chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước ngoài,... Về lĩnh vực tham gia, hoạt động của TNC không chi diễn ra trong mọi ngành kinh tế lớn, mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó, sự tham gia của TNC trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong quan hệ quốc tế - là khá đáng kế như đã trình bày trong phần trên2. 1. Ví dụ, năm 2003, trong số 100 TNC phi tài chính có số tài sản nước ngoài lớn nhất, chì có 11 TNC có số lượng chi nhánh nước ngoài dưới 100, còn lại đều có tới hàng trăm chi nhánh. Cá biệt có TNC có tới hàng nghìn chi nhánh nước ngoài nhu Hutchison Whampoa (Hổng Công) với 1.990/2.350, General Electric (Mỹ) với 1.068/1.398. [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr. 267]. Trong SỐ các TNC tài chính, City Group (Mỹ) có chi nhánh tại 77 nước, UBS (Thụy Sĩ), Allianz Group (Đức), HSBC Bank plc (Anh), BNP Paribah SA (Pháp) và ABN Ambro (Hà Lan) có chi nhánh tại 48 nước... [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr. 273]. 2. Có thê bổ sung thêm vai trò của TNC trong lĩnh vực sàn xuất vũ khí. Ngoài các TNC sản xuất vũ khí cùa Mỹ, tổ hợp công nghiệp quốc phòng cua Liên Xô trưóc kia nay cũng đã chuyên thành TNC. Các TNC sàn xuất vũ khí lón không chỉ tác động tới chính sách đối ngoại cua các cưòng quốc, mà còn góp phần tạo nên những vấn để an ninh trong quan hệ quốc tế nhu buôn bán vũ khí, chạy đua vũ trang, kích thích xung đột vũ trang... 210 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế ơưới góc nhìn ìtch sử Ngoài ra, TNC còn hiện diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau cùa quan hệ quốc tế như khoa học, văn hóa, xã hội,...1. Không chi vê bẻ rộng, mức độ tham gia quan hệ quốc tế của các TNC cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong kinh tế. Điều này tạo kha năng cho TNC tham gia sâu hơn nữa vào đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế. Sô'lưọmg chi nhánh nước ngoài của các TNC theo vùng (đến năm 2004) VỪNG SỐLƯỢNG VỪNG SỐ LƯỢNG Châu Á Châu Âu EU 199.303 Đông Bắc Á 250.020 Các nước châu 10.485 Đông Nam Á 33.892 Đông Nam Âu 97.407 Nam Á 3.237 CIS 10.405 Tâv Á 11.025 Âu phát triển khác 1. Ví dụ, TNC đóng vai trò rất quan trọng trong khoa học. Năm 2002, 700 công ty với chi phí lớn nhất cho nghiên cứu vá phát triên (R&D), trong đó có ít nhất 98% là các TNC, đã chi tới 310 ty USD, chiếm tới 46% tông chi phí R&D th ế giới. Các TNC không chi chi cho R&D trong nước, mà còn đầu tư ra nước ngoài, thúc đẫy quõc tê' hóa hoạt động R&D. Năm 2002, 700 công ty nói trên kiém soát hơn 2/3 (69%) việc kinh doanh R&D. [UNCTAD, World i n v e s t m e n t Report 2005, tr. 119]. Ngoài ra, TNC còn tham gia gián tiép vao các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội thông qua các hoạt đọng tai t r ọ , tạo công ăn việc làm,... 211 Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hê quốc tế Châu Mỹ Châu Phi Bắc Mỹ 28.332 Bắc Phi 3.286 Nam Mỹ 6.654 Tây Phi 575 Trung Mỹ 26.881 Trung Phi 274 Các nước Caribê 1.806 Đông Phi 792 Châu Đại Dương 4.822 Nam Phi 919 Nguôn: UNCTAD, World lnvestment Report 2005, tr. 264-265. Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các TNC đều có mục đích lợi nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt cùa các TNC và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt động kinh doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không phải là TNC. Trên phương diện quan hệ quốc tế, mục đích này là động lực chính hướng hoạt động của TNC ra bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trước kia, mục đích lợi nhuận đã khiến TNC góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực dân và sự can thiệp chính trị vào quan hệ quốc tế. Ngày nay, mục đích lợi nhuận vẫn tiếp tục quy định cố gắng mờ rộng thị trường, tăng cường hoạt động và phát triển các hình thức tác động khác nhau của chúng trong quan hệ quốc tế. Thông qua quá trình kinh doanh quốc tế, các TNC có những đóng góp tích cực cho sự phát triến kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu, mờ rộng sàn xuất, cài tổ cơ cấu, chuyến 212 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc tế dưới goc nhìn lịch sử giao công nghệ, phát triển kỹ năng quàn lý, tạo việc làm,... Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của TNC dễ hòa hợp hơn với mục đích phát triên của các nước. Đồng thời, việc giảm thiểu sự can thiệp chính trị thô bạo như trước kia cũng góp phần làm giâm mâu thuẫn vói mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ngại, chống đối TNC ở các nước này cũng giảm theo1. Đó chính là co hội cho TNC mở rộng hoạt động ra khắp thế giới đê thực hiện mục đích lợi nhuận. Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các TNC có nguồn tài lực và nhân lực riêng từ các chủ sở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của chúng rất lớn2 và nguồn nhân lực củng dổi dào3. Thậm chí, có những 1. Việt Nam là một ví dụ điển hình. Sau khi bắt đầu cóng cuộc Đổi mới cuối năm 1986, ngay năm sau, Việt Nam đã ban hanh Luật Đầu tư nưóc ngoài 1987 thuộc loại thông thoáng nhâ't lúc báy giờ nhằm thu hút các TNC đầu tư vào nước ta. Cho đên nav, chù trương này vẫn được tiếp tục và các TNC đã đóng góp đáng ké vào sự phát triển kinh tếcú a Việt Nam. 2. Năm 2003, tổng trị giá tài sán cua 100 TNC hàng đáu thế giới là hơn 8.000 tỳ USD [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr.17], Trong khi đó, tống GDP th ế giới năm 2005 là gán 44.300 ty USD [IMF, World Economic Database, tháng 9-2006]. 3. Năm 2003, số lượng lao động cua 100 TNC hang đáu thế giới là hơn 14,6 triệu người [UNCTAD, World Investment Report 2005, tr.17]. C ôn g ty xu yên q u ố c gia - ch ủ th ể qu an h ê q u ố c tế 213 TNC có sô tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển1. Đó là chưa kê xu hướng M&A đang tạo ra những TNC không lổ trong nên kinh tế quổc tế. Các TNC được luật pháp chính quôc cũng như nước sở tại trao cho quyền tự chù và những thẩm quyền riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật pháp của chính quốc thì rộng rãi, luật pháp nước sở tại thì khuyến khích, luật pháp quốc tế thì còn thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn lại là chính quốc nên càng tạo điều kiện cho sự tự trị của TNC. Cơ sở tài chính, nguồn nhân lực và những thẩm quyển như vậy đem lại cho các TNC khả năng độc lập trong quyết định và tự chủ trong hoạt động kinh doanh. TNC tự quyết định thị trường, mặt hàng, đối tác, tổ chức, nhân lực, chính sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước nào mà không chịu sự áp chế của ai, miên là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập và tự chủ của TNC còn 1. Nếu xếp hạng so sánh giữa GDP của các quốc gia năm 2005 với tổng trị giá tài sàn cùa TNC năm 2003, các TNC sẽ chiếm vị trí 8, 9,10 trên Canada (11) và Tây Ban Nha (12). Các TNC cũng chiếm vị trí từ 13 đến 21 trên Braxin (22), chiếm vị trí 23 trên Hàn Quốc (24) chiếm vị trí 25 và 26 trên Ấn Độ (27), chiếm vị trí 28 trên Mêhicô (29) chiếm vị trí 30 trên Nga (31), chiếm vị trí 32 trên Ôxtrâvlia (33) chiếm vị trí từ 34 đến 39 trên Hà Lan (40), chiếm vị trí tủ 41 đến 64 trên Bi (65)... Như vậy, trong 65 thực thế kinh tê'lớn nhất th ế giới, TNC chiếm tới 48, còn quốc gia chi là 17 [Tập hợp theo IMF World Economic Database, tháng 9-2006 và UNCTAD, World investment Report 2005, tr. 273]. 214 Một số vấn đề lý luận quan hê quóc tế ƠUOI goc nhin lịch sù được thê hiện qua khả năng tác động lén quốc gia và can thiệp vào một số khu vực thuộc thâm quyên quốc gia. Hiện nay, cho d ù vẫn phải chịu sự điếu chinh nhât định của quốc gia, năng lực này cua TNC ván đang được củng C Ố nhờ xu hướng tự d o hóa thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận đầu tư, sự phát triên năng lực của bản thân các TNC và cả xu hướng tăng cường hợp tác giữa chúng. Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hường trong quan hệ quốc tế, TNC có được vị trí khá lớn trong quan hệ quốc tế không chi nhờ thực lực to lớn và khá năng kiến tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hường này còn được quy định bởi nhu cẩu phát triển ngày càng tăng cua mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này đã đem lại vị thế quan trọng cho TNC trong chính sách đối ngoại cua các quốc gia. Hơn nữa, các TNC chu yếu xuất phát từ các trung tâm chính trị và kinh tế lớn cùa thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu thuẫn của các thê lực này, ành hường kinh tế và tiêng nói chính trị cua TNC trong quan hệ quốc tế được tăng lên đáng kế. Đáng chú ý, sau Chiên tranh lạnh, ảnh hường của TNC trong quan hệ quôc tê có chiều hướng tăng lên. Nếu sự nổi lên cua véu tố kinh tê trong quan hệ quốc tê đem lại vị thê’ quốc té cao hơn cho TNC, thì xu thê thống nhát của thị trường thế giới đem lại anh hường toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khà năng chi phối chính trị cua kinh tế ngày một lớn nén C ôn g ty x u yên q u ố c gia - ch ủ th ể qu an h ệ q u ố c tế 215 khả năng tác động tới quốc gia và quan hệ quốc tế cua TNC cũng Tất đáng kế. Nhìn chung, TNC vẫn có khả năng tác động lên quô'c gia, kế cả chính quốc lẫn nước sò tại, buộc quốc gia đó phải thay đổi hay điều chinh hành vi đối nội và đối ngoại. KẾT LUẬN Như vậy, vói việc đáp ứng đủ bốn tiêu chí ờ trên, TNC có khả năng đóng vai trò của một chu thê quan hệ quốc tế. Chủ thê này đang tác động ngày càng nhiều tới nền kinh tế - chính trị quốc tế. Do có tính độc lập tương đối với quốc gia, TNC có thế được coi là chủ thê phi quốc gia. Tuy nhiên, ưong nghiên cứu quan hệ quốc tế, quan niệm về vai trò chủ thê quan hệ quốc tế của TNC khá khác nhau. Những người theo chú nghĩa hiện thực (realism ) vẫn tiếp tục coi quốc gia như chủ thể quan hệ quốc tế cơ bàn. Họ hoặc phớt lờ, hoặc chi coi TNC như công cụ thực hiện lợi ích quốc gia. Trong khi đó, chủ nghĩa tự do (liberalism), đặc biệt xu hướng lý luận cua chu nghĩa đa nguyên (p luralism ) và chu nghĩa xuyên quốc gia (transnationalism) lại dựa vào TNC như một cơ sờ thực tiễn và lý luận quan trọng. Cà hai đều coi sự phát triển và vai trò ngày càng tăng của TNC trong quan hệ quốc tế đế chứng minh rằng quốc gia không phai là chu thê duy nhất, rằng TNC chính là sự nối lên cua một loại hình chủ thế quan hệ quốc tế mới - 216 Một s ố vấn đ ê lý luận quan h è q u ố c té dưới g ó c nhìn lịch sủ chủ thê phi quốc gia. Chủ nghĩa xuyên quốc gia còn đi xa hơn khi cho rằng TNC đang làm tăng sự phụ thuộc lân nhau giữa quốc gia và nhân dân, từ đó góp phãn làm thay đổi quan hệ quốc tế và thế giới. Còn chú nghĩa kiến tạo (constructivism) tuy không đề cập trực tiếp tư cách chù thế quan hệ quôc tế của TNC nhưng cũng cho thây có sự đánh giá cao đối với vai trò của lực lượng này. Chú nghĩa kiên tạo cho rằng hành vi của quốc gia được định hình bởi niềm tín của giới tinh hoa (elite) mà rõ ràng giới kinh doanh TNC là một phần trong số đó. Bâ't luận quan niệm thế nào, tác động của TNC là đáng kể trong quan hệ quốc tế. Và đó là tác động có tính hai mặt. Thông qua quá trình hoạt động v à mạng lưới kinh doanh quốc tế của mình, các TNC góp phần mở rộng quan hệ quốc tế, phát triến quan hệ kinh tế quốc tế, làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy toàn câu hóa, hình thành luật lệ trong quan hệ quổc tế, chuyển tải các giá trị xuyên biên giói v à củng CỐ hệ thống quổc tế. Các đóng góp tích cực nhất của TNC là phát triển kinh tế thế giới, tạo điểu kiện cho hợp tác v à hội nhập quốc tế, thúc đẩy xu hướng thống nhâ't của thế giới. Ngược lại, TNC cũng gây ra những tác động tiéu cực đối với quan hệ quốc tế. TNC góp phần tạo ra hình thức thống trị và lệ thuộc mới trong quan hệ quốc tế. Trong khi chù nghĩa tự do không quan tâm nhiểu đến tác động tiéu cực cua TNC thì chủ nghĩa Mác - Lênin lại chú trọng đên C ôn g ty x u yên q u ố c gia - ch ủ th ể quan h ệ q u ố c tế 217 khía cạnh này. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đê'quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Lênirt đã chỉ ra và phân tích những hậu quả to lớn do các TNC độc quyển gây ra cho quốc gia và quan hệ quốc tế. Một sô' lý luận khác như lý thuyết phụ thuộc của Raul Prebish và nhiều học giả khác, lý thuyết hệ thống thế giới của Immanuel Wallerstein cũng chỉ ra tác động tiêu cực của TNC đôi với sự phân hóa thế giới. Nắm công cụ tài chính và công nghệ trong tay, các TNC đang tác động lên luật lệ kinh tế quốc tế và chi phối sự phân công lao động quốc tế mới có lợi cho chúng. Trong đó, các nước đang phát triển có nguy cơ ngày càng phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển khi trở thành nơi cung câ'p nguyên liệu, lao động và sản phẩm sơ chế giá rẻ cũng như nơi tiêu thụ hàng hóa giá cao của các TNC. Các TNC được cho rằng đang khoét sâu thêm mâu thuẫn Bắc - Nam khi duy trì sự bóc lột các nước đang phát triển, chèn ép nền sản xuất nội địa, duy trì bất bình đẳng về cơ hội và thu nhập, trói buộc bằng nợ nần, chuyến giao công nghệ lạc hậu, thủ phạm tàn phá tài nguyên và môi trường, gây ra đụng độ giá trị văn hóa phương Tây và bàn địa, tiếp tục sự can thiệp chính trị vào công việc nội bộ của các nước dưới nhiều hình thức khác nhau,... Nói chung, TNC vẫn tiếp tục gây lo ngại cho các nước đang phát triển và hoàn toàn có thế tạo ra những vân đề lớn trong quan hệ quốc tế bởi khả năng 218 Một s ố vấn đ ê lý luân quan h è q u ó c té đươi g o c nhìn hch sử can thiệp chính trị và lủng đoạn kinh tê cua chúng. Vì thế, đ ã có những C Ố gắng trong quan hệ quóc tẽ nhăm ngăn chặn các khả năng này1. Các tác động hai mặt của TNC đối với quan hệ quốc tê là một thực tế. Và đó cũng là cơ sở đế khẳng định thêm tu cách chủ thể quan hệ quốc tế của TNC. 1. Ví dụ, Liên hợp quốc đã lập ra một trung tám vẽ các tập đoàn xuyên quốc gia. Trung tâm này đã đề ra "N hững nguvén tắc ứng xư" nhằm hạn ch ế các hành động quá trớn cua TNC. Tuy nhiên, nhiêu khi các TNC đã không tuân theo nguvên tắc nay, ma họ thường đi tìm những thoà thuận riêng với nước so tại. Ví dụ khác là việc năm nước thuộc Nhóm Andean đã lập liên minh đê tăng sức mạnh cho mình trong thoả thuận với các TNC. 2 19 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁCH TIẾP CẬN QUYỂN Lực TRONG NGHIÊN cứu QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ LỊCH sử MỞ ĐẦU Quyển lực là một hiện tượng xã hội - chính trị được hình thành trong quá trình quan hệ giữa người với người. Hiện tượng này đã xuất hiện từ lâu trong các cộng đổng sơ khai của loài người cùng vói sự phân hóa thành các thứ bậc, tôn ti, trật tự đẳng câp,... Quyền lực càng được khẳng định mạnh mẽ cùng với sự xuất hiện của nhà nước, luật pháp và các giai tầng, giai cấp trong xã hội. Trải qua quá trình lịch sử, quyền lực đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực với mức độ chi phối cao và biếu hiện đa dạng. Quyền lực cũng là hiện tượng lịch sử quan hệ quốc tế. Quyền lực bắt đầu hiện diện trong lĩnh vực này ngay từ khi xuất hiện quan hệ giữa các cộng đổng người. Điều này đã được ghi nhận qua nhũng tác phẩm thành văn từ thời cổ đại như Binh pháp Tôn Tử ở Trung Quốc vào cuối thời Xuân Thu và Lịch sử chiêíi tranh Peloponnese cùa Thucydides 220 Một s ố vấn đ ê lý luân quan h ê q u ố c tế dưới g ó c nhin hch sù ở Hy Lạp thế kỷ V trước Công nguyên. Đên thòi cận đại, cùng vói sự ra đòi của quốc gia theo mô hình Westphalia, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự mớ rộng của quan hệ quốc tế, quyền lực ngày càng chi phôi đáng kê lịch sử quan hệ quốc tế. Bởi sự hiện diện mạnh mẽ của quyền lực trong thực tiễn lịch sử, yêu cầu nhận thức vấn đề quyển lực đã được đặt ra từ khá sớm. Các nghiên cứu về quyền lực xuât phát chủ yếu từ xã hội học và chính trị học. Trong khi đó, đối với lĩnh vực lịch sử quan hệ quốc tê^ mặc dù quvến lực đã được đề cập từ khá sớm nhưng việc nghiên cứu hiện tượng này vừa ít ỏi về số lượng, vừa hạn hẹp vê nội dung. Sự xuât hiện muộn màng của những nghiên cứu quyển lực trong lịch sử quan hệ quốc tế còn có phẩn bời hai nguyên nhân mang tính học thuật. Thứ nhất, do quan hệ quổc tế cũng là một dạng quan hệ xã hội và nằm trong bản chất của chính trị nên việc tìm hiếu khái niệm quvển lực trong quan hệ quốc tế đã chịu nhiều ảnh hưởng cua các nghiên cứu trong xã hội học và chính trị học. Trong khi đó, những nghiên cứu về quyền lực của hai môn này chỉ thực sự bắt đầu từ những thập niên cuối thế kv XIX. Thứ hai, quan hệ quốc tế với tư cách là môn khoa học tương đối độc lập cũng chỉ được bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ nhât. Điểu này đã khiến sự quan tâm tói quvển lực với những đặc thù riêng trong lịch sừ quan hệ quốc tế củng được bắt đầu muộn theo. Quá trinh p h á t triển c á c h tiếp cậ n qu y ên lưc.. 221 Những nghiên cứu vê quyển lực trong quan hệ quốc tê chi thực sự nôi lên từ nửa sau thế ky XX cùng với sự nôi lên của chủ nghĩa hiện thực sau thất bại của chủ nghĩa lý tường. Trong cô' gắng hệ thống hóa và lý thuyết hóa, chủ nghĩa hiện thực đã đóng góp rất nhiểu cho việc nghiên cứu khái niệm quyền lực. Vì gắn rất nhiêu với lịch sừ nên lý thuyết trên đôi khi còn được gọi là chủ nghĩa hiện thực lịch sữ (historical realism). Sau đó, từ thập niên 1970, việc nghiên cứu đối tượng này lại càng phát triển nhờ sự phê phán chủ nghĩa này từ những lý thuyết khác. Nhờ vậy, quyền lực đã trở thành một cách giải thích tiên trình vận động của lịch sừ, đặc biệt lịch sừ quan hệ quốc tế. Quyền lực cũng được coi là một hệ quy chiếu hay lăng kính giải thích rất nhiều hiện tượng quan hệ quốc tê trong lịch sử. Trong quá trình như vậv, việc nhận thức quyền lực diễn ra không hề dễ dàng. Harts Morgenthau đã từng nhận định: "Nhận thức quyền lực chính trị đã đưa ra một trong những vâh để khó nhất và đầy tranh cãi của khoa học chính trị"1. Robert Gilpin cũng đã từng mô tà nhận thức quvền lực là "một trong những vâh đề rắc rối nhất trong lĩnh vực quan hệ quốc tê’'2. Cho đên nay, ưong các nghiên cứu 1. Dan theo Gregory Treverton & Seth G. Jones, "M easuring Power: How to Predict Future Balances", Harvard International Review, Sum m er 2005, 27, 2, tr. 54. 2. Dan theo David A. Baldwin, "Power and International Relations", W alter Carlsnaes, Thomas Risse & Beth A. Simmons, Handbook o f International Relations, Sage Publications, London 2005, tr. 178. 222 Một số vấn đê lý luân qu an h ê q u ố c té dưới g ó c nhìn lích sủ quyền lực của Enh vực quan hệ quõc tế và sự vận dụng vào lịch sử, ý kiên còn râ't khác nhau vói những cách tiếp cận khác nhau và những khái niệm không giống nhauTuy nhiên, nhận thức quyền lực cũng có quá trình lịch sử của mình. Đê tiện theo dõi, có thế xem xét quá trình phát triển nhận thức quyền lực trong lịch sử quan hệ quốc tế theo hai hướng chính. Hướng thứ nhất dựa trên sự phát triển quan niệm về bản chất quyền lực. Hướng náy gồm ba cách tiếp cận chủ yếu là dựa trên các bộ phận quyển lực quốc gia, quyển lực có tính quan hệ và quyên lực cấu trúc. Hướng thứ hai dựa trên sự mở rộng nội dung cua quyển lực. Hướng này cũng gồm ba cách tiếp cận chính là giành chiến thắng trong xung đột, giới hạn các kha năng thay thế và định hình tính quy chuẩn. Cà hai hướng nàv đêu là quá trình phát triển theo thời gian khi cách tiếp cận sau là sự bô sung chứ không hẳn là loại trừ cách tiếp cận trước. Sự phân chia theo hai hướng như vậy cũng cha có tính cách tương đối vì bản chât và nội dung của quvẽn lực gắn bó với nhau chặt chẽ. Quan niệm vê ban chất thay đối kéo theo sự thay đổi về nội dung. Và ngược lại, sự thay đổi vể nội dưng củng tác động đến sự thay đổi trong quan niệm về bàn chất. HƯỚNG THỨ NHẤT DỰA TRÊN s ự PHÁT TRIEN QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT QUYỀN Lực Trong hướng thứ nhất, cách tiếp cận đầu tiên được gọi là cách tiếp cận dựa trên các bộ phận quyến lực quốc gia Q uá trinh p h á t triển c á c h tiếp câ n qu y ền lưc. 223 ("Element o f national power”approach). Đây là cách tiếp cận quyển lực ra đời trong thời kỳ cận đại khi khoa học vê quan hệ quốc tế chưa phát triển và thực tiễn quan hệ quốc tế còn khá đơn giản. Quan hệ quốc tế lúc đó chưa phát triêh nhiều, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực chính trị và nặng vê quan hệ song phương. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm coi bàn chất quyền lực là năng lực hay nguồn lực mà quốc gia đang sờ hữu hoặc chiếm giữ được. Vì thê', nó còn được gọi là cách tiếp cận quyền lực như các nguồn lực {power as resources approach). Theo cách tiếp cận này, quyền lực được tìm hiểu chủ yếu dựa trên các nguồn lực mà quốc gia có như quân sự, dân sô', lãnh thổ, tài sàn,... rồi so sánh với nhau. Nói một cách đơn giản, quyền lực là cái ta có nhiều hơn người khác. Chính cách tiếp cận này đã kích thích các quốc gia tìm cách phát triển lực lượng quân sự, gia tăng dân số, mờ rộng bờ cõi, chiếm đoạt tài nguyên và thị trường của nước khác đê nâng cao quvển lực của mình. Đên thời hiện đại, tức là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xuất hiện cách tiếp cận thứ hai được gọi là cách tiếp cận quyền lực có tính quan hệ (relational power approach). Cách tiếp cận này xuất hiện khi quan hệ quốc tế đã phát triẽn cà trong thực tiễn lẫn nghiên cứu. v ề mặt lý luận, nó có sự ủnơ hộ của chủ nghĩa hiện thực, v ề mặt thực tiễn, nó phù hợp với quan hệ quốc tế đã phát triển mạnh và diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Cách tiếp cận nàv xuất phát từ quan niệm coi bàn chất quyền lực là quan hệ giữa các chu 224 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhìn lịch sủ thể. Mối quan hệ này là có tính nhân qua. Theo đó, quyển lực được coi như một quan hệ trong đó hanh vi cua chu thể A ít nhất phần nào gây ra được sự thay đối trong hanh vi của chủ thê B "1 và "theo quan điểm này, quyên lực là mối quan hệ thực tại hoặc tiềm năng giữa hai hay nhiều chủ thể hơn là những cái mà bất kỳ ai trong số đó sờ hữu"2. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai nhìn quyển lực trong mối quan hệ qua lại giữa các chủ thể hơn là xem xét đơn giản theo các thành tố của từng chủ thê như cách tiếp cận thứ nhất. Nói đơn giản, theo cách tiếp cận này, quyên lực là khả năng tác động đến người khác trong quan hệ cụ thể chứ không đơn giản chi là cái mình đang có. Việc tìm hiểu quyền lực theo cách tiếp cận thứ hai giúp đem lại một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn vê quyên lực. Không phải cứ có nhiều năng lực hơn là sẽ có quyên lực. Quyền lực bây giờ còn phụ thuộc vào cả yếu tố chu quan của các chủ thể như nhận thức, tính toán lý trí, lựa chọn công cụ và cách thức thực hiện quyền lực... Một số học giả đã coi cuốn Power and Society (Quyền lực và Xã hội) xuât bản năm 1950 của Harold Lasswell và Abraham Kaplan như điểm phân chia giữa hai cách tiếp cận thứ nhát và thứ hai. Cách tiếp cận quyển lực có tính quan hệ được phát triển bởi các học giả đêh từ nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lý học, xã hội học, triết học, kinh tế học va khoa học 1, 2. David A. Baldwin, "Power and Internationa] Relations" Sdd tr. 178. Quá trinh p h á t triển c á c h tiếp cậ n qu y ển lực. 225 chính trị1. David Baldwin đã gọi đó là cuộc cách mạng trong phân tích quyền lực2. Cách tiếp cận thứ ba theo hướng này xuất hiện muộn hơn vào những thập niên cuỗỉ của thế kỷ XX. Đó là cách tiếp cận quyền lực cấu trúc (structural power approach). Sự xuât hiện của cách tiếp cận thứ ba này diễn ra trong bối cảnh quan hệ quốc tế được phát triển thành hệ thống phức tạp gồm đa chủ thể, đa lĩnh vực, đa vấn đề, đa tầng nấc với sự tương tác chặt chẽ vói nhau. Cách tiếp cận này đi xa hơn hai cách tiếp cận trước nó khi quan tâm tới kết quả của thực thi quyền lực chứ không đơn giản chì là nguồn của quyền lực như cách thứ nhât hay khả năng thực hiện của cách thứ hai. Cách tiếp cận thứ ba còn có sự đóng góp của nhiều lý thuyết mới bên cạnh chủ nghĩa hiện thực. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm coi quyền lực còn chịu tác động của môi trường trong và ngoài quan hệ. Trong các môi trường này có một câu trúc nằm cả trong lẫn ngoài quan hệ. Câ'u trúc này gồm nhiều yếu tố có liên quan đến nhau. Cách tiếp cận này có tính đa nguyên hơn khi tính đến những yếu tố thuộc cấu trúc bên trong và bên ngoài quan hệ vốn là những yếu tô' mà hai cách tiếp cận trên đã không tính đến. Phạm vi của cách tiếp cận quyền lực cấu trúc cũng rộng hơn khi bao gổm cả những phạm vi không liên quan đến con người và không có tính nhân 1 2 David A. Baldwin, "Power and International Relations", Sđd, tr. 178. 226 Một số vấn đê lý luân quan hê quốc tế dưới góc nhin lịch sứ quả vốn không có trong cách tiếp cận quvẽn lục có tính quan hệ. Theo cách tiếp cận này, quyển lực còn gõm ca các yếu tô' trong nước, các lĩnh vực quan hệ khác và các nhản tố thuộc hoàn cảnh hay điều kiện bên ngoài ma đêu có thê tác động đến quyền lực. Nó bao gồm cả những yếu tốlàm gia tăng cũng như kiềm chế thực thi quyển lực. Nó tính đến cả các tác nhân phi quốc gia vốn cùng nằm trong câu trúc và có thế ảnh hưởng đến quyền lực. Do sự rộng hơn như vậy nên đôi khi quyển lực có tính quan hệ còn được bao gổm vào trong quyên lực câu trúc. Nhưng cũng có quan điểm ngược lại như của David Baldwin khi ông cho rằng thực chất đây là những cách phán tích quyền lực khác nhau. "Thật đúng đắn khi nói rằng quyển lực có tính quan hệ và quyền lực cấu trúc là hai cách tiếp cận khác nhau một cách cơ bản trong nghiên cứu quyến lực"1. Sự phân biệt này là có lý bởi cách tiếp cận thứ ba rộng hơn nhiều khi bao gồm nhiều yếu tô khác nhau, phức tạp hơn nhiều khi phải tính đến sự tương tác giữa các phán tử trong câu trúc. Nó cũng đòi hòi các phương pháp phán tích khác như hệ thông - cấu trúc chằng hạn. Nói cách khác, nếu áp dụng hai cách tiếp cận vào cùng một trường hợp cụ thể thì kê't quà hoàn toàn có thê khác nhau. Ba cách tiếp cận này là sự phát triển nhận thức vẽ bàn chât quyền lực đi từ năng lực sang quan hệ rồi đéín cáu 1. David A. Baldw in, “Pow er and International R elations", Sđd, tr. 184. Quá trình phát triển cách tiếp cân quyên lưc. 227 trúc (của môi trường trong và ngoài quan hệ quyền lực). Đó là quá trình nhận thức đi từ bộ phận lên tổng thể. Vê mặt phương pháp, đó cũng là quá trình đi từ đơn giản tới phức tạp. Cả ba cách tiếp cận đều có thể ứng dụng vào những trường hợp cụ thể tùy theo mục đích nghiên cứu. Sự khác nhau trong các cách tiếp cận kể trên đã dẫn đến những câp độ phân tích quyền lực khác nhau. Hiện nay đang tổn tại ít nhâ't ba cấp độ vẫn được sử dụng trong nhận thức quyền lực, riêng rẽ hoặc kết hợp. Đó là câ'p độ nguồn lực hay năng lực (level o f resources or capabilities), cấp độ chuyển hóa quyền lực qua các quá trình quốc gia (level o f power conversion through national processes) và cấp độ kết quả của quyền lực (level o f power in outcomes)1. Cap độ phân tích quyền lực đầu tiên dựa trên các nguồn lực hay năng lực mà quốc gia đang có nên còn được gọi là quyền lực đang tổn tại ịpoĩver-in-being). Cấp độ phân tích này xuâ't phát từ cách tiếp cận dựa trên các bộ phận của quyền lực quốc gia. Cấp độ thứ hai phân tích sự chuyên hóa quyền lực trong quá trình vận động và tương tác của quôc gia. Hay nói cách khác, đó là quá trình chuyển hóa quyền lực từ các nguồn lực đang có thành các công cụ có thế thực thi quyền lực trong thực tế, từ quyền lực được ngầm hiểu sang quyền lực được biểu lộ trong quan hệ. Cấp độ này chịu ảnh hường của cách tiếp cận có tính quan hệ. 1. Gregory Treverton & Seth G. Jones, "M easuring Power: How to Predict Future Balances", Tldd, tr. 54. 228 Mot so van de ly luart quan he quoc te dtfdi gdc nhin lich sCt Trong khi do, cap do thu ba phan tich quyen luc dua tren sir tinh toan ket qua dat duoc sau tuong tac quven luc. Cap do nay doi hoi phai tinh den moi yeu to co the anh hudng den ket qua dat duoc cua quyen luc. Cap do thu ba chiu anh hudng nhieu cua cach tiep can quyen luc cau true. Co the tom luoc ba cap do nay la yeu cau phan tich quyen luc tap trung vao cai dang co - cai co the su dung cai co the dat duoc cua quyen luc. Theo chung toi, khi phan tich quyen luc, co le nen ket hop dong thoi ca ba cap do nay. Biet duoc cai dang co moi co the xac dinh duoc cai co the sir dung duoc. Biet duoc cai co the sir dung moi co the tinh toan duoc cai co the dat duoc. Trong so nay, cap do thu ba la cap do ma cac nha hoach dinh chinh sach quan tam nhat1. Chi ap dung mot trong hai cap do daiu de dan den nira voi trong nghien cuu va sai lam trong thirc thi. Suy cho cixng, quyen luc la cai co duoc trong thuc tien nhieu hon la cai minh nghi la se co duoc. Nhu tren da de cap, ca ba cach tiep can nay cung voi cac cap do phan tich cua chung la nhung cach tiep can rieng re. Moi cach tiep can la san pham cua timg hoan canh lich sir. Nhung giura chung co su ke thira, noi tiep va phat trien hon. Tuy nhien, hien nay, viec phan rich quyen luc can quan tam dac biet den cach tiep can quyen luc cau true voi cap do ket qua cua quyen luc. Day la cach tiep can 1. Gregory Treverton & Seth G. Jones, "M easuring Power: How to Predict Future Balances", Tldd, tr. 55. Q uá trình p h á t triển c á c h tiếp câ n qu y ền lực.. 229 toàn diện hơn và phù hợp hơn với thực tiễn quan hệ quốc tếhiện nay vôín đã biến đổi nhiều so với trước kia. HƯỒNG THỨ HAI DỰA TRÊN s ự MỞ RỘNG MỤC TIÊU CỦA QUYỀN Lực Trong hướng thứ hai, cũng có ba cách tiếp cận chính xuất phát từ những quan niệm khác nhau về mục tiêu của quyền lực. Hướng thứ hai ra đời sau Chiến tranh th ế giói thứ hai, tức là muộn hon hướng thứ nhất và chịu ảnh hưởng của quan niệm coi bản chất quyền lực là quan hệ, và sau này là cả quan niệm coi quyền lực là câ'u trúc. Đồng thời, cả ba cách tiếp cận trong hướng thứ hai đều được xây dựng trên câ'p độ phân tích kết quả của quyền lực. Dưới đây là sự sắp xếp các nghiên cứu nhận thức quyền lực theo hướng này của Steven Luke. Trong cách tiếp cận thứ nhất "giành thắng lợi trong xung đột"(winning conflicts), mục tiêu của quyền lực được xác định là giành thắng lợi trong xung đột. Ở đây, quyền lực được coi là ưu thế của chủ thể này đối với chủ thê khác khiến nó có thể giành chiến thắng trong xung đột hoặc ít nhất là giải quyết xung đột theo hướng có lợi cho mình. Điều đó có nghĩa, trong một cuộc xung đột, ai có khả năng thắng thì là có quyền lực, ai có khả năng thua thì coi như không có quyền lực. Đây là cách nghĩ phổ biên trong lịch sử khi quan hệ quốc tế đầy rẫy xung đột và chiên tranh. Cách nghĩ này dựa nhiều vào sức mạnh quân sự khi coi ưu thê' của chu 230 Một s ố vấn đ ê lý luận qu an h ệ q u ố c té dưới g ó c nhin lịch sử thê này đối vói chủ thê khác chủ yếu là ưu thé vẻ quân sự. Cách nghĩ này vẫn được tiếp tục trong thòi hiện đại nhưng đã được khái niệm hóa, phân tích sâu hon và mò rộng hơn từ sau Chiên tranh thế giới thứ hai dưới ánh sáng của chủ nghĩa hiện thực và cách tiếp cận quyên lực có tính quan hệ. Đi theo cách tiếp cận này, nhiêu học già, đặc biệt các nhà hiện thực chủ nghĩa, hay dùng khái niệm cua Robert Dahl đê nhận thức quyền lực. Theo Dahl (1961), quyển lực là việc "A khiên B phải làm cái gì đó mà B không làm khác được"1. Tuy nhiên, khi đi vào diễn giải, sự thê hiện cùa quyền lực lại được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong lịch sử, quyền lực được hiếu là sức mạnh và sự ép buộc {force and coercion), tức là có sức mạnh đu đê ép buộc chủ thể khác làm điều mà mình muốn dù họ không muốn. Cách hiếu khác cho quyền lực là ảnh hường (influence) cùa chu thê này đối với chủ thê khác. Trong đó, chu thế có ảnh hường có thể khiến cho chủ thể bị anh hường làm theo ý mình. Rồi quyền lực được coi là quyền hành (authority), tức là khá năng sai khiến chủ thê khác mà đã được các chủ thê đó thùa nhận,... Bới có sự khác nhau trong cách diễn giai về mật hình thức và ban chất của quyền lực, nên vẫn có những điếm 1. Felix Berenskoetter, "Thinking about power"; Felix Berenskoetter & M. J. Williams edit, Power in World Politics, Routledge, London and New York, 2007, tr. 4. Q uá trinh p h á t triển c á c h tiếp câ n qu y ền lực.. 231 còn tranh luận ngay giữa những người đi theo cách tiếp cận "giành thắng lợi trong xung đột". Thứ nhất, có môi quan hệ giữa quyền lực và ảnh hường hay không? Đa phần các học giả cho rằng cần phân biệt giữa hai yếu tố này nhưng lại không giống nhau trong xác định nội hàm. Harold Lasswell và Abraham Kaplan cho rằng quyền lực là sự kiểm soát thực tế "mẫu hình giá trị chung dưới sự đe dọa trừng phạt, còn ảnh hưởng được định nghĩa là "tiềm năng được chứa đựng trong vị thế ở trên và không mang tính chất ép buộc1. Cũng phân biệt như vậy nhưng cho rằng quyền lực gổm cả hai yếu tố trên còn ảnh hưởng lại là sự so sánh, học giả người Nga Tsygankov I. A. lại cho rằng "quyền lực có thể được hiểu là năng lực hay tiềm năng tác động lên người khác" và "ảnh hưởng tức là khả năng tác động từ người này lên người khác lớn hơn nhiều là ngược lại"2. Đổng thời, trong khi nhất trí rằng giữa quyền lực và ảnh hưởng có quan hệ gắn bó với nhau, lại có ý kiến bất đổng trong việc yếu tố nào lớn hơn. Cả hai quan niệm trên đều coi ảnh hưởng lớn hơn quyền lực và quyền lực chi là một phần cùa ảnh hưởng. Trong khi đó, một số học giả khác như Barry, oppenheim, Baldwin,... lại cho rằng ảnh hưởng nhò hơn quyền lực và chi là một dạng đặc thù của quyền lực mà thôi3. 1, 3. Felix Berenskoetter, Thinking about power", Sdd, tr. 5. 2. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, ban dich Chuong 2, tr. 3. 232 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té dưỡĩ góc nhìn lịch sủ Thứ hai, có phải quyền lực chi gồm những gì quan sát được hay không? Nhiều người đi theo cách tiếp cận này cho rằng đó phải là những gì quan sát được theo tinh thẩn của chủ nghĩa hành vi (behavioralism). Đây là quan điếm vẽ cách tiếp cận khoa học được các nhà hiện thực chủ nghĩa ủng hộ trong cuộc tranh luận với cách tiếp cận cô điên vào những thập niên 1950-1960. Theo đó, quyền lực phải có khả năng thực thi, tức là phải được cả hai bên thừa nhận, mà muốn được thừa nhận thì quyền lực phải là cái gì đó quan sát được. Harold Lasswell và Abraham Kaplan và những người tán thành việc cho quyền lực là một phần của ảnh hưởng chính là coi quyền lực chi gổirt những hành vi quan sát được. Trong khi đó, những người cho rằng ảnh hưởng là một dạng của quyền lực thì lại coi quyền lực gồm cả những hành vi quan sát được cũng như những khả năng chưa xảy ra và không quan sát được. Đơn giàn bởi vì ảnh hưởng hay khả năng tác động đều là những yếu tố không quan sát được. Chính cách tiếp cận này đã được những người theo chủ nghĩa hiện thực dùng làm cơ sở để đề ra nhiếu luận điếm quan trọng như coi quyền lực nằm trong trò chơi tổng số bằng 0, quyền lực gắn liền với an ninh và có hoặc không có quyển lực đổng nghĩa vói an toàn hoặc không an toàn, quyển lực là khả năng chiến thắng trong chién tranh và lực lượng quân sự là chỉ sô'đo đạc chủ yêu của quvẽn lực1. 1. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power”, Sđd tr. 6. Q uá trinh p h á t triển c á c h tiếp câ n qu yền lực.. 233 Mặc dù hiện nay cách tiếp cận này vẫn được sừ dụng ít nhiều song nó đã bị phê phán là làm hạn hẹp nội hàm quyền lực. Có ba điểm bị phê phán nhiều nhất. Điếm phê phán thứ nhâ't là cách tiếp cận này tập trung chủ yếu vào quan hệ quyền lực giữa các quôc gia mà ít tính đên bôi cảnh của quan hệ đó1. Điểm này sau đó đã được bổ sung bằng cách tiếp cận "giới hạn sự lựấ chọn" và cách tiếp cận của chính chủ nghĩa hiện thực mói với vai trò của hệ thông quốc tế. Điếm phê phán thứ hai là quá nhân mạnh xung đột và sự ép buộc trong nhận thức quyền lực, tức là đã giới hạn cả quy mô lẫn phạm vi của quyền lực. Sự hạn hẹp này về sau đã được mở rộng bởi cách tiếp cận "định hình tính quy chuẩn". Điểm phê phán thứ ba là ở chỗ nó còn bỏ sót nhiều yếu tố khác liên quan đến quyền lực. Và điếm này đã được cả hai cách tiếp cận nói trên cùng bô sung. Cách tiếp cận thứ hai "giới hạn sự lựa chọn" (limiting alternatives) cho rằng quyền lực không đơn giản chỉ là giành thắng lợi trong xung đột mà còn là việc A khiến B làm điều gì đó mà B không thê làm khác được bằng cách kiểm soát hay giới hạn sự lựa chọn của B2. Sự lựa chọn cùa B càng ít, A càng dễ có quyền lực. Cách tiếp cận này ra đời 1. Thực ra về điếm này, có một số học già nhu Harold Lasswell và Abraham Kaplan dựa trên quan điểm cua Max Webber cho rằng cần phai tính đến bối canh đê phân tích quyển lực nhưng cụ thế nhu thê nào thì chua làm rõ. 2 David A. Baldwin, "Pow er and International Relations", Sđd, tr. 179. 234 Một s ố vấn đ ề lý luận quan h ệ q u ố c té dươi g o c nhin lịch sủ nhằm phê phán và bô sung cho cách tiếp cận "gianh thăng lợi trong xung đột". Bachrach và Morton Baratz là nhũng đại biểu của xu hướng nghiên cứu này. Cách tiếp cận này có phần chịu ảnh hường của chủ nghĩa tự do mói và bên cạnh đó là cách tiếp cận quyền lực cấu trúc. Nó có ít nhát bốn điểm khác với cách tiếp cận thứ nhất. Đó là sự mớ rộng hơn về mục tiêu, bối cảnh, cách thức và chủ thế. Thứ nhất, so vói cách tiếp cận đầu, mục tiêu quyên lực trong cách tiếp cận này rộng hơn khi không chi nhằm đạt được ưu thắng trong việc giải quyết xung đột mà còn bao gồm thêm mục tiêu làm giảm các sự lựa chọn hay khả năng đối phó của đối phương. Chính vì thế mà cách tiếp cận này được gọi là "giới hạn sự lựa chọn". Với mục tiêu này, quyền lực được hướng tới không chi đê giải quyết xung đột như cách tiếp cận đầu, mà còn mở rộng hơn khi nhằm ngăn chặn xung đột quyền lực xảy ra. Cũng với mục tiêu này, quyền lực được hướng tới không chi bàn thân nhằm xây dựng quyền lực vượt trội như cách tiếp cận đầu, mà còn mở rộng hơn khi hướng sang cả đối phương nhằm vô hiệu hóa sự phản ứng không như minh mong muốn của nó. Thứ hai, khác với cách tiếp cận đầu tiên coi quvển lực chủ yêu nằm trong quan hệ giữa các chu thế, cách tiêp cận thứ hai đã mơ rộng không gian phân tích quyền lực bao gồm cả bối cảnh của nó. Cách tiếp cận này đẽ cao vai trò của bối canh quyển lực, nhất là câíu trúc. Sự mơ rộng này xuất phát từ quan niệm cho rằng trong bói canh chứa Q uá trình p h á t triển c á c h tiếp câ n qu y ên lưc. 235 đựng nhiều nhân tố giúp làm gia tăng quyền lực của mình cũng như hạn chế sự lựa chọn đôi phó lại của đối phương. Lập luận cho điểu này là quyền lực không đơn giản chí diên ra trực tiếp trong quan hệ giữa các quốc gia, mà còn "hoạt động gián tiếp nhiều hơn thông qua việc các chủ thể đứng ở vị trí nào trong tập hợp thể chế đó và năng lực của A ảnh hưởng tói tập hợp này để chông lại B "1. Vì thế, cách tiếp cận này đề nghị xem xét quyền lực không chi giữa hai chủ thể như cách tiếp cận đầu, mà còn phải chú ý tói "những thuận lợi hoặc bâ't lợi có tính cơ câu của môi trường quan h ệ"2. Trên cơ sở đó, cách tiếp cận này đã đưa ra một loại quyền lực mói là quyền lực cấu trúc. "Nói cách khác, quyền lực được tiến hành bởi những chủ thể có thể huy động các luật choi đế xây dựng nên những thể chế có lọi cho họ và hạn chế sự lựa chọn (của chủ thể khác) về các quyết định có thể được tiến hành"3. Thứ ba, khác vói cách tiếp cận đầu tiên coi quyền lực là ưu thế về năng lực đê giành thắng lợi trong xung đột, cách tiếp cận sau đã bao gồm thêm nhiều năng lực khác. Đó là các năng lực trong quyền lực cấu trúc nói trên hoặc có thể nằm trong phạm vi rộng hơn của cái gọi là "quyển lực gián tiếp" khi cho rằng còn nhiều cách con người có thể tác động tới môi trường và từ môi trường có thể tác động tới chính họ4. Những năng lực cụ thế được đề cập 1 2 3 4. Felix Berenskoetter, "Thinking about power", Sđd, tr. 7-8, 7, 9. 236 Một số vấn đê lý luân quan hẻ quốc té dưới góc nhìn lịch sủ như năng lực lập chương trình nghị sự đê giới hạn các xung đột chính sách, năng lực thay đối các chẻ độ quốc tê (quy định chuẩn mực, thủ tục),... với các cóng cụ kinh tê’ luật quốc tế, tổ chức quốc tế,... Robert Keohane và Joseph Nye đã đưa thêm một cơ sở khác là sự phụ thuộc ldnh tế bất đối xứng cũng là một nguồn cung câ'p những loại ảnh hưởng khác vói quan niệm của chủ nghĩa hiện thực1. Chính nhờ sự phụ thuộc lẫn nhau này mà các chế độ quốc tế có thể phát huy tác dụng ưong quan hệ quổc tế. Nhìn chung, cách tiếp cận sau có sự đa dạng hơn vê các năng lực trong phạm trù quyền lực và không tập trung vào lực lượng quân sự như cách tiếp cận đầu. Thứ tư, khác với cách tiếp cận đầu tiên coi quốc gia là trung tâm trong phân tích quyền lực, cách tiếp cận sau đã mở rộng hơn về chủ thể quan hệ quốc tế khi bao gổm cà chủ thể phi quôc gia bên cạnh quốc gia. Chủ thê phi quốc gia được cho là có vai trò như người phô biên các chuẩn mực qua biên giới, còn các công ty xuyên quôc gia lại giúp làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Tử đó, cách tiếp cận này nhìn quan hệ quyền lực diễn ra khóng chi trong mô hình trò chơi tổng sô' bằng 0 mà còn trong cà trò chơi có tổng sô' dương (plus-sum game), tức là quvển lực của các bên không nhât thiết phải triệt trừ nhau ma có thể cùng tăng. Ví dụ, quan hệ giữa quốc gia và chu thế phi quốc gia không phải là tranh châp quyển lực với két quà 1. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power", Sđd tr. 8 Quá trinh phát triển cách tiếp cân quyên lực.. 237 sẽ có kẻ thắng người thua. Như vậy, chính việc xuất hiện các chủ thế mới đã đem lại không chi sự mở rộng về không gian mà còn cả những khả năng mới của quan hệ quyền lực. Như vậy, cách tiếp cận "giới hạn sự lựa chọn" đã có sự mở rộng đáng kể so với cách tiếp cận "giành thắng lợi trong xung đột". Trên cơ sở mở rộng mục tiêu của quyền lực bao gồm cả giới hạn sự lựa chọn của đối phương, cách tiếp cận này đã có thêm ba sự mở rộng nữa. Một là, mở rộng không gian hay quy mô hoạt động của quyền lực từ trong quan hệ sang cả bối cảnh. Hai là, mở rộng nội dung hay thành phần của quyền lực để từ đó đưa ra thêm những yếu tố và công cụ tác động đến quyền lực. Ba là, mở rộng chủ thể tham gia vào mối quan hệ quyền lực và từ đó làm thay đổi vị trí, vai trò và ảnh hưởng của quyền lực trong quan hệ quốc tế. Và chính những mở rộng này đã dẫn đến nhiều thay đổi không chỉ trong phân tích và nhận thức quyền lực, mà còn cả những quan điểm về tính chất, nội dung và xu hướng của quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, các cố gắng nhận thức quyền lực không chi dừng tại đó. Cách tiếp cận thứ ba "định hình tính quy chuẩn" {shaping normality) cho rằng quyền lực của A được xác đinh bằng khả năng định hình nên những chuẩn mực .trong quan hệ với B và khiến B phải tuân theo. Cách tiếp cận này không chi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do mới mà còn nhiều lý thuyết khoa học xã hội khác mói 238 Một s ố vấn đ ê lý luận quan h ệ q u ố c té dưới g ó c nhìn lịch sủ được đưa thêm vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Steven Lukes và Michel Foucault là hai đại biẽủ chính đưa ra phưong diện này. Với cách tiếp cận thứ ba, mục tiêu của quyển lực đã được mờ rộng thêm không phải chi là gianh thăng lợi trong xung đột hay việc giới hạn sự lựa chọn của B, mà còn là việc A tác động tói nhận thức chủ quan của B đê B tuân thủ các chuẩn mực quan hệ như mong muốn của A. Sự mở rộng này dựa trên ba bổ sung quan trọng so với hai cách tiếp cận đầu. Đó là địa bàn của quyền lực được mỏ rộng ra cả bên ngoài xung đột với vai trò của chuẩn mực, sự quan tâm nhiều hơn tới khả năng của quyển lực trong nhận thức chủ quan và sự nhấn mạnh vào những yếu tố mang tính quy chuẩn trong việc phân tích quyển lực. Thứ nhất, cách tiếp cận thứ ba cho rằng quan hệ quyền lực không chi diễn ra ở noi có xung đột lợi ích mà còn cả ỏ nơi có sự nhâ't trí. Đó là khi các chuẩn mực ngày càng tăng, bản sắc chung ngày càng hình thành, lợi ích của các nước sẽ ngày càng gần gũi. Trong quá trình đó, quyền lực đã được vận hành, quan hệ quyền lực đã xảy ra đê tăng cường các chuẩn mực và bản sắc chung. Đó là thứ quyển lực mà Michel Foucault (2002) gọi là "quyển lực sàn sinh" (productive power), tức là sức mạnh câu tạo nên ban sắc1 và chuẩn mực. Thông qua quá trình phổ biên hóa và quy chuẩn hóa các bản sắc và chuẩn mực này, quỏc gia có quyền lực sản sinh có thế góp phẩn quy đinh lợi ích cùa 1. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power", Sđd tr. 10 Q uá trình p h á t triển c á c h tiếp câ n qu yên lưc.. 239 quôc gia khác, tạo ra sự tương hợp nhất định về lợi ích và do đó, xung đột có thế được ngăn chặn trước khi xảy ra. Steven Lukes (2005) nói rằng "Cách sử dụng quyền lực hiệu quả nhâ't và khôn ngoan nhâ't chính là ngăn chặn không cho xung đột nảy sinh ở chỗ thứ nhất"1. Ngoài ra, cách tiếp cận này còn giúp làm rõ thêm về cách thức mà các nước không có quyền lực định hình nên lợi ích của mình2. Nói đơn giản, các nước có quyền lực có thế sử dụng quyền lực một cách khéo léo chứ không áp đặt để đề ra những chuẩn mực và cách thức quan hệ. Những chuẩn mực và cách thức quan hệ này có sự tương hợp nhất định với lợi ích của cả nước có và không có quyền lực. Tất nhiên các nước có quyền lực sẽ được lợi nhiều hơn nhưng các nước nhỏ cũng có thê tìm thấy lợi ích của mình trong đó. Và như vậy, quyền lực đã được thực thi trong sự hợp tác dựa trên sự tương hợp về lợi ích và sự nhất trí về chuẩn mực chứ không phải chỉ mỗi trong xung đột và có tính ép buộc hay giói hạn như quan niệm của hai cách tiếp cận đầu. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại là những ví dụ điển hình. Cả hai xu thế này đều xuất phát từ các nước lớn, có lợi hơn cho các nước phát triển nhưng hiện nay đã được các nước đang phát triển thùa nhận như những chuẩn mực trong quan hệ quốc tế. Các nước này cũng tìm thâ'y lợi ích của mình trong toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại nên đã tham gia vào cả hai xu thế này cho 1 2. Felix Berenskoetter, ’Thinking about power", Sđd, tr. 10. 240 Mot so van <3e ly luan quan he quoc te d i/& goc nhin lich sii du chung deu chua dung nguy co lam gia tang su phan hoa quyen luc trong quan he quoc te. Thu hai, khac vdi hai cach tiep can daiu coi nhu cau va dong luc thay doi quyen luc duoc quy dinh chu yeu tren co so khach quan, cach tiep can thu ba cho rang quyen lire con co ca co so chu quan cixa minh. Cach tiep can nay cho rang su thay doi cua nhan thuc co the tac dong va lam thay doi quan he quyen luc. Su thay doi nay dien ra theo ba cach. Mot la, tac dong toi cac yeu to' nhan thuc chu quan co the tao ra quyen luc, tuc la A co the khien B lam dieu gi do ma B khong the lam khac duoc bang cach tac dong toi nhung so thich, ham muon va y nghl cua B1. Hai la, nhan thuc chu quan, mong muon cua con ngudi hay yeu to tinh than cung duoc coi la nhung nang luc va tro thanh nhan to quan trong quy dinh nen quyen luc quoc gia. Dieu nay co nghia la phat trien cac nang luc tinh than se gop phan nang cao quyen luc quoc gia. Ba la, nhan thuc khac nhau co the dan den quan he quyen luc khac nhau bdi yeu cau gia tang quyen lire cua quoc gia khong phai chi bi thuc day bdi su tranh chap quyen luc theo mo hinh tro choi tong so' bang 0, ma con tir chxnh chu dinh cua con ngudi. Vi du, su chenh lech quyen luc co the duoc coi la moi de doa hoac khong thi dieu nay phu thuoc vao nhan thuc chu quan cua cac ben. Nhan thuc nay hoan toan co the thay 1. David A. Baldwin, "Power and International Relations", Sdd, tr. 179. Quá trinh phát triển cách tiếp cân quyền lưc. 241 đổi tùy theo từng quan hệ cụ thê hoặc trong những thời điêm nào đó. Nếu chênh lệch quyền lực được coi là mối đe dọa thì nó sẽ dẫn đên tranh chấp, còn ngược lại thi không. Thực tế đang cho thây điều này, có quan hệ nước lớn - nước nhò bị nước nhỏ coi là môi đe dọa nhưng cũng có những mối quan hệ tương tự thì lại được coi là không đe dọa. Vói quan điếm như vậy, cách tiếp cận thứ ba đã mở rộng việc phân tích quyền lực sang thêm các lĩnh vực và yêu tô' liên quan đến nhận thức con người. Đây cũng là ý tưởng của chủ nghĩa kiến tạo vốn là một lý thuyết xã hội học được đưa vào nghiên cứu quan hệ quốc tế từ thập niên 1990. Chủ nghĩa kiến tạo tập trung nghiên cứu vai trò và tác động của nhận thức chủ quan tói quan hệ quốc tế nói chung, quyển lực nói riêng. Sự nổi lên của lý thuyết này đã góp phần thúc đẩy hướng nghiên cứu theo cách tiếp cận "định hình tính quy chuẩn" này. Thứ ba, xuất phát từ cơ sở chủ quan của quyền lực nêu trên, đã có nhiều yếu tố mói được đưa thêm vào phân tích nội dung quyền lực. Đó là những yếu tố trước kia được coi là phi quyền lực nhưng bây giờ lại được cách tiếp cận này coi là có tác động đến quyền lực hoặc thậm chí là một phần cùa quyền lực. Các yếu tố được đề cập khá đa dạng. Trong số này, có nhiều yếu tố liên quan đến cơ sở chu quan của quyền lực mà có thế tạo nên những tính quy chuẩn cho nhận thức trong quan hệ quốc tế. Ví dụ, chủ nghĩa kiên tạo đề cao ành hường của chuẩn mực, văn hóa, ngôn ngũ, tư tường và bàn sắc, tri thức,... tới quyền lực 242 Một số vắn đê lý luận quan hệ quốc té ơưỡĩ góc nhìn lỊCh sủ quốc gia trong quan hệ quốc tế. Michel Foucault cũng cho rằng tri thức là yếu tố ảnh hường đáng kẻ đẽn quyển lực. Tương tự như vậy, những học già khác như Adler (1987) hay Haas (1990) cũng đê' cao vai trò của tư tướng và tri thức. Rồi ảnh hưởng kinh tế của Đức, Nhật Bản và EC cũng được tính đến và được Maull (1990) gọi là "quyển lực dân sự" (civilian power)'. Trong khi đó, những nhà chủ nghĩa vị nữ (feminism) và chủ nghĩa hậu thực dân ịpostcoỉonialism) là những người đề cao "chính trị học bản sắc" lại quan tâm tới giới và chủng tộc. Ngoài ra, còn có những học giả đưa vào nghiên cứu cả biểu tượng, huyền thoại và ký ức gắn liền vói chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo,...2. Ngay cả các học giả chủ nghĩa hiện thực, theo Brian c . Schmidt, cũng đã quan tâm và tranh luận về quyền lực định hình nên du luận thông qua tuyên truyền và đã tính đêh quvển lực của cà rốt bằng thuật ngữ của Hart (1976) "quyền lực không ép buộc" (non-coercive power) hay thuật ngữ của Knorr (1975) "ảnh hưởng phi quyền lực" (nonpower wfluencey. Tất cả những điều này đã được Joseph Nye tổng hợp lại năm 1990 khi đưa ra khái niệm quyền lực mềm (soft power)*. Hiện nay, các ý tưởng này đã được vận dụng ngày càng nhiều vào trong phân tích quyền lực. 1, 2, 4. Felix Berenskoetter, "Thinking about pow er", Sdd, tr. 10, 12, 11 . 3. Xem Brian C. Schmidt, "Realism and Facets of Power in International Relations" trong Felix Berenskoetter, "Thinking about pow er", Sdd, tr. 43-63. Quá trình phát triển cách tiếp cân quyển lực.. 243 Như vậy, cách tiếp eận thứ ba đã mở không gian nghiên cứu quyền lực ra khá rộng. Sự mở rộng thứ nhất là khi cho rằng quyền lực hiện diện cả bên trong xung đột lẫn ngoài xung đột. Theo đó, quyền lực được coi là tổn tại gần như trong toàn bộ quan hệ quốc tế. Tiếp theo, cơ sở hình thành nhu cầu và động lực của quyền lực được xây dựng trên cả cơ sở khách quan lẫn chủ quan. Điều này dẫn đến yêu cầu mở rộng vấn đề trong phân tích quyền lực phải thêm cả sự nhận thức chủ quan và các yếu tố tinh thần. Và chính việc mở rộng phân tích quyền lực ra cả cơ sở chủ quan đã dẫn đến sự mở rộng thứ ba về các yếu tố tác động đến quyền lực. Khá nhiều yếu tô' đã được đề ra và nhiều trong sô' chứng đang được hy vọng trở thành những chuẩn mực cho nhận thức và vận dụng quyền lực trong quan hệ quốc tế. KẾT LUẬN Có hiểu được bàn châ't và mục tiêu của quyền lực thì mói có thể áp dụng quyền lực vào giải thích lịch sử. Tuy nhiên, bản chất và mục tiêu của quyền lực như thế nào thì lại phụ thuộc vào cách tiếp cận. Cách tiếp cận khác nhau dẫn đến việc hiếu quyền lực không giống nhau và từ đó là những giài thích lịch sử khác nhau. Vì thế, sự trình bày các cách tiếp cận khác nhau ở trên có thể đóng góp thêm cho sự phong phú trong giải thích quan hệ quốc tế và lịch sử. Các cách tiếp cận này có quá trình phát triến của mình. Mỗi cách tiếp cận là sàn phẩm của tùng giai đoạn lịch sử 244 Một số ván đê lý luận quan hệ quóc té dưch góc nhìn lích sủ nhất định cả vê' thực tiễn và nhận thức. Chúng được coi ỉà sự bô sung cho nhau theo thời gian, trong đó cái sau là sự bô sung cho cái trước. Hay nói cách khác, đó là các phương diện của một vâh đề - quyển lực. Vì thế, việc xem xét quá trình như vậy có thể góp phần thúc đảv xu hướng ngày càng hoàn thiện trong nhận thức quyển lực, và từ đó cũng là sự hoàn thiện hơn cho nghiên cứu lịch sừ và quan 1 A Ạ ' , hệ quốc tê. Mặc dù là một quá trình đi liền với sự phát triển nhận thức về quyển lực, song các cách tiếp cận nêu trên vẫn- có tính cách độc lập nhât định. Điểu này được quy đinh bởi hoàn cảnh và quan niệm quyền lực khác nhau của từng giai đoạn lịch sử. Vì thế, việc vận dụng chúng là linh hoạt và tùy từng trường hợp cụ thể. Thực tế hiện nay cũng cho thây điều này khi vẫn tồn tại ba cấp độ phân tích quyền lực khác nhau, khi tất cả các cách tiếp cận ở ưên vẫn đang được vận dụng cả trong thực tiễn lẫn trong nghiên cứu. 245 MOT SO VAN DE LY LUAN VE KHAINIEM QUYEN LUC TRONG QUAN HE QUOC TE m 6 dau "Moi nen chinh tri deu lien quan den viec sir dung quyen luc"1. Doi voi chinh tri quoc te, quyen luc duoc coi la ban chat, la "mau cua su song". Quyen lire la dong co va loi ich co ban cua quoc gia trong quan he quoc te. Tranh gianh quyen luc cung duoc coi la nguyen nhan co ban dan deh chien tranh va xung dot trong lich sir. Khong chi la thuc te ro rang trong quan he quoc te, quyen luc con la ly luan trung tarn cua chu nghia hien thuc va moi quan tarn hang dau cua nhieu ly thuyet khac. Dong thoi, quyen luc cung la mot he quy chieu hay lang kinh de giai thich lich sir, nhat la lich sir quan he quoc te. Viec tim hieu quyen luc con co y nghia phuong phap luan khi cho phep doan dinh duoc dien bien tiep theo va ket qua cua nhieu tuong tac. Boi tarn quan trong ca ve thuc tien va ly luan 1. VV. Phillips Shively, Power and Choice: An Introduction to Political Science, Me Graw-Hill, Boston, 2003, tr. 5. 246 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc tế dươi góc nhin lịch sử như vậy, quyền lực đã trở thành một vần đé trung tâm trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Bài viết này cố gắng đóng góp thêm cho việc nhận thức quyền lực thông qua tìm hiếu ba vấn đé lý luận liên quan đến khái niệm quyển lực. Đó là bàn chát, khái niệm và chiều cạnh của quyền lực. BẢN CHẤT QUYỀN Lực TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ Có lẽ quan điểm của Max Webber (1864-1920) - nhà xã hội học và kinh tế chính trị học người Đức - đã ảnh hường khá nhiều đến những nghiên cứu ban đâu vế khái niệm quyển lực trong quan hệ quốc tế. Max Webber định nghĩa quyền lực (trong tiếng Đức là Macht) là cơ hội đê ý chí của ai đó chiếm ưu thê' trong quan hệ xã hội và củng là đê chôVig lại sự phản kháng nó1. Với động lực bên trong con người là Macht, Webber còn để cập những biêu hiện bên ngoài của quyển lực như quyền hành, sự chi phối, sự cai trị, quàn trị mà được Webber gói trong thuật ngữ tiếng Đức Herrschaft. Herrschaft được Webber định nghĩa lá "cơ hội tìm được sự tuân thủ của những con người cụ thẻ đối vói một trật tự nào đó"2. Webber củng cho rằng sự tuán thù 1. Felix Berenskoetter, Thinking about power", Felix Berenskoetter & M. J. W illiams edit, Power in World Politics, Routledge, London and New York, 2007, tr. 3. 2. Felix Berenskoetter, Thinking about power”, Sdd, tr. 3. Một s ố vấn đ ề lý luận v ề k h á i niệm qu yên lực.. 247 này dựa trên niềm tin và tính hợp pháp chính đáng của mệnh lệnh được thúc đẩy bằng tính toán lợi-hại có lý trí, thông lệ hoặc tác động cá nhân1. Như vậy, Webber coi quyền lực là hiện tượng xã hội - chính trị gắn vói con người trong các quan hệ xã hội của mình. Quyền lực trong lĩnh vực nào thì đều có bản châ't chung. Nhưng do diễn ra trong môi trường đặc thù bởi những chủ thế đặc thù nên quyền lực trong quan hệ quốc tế cũng có những đặc trưng riêng. Vì thế, đã có nhiều cố gắng nghiên cứu riêng về quyền lực trong quan hệ quốc tế. Đã có nhiều quan niệm quyền lực được đưa ra với vô SỐ cách giải thích khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc không chỉ vào hướng tiếp cận mà còn vào hoàn cảnh lịch sử, góc độ ngành khoa học, bối cảnh học thuật, vị thế của quốc gia xuất xứ và vị trí của nhà nghiên cứu. Một trong những cố gắng đầu tiên làm rõ bản chất và vai trò của quyền lực trong quan hệ quốc tế là Hans Morgenthau - nhà kinh điển của chủ nghĩa hiện thực. Có phần chịu ảnh hưởng cùa Max Webber khi cũng dựa trên cơ sở xã hội - chính trị của con người, Harts Morgenthau cho rằng quyền lực xuâ't phát từ "tham vọng của con người mong muốn chi phối hoặc/và nhu cầu tự bảo vệ". Ông đã nhấn mạnh vai trò của quyền lực đối với chính trị khi coi quyền lực là động lực chi phối chính trị. "Các chính khách suy nghĩ và hành động bằng những lợi ích được 1. Felix Berenskoetter, "Thinking about power", Sđd, tr. 4. 248 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhin lịch sủ xác định là quyền lực". Từ đó, ông vận dụng vào quan hệ quốc tế và cho rằng quyền lực là "mục tiêu trục tiếp" của tâ't cả các quốc gia1. Với Hans Morgen thau, quyẽn lực đã được đưa vào như vâh đề trung tâm trong quan hệ quổc tế. ' Hiện nay, có ít nhất ba quan niệm khác nhau vê bản chât quyền lực trong quan hệ quốc tế. Quan niệm thú nhât coi quyền lực là năng lực hay nguồn lực cua quốc gia. Quan niệm thứ hai coi quyền lực như quan hệ có tính nhân quả. Quan niệm thứ ba lại nhìn quyển lực như cấu trúc. Ba quan niệm này dẫn đên ba cách tiêp cận quyến lực khác nhau, đó là cách tiếp cận dựa ưên các bộ phận quyển lực quốc gia, cách tiếp cận quyên lực có tính quan hệ, và cách tiếp cận quyền lực cấu trúc. Hiện nay, quan niệm phô biến coi bản chất quyên lực gồm hai bộ phận chính là năng lực (capability) và quan hệ (relationship). Năng lực có thê là năng lực chính tri, năng lực quân sự, năng lực kinh tê^ năng lực khoa học,... Năng lực là cái làm nên thực chất của quyển lực và củng là công cụ thực hiện quyển lực. Chủ thể chì có quyển lực khi có năng lực. Không có năng lực, chủ thê không thê thực hiện quyển lực. Trong khi đó, quan hệ là địa bàn thế hiện và thực thi cua quyển lực. Quyển lực chỉ xuất hiện ưén cơ sỏ so sanh năng lực giữa các chủ thê và trong tương tác giữa chứng. Không có sự so sánh tương quan năng lực, quyến lực không được hình thành. Không có quan hệ hay sự 1. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power", Sđd, tr. 1. Một số vấn đề lý luận vẻ khái niêm quyền lực.. 249 tương tác, năng lực không được thi triêh và quyền lực cũng không tổn tại. Năng lực và quan hệ có sự gắn bó chặt chẽ vói nhau trong bàn chât quyển lực. Năng lực là yếu tô' thúc đẩy quan hệ. Khi có năng lực, cơ hội thực hiện lợi ích đôi ngoại tăng lên và chủ thê’ dễ có xu hướng mở rộng quan hệ đê phát triển lợi ích của mình. Năng lực càng lớn, quan hệ càng dễ được mở rộng. Năng lực kinh tế là một ví dụ. Khi kinh tế trong nước phát triển, thị trường trong nước không đủ khiến các quốc gia thường có xu hướng mờ rộng quan hệ quốc tế để tìm kiếm thêm thị trường và bạn hàng mới. Năng lực càng lớn, nhu cầu mở rộng quan hệ vói bên ngoài càng cao. Đây cũng chính là cách thức mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển vượt khỏi biên giói quốc gia đi ra phạm vi thế giới. Ngược lại, năng lực kinh tế lớn cũng kích thích nhu cầu của các nước khác thiết lập và mở rộng quan hệ với mình. Thực tế hiện nay cho thấy, những nước càng có năng lực kinh tế lớn, quan hệ kinh tế quốc tế của chúng càng rộng về quy mô và càng lớn về số lượng. Ngược lại, quan hệ là yếu tố giúp thúc đẩy năng lực. Quan hệ càng mơ rộng, chủ thê càng có động lực nâng cao năng lực đê thực hiện các lợi ích gia tăng và đối phó với những vẩn để mới. Quan hệ cũng là điều kiện của năng lực khi năng lực có thể phát huy trong quan hệ này nhưng lại bị kiềm chê' trong mối quan hệ khác. Quan hệ còn là nơi kiêm nghiệm kết quà của các năng lực đế 250 Một số ván đê lý luận quan hệ quóc té dươi góc nhm lích SỪ chủ thê có thể cải thiện năng lực cua minh. Ngoài ra, quan hệ còn là nơi chủ thê có thế tìm kiếm cac vếu tô bỏ sung cho năng lực của mình. Các quốc gia có thẻ bò sung năng lực kinh tế bằng trao đổi thương mại và thu hút đầu tư, bô sung năng lực quân sự bằng liên minh hay mua sắm vũ khí, bổ sung năng lực chính trị bằng sự ung hộ quốc tế... Nhìn chưng, quan hệ có thê làm tăng, giám năng lực của quôc gia. Bởi sự gắn bó như vậy, nâng cao năng lực trơ thành một mục đích của chủ thế trong quan hệ. Còn quan hệ là phương cách nâng cao năng lực của quốc gia. Trong chừng mực nào đó, năng lực là điều kiện cẩn cho quan hệ và quan hệ là điều kiện đủ cho năng lực. Sự kết họp cà hai phương diện này mới tạo nên quyển lực cua chu thế. Nói cách khác, đây là hai mặt không tách rời nhau trong bàn chất của quyền lực. Chúng tôi tán thành cách nhìn coi bản chát quyển lực gồm cà năng lực và quan hệ. Cách nhìn này khóng phù nhận việc coi quyển lực là cấu trúc. Quan niệm thứ ba nhìn quyển lực như một cấu trúc gồm nhiều yếu tố liên quan đến nhau. Đây là cách nhìn nhận quyến lực rộng hơn khi bao gồm cả những yếu tố thuộc cấu trúc bén trong và ngoài quan hệ. Tuy nhiên, quan niệm này không đi ra ngoài ban chất quyên lực là năng lực và quan hệ. Những yếu tô mới thuộc câu trúc là sự bô sung thêm cho năng lực. Tât ca chúng đêu gắn bó hoặc liên quan đért quan hệ. Những yếu tô này có thê làm thay đổi quyẽn lực nhưng Một s ố vấn đ ê lý luận về k h á i n iệm qu yền lực.. 251 không làm thay đổi bản chât quyển lực. Chúng có thể có, có thê không và khá khác nhau tùy từng hoàn cảnh, từng quan hệ cụ thế. Trong khi năng lực và quan hệ là cái cốt lõi của quyển lực luôn có trong mọi hoàn cảnh và quan hệ. Vì thế, có thê coi bộ phận chính trong bản chất quyền lực là năng lực và quan hệ. Chi có điều vói cách tiếp cận quyền lực câu trúc, năng lực và quan hệ cần được nhìn nhận trong một bôi cảnh rộng hơn với nhiều yếu tô' hơn và mối liên hệ đa dạng hơn, chứ không chỉ bó hẹp trong cách nhìn của quan niệm thứ nhất và thứ hai. KHÁI NIỆM QUYỂN Lực Khái niệm quyền lực theo nghĩa hẹp Xuất phát từ bản chất như vậy, hầu hết các khái niệm quyền lực trong quan hệ quốc tế xuất hiện từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đều được xây dựng dựa trên khả năng (năng lực) của chủ thể trong sự tương tác (quan hệ) vói các chủ thê khác. Hay nói cách khác, hầu hết các khái niệm đều coi quyền lực vừa là năng lực của quốc gia, vừa là quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, dù cùng dựa trên một bản chất, các khái niệhì vẫn khá đa dạng. Sự đa dạng này được quy định bời sự'khác nhau trong mục đích và mục tiêu cúa quyển lực cách tiếp cận, quan niệm về thành tố của quyền lực và vai trò của chúng, các yếu tố tác động, hay sự chú trọng hình thức biêu hiện cùa quyền lực,... Dấu vậy, thuật ngữ quyển lực vẫn thường được hiểu chung là năng lực 252 Một số vấn đê lý luân quan hè quốc té dưcn góc nhìn lịch sủ làm điểu gì đó và triển khai thực tế năng lực này trong quan hệ quốc tế. Các năng lực này phổi hợp vói nhau đem lại khả năng thực hiện mục đích và mục tiêu của quốc gia1. Dựa trên sự khác nhau về mục đích, mục tiêu của quyền lực quốc gia trong quan hệ quốc tế, ch ling tôi tạm chia các khái niệm quyền lực thành hai loại khác nhau: khái niệm hẹp và khái niệm rộng. Mục đích, mục tiêu quy định sự mong muốn, nội dung chính sách, các hành động thực tế và tính chất quan hệ giữa các chủ thể. Trên thực tế, mục đích và mục tiêu của quốc gia có thể rộng, hẹp khác nhau phụ thuộc vào năng lực và quan hệ của từng chù thể. Và từ đó, việc xây dựng quyền lực hay sức mạnh quốc gia, chính sách thực thi quyền lực và khả năng có được quyền lực trong quan hệ quốc tế cũng sẽ khác nhau. Đi theo hướng khái niệm hẹp, đã có nhiểu khái niệm quyền lực được đưa ra. Ví dụ, khái niệm của Robert Dahl, quyển lực là việc "A khiến в phải làm cái gì đó mà в không làm khác được"2, khái niệm của Harold Lasswell và Abraham Kaplan "quyền lực là sự sân sinh các tác động có chủ ý lên người khác như là A tác động đến в thông qua việc định hình và phổ biến các giá trị trong một "mẫu hình giá trị" chung"3, khái niệm của A.F.K Organski "quyền lực là khả năng của cá nhân, tập đoàn hav một 1. Martin Griffiths, Тепу O'Callaghan & Steven C. Roach, International Relations: The Key Concepts, Routledge, New York, 2007, tr. 259. 2, 3. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power", Sdd, tr. 4, 5. Một số vấn đề lý luận về khái niệm quyền lực. 253 quốc gia gây ảnh hưởng đối với hành vi của các cá nhân, tập đoàn hay quổc gia khác phù hợp với mục đích của mình"1, khái niệm của Hans Morgenthau "quyền lực là việc kiêm soát của người này đôi với tâm trí và hành động của người khác"2, khái niệm của Karl. Deutsch "quyển lực là khả năng giành thắng lợi trong xung đột và khắc phục trở ngại"3, khái niệm của Phillips Shively "quyền lực là khả năng của người này khiến người khác phải làm cái mà mình muốn bằng bất cứ phương tiện nào"4... Nhìn chung, các khái niệm trên đều coi quyền lực là khả năng của chủ thể này khiêh chủ thể khác phải thực hiện điều mà mình muôn. Trong số này, khái niệm của Robert Dahl hay được sử dụng nhiều như một điển hình của khái niệm hẹp. Robert Dahl đã giải thích thêm điều này khi coi quyền lực là "năng lực xoay chuyên khả năng có thê của kết quả"5, tức là buộc được chủ thể khác làm điều mình muốn dù họ không muốn. Về mặt lý luận, các khái niệm hẹp đều chịu ảnh hường của chủ nghĩa hiện thực, v ề mặt thực tiên, chứng chủ yếu 1. A.F.K Organski, World Politics, Knopf, 1968, tr. 104. 2. Hans M orgenthau, "Politics Among Nations", tr. 26. 3. Karl Deutsch, The Analysis of International Relations, Prentice Hall, 1967, tr. 22. 4. W. Phillips Shively, Power and Choice: An Introduction to Political Science, Sdd, tr. 5. 5. Robert Dahl, "The Concept of Power", Behavioral Sciences 2, 1957, tr. 202. 254 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưởi góc nhin lịch sư dựa vào thực tiễn lịch sử trước kia khi quyến lực hoàn toàn nằm ưong tay các cường quốc đê chứng mmh cho khái niệm của mình, v ề cách tiếp cận, các khái niệm hẹp thiên về cách tiếp cận dựa trên các bộ phận quyền lực quốc gia, cách tiếp cận quyền lực có tính quan hệ và cách tiếp cận giành thắng lợi trong xung đột. v ế thành tố của quyền lực, chúng tập trung vào năng lực của quốc gia trong sự tương tác và so sánh với nhau, v ể đối tượng và phạm vi, các khái niệm này chủ yếu áp dụng cho các nước lớn. Vi thế, quan hệ quyển lực ở đây thường được nhìn nhận là tác động một chiều từ phía chủ thể có năng lực lớn tới chủ thể có năng lực kém hơn. Biểu hiện chủ yếu của quyền lực là sự ép buộc và kết quả của quan hệ quyền lực là khả năng giành phần thắng của những nước có quyền lực lớn hơn. Nhìn chung, khái niệm này có sự thích hợp đáng kê trong lịch sử khi quan hệ quôc tế thế giới đâv rẫy hiện tượng đ ế quốc, thực dân, bá quyển, ngoại giao cường quyền, chư hầu, thuộc địa,... Trong thời hiện đại, mặc dù vẫn có chỗ đứng trong nghiên cứu và thực tiễn, nhưng khái niệm này tỏ ra hạn chế khi không giải thích được vai trò và tiếng nói tăng lên của các nước Thế giới thứ ba trong quan hệ quốc tế. Các nước này giành được độc lập, vân tổn tại và phát triển mà không hoàn toàn có quvển lực theo khái niệm trên. Thực tế cho thây, các nước lớn khóng thê hoàn toàn áp đặt ý chí của mình lên các nưóc vưa và nhỏ cho dù có quvền lực theo nghĩa hẹp hơn hán. Khóng Một số vấn đề lý luận vê khái niệm quyên lực.. 255 phải cứ có quyển lực hơn hẳn thì muốn làm gì cũng được. Không phải cứ thua kém về quyền lực là sẽ bị mâ't độc lập, chủ quyển hoặc không có tiếng nói. Điều này chứng tỏ các nước vừa và nhỏ cũng sờ hữu những năng lực nhất định trong quan hệ quốc tế. Các nước này vẫn có năng lực riêng đê chống lại sự ép buộc và đạt được lợi ích của mình trong quan hệ vói các nước lớn. Xét từ bản chất năng lực - quan hệ của quyền lực, các nước này vẫn có thê có quyền lực. Quan hệ quyền lực hoàn toàn có thể mang tính hai chiều và phức tạp chứ không một chiều đơn giản như khái niệm hẹp kê trên. Khả năng có được quyền lực nhâ't định trong quan hệ quốc tế của các nước vừa và nhỏ không chi dựa trên sự phát triển năng lực của chúng. Xu hướng phụ thuộc lẫn nhau và sự nổi lên của các vấn đề toàn cầu là những yếu tố bên ngoài góp phần củng cố khả năng này. Sự phụ thuộc lẫn nhau cho dù là bất tương xứng (các nước vừa và nhỏ phụ thuộc vào các nước lớn nhiều hơn là ngược lại) nhưng cũng cho thây các nước vừa và nhỏ có những thứ mà các nước lớn cần. Đó chính là những thứ mà các nước nhò có thể sử dụng để tạo ra quyền lực của mình. Một ví dụ điển hình là các nước thuộc Tổ chức các nước xuất khâu dầu mò (OPEC) đã dùng dầu mò như một thứ quyền lực hàng hóa (commodity power) đế phản đối Mỹ và các nước phương Tây ủng hộ Ixraen trong cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973 và không thê’ nói là không thành công. 256 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc tế ƠUCH góc nhin lịCh sủ Trong khi đó, sự nôi lên của các váh đé toàn câu lại đang giúp làm tăng tiêng nói và sự bình đăng hon cho các nước vừa và nhỏ trong quan hệ với các nước lớn, ít nhât là trong những vấn đề này. Vân để toàn cầu như mỏi trường, dịch bệnh, tội phạm,... là những nguy cơ đe dọa cả nhân loại và buộc phải có sự hợp tác của tât cà các nước thì mới đối phó được. Các nước vừa và nhỏ là một bộ phận rất lớn và không thể thiếu trong công cuộc này. Khác với chính trị và kinh tế, đối với các vâh đề toàn cầu, các nước lớn không thể tự mình giải quyết hay quyết định nếu không có sự tham gia của các nước vừa và nhỏ. Điểu này đang được chứng tỏ bằng sự phát triển của các tô chức, hội nghị và công ước toàn cầu trong lĩnh vực này - nơi các nước vừa và nhỏ có tiếng nói ngày càng tăng. Rõ ràng, cả hai xu hướng phụ thuộc lẫn nhau và sự nổi lên của các vâh để toàn cầu không chỉ làm tăng năng lực quổc tế cho các nước vừa và nhỏ mà còn làm giảm khả năng ép buộc của các nước lớn. Điều này cho tháy quyền lực theo nghĩa hẹp không thể là cách hiểu duv nhát vể quyền lực trong thời buổi hiện nay. Khái niệm quyền lực theo nghĩa rộng Xuất phát từ nhận thức và thực tế đó, có khái niệm rộng hơn nhìn nhận quyền lực như khả năng thực hiện mục tiêu và lợi ích của chủ thể trong quan hệ quốc tế. Vê' mặt ngữ nghĩa, khái niệm này có thê tạm hiểu theo tiếng Việt là "sức mạnh". Theo đó, quốc gia nào có khả năng duy tri độc lập MQt so van de ly luan ve khai niem quyen !Uc.. 257 va thuc hien loi ich cua minh trong quan he quoc te thi deu co sue manh (quyen luc) nhat dirth. Sue manh khong chi la su ep buoc nude khac hanh dong theo mong muon cua minh, ma con la kha nang chong lai duoc su ep buoc do. Quyen luc co the la nang luc de buoc chu the khac phai ton trong mong muon doc lap va loi ich cua minh hoac it nhat la nang luc buoc chu the khac han che nhung hanh dong khong phu hop voi muc tieu, loi ich cua minh. Noi chung, theo khai niem rong, quyen luc duoc coi nhu phuong tien, sue manh hoac nang luc dem lai kha nang anh huong toi hanh vi cua ngudi khac de phu hop voi nhung muc tieu cua rieng minh1. Su mo rong khai niem quyen luc tir nghia hep sang nghia rong xuat phat tu ba thuc te ngay nay. Thu nhat, quan he la su tuong tac qua lai hai chieu chu khong phai mot chieu. Viec ap dung quyen luc theo nghia hep cua A buoc phai tinh den su phan ung lai cua B. Thu hai, trong the gioi ngay cang phu thuoc lan nhau, ca hai ben deu can lan nhau. Cho nen, B du yeu hon A nhung van co kha nang khien A khong con ap dat de dang quyen luc nhu truoc. Thu ba, duoi cach nhin cua quyen luc cau true, B du yeu hon A nhung v£n co the loi dung nhung yeu to bo sung tir cau true trong va ngoai de nang cao nang luc cua minh trong quan he doi voi A. 1. Martin Griffiths, Terry OGallaghan & Steven C. Roach, International Relations: The Key Concepts, Sdd, tr. 258. 258 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té ơdới góc nhìn lích sủ Đi theo hướng này, cũng có nhiếu khái niệm được đê ra. Ví dụ, khái niệm của Bertrand Russell "quyến lực là sản phẩm của những tác động có chủ ý " 1, khái niệm cùa Tsygankov I. A. "quyền lực có thê được hiêu là năng lực hay tiềm năng tác động lên người khác"2, khái niệm của William Nester "quyền lực là năng lực cua cá nhân hay nhóm khiến người khác phải làm cái họ không muốn hoặc kiềm chế không làm điều mà họ định làm"3,... Trong sô các khái niệm theo nghĩa rộng, khái niệm của Joseph s. Nye có lẽ được sử dụng nhiều nhât. Theo đó, "quyển lực là khà năng tác động tới người khác để đạt được kêt quà mà bạn muôn"4. Đó chính là khả năng của chủ thê đế đạt được mục tiêu hay lợi ích. Joseph s. Nye đã làm rõ hơn vê quyền lực theo nghĩa rộng khi đưa ra ba cách thức đê tác động tới hành vi của người khác là đe dọa ép buộc (cái gậy), xui khiến và trả tiền (củ cà rốt) và sự háp dẫn khiên người khác cũng muốn cái mà bạn muôn5. Sự giải thích của Martin Griffiths, Terry о Callaghan và Steven с . Roach có thê giúp hiểu thêm nội dung của 1. Bertrand Russell, Quyền lực, Nxb. Hiện đại, Sài Gòn, tr. 48. 2. Цыганков п. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, bàn dịch Chương 2, tr. 3. 3. W illiam N ester, International Relations: Politics and Economics in the 21st Century, W adsworth, USA, 2001, tr. 81. 4. Joseph S. Nye, "Public Diplomacy and Soft Pow er", The ANNALS o f the American Academy o f Political and Social Sciences 616, March 2008, tr. 94. 5. Joseph S. Nve, "Public Diplomacy and Soft Power", T ldd tr. 94. Một số vấn đề lý luận vể khái niêm quyền lực.. 259 khái niệm quyền lực theo nghĩa rộng. Theo các tác giả này, quyển lực trong quan hệ giữa các quốc gia có thế được định nghĩa một cách đơn giản nhất là khả năng của quốc gia này kiểm soát hoặc ít nhâ't ảnh hưởng tói quốc gia khác hoặc đến kết quả của sự kiện. Theo đó* quyền lực theo nghĩa rộng có hai phương diện quan ưọng là bên trong và bên ngoài, v ề phương diện bên trong, quyền lực chính là năng lực hành động của quốc gia. Theo đó, quốc gia có quyền lực tức là không bị ảnh hưởng hoặc bị ép buộc từ bên ngoài trong việc xây dựng và hình thành chính sách. Điều này có nghĩa tương đương với sự tự trị. Về phương diện bên ngoài, quyền lực là năng lực kiểm soát hành vi xử sự của nước khác và buộc họ phải tuân thủ. Anh hưởng như vậy không nhât thiết phải được thực thi mà chi cần được người khác thừa nhận công khai hoặc không công khai là có hiệu lực. Nói cách khác, hành động của người bị ảnh hưởng là kết quả của hành động quyền lực của người kia1. Giữa hai khái niệm hẹp và rộng có sự khác nhau nhất định. Thứ nhất, về mặt lý luận, khái niệm hẹp chủ yêu dựa vào chủ nghĩa hiện thực, còn khái niệm rộng được xây dựng trên nhiều lý thuyết khác nhau. Thứ hai, về mặt thực tiễn, nếu khái niệm hẹp chủ yếu dựa vào thực tiễn lịch sử trước kia thì khái niệm rộng dựa nhiều vào thực tế quan hệ 1. Martin Griffiths, T ern ’ OGallaghan & Steven C. Roach, International Relations: The Key Concepts, Sdd, tr. 258. 260 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn ỊịCh sủ quốc tế thời hiện đại khi các nước vừa vã nhó vân có thẻ tổn tại, phát triển và có tiêng nói nhất định đôi với các nước lớn. Thứ ba, về cách tiếp cận, khái niệm hẹp chi dựa vào các cách tiếp cận dựa trên các bộ phận quyển lực quốc gia, quyền lực có tính quan hệ và giành chiến thăng trong xung đột. Trong khi đó, khái niệm rộng có sự kết hợp rộng rãi hơn nhiều khi bao gồm thêm cả các cách tiếp cận như quyền lực câu trúc, giới hạn các khả năng thay thế và định hình tính quy chuẩn. Thứ tư, về thành tố của quyền lực, nếu khái niệm hẹp chỉ quan tâm đến năng lực của các chủ thể, thì khái niệm rộng còn tính cả đên nhiều yếu tố khác liên quan đến quyền lực quốc gia cũng như hoàn cảnh, điều kiện của việc thực thi quvển lực. Thứ năm, về đổi tượng và phạm vi áp dụng, trong khi khái niệm hẹp thiên về nước lớn, thì khái niệm rộng mở hơn rất nhiều khi bao gồm cả nước nhỏ bên cạnh nước lớn, chủ thể phi quôc gia bên cạnh quốc gia. Thứ sáu, vê' chiều tác động trong quan hệ quyền lực, khái niệm hẹp coi quan hệ này có tính một chiều khi chỉ có lực tác động từ mạnh sang yếu. Trong khi đó, khái niệm rộng coi quan hệ quyền lực có tính cách hai chiểu khi cả manh và yếu đều có thê tác động sang nhau cho dù mức tác động là khác nhau và tùy từng vâh đề. Thứ bảy, biếu hiện của quyền lực cũng sẽ đa dạng hơn nhiều như ngán chặn, thưyêít phục, quản trị,... chứ không chi quan tám tới việc ép buộc như trong khái niệm hẹp. Thứ tám, theo khái niệm rộng, các nước yếu hơn vẫn có kha nàng thực hiện Một số vấn đề lý luận vê khái niệm quyền lực.. 261 được mục đích và lợi ích của mình trong quan hệ quổc tế, thậm chí là trong quan hệ với các cường quốc. Và do đó, quyên lực không phải là độc quyền của các nước lớn như khái niệm hẹp đã xác định. Mặc dù vậy, việc phân biệt quyền lực thành hai khái niệm hẹp và rộng chi mang tính tương đôi. Trong chừng mực nào đó, quyền lực theo nghĩa rộng có thể được coi là bao gồm cả quyền lực theo nghĩa hẹp bởi khi chủ thể đã có khả năng ép buộc chủ thê khác làm điều mà mình muốn thì cũng đã bao hàm cả năng lực thực hiện mục đích của mình trong quan hệ quốc tế. Trong đó, quyền lực theo nghĩa hẹp có thể được coi là mức độ cao của quyền lực theo nghĩa rộng bởi vì có năng lực thực hiện mục đích của mình trong quan hệ quốc tế nhưng chưa chắc đã có khả năng ép buộc hay xui khiến chủ thể khác. Thông thường, các nước ban đầu chỉ đặt mục đích có được quyền lực theo nghĩa rộng nhưng khi phát triển lên thì lại dễ có xu hướng muốn đạt được quyền lực theo nghĩa hẹp. Với khái niệm rộng, rõ ràng tất cả các nước đều mong muôn có được sức manh và vì thế có thê sẽ theo đuổi quyền lực trong quan hệ quốc tế. Với khái niệm hẹp, có thê nhiều quốc gia mong muốn có quyền lực nhưng vì nhiều lý do khác nhau, như không thể đạt được nên có không ít nước phải từ bò và chi theo đuổi quyền lực theo nghĩa rộng. Nhìn chung, cả hai khái niệm đều sừ dụng được trong nghiên cứu quan hệ quốc tế và thực tiễn đối ngoại bởi chứng có thể được áp dụng vào nhũng trường hợp khác nhau. 262 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc té ơưo* góc nhin lích sù Với những ưu điếm nói trên của khái niệm rộng, nhât là sự phù hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế ngáy nay, chúng tôi chủ yếu đi theo quyền lực theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, về mặt ngôn từ, trong tiêhg Việt, hai khái niệm có thê được hiểu thành hai từ khác nhau. Theo nghĩa hẹp được gọi là quyền lực, còn theo nghĩa rộng thì được gọi là sức mạnh. Trong khi đó, trong tiêng Anh cũng như nhiều ngôn ngữ thông dụng khác trên thế giới, khái niệm rộng vẫn được định danh là quyền lực {power) chứ không phải là sức mạnh (force). CÁC CHIỀU CẠNH CỦA QUYỀN Lực Các khái niệm luôn làm nghèo nội dung. Vì thế, việc phân định quyền lực thành những chiều cạnh (dimension) khác nhau có ý nghĩa bổ sung rất quan trọng khi giúp nhận thức đầy đủ hơn và thực thi quyền lực thuận lợi hơn. Lass well và Kaplan (1950) là những học giá đẩu tiên đề cập điều này. Hai ông cho rằng các nhà phán tích quyền lực cần tính đến ít nhất ba yếu tố: sức nặng tức là mức độ tham gia vào quyết định; phạm vi là các giá trị được chia sẻ; lãnh địa là những cá nhân có liên quan1. Sau này, David A. Baldwin đã phát triển thêm V tương đó trong nghiên cứu quan hệ quô'c tế. Baldwin đưa ra nấm chiều cạnh khác nhau của quyền lực là phạm vi, lãnh địa, sức nặng, chi phi và phương tiện. 1. Felix Berenskoetter, 'Thinking about power ”, Sđd, tr. 5 Một số vấn đê lý luận về khái niệm quyền lực.. 263 - Phạm vi (scope) là những mặt nào đó trong hành vi của B có thể bị tác động bởi hành vi của A. Điều này có nghĩa là không phải A có thế tác động đến B trong mọi lĩnh vực, và cũng không phải B sẽ chịu tác động của A trong mọi vâh đề. Khả năng tác động của A và khả năng chịu tác động của B đều có những giới hạn hay phạm vi nhất định, tùy từng lĩnh vực hay vâh đề khác nhau. Phân tích phạm vi giúp thâ'y được mặt mạnh, mặt yếu của cả chủ thế tác động và đối tượng chịu tác động. Ví dụ, Nhật Bản có ảnh hưởng trong các vấn đề kinh tế hơn là vấn đề quân sự. Như vậy, phạm vi cho thấy khả năng thực thi quyền lực của một chủ thê khác nhau trong từng'lĩnh vực và vấn đề. - Lãnh địa (domain) là sô' lượng các chủ thể khác có thể chịu ảnh hưởng của A. Lãnh địa của A được xác định bằng bao nhiêu B. Hay nói cách khác, lãnh địa là vùng ành hưởng của A. Vùng ảnh hưởng của A lớn hay bé phụ thuộc vào SỐ nước chịu ảnh hưởng. Điều này có nghĩa, củng với năng lực như vậy, chủ thê có thể có ảnh hưởng đối vói nước này trong phạm vi nhưng lại không có ảnh hưởng đối với nước khác ngoài phạm vi. Phân tích lãnh địa giúp giới hạn không gian trong quyền lực của một quốc gia. Ví dụ, Ấn Độ hiện nay có ành hưởng lớn ở Nam Á nhưng ảnh hường lại kém hơn trong các khu vực khác của thế giới và thậm chí là không có ảnh hưởng ở nhiều nơi thuộc Mỹ La tinh và châu Phi. - Sức nặng (weight) là khả năng hành vi của B bị hoặc có thế bị tác động đên đâu bởi A, tức là mức độ đáng tin cậy 264 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té ƠUOi góc nhin lích sủ trong ành hưởng của A. Nói đơn gian, sức nặng chính là mức độ tác động và khả năng thành công cua A đôi với B. Sức nặng ở đây không chi phụ thuộc vào mức độ tác động của A, mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận cùa B. Mức độ tác động của A càng cao, khả năng tiếp nhận cùa B càng thấp, sức nặng quyền lực của A càng lớn, tác động của A càng dễ đạt được kết quả. David Baldwin làm rõ thêm điều này bằng ví dụ một nước có 30% cơ hội đạt được mục tiêu trong đàm phán thì có sức nặng quyên lực nhỏ hơn nước có 90% cơ hội. Nhìn chung, phán tích sức nặng chính là giúp đánh giá kết quả có thế đạt được của việc thực thi quyền lực trong thực tiễn. - Chi phí (costs) là việc đắt hay rẻ đôi với A đê ảnh hưởng tới B và ngược lại. Chi phí được coi như một chiểu cạnh của quyền lực bởi thực tế ai cũng phái chịu chi phí trong việc thực thi quyền lực. Các học giả đưa ra ít nhát ba trường hợp được cho rằng A có quyền lực lớn hơn B. Thứ nhất, đó là khi A phải bỏ ít chi phí hơn B trong việc ảnh hưởng tói cùng một đôi tượng hoặc tới nhau. Thứ hai, khi A có thê khiến B làm điều gì đó tôín kém chi phí nhiểu hơn dù B có khả năng làm điều đó với chi phí ít hơn. Thứ ba, ngay cả khi A không buộc được B tuân thú mệnh lệnh của nó nhưng A vẫn buộc được B phai mâ't nhiếu chi phí do việc không tuân thủ, như hành động trừng phạt băng bao vây, câín vận, chăng hạn. - Phương tiện (means) là những phương tiện đế thực thi ánh hường. Theo David Baldwin, có ít nhát bón loại Một số vấn để lý luận vẻ khái niêm quyên lực.. 265 phương tiện trong quan hệ quốc tế: phương tiện biểu tượng, tức là các biêủ tượng có tính quy chuẩn và thông tin; phương tiện lãnh tế, tức là hàng hóa và dịch vụ; phương tiện quân sự và phương tiện ngoại giao1. Phương tiện chính là công cụ thực thi quyền lực. Có những nước có phương tiện này mạnh nhưng phương tiện khác thì lại yếu. Có những nước có phương tiện đây nhưng khả năng sử dụng lại hạn chế. Việc phân tích phương tiện giúp đánh giá khả năng chọn lựa công cụ và khả năng thực thi quyền lực trong thực tiễn bởi phương tiện khác nhau thì dẫn đên kết quả thực thi quyền lực khác nhau. Theo chúng tôi, có thê đưa ra thêm chiều cạnh thứ sáu của quyền lực. Đó là bối cảnh (context). Có vẻ như bôi cảnh nằm ngoài quyền lực nhưng thực ra nó lại gắn bó chặt chẽ tói quyền lực. Đây là điều mà những người đi theo cách tiếp cận quyền lực cấu trúc hay cách tiếp cận định hình tính quy chuẩn đã đề cập. Bối cảnh không những chứa đựng những yếu tố bổ sung cho quyền lực quổc gia như quyền lực cấu trúc chẳng hạn, mà còn là điều kiện thực thi quyền lực. Ví dụ, quyền lực quân sự có thế thích hợp trong bối canh này nhưng lại phản tác dụng trọng bối cậnh khác. Nói chung, không có quyền lực nào lại nằm ngoài bối canh. Nó củng giống như quan hệ kinh tế 1. David A. Baldwin, "Pow er and International Relations", W alter Carlsnaes, Thomas Risse & Beth A. Simmons, Handbook o f International Relations, Sage Publications, London, 2005, tr. 178-179. 266 Một số vấn để lý luận quan hê quóc té dưo< góc nhin lfch sủ không thể không tính đên thị trường, quan hệ chính trị không thê không tính đến tác động cua hệ thống chinh trị. Theo đó, quyền lực mạnh, yếu cúa từng chu thẻ còn liên quan đến khả năng làm chủ hoàn cành và khắc phục những bất lợi của bối cảnh. Vì thế, phân tích quyên lực, nhất là phân tích khả năng thực thi quyển lực, không thế không tính đến bối cảnh. Trong số các chiều cạnh này, nhiều học gia cho rằng phạm vi và lãnh địa là quan trọng và không thê thiêu trong phân tích và áp dụng quyền lực thực tiễn. Đổng thời, việc phân chia quyền lực ra các chiều cạnh khác nhau một lần nữa cũng cho thấy việc ước tính quyến lực tổng hợp của quổc gia vẫn còn là vâri đề gây tranh cãi1. Đa phần cách tính toán quyền lực hay sức mạnh tống hợp quôc gia hiện nay thường ít tính đên các chiếu cạnh này. Việc phân định quyền lực thành những chiếu cạnh khác nhau giúp biết được điểm xnạnh, điểm vểu trong quyền lực của mình cũng như của đối phương. Đong thời, việc phân biệt như vậy còn giúp đánh giá được kha năng thực thi, cường lực và phạm vi tác động của quyển lực cũng như khả năng phản ứng của đôi tác. Từ đó, có thế tính toán được khả năng vận dụng quyển lực sao cho thích hợp và hiệu quả hơn. Không những thé’ việc phán định như vậy còn giúp xây dựng sức mạnh tỏng hợp của 1. David A. Baldwin, "Pow er and International Relations", Sđd, tr. 179. Một số vấn để lý luận vê khái niệm quyền lực.. 267 quốc gia bởi quyển lực là hiện tượng đa chiều cạnh và hoàn toàn có khả năng chiều cạnh này của quyền lực gia tăng trong khi các chiều cạnh khác lại suy giảm1. Tóm lại, việc phân định quyền lực thành những chiểu cạnh khác nhau có cả ý nghĩa lý luận và thực tiễn cần tìiiết. Vì thế, khi nghiên cứu hay thực thi quyền lực, đều cần thiết phải tính đến các chiều cạnh này. 1 David A. Baldwin, "Power and International Relations", Sđd, tr. 178. 268 CÁC YẾU TỐ TINH THẦN TRONG QUYỂN LỰC CỦA QUỐC GIA Quyền lực quốc gia là sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành. Trước kia, các yếu tố này thương được coi chỉ bao gồm những yếu tố vật chât, hữu hình như địa lý, dân số, lực lượng quân sự, kinh tế,... Đến thời hiện đại, dưới sự phát triển của quan hệ quốc tế cả vê lý luận lẫn thực tiễn, quyền lực đã được bổ sung thêm các vếu tố tinh thần. Đó là những yếu tố phi vật chất, vô hình nhưng có thể làm tăng giảm sức mạnh của quốc gia. Hiện nay, trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, các yếu tố này được tính đến khá nhiều. Tuy nhiên, do khuôn khô có hạn, bài viết này chi cố gắng giói thiệu những yếu tố được thừa nhận rộng rãi hơn. Các yếu tô' đó là sự đoàn kết quốc gia, tư tường, uy tín, văn hóa, khả năng lãnh đạo, công luận, và tri thức. Sự đoàn kết quốc gia Đoàn kết là sự thông nhâ't tương đối vê' quan điếm, ý chí và khả năng phối hợp cùng nhau cua một cộng đổng người vê vẩn đề nào đó. Trên phương diện quan hệ quốc Các yếu tố tinh thân trong quyền lực của quốc gia 269 tế, sự đoàn kết trên quy mô quốc gia, dân tộc có ý nghĩa lớn nhât đôi với quyển lực quốc gia. Sự đoàn kết quốc gia được phản ánh trên ba phương diện: đoàn kết giữa lãnh đạo và nhân dân; đoàn kết giữa các bộ phận dân cư trong phạm vi quốc gia; và đoàn kết trong giới lãnh đạo với nhau. Sự thiếu hụt một trong ba phương diện đều có thể ảnh hưởng lớn hay thậm chí là phá vỡ sự đoàn kết quốc gia. Hans Morgenthau đã cho rằng một số yếu tố của nền chính trị đối nội như chất lượng của chính phủ, sự ủng hộ của công chúng và sự ổn định chính trị cũng góp phần làm nên quyền lực quốc gia. Trên thực tế, cả ba yếu tô' này đều không thê có được nếu không có sự đoàn kết quốc gia. Hay nói cách khác, ba yếu tố trên đều là những biểu hiện nhâ't định của sự đoàn kết quô'c gia. Con người vốn đa dạng nên sự thống nhâ't về quan điếm, ý chí và khả năng phôi hợp cùng nhau chi mang tính tương đốt tức là có thê thống nhất và phôi hợp vói nhau trong những vâh đề nào đó nhung lại có thế không như vậy trong những vấn đề khác. Vì vậy, sự đoàn kết quốc gia cũng chì mang tính tương đối và có thê thay đổi tùy theo hoàn cành, tình huống, vâh đề. Trong thực tiễn lịch sừ, sự đoàn kết quốc gia luôn được chú ý trong chính sách cà đối nội và đối ngoại. Sự chú ý này lại càng được quan tâm đặc biệt trong điều kiện xung đột và chiên tranh trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, có điều khá ngạc nhiên là yếu tố này lại không được nhiều học già phương Tày đề cập trong nghiên cứu thành tố 270 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhìn ÌỊCh sủ quyển lực. Trước kia, điều này có thê hiểu đuọc khi quyển lực quốc gia tập trung vào giai tầng lãnh đạo, còn các bộ phận nhân dân bên dưới được coi như cóng cụ hơn là những lực lượng có tiêng nói. Đến thời hiện đại, vai trò của các bộ phận khác nhau trong xã hội đã được các học giả phương Tây chú ý nhiều hơn. Ví dụ, chủ nghĩa tự do mới nhấn mạnh vai trò của các nhóm lợi ích và lực lượng phi quốc gia khác, chủ nghĩa vị nữ đề cao vai trò của phụ nữ, chính trị xanh đề cập những lực lượng phi quyển lực khác trong xã hội, chủ nghĩa kiến tạo tập trung vào giới tinh hoa xã hội nhưng vẫn đề cập vai trò của các phong trào xã hội,... Các lý thuyết này thừa nhận sự bát đổng hay cạnh tranh giữa các chủ thể nhưng đểu giói hạn khuôn khổ của chúng trong sự thống nhát tương đối cùa quốc gia, tức là cho rằng không đến mức phá vỡ đoàn kết quốc gia. Trong khi đó, chủ nghĩa hiện thực lại có quan niệm tương đôi khác biệt so với các lý thuyết trên. Chủ nghĩa hiện thực mặc định quốc gia là đơn nhât, tức là luón thống nhất trong lợi ích quốc gia và chính sách đối ngoại. Mặc dù quan niệm khác nhau như vậy, theo chúng tôi, sự đoàn kết quốc gia là một trong những yêu tố tình thẩn quan trọng bậc nhất trong việc làm nên quyển lực quốc gia. Sự đoàn kết quốc gia đem lại khả năng phát huy mọi nguồn lực thực tại và tiềm năng, vật châ't và tình thăn của cả nước, góp phần làm tăng quyển lực quốc gia. Sự đoàn kết quô'c gia giúp đưa các nỗ lực của cá nhân đi cung một hướng và tạo sự cộng tác giữa chúng, làm nén sức manh Các yếu tố tinh thần trong quyên lực của quốc gia 271 tập thế. Chính vì tầm quan trọng này, trên thực tế, các yếu tố tinh thần khác đểu hướng tới mục tiêu đoàn kết quốc gia. Tư tưởng để thống nhất quan điểm và tập trung ý chí, uy tín để tập hợp lực lượng, sự lãnh đạo đế huy động các nguồn lực và tổ chức sự phối hợp các nỗ lực, văn hóa và truyền thống là phương tiện để giáo dục và duy trì sự đoàn kết, công luận để tạo ra sự hợp pháp và củng cố khối đoàn kết,... Lịch sử thế giói nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng đã cho thây, khi quốc gia có sự đoàn kết, quốc gia đó có thể lây yếu thắng mạnh. Ngược lại, khi không có đoàn kết, quốc gia mạnh nhưng vẫn có thể thua yếu. Vì thế, Bác Hổ đã nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Sự đoàn kết quổc gia cần phải được xây dựng cả trong lãnh đạo, trong nhân dân, và trong quan hệ giữa hai lực lượng này vói nhau. Có như thế mói có thể huy động sức mạnh tập thể, sức mạnh tinh thần đê phát huy các thành tô' khác. Nói chung, đoàn kết quốc gia là cách thức huy động sức manh tổng hợp của quốc gia, thiếu đoàn kết quốc gia thì sẽ không có khả năng như vậy. Không những thế, mất đoàn kết quốc gia lại làm yếu chính các năng lực sẵn có khi không chi mất đi động lực phát huy, mà còn trở thành điểm yêu đê đối phương lợi dụng gây chia rẽ làm tê liệt các năng lực này. Đồng thời, sự thống nhất về quan điểm và ý chí, và việc duy trì khả năng phối hợp - cơ sở cùa sự đoàn kết - 272 Một số vấn đê lý luân quan hệ quốc té đuới goc nhin lịch sủ cần được xây dựng cả về đối nội lẫn đối ngoại. Trong đó, sự đoàn kết ưong các vân đê' đối nội là rất quan trọng vi đây là nền tảng chính của sự đoàn kết quốc gia. Đây củng là công việc thường xuyên vì nó liên quan đéh cuộc sống hằng ngày của đất nước và mọi người dân. Tuy nhiên, duy trì sự đoàn kết về mặt đối nội trên quv mô quốc gia cũng rât khó khăn bởi sự chi phối của các thang giá trị cá nhân và nhóm nhiều hơn là thang giá trị xã hội, quốc gia. Trong khi đó, sự đoàn kết trong các vấn để đôi ngoại cũng rất quan trọng, đặc biệt trong hoàn cảnh có các nguy cơ đe dọa từ bên ngoài. Sự đoàn kết này cũng dễ được tạo dựng hơn bởi có thêm động lực từ thang giá trị xã hội, quốc gia. Tuy nhiên, khi không có những đe dọa như vậy hoặc các đe dọa không đủ lớn, sự đoàn kết quốc gia trong các vâri đề đôi ngoại thường ít được quan tâm hơn. Nhìn chung, sự đoàn kết trong các vấn đề đối ngoại có tính tinh huống cao hơn và phụ thuộc nhiều vào sự đoàn kết trong các vâh đề đôi nội. Vì thế, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, đôi khi người ta châ'p nhận leo thang xung đột quốc tế đê kích thích tinh thần dân tộc nhằm giải quyết các vári đê đoàn kết đối nội hơn là ngược lại. TƯ tưởng Tư tưởng là hệ thông các giá trị và quan điẽm. Chù nghĩa kiến tạo là lý thuyết để cao vai trò cua tư tương đối với quan hệ quô'c tế, trong đó có quyển lực. Chu nghĩa kiến tạo không phản đôi các thành tố khác nhưng cho Các yếu tố tinh thân trong quyên lưc của quốc gia 273 rằng các tác động của chúng tới quan hệ quôc tế và quyển lực quô'c gia phải thông qua trung gian tư tưởng thì mới có ý nghĩa. Nhờ có tư tưởng, các thành tô' vật chất của quyền lực mới được đưa vào thực tiễn và được vận dụng phù hợp với nhận thức tư tưởng. Tuy nhiên, tư tưởng còn có những tác động trực tiếp khác tới quyển lực quốc gia trong quan hệ quôc tế. Tư tưởng có thể làm tăng hoặc giảm quyền lực quốc gia trên cả hai phương diện đôi nội và đối ngoại. Vê mặt đối nội, tư tưởng giúp tạo ra nhận thức chung, trạng thái tâm lý chung và mục đích chung. Từ đó, tư tưởng giúp đem lại niềm tin, sự đoàn kết và khả năng huy động lực lượng trong nước. Nói chung, tư tưởng chính là một thứ sức mạnh tinh thần khi có thế lôi cuốn và hướng các cá thể vào sự nghiệp chung, làm tăng thêm quyền lực quốc gia. Bên cạnh đó, tư tưởng là nền tảng cho chính sách nên tư tường đúng sai cũng ảnh hưởng nhiều đến chính sách. Đổng thời, tư tường có thê làm suy giảm quyền lực quốc gia nếu không được tiếp nhận rộng rãi trên quy mô xã hội hoặc tạo sự chia rẽ trong lòng quốc gia, hoặc vận dụng không đúng dẫn đến chính sách sai. Về mặt đối ngoại, củng giống như đối nội, tư tường củng là cơ sờ giúp cho việc xây dựng chính sách đối ngoại đúng đắn. Tư tương có thể đem lại sự cuốn hút đối với quốc gia khác. Sụ cuôn hút này đem lại khá năng thuyết phục cao hon, tức là quyền lực mềm. Tư tường cũng đem thêm sự chia sẻ quan điếm, hình thành nhận thức và 274 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té ơươt goc nhin lích sủ lợi ích chung, từ đó có thê dẫn đến ung hộ quòc tế, phôi hợp hành động hoặc thậm chí quan hệ đóng minh. Không chi là phương tiện tranh thu sự ung hộ quốc tế, đôi khi tư tưởng còn là ngọn cờ tập hợp lực lượng như đã từng thê hiện trong các cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sừ hay sự hình thành hai phe đối đáu tu tưởng trong Chiến tranh lạnh. Trong quan hệ quốc tế, những tư tường có anh hường nhiều đến quyền lực quốc gia thường là tư tương chính trị và tư tưởng tôn giáo có liên quan đến chính trị. Ví dụ, tư tưởng Mác - Lênin là cơ sở tinh thần quan ưọng cho sự hình thành khối các nước xã hội chủ nghĩa sau năm 1945. Tư tưởng này cũng đem lại sự ủng hộ cùa nhân dân lao động nhiều nước trên thế giới đối với Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa khi đó. Nhiều nước đi theo tư tường này như Việt Nam, Cuba,... đã nhận được sự trợ giúp to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Đối vói tư tưởng tôn giáo, đó là cộng đổng các quốc gia Thiên chúa giáo hay Tin lành đã từng chi phối ở châu Âu trước kia và sự nổi lên của các lực lượng Hồi giáo chính thông trong quan hệ quốc tế hiện nay... Tuy nhiên, có lẽ tư tưởng dân tộc mới là ttr tương có anh hường nhát và cũng có vai trò quan trọng nhát đối với quvền lực quô'c gia. Tư tường dân tộc đã góp phám làm nên chu nghĩa dân tộc và được coi là động lực quan trọng cho việc nâng cao quyển lực quốc gia. Tư tưong dán tộc củng làm nên sức mạnh tinh thần cho quốc gia va dán tộc. Tư tương dân tộc cua người Việt đã tạo nên sức mạnh to Các yếu tó tinh thán trong quyền lực của quốc gia 275 lớn cho đất nước Việt Nam đánh thắng các thế lực ngoại xâm. Tư tưởng dân tộc của người Đức trỗi dậy mạnh mẽ sau chiên tranh Pháp - Phô 1870-1871 là một trong những nguyên nhân tạo nên sức mạnh của cả ba đế chế Đức... Bời vai trò như vậy, tư tưởng đã được sử dụng như một công cụ trong quan hệ quốc tế nhằm can thiệp, lôi kéo, mở rộng ảnh hưởng. Đó chính là các cô' gắng phổ biến tuyên truyền tư tưởng hay "xuất khẩu quan điểm". Hiện nay, việc truyền bá tư tưởng được thuận lợi hơn nhờ sự trợ giúp của các phương tiện thông tín đại chúng, hệ thống thông tín toàn cầu, internet với các mạng xã hội. Trường hợp cuộc cách mạng hoa nhài ở Bắc Phi và Trung Đông đầu năm 2011 là một ví dụ về sự phổ biến tư tưởng qua các kênh như vậy. Sự phổ biến tư tưởng không chi được tiến hành qua các phương tiện thông tin đại chúng mà còn qua hoạt động kinh tế và các hoạt động phi lợi nhuận khác như giáo dục, viện trợ... Điều này góp phần làm tăng vai trò của tư tưởng như công cụ quyền lực trong quan hệ quốc tế. Điều này có thể thây được qua cố gắng của nhiều nước phương Tây tuyên truyền cho các tư tưởng dân chủ và nhân quyền theo kiểu phương Tây. Các tư tường này một khi thâm nhập được vào nước khác thì sẽ làm tăng ành hường của các nước phương Tây đối vói dân chúng nước đó. Lý thuvết phê phán, dựa trên quan điếm bá quyền cùa Antonio Gramsci, đã cho rằng sự bá quyền ngày nay cua các nước tư bàn chủ nghĩa không đon giàn chi do quyền 276 Mot so van de ly luan quart he qudc te duo* goc nhin lich sCl luc vat chat, cau true he thong quoc te va cac qua trinh lich sir tao ra, ma con phu thuoc vao tu tuong chi phoi cung nhu cach thuc tao ra su chi phoi do. Chung ta dang chung kien su thong tri cua phuong Tay trong dia hat tu tuong qua su chi phoi phuong tien thong tin dai chung, giao due, khoa hoc,... va dieu nay duoc coi la dong gop cho su thong tri cua phuong Tay. Khong chi dimg lai 6 vai tro cua tu tuong doi voi svr ba quyen trong quan he quoc te, ly thuyet phe phan va mot so ly thuyet khac dua tren tinh than duy tarn chu quan con cho rang tu tuong co kha nang tao ra su thay doi xa hoi noi chung. Antonio Gramsci da timg phat bieu rang "nham muc dich dem lai su thay doi, khong chi can chien thang "tren mat dat" ma con 6 ca trong dia hat tu tuong"1. Uy tin Trong lich sir quan he quoc te truoc kia von day ray xung dot va nghi ky, uy tin khong dong nhieu vai trd. Tuy nhien, trong quan he quoc te hien dai, khi hop tac va hoi nhap, toan cau hoa va the che hoa, cong nghe thong tin va van minh tri thuc ngay cang tang, uy tin cung ngay cang trd nen quan trong hon trong quan he quoc te. Va trong boi canh do, uy tin cung se gan bo nhieu hon voi quyen luc mem. 1. Dan theo Jill Steans & Lloyd Pettiford, Introduction to International Relations: Perspectives and Themes, Pearson-Prentice Hall, London, 2005, tr. 112. Các yếu tố tinh thần trong quyền lưc của quốc gia 277 Uy tín quốc gia là sự phàn ánh niềm tín cậy của quốc gia khác đối vói mình. Uy tín cũng phản ánh sự thừa nhận những ưu thế châ'p nhận được của quốc gia khác đối với minh. Uy tín đem lại cho quốc gia khả năng thuyết phục hay gây ảnh hưởng đối vói quốc gia khác trong một số vấn đề nào đó. Uy túi làm cho tiếng nói của quốc gia có trọng lượng hơn, có khả năng thuyết phục hơn và cũng dễ được nước khác ừng hộ hơn. Có uy tín cững dễ đạt được quvền lực cấu trúc, tức là có khả năng tập hợp lực lượng đê thay đổi các chế độ quôc tế có lợi cho mình. Như vậy, uy tín hoàn toàn có khả năng đem thêm sức manh cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Xâv dựng uy tín chính là một cách tạo ra quyền lực mềm. Ví dụ, MỸ đã sử dụng uy tín của mình đối vói cả Ixraen và Ai Cập đê đưa hai bên đi đến ký kết Hiệp ước Hòa bình năm 1979, chấm dứt sự thù địch hàng thế kỷ giữa hai đối thủ nàv. Uy tín được xâv dụng nhờ nhiều vào thực lực vật chât. Điều này được quv định bời tính thực lợi vẫn ngự trị trong quan hệ quốc tế. Tuv nhiên, uv tín quốc tế củng có những cơ sờ tinh thần của nó. Uy tín có thế được xây dựng trên tinh thần đạo đức thông qua thái độ tôn trọng các giá trị chung một cách xuyên suốt, qua cách hành xư đúng đắn, phù hợp chuán mực và luật pháp quốc tế cua quốc gia trong quan hệ quốc tế. Uv tín được hình thành qua việc nâng cao trách nhiệm quốc tế bằng các hoạt động đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triên chung như làm trung gian hòa giai, tham gia gìn giữ hòa bình, đóng 278 Môt số vấn đề lý luận quan hệ quóc tế dưoi goc nhin lịch sủ góp cho hoạt động nhân đạo, đăng cai hội nghị quôc tẻ, tài trợ cho các dự án phát triển,... Uy tín được cung cô thông qua sự hiểu biết lẫn nhau, sự tôn trọng lẫn nhau, sụ phát triển quan hệ hợp tác và tinh thẩn sẵn sàng giúp đõ nhau. Thụy Sĩ có được uy tín nhất định nhờ chính sách đối ngoại trung lập và tính thần đóng góp bằng việc cho các tô chức quốc tế đặt trụ sở tại nước minh. Nam Phi dưới thòi Nelson Mandela đã cải thiện được hình ảnh và nâng cao uy tín o châu Phi nhờ việc chấm dứt chế độ phân biệt chung tộc, tù bỏ chính sách hạt nhân và tham gia tích cực vào các vân đê của châu Phi. Trong quan hệ quốc tế, có uy tín quổc té không có nghĩa là có khả năng tạo sự tin cậy đối vói mọi quốc gia. Quốc gia vốn đa dạng, tương tác lại càng đa dạng nên nhìn nhận về uy túi của quô'c gia khác cũng khác nhau. Có uy tín quôc tế cũng không có nghĩa là có uy tín trong mọi lĩnh vực. Mỹ có tiếng nói trong nhiểu lĩnh vực và vấn đế quốc tế nhưng việc Mỹ không được bầu vào ủ y ban Nhân quyền năm 2005 cho thây uy tín quôc tê của Mỹ khóng phải là toàn diện. Do không có đủ nguổn lực vật chát và cơ sở tmh thần nên quôc gia thường chi có uy tín trong lĩnh vực nào đó như uy tín chính trị, uy tín kinh té,... Ví dụ, uy tín chính trị của Liên Xô sau năm 1945, uv tín kinh tế của Nhật Ban hiện nay,... Hon nửa, việc duv tn được uy túi là khá khó khăn do dựa trên niêm tin vón la một điẽu khá mong manh trong một thế giới đầv hoai nghi. Có được niềm tin đã khó, giữ được niêm tin con khó hon. Các yếu tố tinh thán trong quyên lực của quốc gia 279 Sau Chiên tranh lanh, uy tín của Mỹ được nâng cao nhưng đã bị sút giảm sau nhiểu sự kiện. Ví dụ như việc Mỹ không ký Nghị định thư Kyoto đã làm uy tín của Mỹ trong các nước đang phát triển bị sứt mẻ. Uy tín của Mỹ lại tiếp tục đà đi xuông khi Tổng thống Bush thi hành chính sách đon phương sau vụ 11 tháng 9 - một chính sách tạo ra uy thế nhưng lại làm giảm uy tín. Và gần đây nhất là sự cố Wikileak năm 2010 đã ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin và từ đó là uy tín của Mỹ ngay trong chính các nước đổng mirth của mình. Văn hóa Trước kia, trong thực tiễn và nghiên cứu quan hệ quốc tế, văn hóa hầu như không được chú ý. Các công cụ văn hóa râ't ít được sừ dụng trong quan hệ quốc tế hoặc nếu có thì củng không nhiều. Trong nghiên cúxx, các công trình vê văn hóa trong quan hệ quốc tế củng chi mới xuât hiện vài ba chục năm trờ lại đây. Tuy nhiên, đến thời hiện đại, dước tác động của sự phát triển, văn hóa ngày càng có ảnh hường tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế. Ngày nay, vai trò của văn hóa đối với quan hệ quốc tế đã được nhận thức. Không chi đóng vai trò như môi trường cua quan hệ quốc tế, văn hóa ngày càng trờ thành một thứ phương tiện, một dạng lợi ích và một lĩnh vực quan hệ. Đối với quyền lực cũng vậy, văn hóa được coi là một bộ phận hay công cụ làm nên sức manh tông hợp quốc ặ a . Thậm chí, nhiều khi, van hóa còn 280 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc té duck góc nhm hch sú được coi như một thứ quyển lực. Nhìn chung, vãn hóa có thê tác động đến quyền lực quốc gia theo nhiẽu cach thức khác nhau. Thứ nhất, văn hóa có thệ tạo động lực cho việc nâng cao sức mạnh quốc gia. Các nền văn hóa được xảy dụng qua một quá trình lịch sử lâu dài nên thường gãn bó với tư tường dân tộc và tình thần yêu nước. Những co sò này đem lại sức mạnh tinh thần cho quốc gia. Hav nói cách khác, đó là một thứ động lực cho việc xây dựng quyẽn lực quốc gia. Thậm chí, trong một số trường hợp, ván hóa có thê tác động tới xu hướng bá quyển trong khu vực. Đảy là trường hợp chủ nghĩa trung tâm văn hóa. Những nẽn văn hóa lớn có ánh hưởng đối với quốc gia khác dé bị kích thích bời xu hướng trờ thành trung tâm quyển lự c Ví dụ như chủ nghĩa Đại Hán, chủ nghĩa Đại Nga, chu nghĩa Đại Xécbia,... trong lịch sử Thứ hai, văn hóa nhiều khi được sừ dụng như phương tiện gây anh hương. Anh hường văn hóa được thiét lập sẽ đem theo vào các giá trị và quan điếm chính trị có thế có lợi cho nước phô biến. Thậm chí, ánh hường ván hóa còn tạo ra sự hấp dẫn văn hóa. Một nên văn hóa đặc sắc có thế đem lại sự quan tâm, sự tôn trọng và những mối thiện cam từ bên ngoài. Vi thê, ngoại giao công chủng, xuát khâu văn hóa và phô biến ngôn ngữ thường nám trong chinh sách của các nưóc, nhât là các nước lớn. Đo la một dạng chinh sách nhằm gianh “con tim và khói óc" cua các nước lớn và gianh thiện cam cua các nước nho. Các nước Các yếu tố tinh thần trong quyền lực của quốc gia 281 Đông Bắc Á là những ví dụ điển hình. Tuy chậm hom so với phương Tây nhưng các nước này rất chú ý đến vấn đê văn hóa. Trung Quốc hiện nay đang c ố gắng thu hút khách du lịch1, xuất khẩu văn hóa phẩm, mở râ't nhiều Viện Khổng Tử ở nước ngoài để quảng bá văn hóa và dạy tiếng Hoa. Một nước khác nhỏ hơn là Hàn Quốc cũng đang tích cực quảng bá những đặc sắc văn hóa của mình từ truyền thống cho tới hiện đại ra khu vực và thế giới, mà sự nổi lên của "làn sóng Hàn Quốc" là một minh chứng. Thứ ba, văn hóa cũng có thể được dùng như phương tiện lôi kéo, tập hợp lực lượng nhằm mưu đạt quyền lực. So với kinh tế và chính trị, phương tiện văn hóa ít gây nghi ngờ và dễ được châ'p nhận hơn. Pháp là một ví dụ điển hình qua chính sách viện trợ văn hóa và thành lập Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp (Francophonia). Tương tự như vậy, Tây Ban Nha cũng sử dụng chính sách ngôn ngữ khi tổ chức Hội nghị các nước nói tiếng Tây Ban Nha. Nga dùng tiếng Nga và các mối quan hệ văn hóa truyền thống để duy trì ảnh hưởng ở các nước thuộc Liên Xô trước kia trong Cộng đổng các quốc gia độc lập (CIS). Thứ tư, văn hóa cũng là chất xúc tác cho sự liên hợp giữa các quốc gia, và từ đó nâng cao sức mạnh tập thể. Đây là hiện tượng hav xuất hiện ở các khu vực văn hóa và là một cơ sờ quan trọng cùa chủ nghĩa khu vực. Đó củng 1 Năm 2010, Trung Quốc đã thu hút khách du lịch nước ngoài nhiều thú hai th ế giới. 282 Một số ván đê lý luận quan hệ quóc té dươi góc nhìn lích sử là cách thức mà các nước đang phát trién hay dùng đê nâng cao tiếng nói trong chính khu vực của nrunh. Hiện tượng này đang diễn ra khắp thê' giới mà Đóng Nam Á là một ví dụ. Tương đồng và những giao thoa văn hòa trong lịch sử là một cơ sở quan trọng hình thành nén chu nghĩa khu vực ở Đông Nam Á. Từ năm 2003, các nước ASEAN đã xác định tăng cường hợp tác văn hóa - xã hội nhu một trong ba trụ cột của việc xây dựng Cộng đổng ASEAN. Thứ năm, tương đồng văn hóa và những giá trị chung được chia sẻ dễ tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau và sự đông cảm giữa các quốc gia, từ đó là sự ủng hộ quõc tế trong vấn đê nào đó. Các quốc gia Hồi giáo có thê khác nhau trong nhiều vân đề nhưng giữa họ vẫn có sự cám thông và chia sẻ nhâ't định trong một số vấn đê quốc tế liên quan đến tôn giáo của họ. Ví dụ, cho dù vẫn chia rẽ vói nhau, các nước Hồi giáo đều phản ứng khá mạnh trước vụ tranh biếm họa Đârtg Tiên tri Mohamed và vụ bình luận vế Hổi giáo của Giáo hoàng Benedict năm 2006. Hay việc có những nhân vật quan trọng trong chính quyển một vài nước Arập thân Mỹ nhưng vẫn tài trợ ngầm cho Al-Qaeda củng cho thấy điểu này. Thứ sáu, văn hóa cũng liên quan ít nhiểu đén đáu tranh quvên lực trong quan hệ quốc tế. Sự đụng độ giữa các nên ván hóa đôi khi ân chứa mục đích giành đuọc ưu thê cho các giá trị cua minh. Đó chính là quyển lực. Khóng những thê, văn hóa đôi khi còn gắn bó với quvén lực trong cái gọi là văn hóa chính trị. Vì thế, chính trị quyẽn Các yếu tố tinh thần trong quyền lưc của quốc gia 283 lực thường dễ bị lôi vào đi kèm với các xung đột văn hóa, nhâ't là trong các xung đột văn hóa chính trị. Ví dụ, sự đụng độ giữa phương Đông và phương Tây, sự va chạm giữa văn hóa Thiên chúa giáo và Hồi giáo,... hiện nay không đơn thuần là xung đột văn hóa mà còn mang màu sắc xung đột quyền lực trong quan hệ quốc tế. Với tất cả các tác động trên, sự liên quan giữa văn hóa với quyền lực là không hề ít. Rõ ràng, văn hóa là một yếu tố phải tính đến trong việc xây dựng sức mạnh quốc gia. Trong quan hệ quốc tê' không có nền văn hóa này hay hơn nền văn hóa kia, nhưng có nền văn hóa lớn và nền văn hóa nhỏ vói khả năng và quy mô ảnh hưởng ra bên ngoài khác nhau. Điều này phụ thuộc không chỉ vào những giá trị văn hóa nội tại, mà còn vào sự lựa chọn và cách thức truyền bá ra bên ngoài. Lãnh đạo Sự lãnh đạo là việc đề ra mục tiêu, xác định nhiệm vụ, lựa chọn biện pháp và chỉ đạo thực hiện cho tô chức hay nhóm mà mình là người đứng đầu. Sự lãnh đạo cũng bao gồm cả việc lôi cuốn, huy động, tổ chức và hướng dẫn người khác thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đó. Trên quy mô quốc gia, sụ lãnh đạo được thể hiện trong hoạch định và triển khai đường lối chính sách của đâ't nước. Sự lãnh đạo là không thể thiếu đối với quốc gia và có ảnh hường khá nhiềủ đến quan hệ quốc tế. Sụ lãnh đạo đúng đắn có thế làm đất nước mạnh lên, nhưng sụ lãnh đạo sai lầm có 284 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhin lích sù thê làm cho đất nước suy tàn, thậm chi qua nhiêu thẻ hệ. Trên quy mô quan hệ quốc tế cũng có quan niệm như vậy, "... trong thế giới đa cực hiện nay, vai ưò lãnh đạo vẫn có tầm quan trọng"1. Sự lãnh đạo rất quan trọng đối với việc xảy dựng và thực thi quyền lực quốc gia trong quan hệ quòc tế. Điểu này càng đúng đôi với các triều đại phong kiên khi quyển lực tuyệt đối tập trung vào tay các vị vua. Điếu này cũng đúng trong thời đại ngày nay cho dù lãnh đạo chính trị đã trở thành công việc của nhiều người. Tuy nhiên, trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, việc chú ý đến yêủ tô này bắt đầu khá muộn. Đầu tiên là những cố gắng đưa tâm lý học vào nghiên cứu nhận thức của các nhà lãnh đạo. Robert Jervis có thê là một trong những người đẩu tiên (1968) đề cập vai trò của nhận thức và nhận thức sai trong việc hình thành tư duy của các nhà hoạch định chính sách2. Sau Robert Jervis, xu hướng nghiên cứu này đã được phát triển hơn với đại biểu là Rose McDermott. John Odell (1979) đã từng viết "hành vi không chỉ phụ thuộc vào thực tế mà còn phụ thuộc vào cách thực tế được nhận biết và lý giải... Những suy nghĩ độc lập của những nhà hoạch định 1. M argaret G. Hermann & Joe D. Hagan, "Xâv dựng chính sách trong quan hệ quốc tế: Vai trò cua người lãnh đạo~, Lý luận Quan h ệ CỊUÔC tế, Học viện Quan hệ quốc tê' Hà Nội, 2007, tr. 234. 2. Xem Robert Jervis, "Các già thuyết vẽ nhận thúc sai", Lý luận Quan h ệ quốc tế, H ọc viện Quan hệ qu ôc tê' Hã N ội, 2007, tr. 235-257. Các yếu tố tinh thắn trong quyền lưc của quốc gia 285 chính sách hàng đầu và các nhà c ố vâh [mang tính] quyết định hoặc là những thành phẩn không thê thiếu được đê lý giải hành v i"1. Vai trò của các cá nhân càng được khẳng định trong quá trình nghiên cứu chính sách đối ngoại - nơi mà dấu ấn cùa các nhà lãnh đạo khá đậm nét2. Đến chủ nghĩa kiến tạo, vai trò cá nhân của các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách lại càng được chú ý. Những người theo thuyết này coi cá nhân, đặc biệt giói tinh hoa (elite) là một đơn vị phân tích chính trong quan hệ quôc tế chứ không phải chi tập trung vào quốc gia hay nhà nước như quan niệm của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do. Nhìn chung, phân tích nhận thức đã được chia tách với chủ nghĩa duy lý. Hiện nay, cấp độ phân tích cá nhân (tập trung vào các nhà lãnh đạo) đã trở thành phô biến trong nghiên cứu quan hệ quôc tế. Trong quan hệ quốc tế, sự lãnh đạo có thể tác động tới quyền lực quốc gia theo một số chiều hướng sau: Thứ nhất, sự lãnh đạo hoàn toàn có thê làm tăng hay giảm quyền lực quốc gia. Sự lãnh đạo có thê đúng, có thê sai trong việc ra quyết định hay chọn lựa công cụ thích hợp 1. Benjamin J. Cohen, "The Multiple Traditions in American IPE", Mark Blvth edit Routledge Hcmdbook o f International Political Economy, Routledge, London and New York, 2009, tr. 33. 2. Xem thêm Margaret G. Hermann & Joe D. Hagan, ' Xây dụng chính sách trong quan hệ quốc tế: Vai trò cùa người lãnh đạo" Lý luận Quan hệ quốc tế, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2007, tr. 222-234. 286 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té đươi goc nhìn Itch sủ trong từng tình huống. Điêu này rát quan trọng, đặc biệt trong đấu tranh giành quyền lực. Nếu đúng, sụ lãnh đạo có thê tạo ra lợi thế nào đó hoặc làm tăng sức mạnh cho quõc gia. Nếu sai, kết quả là ngược lại. Quyết định sai lấm cua Saddam Hussein trong chiến tranh với Iran 1980-1988 đã khiến đất nước Irấc không được gì mà còn bị tan phá. Sau đó, Saddam Hussein đã đi đến quyết định sai lám thú hai là đưa quân sang chiếm Côoét năm 1990. Sự việc này đã gây phàn ứng bất lợi cho Irắc cả trên thế giới lẫn trong các nước Arập và dẫn đến Chiến tranh vùng Vịnh nám 1991. Kể từ đó, đất nước Irắc bị roi vào cành bất ổn vá đói nghèo. Irắc từ một nước có tiêm lực và có tiếng nói ó vórng Vịnh trở thành một quốc gia yếu như hiện nay. Thứ hai, sự lãnh đạo phụ thuộc khá nhiểu vào năng lực trí tuệ, phẩm cách cá nhân và cá tính cùa nhà lãnh đạo. Các phẩm chất này như thế nào sẽ anh hương đến việc xác định mục tiêu và lựa chọn chiến lược đúng hay sai, đường lối chính sách có tầm nhìn hay không,... Dá'u ấn cá nhân lãnh đạo trong chính sách đối ngoại quốc gia là thực tế khá phô biến. Một nhà lãnh đạo có tham vọng nhiêu hav ít sẽ anh hường đến mục tiêu quyến lục quốc gia. Một nhà lãnh đạo cứng rắn hay mém yếu dễ tác động đến cách thức giai quyết mâu thuẫn theo hướng đối đầu hav thoa hiệp. Một nhà lãnh đạo có cái tói nhiéu hay ít thì lại anh hướng ít nhiêu đến tính linh hoạt trong các vân để đôi ngoại. Tát ca những điểu này đêu ánh hưởng không nho tới sức mạnh quốc gia. Điêu này khiéh cho Các yếu tố tinh thần trong quyên lưc của quốc gia 287 việc lựa chọn các nhà lãnh đạo trở nên quan trọng đối với mọi quô'c gia. Thứ ba, sự lãnh đạo sẽ có nhiều tác động lớn đến quyền lực quốc gia khi có khả năng huy động được lực lượng xã hội, ý chí của nhà lãnh đạo có thê góp phần tạo nên tinh thần và ý chí của toàn dân. Đê đạt được điều này, nhà lãnh đạo hoặc kiếm soát được nhân dân, hoặc giành được sự ủng hộ của họ. Hiện nay, vì nhiều lý do, xu hướng giành được sự ủng hộ trở nên phô biến hơn là sự kiêm soát. Sự phô biến của chế độ bầu cử phô thông đầu phiếu cùng với các tiêu chí cho nhà lãnh đạo và quy định nhiệm kỳ nắm quyền không đơn giàn chi là sự thắng thế của dân chủ mà còn nhằm bầu ra được những nhà lãnh đạo đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước và đoàn kết quốc gia. Trong vân đề này, củng có sự tranh luận liên quan đến quan hệ giữa sự lãnh đạo với cơ chế ra quyết sách của một quốc gia. Cơ chế này có thê giúp quyết định đi vào cuộc sống nhanh hay chậm, kịp thòi hay không kịp thời. Cơ chế này có thê giúp quyết sách được thực thi nghiêm ngặt hay không. Cơ chế này cũng có thế làm tăng hay giảm kha năng sai lầm trong quyết sách cùa nhà lãnh đạo. Hiện nay, cuộc tranh luận về việc chế độ độc tài hay dân chủ giúp cho quyết sách hiệu qua hơn vẫn chưa có câu tra lời cuối cùng. Quan điếm thu nhất cho rằng chế độ độc tài hay tập quvền giúp có quyết định nhanh hơn, quyết sách được tuân thu nghiêm ngặt hơn. Những người theo quan điếm 288 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té dươi góc nhìn lích sủ này dựa trên các trường hợp lịch sử của Thánh Cát Tư Hãn, Napoleon, Hitler hay Stalin đê chứng minh. Quan điểm thứ hai ủng hộ chế độ dân chủ hay tản quyên. Những người theo quan điểm này cho rằng chê độ dân chủ dựa trên lợi ích của số đông, có cơ chê kiếm soát và phản biện nên ít có khả năng sai lầm hcm. Họ đã viện dần trường hợp của Roosevelt và Churchill để báo vệ quan điểm của mình. Công luận Công luận là những thông tin, quan điểm, giá trị nằm dưới dạng phản ứng của một bộ phận xã hội tới các quyết định chính sách. Công luận tác động đên những người tham gia hoạch định chính sách qua phương tiện thông tin đại chúng, qua phản ứng dưới nhiều hình thức khác nhau của cả lực lượng trong và ngoài nước. Do phản ứng có thể thay đổi cả về nội dung lẫn mức độ và phương thức tác động nên công luận cũng dễ thay đổi. Nó đóng vai trò như một biến số nằm trong môi trường trong nước và quốc tế. Công luận là một thứ gi đó vô hình nhưng có khả năng tác động đến tâm lý, tinh thần và nhận thức con người. Từ đó, công luận tác động đên chính sách quốc gia và quan hệ quốc tế. Bởi thế, công luận là ỵếu tô' quô'c gia buộc phải tính đên trong chính sách và hành vi đối ngoại của mình. Nhưng ngược lại, công luận cũng có thê tác động đên quyển lực quòc gia theo một sô' cách thức dưới đây: Các yểu tó tinh thân trong quyền lực của quốc gia 289 Thứ nhất, công luận quốc tế có thể làm tăng sức mạnh tinh thần cho quô'c gia cũng như làm giảm ý chí và tình thần đôi phương. Từ đó, công luận quốc tế đem lại những ưu thế về sức mạnh tính thần so với đối phương, góp phần tạo nên quyền lực vô hình cho quốc gia. Công luận quốc tế là một nhân tố đáng kê cho thắng lợi của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đ ế quốc Mỹ khi đề cao tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Chính công luận quốc tế và phong trào phản chiến bên trong nước Mỹ đã góp phần tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho chúng ta, góp phần làm giảm tính thần và ý chí của Mỹ. Mỹ đã buộc phải xuống thang, ký kết Hiệp định Paris năm 1973 và rút quân khỏi Việt Nam. Thứ hai, công luận quốc tế cũng có thể góp phần làm thay đổi nhận thức và chính sách đối ngoại quốc gia theo hướng có lợi cho ai đó. Công luận quốc tế có thê tạo ra sức ép buộc quốc gia thay đổi chính sách đối ngoại nào đó, nhất là trong trường hợp những người hoạch định chính sách không đủ thông tín và chưa đủ tin tưởng về khả năng kiểm soát tiên trình sự kiện. Mỹ và một số nước đã tạo được công luận quốc tế rộng rãi cho việc chống phổ biên vũ khí hạt nhân cho dù chính sách này góp phần tạo đẳng cấp quyển lực và bất bình đẳng an ninh trong quan hệ quốc tế. Số lượng các quốc gia xây dựng chính sách phát triển vũ khí hạt nhân sau Chiến tranh lạnh giảm đi nhiều so với trong Chiên tranh lanh có phần đáng kế là nhờ công luận quốc tế này. 290 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc té dươi goc nhm lích sủ Thứ ba, công luận quốc tế giúp quốc gia tranh thu sự ủng hộ quôc tế, hạn chế sự trợ giúp quôc tê cho đỏì phuong. Điều này hoàn toàn có thế dẫn đên sự thav đói trong so sánh lực lượng giữa hai bên. Trong đó, sự ung hộ quốc tẻ phụ thuộc đáng kế vào tính hợp pháp trong các hành vi đối ngoại quốc gia. Vì thế, các quốc gia thương đé cao tính hợp pháp hay biện minh đạo đức cho các hành động cùa mình để ưanh thủ sự ủng hộ quốc tế và cô lập đôì phưcmp. Trong cuộc chiến tranh Ápganixtan cuối năm 2001, Mỹ đã tranh thủ mọi diễn đàn và phương tiện đê tạo ra một công luận quốc tê rộng rãi ủng hộ cho cuộc tâh công chống chù nghĩa khung bố quốc tế. Công luận này đã góp phán làm tan rã sự ủng hộ quốc tế đối với chính quyển Taliban khi Pakixtan và Các Tiêu vương quốc Arập thống nhất - hai trong SỐ ba nước có quan hệ vói chính quyẽn Taliban chấm dứt quan hệ với Taliban và đứng vê phía Mỹ. Đê tạo thêm tính hợp pháp cho cuộc târi công, Mỹ đật tén cho chiến dịch quân sự của mình ờ Ápganixtan là "Enduring Peace" (Nên hòa bình bền vững). Đồng thòi, ưong thời gian chiến tranh, Mỹ cũng kiếm soát báo giới trong nước chặt chẽ chưa từng thây nhằm tạo công luận thuậr» lợi cho nô lực chiến tranh cùa mình. Như vậy, công luận quốc tế đóng vai trò giá trị gia tăng cho quyển lực quốc gia ca vê vô hình lẫn hữu hình. Trong bối canh quốc tế hóa và toàn câu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nav, vói sự trợ giúp cua mạng thóng tin liên lạc toàn cấu, công luận càng có kha năng táng thém Các yếu tố tinh thân trong quyển lưc của quốc gia 291 sức nặng của mình trong quan hệ quốc tế. Cùng với xu hướng dân chủ tăng lên trong quá trình hoạch định chính sách đổi ngoại, công luận quổc tế càng có điều kiện phát huy vai trò của nó. Ngày nay, công luận quôc tế vẫn tiếp tục có khả năng khuyến khích hoặc kiểm chế đôi với nhiều hành vi quốc gia trong quan hệ quốc tế, từ đó tác động đến quyền lực quốc gia trong quan hệ quô'c tế. Vì thế, các quổíc gia thường thực hiện công tác tuyên truyền đối ngoại đế nhằm tranh thủ công luận có lợi cho mình. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý rằng không phải bao giờ công luận cũng đúng. Tri thức Tri thức là những hiểu biết của con người về thế giới và nhân sinh. Trước kia, tri thức không được coi là thành tố của quyền lực. Tuy nhiên, đến thời hiện đại, tri thức ngày càng được nhìn nhận là có ảnh hưởng lớn đến quyền lực quốc gia. Sự nhấn mạnh vai trò này của tri thức được bắt đầu trong các lý thuyết quan hệ quốc tê hậu thực chứng nổi lên từ thập niên 1980 và dần dần đã ảnh hưởng sang cả các lý thuyết truyền thống như chủ nghĩa hiện thực và chù nghĩa tự do. Cho dù hiện nay quan niệm vẫn có sự khác nhau đáng kê nhưng vai trò và tác động của tri thức đối với quyền lực đã được hầu hết các lý thuyết quan hệ quốc tế ghi nhận. Dưới đây là những tác động chủ yếu của tri thức đối với quyền lực quốc gia trong quan hệ quốc tế: 292 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lỊCh sừ Thứ nhất, tri thức đóng vai trò nguốn của sức mạnh quân sự - thành tố cơ bản của quyển lực quỏc gia. Tri thức là nền tảng và là cái làm nên sự phát triển khoa học - công nghệ. Không có sự phát triển khoa học - công nghệ nào mà không dựa vào sự phát triển tri thức. Sự phát triên của khoa học - công nghệ dẫn đến sự phát triên quân đội hiện đại và vũ khí công nghệ cao. Lịch sử chạy đua vũ trang của nhân loại chủ yếu đi theo hướng này. Không nhũng thê^ khoa học - công nghệ còn có thể đem lại sự đột phá trong nâng cao năng lực quân sự và vì thế có khả năng đem lại sự biến đôi nhanh chóng về quyến lực. Trong Chiến tranh lạnh, nhờ nắm được công nghệ chê tạo vũ khí hạt nhân mà Liên Xô nhanh chóng có được vị thế siêu cường ngang hàng với Mỹ bất châp kinh tế vân còn thua kém. Trong thòi đại ngày nay, ưu thế về năng lực quân sự của các nước vẫn tiếp tục dựa chủ yếu trên nển tang công nghệ. Và điều này cho thấy vai trò ngày càng tăng cùa tri thức (khoa học - công nghệ) đối vói sức mạnh quán sự trong quyền lực quô'c gia. Thứ hai, tri thức cũng đóng vai trò nguồn tương tự đối với sức mạnh kinh tế - một thành tô' co bàn khác cùa quyền lực quốc gia. Với tư cách là lực lượng san xuát, sự phát triên khoa học - công nghệ đem lại sự phát trién kinh tế. Không một nên kinh tế phát triển nào mà không dựa vào sự phát triển tri thức khoa học - công nghệ. Điéu này càng đúng trong thời đại ngày nay, trong bói canh nến kinh tê tri thức khi tri thức khoa học - công nghệ tro thanh Các yếu tố tinh thần trong quyển lưc của quốc gia 293 lợi th ế cạnh tranh so sánh đem lại nhiều lợi nhuận nhất, ưu thế kinh tế của các nước phát triển hiện nay dựa chủ yếu vào ưu thế về tri thức khoa học - công nghệ. Việc các nước phát triển chú trọng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chính là nhằm bảo vệ được ưu thế đó. Các nước này đầu tư nhiều vào lĩnh vực giáo dục và khoa học cũng là nhằm thực hiện mục tiêu này. Xét theo chiều ngược lại, sự yếu kém về khoa học - công nghệ chắc chắn sẽ đem lại sự kém phát triển và từ đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến vị thế yếu của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Thứ ba, ngoài vai trò là nguồn, bản thân tri thức khoa học - công nghệ cũng được coi như một thứ quyền lực tiềm năng. Một quốc gia có nền giáo dục đúng hướng và phát triển, có sự quan tâm đầu tư cao cho khoa học - công nghệ với chiến lược phát triển lâu dài sẽ có nhiều cơ hội phát triển trong tương lai. Nguồn nhân lực có tri thức và khoa học như vậy sau này sẽ được chuyển hóa thành sức manh quân sự và kinh tế của quốc gia trong tương lai. Không chi có vậy, tri thức khoa học là thứ có thể đem lại sự phát triển trong mọi lĩnh vực của đất nước. Ngược lại, một nền giáo dục và khoa học trì trệ, hình thức cũng đổng nghĩa với sức mạnh yếu kém sau này. Vói ý nghĩa vừa là nguồn vừa là quyền lực tiềm năng như vậy, tri thức khoa học - công nghệ không chi là thành tố đơn thuần mà chính là thành tố cơ bàn của quyền lực quốc gia. Hiện nay, điều này đã được nhìn nhận một cách phổ biến. Vì thê' rất 294 Một sổ vấn đê lý luận quan hệ quốc tế duởi góc nhìn lịch sử nhiều nước đã tập trung nguồn lực cho phát trién giáo dục và khoa học. Thứ tư, tri thức cũng là ngu ổn cho nhiêu vếu tố tinh thần kể trên. Tri thức tốt sẽ xây dựng được chinh sách đoàn kết tốt. Tri thức là nền tảng của tư tương khi mọi tu tưởng đều xây dựng trên nền tri thức. Tri thức cao là co sỏ đê tạo ra uy tín. Tri thức phát triển là một giá trị bổ sung giúp nâng cao vai trò của văn hóa đối với quvến lực quốc gia. Tri thức cũng là thành tố không thê thiếu đối vói mọi sự lãnh đạo trong thời đại ngày nay. Tri thức vùa là nội dung, vừa là cách thức trong tuyên truyền đối ngoại nhằm tranh thủ công luận có lợi cho mình. Và cuối cùng, tri thức cũng đóng vai trò quyết định với chính sự phát triển tri thức sao cho đúng hướng và hiệu quả. Thứ năm, dưới góc độ của các lý thuyết quan hệ quốc tế hậu thực chứng như chủ nghĩa kiến tạo hav lý thuyết phê phán, tri thức còn có vai trò chi phôi nhát định đối vói thực tiễn. Theo các lý thuyết này, thực tiễn không hoàn toàn khách quan mà có sự phụ thuộc đáng kẻ vào tri thức, hay nói cách khác, tri thức là một phân cùa thực tiễn. Tri thức khác nhau dẫn đến nhận thức thực tiễn khác nhau và từ đó là hành xư đối với thực tiễn khác nhau. Tri thức tốt dân đên nhận thức tốt và từ đó là cách hành xư tốt đối với thực tiên và qua đó dễ nâng cao quyển lực quỏc gia hon là tri thức kém hoặc tri thức không đúng. Vì thế, theo các ]ý thuyết nàv, tri thức là một bộ phận quan trọng góp phấn làm nên sức mạnh cua quốc gia. Trong khi đó, đói với các Các yếu tố tinh thần trong quyển lưc của quốc gia 295 lý thuyết quan hệ quôc tê' thực chứng truyền thông như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do, tri thức tuy không được để cao như một phần của thực tiên nhưng cũng được tính đến trong các lý thuyết này. Cả hai lý thuyết truyền thống này đều để cao tính toán lý trí của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Điểu đó có nghĩa, nếu anh có tri thức tốt, nhiều khả năng anh sẽ có chính sách đúng, tính toán đúng, chọn lựa được công cụ phù hợp và biện pháp hiệu quả trong việc nâng cao sức mạnh quốc gia cũng như trong giải quyết các tranh chấp quyền lực. Với những vai trò và tác động như vậy, theo chúng tôi, tri thức cần phải được coi là một trong những yếu tô' hàng đầu và không thể thiếu được trong việc xây dựng sức mạnh hay quyền lực của quô'c gia. Ngoài ra, còn một số yếu tố khác có ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế nói chung và quyền lực quốc gia nói riêng. Đây là những vấn đề còn đang tranh luận và còn nhiều điều phải bàn. Ví dụ, chủ nghĩa hậu thực dân (jpostcolonialism) cho rằng chủng tộc có liên quan đên quyền lực. Chủ nghĩa vị nữ (feminism) lại cho rằng yêu tố giới cũng ảnh hưởng đáng kể đến quyền lực. Thêm vào đó cũng có những quan điểm khác như dân tộc tính, bàn sắc, truyền thống, lối sống, hệ giá trị, vốn xã hội, thông tin sở hữu được... và nhũng yếu tố thuộc chính trị đối nội như đạo đức quốc gia, chất lượng chính phủ, sự ủng hộ cùa công chúng và sự ôn định chính trị như quan điếm cùa Hans Morgenthau cũng là những yêu tố có thế làm 296 Một sổ vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưỡi góc nhìn lích sử thay đổi quyền lực. Chúng tôi cho rằng đây đẽu là những yếu tố phải tính đêh trong quan hệ quốc tế nói chung, trong vấn đê' quyền lực nói riêng. Như vậy, các yếu tố tinh thần là thành tỏ cấn thiết và quan trọng chứ không phải chỉ là nguồn bó sung cho quyền lực quốc gia. Và vì thế, có lẽ cần nghiên cứu thêm về các yếu tố tính thần khác bên cạnh bảy yếu tố kê trên. 297 NHẠN THỬC VỀ HỆ THỐNG QUỐC TÊ Trong quan hệ quốc tế, các chủ thể tản mác hay tập hợp vói nhau trong một chinh thế nào đó? Nếu có, quá trình tập hợp này diễn ra như thế nào? Sự tập hợp đó có phải là tâ't yếu hay không? Trạng thái cuối cùng của tập hợp đó là gì? Câu trả lời ở đây được nhiều học giả cho rằng đó là hệ thống quốc tế. Trong quan hệ quôc tế, các chủ thể tự do hành động hay còn phụ thuộc vào điêu kiện khách quan? Liệu có tồn tại những tác động chung xuất phát từ hành vi riêng rẽ của các chủ thế khác? Nếu có, những tác động này quy định quan hệ đối ngoại của các chủ thê quan hệ quốc tế như thế nào? Câu trà lời ờ đây vẫn được cho là hệ thống quốc tế. Trong quan hệ quốc tế, hành vi của chủ thể thường mang nặng tính chủ quan và khó đoán trước. Những tác động bên ngoài nếu ôn định sẽ khiến hành vi dễ ổn định hơn, những mẫu hình tương tác có tính phổ biến củng dễ hình thành hơn. Việc xác định được những mẫu hình tương tác giữa các quốc gia có tính Ôn định hay phổ biên 298 Một số vấn đề lý luận quan hê quốc tế dưới góc nhin Ịịch sử hơn có thê giúp đoán định được hành vi. Vậy làm thê nào đê xác định được các mẫu hình nghiên cứu có tinh dự báo này. Câu trả lời ở đây một lần nữa lại được cho là hệ <1 л / ạ ' , Ạ ' thông quốc tê. Vì thế, trên phương diện lý thuyết, việc nghiên cứu hệ thông quốc tế là cần thiết để có thể xác định các xu hướng vận động trong quan hệ quốc tế, tìm hiểu những điều kiện chi phối sự tương tác giữa các chủ thể, dự báo hành vi và phản ứng của chúng trong quan hệ quốc tế,... Đối với các quốc gia, hệ thống quốc tế chính là một trong những cơ sờ hoạch định chính sách đối ngoại. Đó cũng là điêu kiện bên ngoài quy định thuận lợi và khó khăn cho các chù thế khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Đôi với Việt Nam, tìm hiếu hệ thống quốc tế giúp chúng ta có thê hiếu thêm môi trường quan hệ quốc tế và những tác động của nó mà nước ta phải tính đến trong hoạch định chính sách đối ngoại và quá trình hội nhập quổc tế, nhâ't là trong bói cành toàn cầu hóa hiện nay. Với ý nghĩa như vậy, bài viết này cô' gắng tim hiểu một sô vâri đê lý luận cơ bản vê hệ thông quốc té như quá trình phát triến nhận thức vê hệ thông quốc té trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, các yếu tố tạo nén hệ thống quốc tê và khái niệm hệ thống quốc tế. Việc tim hiếu những vâh đê này có thể đóng góp phẩn nào cho việc vận dụng lý luận hệ thống quốc tế vào trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Nhận thức vể hệ thống quốc tế 299 Sự PHÁT TRIỂN LÝ THUYẾT HỆ THỐNG TRONG NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ Hệ thống quoic tế là một dạng hệ thông phi hình thức. Nó không hiện hữu cụ thê bằng những cơ câ'u như của tô chức quốc tế hay có những hành vi xác định như quốc gia. Hệ thống quốc tế tổn tại gần như vô hình, khó nhận thây và không nhận biết được bằng cảm giác. Hệ thống quốc tế là một sản phẩm của nhận thức và chi được nhận biết qua phân tích lý luận. Công cụ đê nhận thức ở đây chính là lý thuyết hệ thống. Hay nói cách khác, hệ thông quôc tế là một quan niệm được xây dựng dựa trên lý thuyết hệ thông. Vậy lý thuyết hệ thông đã ra đời như thế nào và được áp dụng ra sao trong nghiên cứu quan hệ quốc tê? Khoa học hệ thông cùng với thuyết tương đôi, thuyết lượng tử và công nghệ sinh học là những thành tựu vĩ đại làm nên cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba của thế giói. Khoa học hệ thống đã đặt cơ sờ cho sự ra đời điểu khiển học, tự động hóa,... mà đã được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống, tạo nên nhũng bước phát triển lớn lao cho nhân loại từ nữa cuối thế ký XX. Mặc dù là khoa học tự nhiên nhưng ý tường hệ thống của nó đã được vận dụng sang khoa học xã hội và nhân văn đê hình thành nên lý thuyết hệ thống và cùng với đó là cách tiếp cận hệ thống. Trên thực tế, cách tiếp cận hệ thống đã tùng tồn tại trước đó mặc dừ có thế chưa rõ ràng và chưa có sự tông 300 Một số vắn đê lý luận quan hệ quốc tế dưởi góc nhìn lịch sử kết vê mặt lý luận. Mác, Ăngghen và Lênin cũng sử dụng rộng rãi cách tiếp cận hệ thống trong các tác phẵm của mình. Hay trong tác phẩm Khoa học tô’ chức chung từ thập niên 1920, tác giả người Nga A. A. Bogdanov đã phân tích một loạt khái niệm và thuật ngữ của lý thuyẽt hệ thống như "hệ thống", "phần tử", "liên hệ", "cơ cấu", "môi trường", "tính bền vững"... Tuy nhiên, các nhà khoa học phương Tây coi học già người Áo sang định cư ở Mỹ Ludwig von Bertalanffy là người đặt cơ sở cho lý thuyết hệ thống chung {general systems theory) khi ông mưu tìm sự thống nhất giữa khoa học tự nhiên và xã hội bằng việc áp dụng lý luận của khoa học hệ thống vào nghiên cứu khoa học xã hội. Lý thuyết hệ thống chung được Young (1967) gọi là "phong trào hướng đích vào sự thống nhâ't giữa khoa học và phân tích khoa học". Lý thuyết hệ thống chung mưu tìm việc thống nhất các đối tượng khoa học riêng rẽ bằng việc khai thác một ngôn ngữ phân tích và khái niệm hóa chung. Cơ sò trong cách tiếp cận của Bertalanffy là sự phân tích hệ thống "m ở". Hệ thống mở là một tập hợp hay một lĩnh vực có sự tương tác với môi trường. Nếu một hệ thống được coi là mở thì nó sẽ giám sát hành vi của mình trong quan hệ với môi trường qua quá trình phản hổi. Kết cục của hành vi 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, tr. 126. Nhan thifc ve he thong quoc te 301 đó sẽ là một tình trạng tương đổỉ vững bền1. Những luận điếm về hệ thống trong lý thuyết hệ thông chung của Bertalanffy đã đem lại những gợi ý quan trọng về cách tiếp cận hệ thông khi coi đôi tượng nghiên cứu trong khoa học xã hội nhân văn như một hệ thông với đầy đủ đặc điểm và sự vận hành của hệ thông. Chúng cũng tạo điều kiện cho sự ra đòi phương pháp phân tích hệ thống khi tính đến các tác động từ môi trường tới hệ thống cũng như tác động từ hệ thống tói các phần từ bên trong hệ thông. Từ Bertalanffy, cách tiếp cận và phần tích hệ thông ngày càng được phát triến và được áp dụng rộng rãi trong khoa học xã hội từ những năm 1950-1960, ưong đó có khoa học chính trị. Tuy nhiên, ban đầu cách tiếp cận và phân tích hệ thống được áp dụng chủ yếu trong phân tích chính trị đối nội nhiều hơn là chính trị quốc tế. Một ví dụ nổi bật của việc áp dụng này là cuốn sách Phân tích đời sông chính trị của Easton và Parson. Trong tác phẩm này, dựa trên tư tường cơ sở của điều khiển học, hệ thống chính trị được xem xét như một tổng hợp nhất định các quan hệ nằm trong sự tương tác không ngừng với môi trường bên ngoài qua cơ chế "đầu vào" (input) và "đầu ra" (output). Trong đầu vào có động lực từ bên trong cũng như những thách thức từ bên ngoài. Các nhu cầu bên trong có nguồn gốc không chi từ những môi trường bên 1. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary o f International Relations, Penguin Books, London 1998, tr. 525. 302 Мо? до узп сЗё 1у 1иап диап /гё дибс \ё бисм дос пЫп ЦсЬ эй 1:гог^ пЬи Ьё thбng бшЬ Л а 1, Ьё й ю г^ ха Ьбъ Ьё Й10 п§ са пЬап,... т а Ьг са Ьё thбng Ьёп ^ о ш пЬи Ьё thбng втЬ Йлш quбc Ьё Йтог^ сЫпЬ й цибс Ье, Ьё th6hg ха Ьф qu6c tё"... Ы Ь ш ^ Ыс dong Ьёп ^ о ш пау di уао Ьёп Ьог^ Ьор (Ьох), й с 1а Ьё Йюг^ сЬ т Ь Щ dбl пот qua "б з л х уао". Уао den trong Ьор, сас Ьас dong пау duoc хй 1у Ьёп 1гоп§ Ьё thбng qua эй dбi й т^ сйа сас Ьб рЬап саи ЙчапЬ уа d6 1ао га рЬап й т^ tбng Ьор сйа Ьё Л б г^ уса Ьёп ngoai qua 'Маи га" du6i dang ЬапЬ dбng, dao 1иг^ Ьау Ыёп рЬар сйа сЬ т Ь рЬй... Сас игог^ [ас duoc 1аёт й-а quа Би рЬап сйа пЬйт^ Ьб рЬап Ьё Йтог^ уа ей Ьер пЬгю сйа т о 1 tшбng. Сас 1иог^ 1:ас пау эё Ьиос рЬш diёu сЫпЬ dё со эй рЬй Ьор» Ьоп у61 сас рЬап й trong Ьё thбng cйng пЬи уа1 т6 1 truбng Ьёп г^оги. Уа ей Шё' v6ng йдап Ьоап 1гп Ьер Ьдс. Эап dаn, рЬап й , Ьё Й кя^ уа т о 1 tшбng da сЬар пЬап пЬаи уа dat duoc trang Йгш vйng Ьеп пЬгЛ dinh кЬ] \.а\. са с Ь й ^ со эй Ьор пЫп пау сох Ьё thбng сЫпЬ ф пЬи doi у61 пЬаи. СасЬ сЫпЬ Шё Ьйи со п а т trong эй ^гот^ tаc Йшот^ хиуёп убг т о 1 tгuбng Ьёп ^ о ш 1. Оиа d6, сасЬ рЬап ЬсЬ Ьё thбng со Л ё giйp 1ат го duoc сас Ьоа! dong сЬйс п а ^ уа эй уап dбng сиа Ье thбng, хас dinh duoc nhйng уё'и \.о Ьас dong dёn Ьё йюг^ cйng пЬи пЬйт^ diёu клёп giйp duy 1:п tính бп dinh сйа Ьё thбng. Dбng Лот, сасЬ рЬап ЬсЬ Ьё thбng сбп giйp 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, №. 127. Nhận thức vê hệ thống quốc tế 303 thấy được môi quan hệ qua lại giữa các phần từ bên trong với hệ thống, giữa hệ thống vói môi trường. Cách phân tích hệ thông của Easton và Parson bị phê phán bời nó được xây dựng trên cơ sở thực tiễn là hệ thống chính trị của Mỹ và ít tính đến những đặc điểm riêng của các hệ thống chính trị khác1. Mặc dù vậy, ưu điếm của cách phân tích hệ thống chính trị này là không thê phủ nhận. Đó chính là khả năng áp dụng vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, bởi xuâ't phát từ hệ thông chính trị đối nội nên khi áp dựng cách phân tích này cho chính trị quốc tế thì xuất hiện một số vấn đề. Ví dụ, vai trò chính trị trong hệ thống chính trị quốc gia không giống như vai trò chính trị trong hệ thống quốc tế nên khó mà áp dụng tương tự. Hay sơ đồ của Easton và Parson xây dựng trên quan hệ với môi trường bên ngoài, vậy đặc điểm môi trường bên ngoài của hệ thống quôc tế toàn cầu là gì?2. Đó là chưa kê hàng loạt khó khăn khác cần phải làm rõ trước khi áp dụng cách phân tích hệ thống chính trị của Easton và Parson vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Mặc dù vậy, từ giữa thập niên 1950, cách phân tích hệ thống đã bắt đầu được áp dụng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Cách phân tích hệ thống có thế áp dụng trên mọi cấp độ nghiên cứu trong quan hệ quốc tệ' Tuy nhiên, giá trị nổi bật của nó là trong việc phân tích chính sách đối 1 2. Цыганков п. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, tr. 128. 304 Một số vấn đê lý luân quan hê quốc tế dưới góc nhìn lịch sử ngoại và đặc biệt là trong nghiên cứu hệ thống quốc tế. Nó dần dần đã trở thành cách tiếp cận quan trọng bậc nhât trong việc nghiên cứu và xác định hệ thống quốc tế. Phân tích hệ thông đã được áp dụng rất rộng rãi trong nhiều nghiên cứu quan hệ quốc tế khác nhau và đem lại nhiêu kết quả thú vị. Morton Kaplan là một trong số nhũng học giả sớm áp dụng cách tiếp cận và phân tích hệ thống vào nghiên cứu chính trị quốc tế. Rosecrance thì lại áp dụng lý thuyết hệ thông vào xem xét lịch sừ quan hệ quổc tế cũng như phân tích các trạng thái quan hệ quổc tế như sự cân bằng, xung đột và hợp tác mà nhiều người cho rằng đó là hoạt động chức năng của hệ thống. Joseph Nve củng áp dụng hệ thống quốc tế trong nghiên cứu lịch sừ xung đột quốc tê. Nhưng có lẽ áp dụng nhiều nhất các luận điếm của lý thuyết hệ thống vào nghiên cứu quan hệ quốc tế là chủ nghĩa hiện thực mới vói đại biểu ưu tú là Kenneth Waltz. Như Buzan nhận xét năm 1993 rằng chủ nghĩa hiện thực mói đã bắt rễ mạnh mẽ từ phân tích hệ thống1. Cũng đi theo tư tưởng quyền lực của các nhà hiện thực cô điển, nhưng Kenneth Waltz và Gilpin lại cho rằng các váh đê quan hệ quốc tế phụ thuộc vào cơ cấu hệ thống quốc tế nhiều hơn là bản chất con người hay các chủ thế. Từ đó, chủ nghĩa hiện thực mới đã ra đời năm 1979. Do đẽ cao 1. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary of International Relations, Sdd, tr. 525. Nhan thitc ve he thong quoc te 305 vai trò của hệ thong quốc tế, đặc biệt là cấu trúc của hệ thống nên lý thuyết này còn được gọi là chủ nghĩa hiện thực câ'u trúc (structural realism). Chủ nghĩa hiện thực mới đã bổ sung cho chủ nghĩa hiện thực cổ điển cả vể cách tiếp cận hệ thống lẫn yêu cầu phân tích các tác động "khách quan" từ hệ thông. Vói chủ nghĩa hiện thực mới, hệ thông đã trở thành một cấp độ phân tích (level o f analysis) trong nghiên cứu quan hệ quổc tế. Đây là sự bô sung không chỉ về phương pháp luận mà còn có ý nghĩa cả vể bản thể luận lẫn nhận thức luận. Hiện nay, cách tiếp cận và phân tích hệ thống đã được sử dụng Tất rộng rãi trong nghiên cứu quan hệ quô'c tế, đặc biệt trong nghiên cứu chính sách đôi ngoại, xác định xu thế chung của môi trường quôc tế, phân tích nhân tố bên trong và bên ngoài tác động tói quan hệ giữa các quốc gia,... Trong đó, sự đóng góp lớn nhâ't của cách tiếp cận hệ thống là việc áp dụng vào nghiên cứu chính trị vĩ mô mà qua đó đã xác định nên hệ thông quốc tế. Sự xác định hệ thông quốc tế là về mặt lý thuyết nhưng đê "chỉ thực tế rằng con người ở khắp mọi nơi đều có tác động tới con người ở nơi khác và rằng cách thức phân phối tiềm lực và quan điểm đã xác định nên thế giới mà chúng ta đang sống"1. 1. Richard W. Mansbach, Global Puzzle: Issues and Actors in World Politics, Houghton Mifflin Company, Boston and New York, 1997, tr. 137. 306 Một số vấn đề lý luận quan hê quốc tế dưới góc nhìn lích sủ Bên cạnh đó, cách tiếp cận và phân tích hệ thống còn được áp dụng không chi trong chính trị quôc tê mà còn được mở rộng sang các lĩnh vực khác nhau cua quan hệ quốc tế như các hệ thống kinh tế quốc tế, hệ thông xã hội hay văn hóa quốc tế,... Đồng thời, cách tiếp cận và phân tích hệ thống cũng không còn đơn thuần đuợc áp dụng cho nghiên cứu riêng rẽ hệ thống trong từng lĩnh vực cụ thế, mà còn được mở rộng sang mối quan hệ giữa các hệ thống trong các lĩnh vực khác nhau. Xu hướng mờ rộng này đang cho phép cách tiếp cận và phân tích hệ thống ngày càng được ứng dụng rộng rãi hơn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Điều đó cho phép phản ánh đáy đù hơn thực tiễn quan hệ quốc tế vốn rất đa dạng và góm nhiểu lĩnh vực chồng chéo đan xen lân nhau. Như vậy, nhờ cách tiếp cận hệ thống mà chúng ta xác định được hệ thống quốc tế vôh là cái gì đó khóng nhìn thấy được nhung đang tổn tại quanh ta. Cũng nhờ cách phân tích hệ thống mà chúng ta thây được nội diuig của hệ thống quốc tế và sự tương tác bên trong hệ thống. Và cũng nhờ đó chúng ta có khả năng dự báo được sự vận động của quan hệ quôc tế qua hệ thống các tương tác giữa những chu thế. Tuy nhiên, có lẽ sự vận dụng sẽ thuận lợi hơn nếu tìm hiểu các yếu tô’câu thành nên hệ thông. CÁC YẾU TỐ CỦA HỆ THỐNG QUỐC TẾ Trên cơ sở áp dụng lý thuyết hệ thống vao nghién cửu quan hệ quốc tế, người ta đã xác định nên cái gọi la hệ thóng Nhận thức về hệ thống quốc tế 307 quốc tế. Tuy nhiên, không hoàn toàn giống như hệ thống kỹ thuật, hệ thông tự nhiên, hệ thống sinh học, hệ thống trong khoa học xã hội nói chung và hệ thống quô'c tế nói riêng có những điểm đặc thù khiến chúng ta khó có thê áp dụng nguyên bản cách hiếu hệ thống nói trên vào nghiên cứu quan hệ quốc tế. Những đặc thù này nằm trong mọi yếu tố của hệ thống. Vì thế, để đi đến khái niệm hệ thông quốc tế, chứng ta sẽ xem xét lần lượt các yếu tố của hệ thống trong lý thuyết hệ thống chung và quy chiếu sang hệ thống quổc tế. Các yếu tố này bao gồm: phần tử, tương tác, môi trường, cấu trúc, chức năng, tính ổn định và quá trình. Dưới đây là các yếu tố làm nên hệ thống quốc tế. + Phạn tử (element) hay bộ phận (component) là các thành tố của hệ thông, tức là những bộ phận nhỏ hơn và nằm trong hệ thông. Giữa các phần từ của hệ thôhg có sự tương tác với nhau mà tập hợp chúng lại thì tạo thành hệ thông. Sự thay đổi của phần tử có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thôíng và ngược lại. Số lượng của phần tử tạo nên quy mô của hệ thống. Phần từ có thế là những tiếu hệ thống (subsystem) với các tập hợp phần tử nhỏ hơn của mình. Theo đó, phần tủ của hệ thống quốc tế chính là quốc gia và các chủ thế phi quốc gia. Trong đó, quốc gia là các phần từ quan trọng nhât của hệ thống quốc tế. Chính chúng và quan hệ giữa chứng đã đặt nền móng cho sự hình thành hệ thống quốc tế. Thông qua sự phát triển quan hệ với nhau, các chủ thể quan hệ quốc tế gắn kết lại để hình thành và phát triển hệ thống quốc tế. Chủ thê’ 308 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sủ tham gia ngày càng nhiều, hệ thống quốc tê cang mõ rộng. Bản thân quốc gia hay chủ thể phi quốc gia cũng là nhũng tiểu hệ thống bởi bên trong chúng củng bao gốm nhũng phần tử nhò hơn của mình như các đang phái chinh trị, các nhóm xã hội, các thành phần kinh tê' các cá nhân... Nếu không có chủ thê quan hệ quốc tế, hệ thống quốc tê' không tổn tại. Giữa chủ thể và hệ thông có sự gắn bó với nhau. Sự thay đổi của chủ thể quan hệ quốc tế có thê dẫn đến sự thay đổi của hệ thống quốc tế. Và ngược lại, sự thay đổi hệ thống quốc tế cũng buộc các phần tư cùa minh phải thay đồi theo1. + Tương tác (interaction) là những tác động qua lại tạo ra sự kết nối giữa các phần tử để hình thành nên hệ thống. Sự tương tác này phải đủ chặt chẽ đến mức sự thay đổi của hệ thông sẽ dẫn đến sự thay đổi của các phán tử và ngược lại. Nếu không có tương tác hoặc tương tác không đủ chặt chẽ thì đó chỉ là tập hợp chứ không phải là hệ thống. Mức độ và quy mô tương tác là yếu tố quy định sự phát triển của hệ thống quốc tế. Trong một hệ thống tương đôi ổn định, tương tác giữa các phần tư thường có 1. Ví dụ, sự thay đổi chếđộ ở các nước xã hội chu nghĩa Đóng Âu và sự tan rã cúa Liên Xô (chù thê) đã dẫn đêh sự chấm dứt hệ thông quốc tê'hai cực. Việc mâ't đi một bên trong Chiên tranh lạnh đã làm cho câu trúc thay đổi và từ đó, cà hệ thống quõc tê cũng thay đổi. Ngược lại, sự thay đổi hệ thôrig quốc tế sau Chiéh tranh lạnh đã buộc tất cả các nước phải điểu chính căn ban chính sách đối ngoại của mình và tạo điều kiện cho chủ thể phi quổc gia phát triển mạnh mẽ. Nhận thức về hệ thống quốc tế 309 những mâu hình nhât đinh. Đó là những kiểu dạng quan hệ phô biên và tương đối vững bền ưong tương tác giữa các chủ thế. Khi diễn ra thay đổi lớn từ các phần tư chu chốt và trong tương tác giữa các phần từ, hệ thống có thê thay đổi đê hình thành nên hệ thông mới. Theo đó, tương tác trong hệ thống quốc tế chính là mối quan hệ theo kiểu phụ thuộc lẫn nhau giữa các chu thế quan hệ quốc tế. Tương tác giữa chúng càng tăng, hệ thống quốc tế càng phát triển. Tương tác giữa chúng càng mở rộng, hệ thống quốc tế cũng được mờ rộng theo. Ngược lại, hệ thông quốc tế càng phát triển, nó càng có khả năng tác động lên tương tác giữa các chủ thế. Trong hệ thống quôc tế, các mẫu hình quan hệ chung thường được thể hiện qua xu hướng ưong quan hệ quốc tế, các nguyên tắc và cách thức quan hệ phô biến. + Môi trường là những gì ành hường lên hệ thống và có sự tương tác qua lại vói hệ thống. Có hai dạng môi trường của hệ thống: môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Theo đó, môi trường của hệ thống quốc tê cũng bao gồm hai loại như vậy. Môi trường bên ngoài (environment) cua hệ thống quốc tế là những cái bao quanh và nằm bên ngoài hệ thống nhưng có tác động qua lại với hệ thông. Đó có thê là các môi trường có tính toàn cầu như môi trường sinh thái, môi trường chinh trị quốc tế, môi trường kinh tế quốc tế, môi trường xã hội quốc tế... với nhũng tác động cụ thế như thời tiết, khi hậu, địa hình và tài nguvên, hình thế biên giới, sụ phân bô' dân cư. 3 10 Một số vấn đê lý luận quan hê quốc té dưới góc nhìn lịch sử trình độ phát triển...1. Đối với hệ thống quòc tê khu vực, môi trường bên ngoài thường gồm thêm hệ thông toàn cầu, các hệ thống khu vực và những chủ thê quan hệ quốc tế khác nằm ngoài hệ thống. Chứng tạo ra những tác động tà bên ngoài tới hệ thống quốc tế, tới các chủ thẻ quan hệ quốc tế trong hệ thống cũng như mối tương tác giữa chúng. Môi trường bên trong (context) của hệ thống quốc tế là bối cảnh bên trong hệ thống. Đó là tổng hợp những ràng buộc của phần tử đôi với hệ thô'ng. Hay nói cách khác, đó là những điểm chung trong phản ứng của các chủ thê’ quan hệ quốc tế đôi với hệ thống quốc tế. Chứng có thế được hình thành qua các xu thế quan hệ, những lợi ích phô biến, sự chia sẻ quan niệm và giá trị, các nguyên tắc và chuẩn mực chung trong quan hệ quốc tế... Chúng tác động lên hệ thống và góp phần quy định nên tính chât và tính hướng đích của hệ thống quốc tê5. 1. Ví dụ, sự xuống cấp của môi trường sinh thái thế giói, đặc biệt sự nóng lên cua Trái đâ't đã làm tăng nhận thức vể "ngôi nhà chung" và dẫn đến yêu cầu phối hợp toàn cầu đê đối phó vói mối đe dọa chung đó. Vì thế, sự tương tác theo kiểu phụ thuộc lẫn nhau đã tăng lên. Điều này góp phẩn làm cho hệ thống quốc tế sau Chiến tranh lạnh được mở rộng và củng cô'. 2. Ví dụ, việc hâu hết các nước sau Chiến tranh lạnh đẽu ưu tién phát triển kinh tê và chọn lựa cách thức mở của, tăng cưòng họp tác kinh tê đoi ngoại đã dẫn đến yêu cầu thúc đấy hợp tác, véu cáu giải quyết xung đột bằng con đường hòa bình. Sự thay đổi cua môi trường bên ưong này đã khiến cho hệ thôrig quốc tế sau Chiên tranh lạnh có mục đích kinh tê'lớn hơn, tính châ't họp tác nhiểu hơn các hệ thống quốc tếtrưóc đó vốn thường có tính châ't xung đột nôi trội. Nhan thilc ve he thong quoc te 3 11 Đôi khi người ta cũng phân biệt môi trường của hệ thông theo các lĩnh vực như môi trường chính trị, môi trường kinh tê' môi trường xã hội, môi trường tự nhiên... để có thế làm rõ hơn những tác động cụ thê của chúng lên sự vận động của hệ thống quốc tế. + Cấu trúc (structure) là phương thức tô chức các phẩn từ trong hệ thống, là nơi các phần từ trong hệ thống cùng có quan hệ, là tổng hợp các quy định của sự tồn tại hệ thống đôi với phần tử của nó. Theo đó, cấu trúc của hệ thông quốc tế được phản ánh qua nhiều phương diện khác nhau. Thứ nhất, đó là sự phân bố quyển lực giữa các quốc gia như phương thức tổ chức trong hệ thống quốc tế. Trong đó các cực hoặc các cường quổc hay các liên minh ở tầng trên có những ưu thế và quyền hành nhất định để tô chức và chi phối sự vận hành hệ thôíng quốc tế bằng những quan hệ thứ bậc và khả năng duy trì trật tự đẳng cấp trong quan hệ quốc tế. Đơn giản hơn, như Joseph Nye quan niệm, cấu trúc của hệ thống là sự phân bố quyền lực của nó1. Thứ hai, cấu trúc cua hệ thông quốc tế cũng được phàn ánh qua mạng lưới tô chức quốc tếlà những noi tập trưng quan hệ giữa các chu thế quan hệ quốc tê' là nơi tập trung trách nhiệm, nghĩa vụ và quyển lợi cua các chu thế qua những quy định và sự ràng buộc trong tổ chức quốc tế. TỔ chức quốc tế cũng là nơi thế hiện sự phân bố 1. Joseph S. Nve, Ir, Understanding International Conflicts - An Introduction to Theoni and History, Pearson & Longman, 2005, tr. 37. 3 12 Một số vấn đê lý luân quan hé quốc tế dướt góc nhìn lịch sử quyền lực cũng như tru thế và quyền hành cua các cường quốc. Trong chừng mực nào đó, tổ chức quốc tê còn nhăm duy trì cấu trúc của hệ thống quốc tế hiện hành1. Thứ ba, cấu trúc này còn được phản ánh qua sự tòn tại của hệ thống luật pháp quốc tế có hiệu lực, của các chuẩn mực, giá trị, quan niệm chung... mà đó chính là các quy định hành vi ứng xử của chủ thê quan hệ quốc tế trong hệ thông quốc tế. Chủ thê quan hệ quôc tế ứng xử và tương tác vói nhau theo các quy định này để có sự phù hợp vói hệ thông quổc tế. Sự phù hợp này giúp đảm bảo sự tồn tại hệ thống quốc tế đối với các phần tử của nó. Kenneth Waltz vốn là một nhà hiện thực chủ nghĩa mới đã râ't chú ý đến phương diện đầu tiên của câu trúc khi ông cho rằng câu trúc ở đây chính là "sự sắp x ế p " hay "trật tự" của các bộ phận trong hệ thổhg. Ông củng đánh giá Tất cao những đặc điểm câu trúc của hệ thông quốc tế hơn là các phần tử của hệ thống. Theo Waltz, hệ thống quôc tế vói cấu trúc và những hình thái sắp xếp cùa nó được coi như điều kiện khách quan quan trọng quy định 1. Hội quốc liên và Liên họp quốc là những ví dụ điển hình nhát về vai ữò cùa tô chức quổc tế trong việc duy trì câu trúc hệ thống quốic tê và sự phân bô quyển lực. Vai trò của hai tổ chức này đuọc thế hiện thông qua quy chế ủy viên thường trực của Hội đổng trong Hội quốc liên và Hội đổng Bào an trong Liên hợp quốc. Hiện nay, đang diễn ra xu hướng muốn cải tô thành phần cùa Hội đổng Bao an Lién hợp quốc bới nhiều ý kiến cho rằng nó không còn phù hợp với câii trúc hệ thống quốc tê'và sự phân bố quyển lực mới sau Chiên tranh lanh. Nhận thức vê hệ thống quốc tế 3 13 hành vi của quôc gia trên trường quốc tê1. Các hình thái này có thế là câu trúc đơn cực, hai cực hay đa cực. Một câ'u trúc quyển lực tương đối ổn định trong quan hệ quốc tế thường được gọi là trật tự quô'c tế (international order). + Chức năng (function) của hệ thống là phản ứng của hệ thống đối với các tác động của môi trường và sự tương tác giữa các chủ thê nhằm duy trì kiểu dạng quan hệ nhất định giữa các phần tử của hệ thống. Phản ứng này được gọi là chức năng bởi đó là hoạt động nhằm mục đích duy trì sự tồn tại của hệ thôíng, tức là đem lại khả năng cho nó có được "tính bền vững". Theo đó, chức năng của hệ thống quốc tế thường được thể hiện qua tác động từ những vấn đề chung của hệ thông quốc tế, từ xu thế chưng trong quan hệ giữa các chủ thế và từ sự phản hồi của các chủ thê’ quan hệ quốc tế đối với hành vi của một chủ thể nào đó. Nếu hành vi của chủ thê đó phù hợp với hệ thống quốc tế và kiểu dạng quan hệ quốc tế trong đó thì sự phản hổi này thường có tác dụng tích cực hay đem lại điều kiện thuận lợi cho hành vi. Nếu hành vi không phù hợp thì sự phản hổi sẽ là bất thuận cho sự tiếp tục hành vi đó2. Sự phản ứng của hệ thống quốc tế 1. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary of International Relations, Sđd, tr. 364. 2. Ví dụ hành vi phân biệt đối xừ trong thương mại quốc tế được coi là hành vi không phù họp vói kiểu dạng quan hệ trong hệ thống quốc tế hiện nay nên rât khó nhận được sự ung hộ. Ngược lại, các cố gắng thúc đẩy tụ do hóa thưong mại, mờ cừa và hội nhập kinh tế quốc tế đều nhận được sụ phàn úng khá thuận lợi từ hệ thống quốc tế. 3 14 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế ducn góc nhin lịch sử sẽ giúp các chủ thê quan hệ quốc tế điểu chinh sụ vận động của mình cho phù hợp hơn với hệ thống quoc tế. Qua đó, chức năng của hệ thống quốc tế đã được thực hiện. Kenneth Waltz ví chức năng của hệ thống quốc tê giống như thị trường cững là một thế lực đã can thiệp và điều tiết mối quan hệ giữa các chú thể kinh tế với kết quả sản xuât của chúng. Qua hoạt động chức năng đó, hệ thống quốc tế đã tạo điều kiện cho sự tính toán, hành vi và sự tương tác giữa các chủ thê quan hệ quốc tế1. + Tính ổn định (stability) hay tính bền vững phàn ánh sự ổn định tương đối và đằng sau đó là khả năng tồn tại của hệ thống. Không có tính ôn định, hệ thống khó trờ thành chinh thể. Không có tính bền vững, hệ thống rất khó tổn tại. Tính Ổn định của hệ thông được xây dựng trên sự phù hợp giữa tương tác của các phần tử với nhau, giữa các phần tử vói hệ thống, giữa tương tác của hệ thống với môi trường. Nhờ vậy, hệ thông mới đạt được sự ổn định tương đối và có khả năng tổn tại được. Theo đó, tính ổn định của hệ thông quổc tế thường được biểu hiện bởi sự tổn tại kéo dài của những mẫu hình hành vi tương tác đã định hình nên cơ câu và quan hệ giữa các chủ thể quan hệ quốc tế. Tính ổn định cùa hệ thống quốc tế được xây dựng trên cơ sở có sự phu hợp trong tương tác của các chủ thê quan hệ quôc tế với nhau, 1. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary o f International Relations, Sdd, tr. 364. Nhận thức về hệ thống quốc tế 315 giữa các chủ thế với hệ thông quốc tê' giữa sự vận động của hệ thông với môi trường, giữa khả năng và vị trí của phẩn tử trong hệ thống... Sự phù hợp đem lại tính ổn định tương đối trong vận hành và khả năng tổn tại lâu dài của hệ thống. Còn sự không phù hợp có thế tạo nên tình trạng bất ổn trong quan hệ quốc tế và từ đó phá vỡ tính bền vững của hệ thống quốc tế. Có mấy điểm cần lưu ý trong việc nhìn nhận yếu tô' này của hệ thống quốc tế. Thứ nhất, tính ổn định của hệ thống quốc tế cần được hiểu là sự duy trì mức độ phù hợp giữa các tương tác của hệ thông quốc tế chứ không phải sự ổn định trong quan hệ giữa những chủ thể quan hệ quốc tế. Thứ hai, cần phải có cái nhìn biện chứng đôi với tính ôn định bởi sự tương tác của các chủ thế quan hệ quốc tế củng như toàn bộ hệ thống luôn nằm trong sự vận động. Thứ ba, tính ổn định của hệ thống chỉ có tính tương đối bởi sự vận động mạnh mẽ của các chủ thế quan hệ quốc tế cũng như tính lỏng lẻo của hệ thống quốc tế. Mặc dù vậy, tính Ôn định của hệ thống quốc tế cũng góp phần quy định sự ổn định tương đối trong cách thức quan hệ của' các chù thể quan hệ quốc tế, phương thức tác động và phản ứng từ hệ thống quốc tế đối với các chủ thể. Điều này đem lại kha năng có được sự dự báo nhất định trong quan hệ quốc tê. + Quá trình (process), theo Joseph Nye, là để chi những mẫu hình và kiểu dạng tương tác giữa các đơrí vị trong 316 Một số vấn đê lý luân quan hê quốc tế dưới góc nhin lịch sủ hệ thống1. Ông cũng làm rõ quá trình cúa hệ thống qua sự ví von với trò choi bài poker. Trong đó, quá trinh được thê hiện qua việc trò chơi được tiến hành như thê nào và bằng kiểu dạng tương tác gì giữa những người choi. Tức là luật lệ của trò chơi đã được tạo ra và được hiếu như thế nào? Những người chơi có chân thật không? Họ có tuân thù luật chơi không? Nếu người chơi lùa dối, liệu họ có bị bắt lỗi không?...2. Những mẫu hình và kiểu dạng này được gọi là quá trình có lẽ bởi mối quan tâm tới sự vận động của chúng theo thời gian chứ không đơn thuần chi là cách thức tương tác. Theo đó, quá trình của hệ thống quốc tế có thê được hiếu là sự vận động của mẫu hình hay kiêu dạng tương tác giữa các chủ thê quan hệ quốc tế. Quá trinh của hệ thống quốc tế có thê thay đổi trong một thòi kỳ và thường dễ thay đổi hơn cấu trúc. Trong nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế, nhiều học giả thường cho rằng hệ thống quốc tế có hai quá trình cơ bản là xung đột và hợp tác3. Theo Joseph Nye, quá trình của hệ thống quốc tế được xác định bởi ba yếu tố là cấu trúc của hệ thống quốc tế, bói canh văn hóa và thê chê" bao quanh câu trúc và quá trinh này xác định những kích thích và khả năng của quòc gia để 1, 2. Joseph S. Nye, Jr, Understanding International Conflicts - An Introduction to Theory and History, Sdd, tr. 37, 38. 3 . Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary of Intematiojial Relations, Sdd, tr. 277. Nhan thifc ve h$ thong quoc te 317 hop tac, muc dich va cong cu cua quoc gia co tinh cach mang hay on hoa1. Nhung nguoc lai, qua trinh hay cac mau hinh tuong tac thay doi cung co tac dong toi cac yeu to khac cua he thong quoc te. Viec xac dinh qua trinh cua he thong giup dem lai cai nhin bien chung hon ve he thong quoc te khi cho rang he thong quoc te co ca "trang thai dong", rang cac mau hinh tuong tac trong he thong quoc te cung co su bien doi theo thoi gian. Dieu nay giup nhin nhan day du hon ve su van dong va tinh da dang cua quan he quoc te trong mot he thong quoc te hay mot thoi ky lich sir nao do. Khong nhung the, boi qua trinh co tac dong toi cac yeu to khac cua he thong quoc te, ke ca cau true, nen viec xac dinh qua trinh cua no cung co the giup dem them nhung nguyen nhan va dieu kien cho cac thay doi trong quan he quoc te. KHAI NIEM HE THONG QUOC TE "He thong" von la thuat ngir cua khoa hoc tu nhien dung de phan anh y tuong ve mot chinh the duoc cau thkih tir nhieu bo phan co su tuong tac voi nhau. Trong he thong co hai noi dung quan trong. Mot la, mire do tuong tac giira cac bo phan. Su tuong tac giua cac bo phan phai co do chat che nhat dinh thi he thong moi duoc hinh thanh. Neu khong, do chi la tap hop chir khong phai la he 1. Joseph S. Nye, Jr, Understanding International Conflicts - An Introduction to Theory and History, Sdd, tr. 38. 318 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử thông. Mức độ chặt chẽ này có thẻ thấy được khi sự thay đổi của hệ thống sẽ ảnh hưởng đên mối tương tác của các bộ phận, và ngược lại, sự thay đổi trong tuơng tác giữa các bộ phận cũng có thê ảnh hưởng đến toàn hệ thôhg. Hay nói cách khác, phải có sự tương tác thì các bộ phận mới liên kết thành hệ thống, phải có sự tương tác thì hệ thống và các bộ phận mới có khả năng tác động lên nhau đế tạo ra sự vận động của hệ thông. Nội dung thứ hai là tính chỉnh thê của hệ thống, tức là có một kết cấu riêng, khả năng vận động riêng với những mục đích riêng. Phải là một chình thê thì hệ thống mới có tính độc lập nhất định, có những hoạt động chức năng riêng, có độ ổn định trong tương tác giữa các bộ phận, sự vững bền tương đối của cả hệ thống và có kha năng tác động đến các bộ phận trong hệ thống. Không có tính chinh thể thì không phải là hệ thống. Trong trạng thái chinh thể vói mức độ tương tác chặt chẽ, hành động và phản ứng của các bộ phận có mẫu hình tương đôi ôn định và có thê đoán trước được. Hệ thống quốc tế là một chinh thê được hình thành trên sự tương tác và bao gồm đầy đù các yếu tó trên. Từ đó, các c ố gắng xác định khái niệm hệ thống quốc tê đã được tiến hành. Mặc dù những cố gắng này đểu được xáy dựng dựa trên sự tương tác và tính chính thê nhưng vẫn có nhiều khái niệm khác nhau vể hệ thõng quôc tế và việc sử dụng chúng đê giải thích quan hệ quốc tế củng khá khác nhau. Nhận thúc về hệ thống quốc tế 3 19 Trong nghiên cứu quan hệ quô'c tế, 4thuật ngữ "hệ thống quốc tế" được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Nghĩa đầu tiên là để chỉ một phương pháp nghiên cứu, hay rộng hơn là một cấp độ nghiên cứu. Nghĩa thứ hai là đê mô tả hệ thống các quốc gia, hay rộng hơn là hệ thống các chủ thê quan hệ quốc tế xuất phát từ cách tiếp cận hệ thống. Các khái niệm hệ thông quốc tế được đưa ra là theo nghĩa thứ hai. Theo hiếu biết của chúng tôi, xuất phát từ những môi quan tâm khác nhau, có ba loại khái niệm hệ thống quốc tế chánh đã được xây dựng. Đầu tiên là khái niệm hệ thống quốc tê được xây dựng từ cách hiếu về hệ thông do Ludwig von Bertalanffy đưa ra. Theo Bertalanffy, hệ thông là "tông hợp các phần từ nằm trong sự tương tác lẫn nhau"1. Đây là khái niệm xuất phát từ sự quan tâm tới những đơn vị cấu thành nên hệ thống (phẩn tử) cũng như quan tâm tới hai nội dưng đặc trưng làm nên hệ thống là chinh thê (tông hợp) và sự tương tác. Theo đó, hệ thống quốc tế là "tông hợp các chủ thê quan hệ quốc tế nằm trong sự tương tác lẫn nhau". Nói chung, khái niệm nàv gần nhâ't với thuật ngữ hệ thống trong khoa học tự nhiên và có tính bao quát hơn cả. Tuy nhiên, trong khi nói rõ được phấn tư cua hệ thống quốc tế là các chu thế quan hệ quốc tế thì khái niệm này 1 Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, Sđd. tr. 128. 320 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ chưa làm rõ được trạng thái chinh thẻ và mức độ cua tương tác giữa chúng như thế nào thì tạo thanh hệ thông. Trên thực tế, sự tổng hợp ở đây phải được hiếu ngâm là đã đạt đến mức tạo ra tính chinh thê cho hệ thống quốc tế. Còn sự tương tác lẫn nhau củng phải được hiêu là giữa các chủ thê quan hệ quốc tế có sự tương tác với nhau theo kiểu phụ thuộc lẫn nhau. Khái niệm hệ thống quốc tế thứ hai xuất phát từ sự quan tâm tới mức độ quan hệ giữa các phấn từ hơn là chính phần tử. Theo khái niệm này, "Hệ thống quốc tế là một tập hợp các mối quan hệ giữa các quốc gia của thế giới, được cơ cấu theo những luật lệ và mẫu hình nhât định"1. Gần giống như vậy là khái niệm cho rằng đó là "mẫu hình tương tác được thê thức hóa bên trong môi trường đặc thù"2. Ở đây, khái niệm này cho rằng hệ thống quốc tế tổn tại khi mức độ tương tác giữa các chu thê quan hệ quốc tế đã đạt tới trình độ sâu sắc nhất định khi cùng nằm trong một cấu trúc chung, quan hệ giữa chúng cũng khá ổn định khi có cùng những mẫu hình chung. Điêu đó cũng có nghĩa, các chủ thê quan hệ quốc tế tương tác với nhau theo kiêu phụ thuộc lẫn nhau. Mối tương tác này được quy định bời một tập hợp các "luật chơi". Các "luật chơi" chi phối các chủ thê quan hệ quốc tế, góp phán quy 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Longman, New York, 1999, tr. 11. 2. Graham Evans & Jeffrey Newham, The Penguin Dictionary of International Relations, Sđd, tr. 276. Nhận thức vê hệ thống quốc tế 321 định cách thức chúng hành xử và quan hệ vói nhau như thế nào. Các "luật chơi" này đã cùng nhau định hình nên hệ thống quốc tế. Hay nói cách khác, hệ thống quô'c tế là tập hợp những “luật lệ" nhâ't định quy định nên chủ thể và mối tương tác giữa chúng. Tất nhiên, các luật lệ này không phải đã có ngay từ đầu. Chúng được xây dựng và điều chỉnh ưong quá trình hình thành và phát triển của hệ thống quốc tế. Một số luật lệ là rõ ràng, một số khác là ngầm hiểu1. Đây là khái niệm chi tiết hơn so vói khái niệm đầu khi phản ánh được khá nhiều các yếu tố của hệ thống quốc tế như phần từ là chủ thế quan hệ quổc tế, cấu trúc với những luật chơi, môi quan hệ với môi trường và tính ôn định qua những mẫu hình quan hệ nhất định. Tuy nhiên, điểm khác so với khái niệm đầu là ờ chỗ khái niệm này nhâh mạnh việc quan hệ giữa các chủ thể quan hệ quốc tế làm nên hệ thống chứ không phải là chính các chủ thê trong khi chủ thê mói chính là các bộ phận căn bản của hệ thống. Nhược điểm nữa của khái niệm này là chi coi trọng quốc gia mà không tính đến chủ thể phi quôc gia vốn hiện nav cũng đang có vai trò khá đáng kê trong việc thúc đẩy tương tác và làm ra luật chơi trong hệ thống quốc tế. Khái niệm thứ ba thì ngược lại với khái niệm trên khi quan tâm chủ yếu tói các phần từ hon là sự tương tác giữa chúng. Khái niệm nàv cho rằng hệ thống quốc tế là sự 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Sđd, tr. 76. 322 Một số vấn đề lý luân quan hè quóc té ơưỡt góc nhìn lịch sủ phân bô quyền lực, khả năng và các thuộc rinh khác nhau của các chủ thể trong thế giới. Đây là khái niệm của chú nghĩa hiện thực mới. Nó nhân manh cấu trúc cua hệ thống tức sự phân bố quyên lực - như yếu tố cơ ban đê giài thích quan hệ quốc tế. Theo đó, mục đích và xu hướng của các cường quốc ảnh hưởng rất lớn đến quá trinh và kết quá của quan hệ quốc tế. Khái niệm này thiên vê phản ánh trạng thái "tĩnh" của hệ thống hơn là trạng thái "động" cua hệ thống vốn gổm hàng loạt các tương tác qua lại giữa các chủ thế’ cũng như quá trình của nó. Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, khái niệm này cũng chịu anh hưởng đáng kê cùa chủ nghĩa hiện thực mới nên cũng hơi phiên diện và chứa đựng những khiếm khuyết cua lý thuyết này. Những người theo chủ nghĩa tự do và nhát là những người theo chủ nghĩa kiến tạo đã phản đối việc đề cao cơ cấu hệ thống quốc tế trong giải thích quan hệ quốc tế. Vì thế, khái niệm này vẫn thuộc loại khái niệm gây tranh cãi nhiều nhất. Rõ ràng, mặc dù vẫn có những khiếm khuvét song hai khái niệm đầu có những hợp lý nhất đinh và to ra tương đối thích hợp đối vói nghiên cứu quan hệ quốc tế. Trên cơ sờ kết hợp hai khái niệm trên, chúng ta có thê rút ra khái niệm hệ thống quốc tế như sau: “Hệ thống quỏc tế là tổng 1. Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, International Relations Theory: Realism, Pluralism, Globalism, Macmillan Publishing C om pany New York, 1993, ban dịch, tr. 69. Nhận thức về hệ thống quốc tế 323 hợp các chủ thể quan hệ quốc tế và sự tương tác lẫn nhau giữa chúng được cơ câu theo những luật lệ và mẫu hình nhất định". Khái niệm này phản ánh được những đặc trưng cùa hệ thông như ai được coi là thành viên của hệ thống, quyền và trách nhiệm của thành viên trong hệ thống, cơ cấu phân bô' quyền lực trong hệ thông, những loại hàrih động hay phản ứng nào hay xảy ra trong hệ thống,... Đổng thời, khái niệm này cũng hàm chứa cả môi trường trong ngoài, chức năng của hệ thông, tính ổn định tương đối và quá trình của các mâu hình tương tác trong hệ thống. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG QUỐC TỂ Trên cơ sở những vâri đề lý luận về hệ thống quốc tế đã nêu ở trên cũng như quá trình thực tiễn của chúng trong lịch sử, có thể rút ra một sô' đặc điểm của hệ thống quốc tế như sau: + Hệ thống quốc tế là hệ thông phi hình thức. Đây là điếm khác với hệ thống kỹ thuật, hệ thống sinh học và hệ thống tự nhiên. Chứng ta không nhận biết được hệ thống quôc tế bằng các giác quan. Nó không có một tô chức hay cơ câu hữu hình nào như hệ thống quốc gia có bộ máy nhà nước và các chính sách, đạo luật. Tác động cùa hệ thống quốc tế tới hành vi cua các chù thể chi mang tính gián tiếp. Hệ thống quốc tế chi được khám phá bằng con đường lý luận và nhận biết bằng lý trí. Nó được tạo lập bời sự hình 324 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưcM góc nhìn lịch sừ dung của người nghiên cứu thông qua việc sử dụng cách tiếp cận và phân tích hệ thống. + Hệ thống quốc tê là sự tập trung các điếm chung của quan hệ quốc tế. Có thể hiểu hệ thông quốc tê như sự “tổng hòa của các mối quan hệ quốc tế". Các điếm chung này phổ biến ra thành các xu thế hay xu hướng vận động trong quan hệ quốc tế. Chứng được phản ánh trong mẫu hình chưng của thái độ và hành vi phổ biên của các nước đôi với một kiểu hành vi nào đó của quổc gia và được quy tụ thành luật lệ quan hệ chung của các chủ thể quan hệ quốc tế. Các điểm chung này cũng có thê tìm thâ'y trong chức năng hay phản ứng của hệ thông. + Hệ thống quốc tế là một kiểu dạng hệ thống xã hội. Quan hệ quôc tế là một loại quan hệ xã hội nên hệ thông quổc tế cũng là kiểu dạng hệ thông xã hội. Sự vận hành của nó dễ bị biến đổi, chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố chủ quan. Tính quy luật của hệ thống quôc tế không rõ ràng. Tính ổn định của hệ thống không cao. Các tương tác khó nhận thấy và khó kiếm soát. Điều đó có nghĩa rằng đó là một hệ thông rất phức tạp không giông như hệ thống vật lý hay hệ thông sinh học vổh là những hệ thống có hoạt động rõ ràng hơn, vận hành ổn định hơn và có tính quy luật cao hơn. + Hệ thô'ng quốc tế chỉ mang tính chỉnh the một cách tương đôĩ. Hệ thống khu vực có tính chinh thê rõ rệt hơn do có cơ sở tương tác và địa lý được hình thanh từ láu nhưng khái niệm "khu vực" vẫn là cái gì đó có the thay đồi. Nhận thức vê hệ thống quốc tế 325 Hệ thông quốc tế toàn cầu có tính chinh thể không rõ bằng do mói hình thành gần đây và còn đang tiếp tục định hình. Trong hệ thông quôc tế toàn cầu, vân con nhiều khoảng trống - nơi các phần tử vẫn có tính tự trị cao, nhiều tương tác khá độc lập và không chịu ảnh hưởng nhiều của hệ thống. Chủ quyền mạnh mẽ của quốc gia và sự chi phối của các hệ thông khu vực chính là nguyên nhân của đặc điểm này. Đồng thời, trong hệ thống quốc tê' cũng có những phần từ thi hành chính sách biệt lập hoặc có sự tương tác rất yếu với hệ thống, không chịu sự chi phối của hệ thông. + Hệ thông quốc tế là một hệ thống mở và tính tổ chức yếu. Tính mở của hệ thống quốc tê được phản ánh ở ba điếm chính: so với các hệ thống khác, biên giới không gian của hệ thống quốc tế không xác định rõ ràng. Rất khó xác định biên giới của nó. Các hệ thống quốc tế khu vực có không gian rõ ràng hơn nhưng cũng mở. Điểm thứ hai cua tính mở là hệ thông quốc tế chịu tác động nhiều của môi trường bên ngoài. Điểm thứ ba là các phần tử của hệ thống quốc tế, đặc biệt trong hệ thống khu vực nhiều khi có quan hệ với bên ngoài lớn hơn là giữa chúng với nhau. Trong khi đó, tính tổ chức yếu của hệ thống quốc tế là do tính tự trị và chủ quyền quốc gia cao, do sự ràng buộc trách nhiệm trong cơ câu tô chức yếu, do luật pháp hav quy đinh chưa có tính hiệu lực cao. + Hệ thống quốc tế có thê mang trong mình nhũng xu hướng phát triển nhất định. Đó là xu hướng ngày càng được mở rộng về quy mô và lĩnh vực hoạt động, là xu hướng 326 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té dướI góc nhìn lịch sù sâu sắc hóa mức độ tương tác trong hệ thống. Nhìn lại quá trình của hệ thống quốc tế trong lịch sứ và hiện tại, có thê thấy đó là quá trình đi từ các nhóm người lén quôc gia rồi đi ra quốc tế. Trên bình diện quốc tế, hệ thống quôc tê củng có quá trình mở rộng từ khu vực sang liên châu lục rồi lên toàn cầu như hiện nay. v ề lĩnh vực, hệ thống quốc tế cũng có quá trình mở rộng lĩnh vực từ kinh tê’ chính trị sang các lĩnh vực khác trong đòi sống quôc tế với sự đan xen ngày càng lớn giữa các lĩnh vực. v ề mức độ tương tác, đó là quá trình các tương tác ngày càng tăng mức độ sâu sắc đê đi đến sự phụ thuộc lẫn nhau hiện nay. Trên thực tế, là một sản phẩm của quan hệ quốc tế, các xu hướng phát triển của hệ thông quốc tế đã chịu quy định của quá trình vận động và phát triển của quan hệ quốc tế. + Hệ thống quôc tế có trạng thái vô chính phủ (anarchy). Đây là một đặc điểm quan trọng về trạng thái của hệ thống quốc tế và làm nó khác với các hệ thống khác. Sự vô chính phủ trong quan hệ quôc tế theo quan niệm của chủ nghĩa hiện thực không có nghĩa là sự hỗn loạn, vô tô chức hay hoàn toàn thiếu vắng những cơ câu và luật lệ mà thường chi hàm nghĩa sự thiếu vắng một chính quyển trưng ương siêu quốc gia. Các quốc gia đểu có chu quyển trên lãnh thô của mình và không một quổc gia nào được phép cho rằng mình có chủ quyển đôì với quóc gia khác. Tình trạng vô chính phủ khiến hệ thông quốc tế thiếu khà năng thực thi luật pháp và sự chế tài như nha nuóc có thế làm bên trong quốc gia của mình. Nhận thức vê h ệ thống q u ố c tế 327 + Hệ thông quôc tế với tư cách là phương pháp nghiên cứu và dự báo. Hệ thông quốc tế có thê được sử dụng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế như một phương pháp nghiên cứu và dự báo. Với tư cách là phương pháp nghiên cứu, hệ thống quốc tế cung cấp thêm các nguyên nhân, điểu kiện cũng như tác động từ nhiều hướng khác nhau đối với sự vận động của quan hệ quốc tế. Hệ thông quốc tế cũng cung cấp những điều kiện khách quan đối với nhận thức và hành vi đối ngoại của các chủ thể quan hệ quổc tế. Với tư cách là phương pháp dự báo, việc xác định hệ thôíng quốc tế giúp chúng ta có thể đoán định được các phản hổi và hậu quả đối với hành vi của các chủ thế quan hệ quốc tế. Từ đó, chúng ta có thế tìm hiểu được những thuận lợi và khó khăn đối với hành vi đối ngoại nào đó của chúng trong quan hệ quốc tế. Các phản hồi này có thể là tích cực {positive feedback) hoặc tiêu cực (negative feedback) hay còn gọi là phản hồi sửa chữa (corrective feedback). Phan hổi tích cực thường dẫn đến tăng cường chính sách. Trong khi đó, phản hồi tiêu cực thường dẫn đến sự điều chinh chính sách trước đó. Tuy nhiên, thông tin phàn hồi có thê bị phóng đại (amplifying feedback). Thông tin phản hổi bị phóng đại bời các yếu tố chủ quan như tâm lý bị ám anh hay sự lo lắng thái quá, hoặc do nhận thức sai về hệ thông hoặc thậm chí do lợi ích của một nhóm nào đó. Trên đây là những nhận thức bước đẩu về hệ thống quốc tế. Theo chúng tôi, việc vận dụng hệ thống quốc tế vào trong nghiên cứu quan hệ quốc tế là cần thiết cho dù 328 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưởi góc nhin lịch sủ tác động của hệ thông quốc tê chưa phai là quá lớn và có tính quyết định. Hệ thống quốc tế tuy là san phâm cùa nhận thức nhưng lại phản ánh đúng đắn thục tiễn, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi thê' giới ngàv càng trờ nên thống nhất, các chủ thể quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Việc tìm hiểu hệ thống quốc tê sẽ giúp nhìn nhận được thêm những nguyên nhân, điểu kiện và tác động tới sự vận động của quart hệ quốc tế. Đồng thời, việc vận dựng này cũng giúp đem thêm khả năng nhât định trong việc dự báo vê các sự kiện quốc tê và sự ứng xừ đôi ngoại của các quốc gia. 329 HỆ THỐNG QUỐC TẾ TRONG LỊCH sử: QUÁ TRÌNH VÀ LOẠI HÌNH Hệ thống quốc tế là tổng hợp các chủ thể quan hệ quốc tế và sự tương tác lẫn nhau giữa chúng được cơ cấu theo những luật lệ và mẫu hình nhất định. Hệ thống quốc tế là một quan niệm lý luận được xây dựng dựa trên lý thuyết hệ thống. Xuất phát từ lý thuyết hệ thống chung (general systems theory) của học giả người Áo Ludwig von Bertalanffy, cách tiếp cận và phân tích hệ thống được áp dụng trong khoa học xã hội từ những năm 1950-1960, trong đó có lịch sừ quan hệ quốc tế. Một số học giả nổi tiếng như Morton Kaplan, Rosecrance, Kenneth Waltz, GUpin, Joseph Nye... là những ví dụ cùa việc phát triến lý thuyết hệ thống trong lĩnh vực nghiên cứu này. Hiện nay, lý luận hệ thống quốc tế đã được áp dụng khá rộng rãi trong nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung, trong lịch sử quan hệ quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, ý kiên về hệ thống quốc tế là khá khác nhau. Sự khác nhau nàv diễn ra trong ba điếm. Thứ nhất, hệ thống quốc tế có tồn 330 Một số vấn đề lý luận qu an h ệ q u ố c té dưcn g o c nhìn hch sư tại hay không? Chủ nghĩa hiện thực mói và chu nghĩa tự do mói bào có, các lý thuyết quan hệ quốc tẻ hậu thực chứng như chủ nghĩa kiến tạo, lý thuyết phê phán bao không có. Thứ hai, bản chất hệ thống quòc tê là gì? Chủ nghĩa hiện thực mới nhâín mạnh cấu trúc hav sự phân bô quyền lực trong hệ thống. Chủ nghĩa tự do mới cho rằng đó là quá trình phụ thuộc lẫn nhau. Chủ nghĩa Mác thì lại coi đó như hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản và được phân tầng về giai câ'p. Thứ ba, tác động của hệ thống quốc tế đôi với quan hệ quốc tế là như thế nào? Chù nghĩa hiện thực mới đề cao tác động này, trong khi chủ nghĩa tự do mới cho rằng tác động đó chỉ là vừa phải, còn các lý thuyết hậu thực chứng thì phủ nhận tác động này. Thậm chí, ngay trong chính các nhà chủ nghĩa hiện thực mới cũng có sự không thông nhât với nhau trong điếm thứ hai và thứ ba1. Bất chấp những khác biệt như vậy, theo chúng tôi, vẫn có thể áp dụng lý thuyết hệ thông trong nghiên cứu quan hệ quôc tế và lịch sử quan hệ quôc tế. Xuất phát từ lý 1. Trong điểm thứ hai, họ không thông nhát đ u ọc với nhau trong cách hiểu và vận dụng hệ thống quốc tế rằng đó là một câu trúc phân bô' quyền lực, hoặc là nhũng mẫu hình tuong tác trong quan hệ giữa các quốc gia, hay dạng thức cân bằng quvẽn lưc nào đó được xác định,... Trong điểm thứ ba, ví dụ, họ củng khóng thống nhất được câu trúc nào có tác động nhiểu hon tới việc ngăn chặn chiến tranh. Robert Gilpin ung hộ hệ thống một cục Kennetf\, Waltz để cao hệ thống hai cực, còn nhiểu học già hiện thực mói khác lại tán thành hệ thống đa cực. H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử: qu á trình và loại hình 331 thuyết hệ thông, thuật ngữ "hệ thông" được hiểu theo ba nghĩa khác nhau. Nghĩa đầu tiên là một phương pháp nghiên cứu. Nghĩa thứ hai là một cấp độ nghiên cứu. Nghĩa thứ ba để mô tả hệ thông các chủ thê quan hệ quốc tế tương tác với nhau. Với ý nghĩa là phương pháp, hệ thống quốc tế được sử dụng như công cụ để phát hiện và phân tích các yếu tố liên quan đên sự vận động quan hệ quốc tế trong lịch sử. Với ý nghĩa là cấp độ nghiên cứu, hệ thống quốc tế được dùng đê chi tập hợp những nhân tố của chình thê tác động tới các phần tử và quan hệ giữa chúng. Với ý nghĩa phản ánh thực tiễn gắn kết giữa các quốc gia theo những cấu trúc khác nhau, hệ thống quốc tế chính là sự thê hiện quá trình phát triển của quan hệ quốc tế theo thời gian. Cả ba nghĩa này với các tác dụng của nó đều khiên hệ thống quốc tế có thể được áp dụng trong nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế. Xuất phát tù lý do đó, bài viết này nhằm giới thiệu khái lược lịch sử quan hệ quốc tế dưới cái nhìn hệ thống. Đồng thời, bài viết củng trình bày một số cách phân loại hệ thống quốc tế chủ yếu có thể vận dụng được trong nghiên cứu lịch sừ quan hệ quốc tế. KHÁI LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIEN h ệ t h ố n g QUỐC TẾ TRONG LỊCH s ử Con người vốn có xu hướng sống thành cộng đồng từ những buổi bình minh của nhân loại. Trong thời c ố đại, cùng với sự mơ rộng và phát triến quan hệ, cộng đổng 332 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc té dư& gàc nhin ụch sử người cũng được mở rộng và phát triẻn theo. Những cộng đồng đầu tiên của con người được hình thanh dựa trên sự phát triển của các tương tác kinh tế và xã hội. Vê kinh tê, đó là sự tập hợp người thành những nhóm săn băn và hái lượm trước kia để thực hiện các hoạt động kinh tê chung. Về xã hội, đó là sự liên kết quần tụ vê' xã hội giữa những người chung một huyết thống trong các thị tộc và sau đó phát triển lên thành bộ lạc. Những tương tác này khiến cho các cộng đổng người sơ khai đã mang trong mình những dâu hiệu của hệ thống xã hội ban đầu. Nhu cầu mở rộng và sự tương tác sâu sắc của con người ngày càng tăng đã khiến cho cộng đổng người ngày càng được phát triển, tính hệ thông của cộng đồng ngày càng được nâng cao. Rõ nhất đầu tiên là những tương tác về kinh tế. Nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động và sự phân chia thành thị, nông thôn. Cả hai quá trình đã làm sự tương tác trở nên chặt chẽ và phức tạp hơn khi cần sự cung cấp lương thực cho các khu vực phi nông nghiệp và thành thị, cũng như sự cung cấp công cụ và các vật phẩm thú cóng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn. Cả hai quá trinh này kéo theo sự phát triển của kinh tế hàng hóa và thương mại. Và điều này làm cho các tương tác càng nhiẽu hon, thường xuyên hơn qua quá trình buôn bán và trao đói hang hóa. Cùng vói đó là sự tăng lên của các tương tác xã hội bởi sự phân chia nông thôn - thành thị, bởi sự hình thanh các giai câp kinh tế và giai tầng xã hội, bời sự gia tăng nhu cấu và H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử : qu á trình và loại hình 333 quan hệ giữa các cộng đổng vói nhau,... Các tương tác kinh tế và xã hội ngày càng đan xen với nhau đê tạo nên những ràng buộc phức tạp của cộng đổng. Bên cạnh những tương tác về kinh tế và xã hội là sự tương tác về mặt chính trị. Sự xuất hiện nhà nước, giai cấp cầm quyền và bộ máy thông trị cũng như yêu cầu tổ chức cộng đổng về mặt chính trị như đối ngoại và chiến tranh đã tạo ra một mạng lưới các quan hệ và sự ràng buộc chính trị. Xã hội ngày càng hình thành các nhóm chuyên môn hóa vói nhiều môi quan hệ qua lại. Kết quả là tính hệ thống của cộng đổng đã trở nên sâu sắc với các mạng lưới tương tác đa diện, đan xen, giằng chéo, phụ thuộc lẫn nhau và ngày càng mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, quôc gia đã ra đời. Quốc gia là một hệ thống khá chặt chẽ và tương đối ổn định với sự tương tác sâu sắc và chặt chẽ bên trong. Mạng lưới tương tác bên trong quốc gia rất phức tạp giữa nhà nước vói các phần tử như cư dân, giai câp, các nhóm xã hội, các đơn vị kinh tế, các tô chức chính trị... và giữa các phần tử với nhau. Sự ra đòi của quốc gia có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành hệ thống quốc tế bởi đây chính là những phần tử chú chốt tạo nên hệ thống quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu, hệ thống này vẫn chưa phải là hệ thống quốc tế. Khi quốc gia có quan hệ đối ngoại ngày càng nhiều, sự tương tác giữa quốc gia ngày càng tăng, hệ thống quốc tế mới có điều kiện hình thành. Sự phát triển của thương mại, di cư và sự bành trướng lãnh thổ đã góp thêm phần cho sự hình thành hệ thống quốc tê. 334 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ó c té d u ã g ó c nhin lệch sử Hệ thống quốc tế bắt đấu thai nghén truoc hết ỏ quy mô khu vực do quan hệ đối ngoại cua các quóc gia khi đó chủ yếu là với các nước láng giêng. Hệ thõng đê quôc là hệ thống đầu tiên vượt khỏi quy mô hệ thống quòc gia. Hệ thống này tổn tại ờ nhiều nơi trên thế giới trong suốt chiêu dài thời cổ, trung và cận đại. Có thê kê ra ờ đảv một sô hệ thống đ ế quốc như Đ ế quốc Ai Cập và Đê quốc Carthage ở Bắc Phi, Đ ế quốc Assyria và Babylon ở vùng Lưỡng Hà, đ ế quốc của Alexander Đại Đ ế và Đ ế quốc Bvzantium ờ vùng Balkan, Đế quốc La Mã ở Nam Âu, Đế quôc Mauryan ở Nam Ả, Đ ế quốc Ba Tư và Đ ế quốc Parthian ờ Tây Á, Đế quốc Trung Hoa ờ Đông Á,... Tuy nhiên, có người coi hệ thống đ ế quốc là cái gì đó gần vói hệ thống quổc gia hơn là hệ thông quốc tế bời tính tự trị của các phấn từ trong đó gần như không có. Mặc dù vậy, đứng từ quan điếm lịch sừ, hệ thống đế quốc ít nhiều cũng góp phán thúc đẩy sự hình thành của hệ thống quốc tế trên quy mô khu vực. Sự tổn tại của hệ thống đế quốc không chỉ phàn ánh sự tương tác đã vượt khòi quy mô quốc gia, mà còn góp phán làm tăng sự tương tác giữa các chủ thể của hệ thórig quốc tế khu vực sau này. Đến thời trung đại, mặc dù tương tác đã tăng lén song hệ thống quô'c tế theo đúng nghĩa của nó vẫn chưa thực sự hình thành, o phương Tây, tương tác tăng lên nhung van chưa đu mạnh đến mức phụ thuộc lẫn nhau đế tạo thành hệ thống, các phẩn tư chưa đủ chù quyển đế tro thanh chù thê quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, các điểu kiện thuận lợi để H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử: qu á trình và loại hình 335 hình thành hệ thông quốc tế ở đây lại khá rõ nét vói sự gần kề vê địa lý, giao thông thuận tiện, quan hệ đồng tộc đan xen, quá trình quan hệ có bề dày, sự tương tác tăng khá mạnh và thường xuyên cũng như diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Tất cả những điều này đã tạo nên sự gắn kết nhất định giữa các thực thê ở châu Âu. Trong khi đó, ở phương Đông, các quôc gia đã xuất hiện từ lâu nhưng do phát triển biệt lập nên liên hệ xuyên quô'c gia khá yếu ớt và không thường xuyên. Sự tương tác như vậy không đủ sức để tạo nên hệ thống quốc tế ở đây. Sang thời cận đại, hệ thống quốc tế mói được hình thành. Nhiều người coi hệ thông khu vực châu Âu là hệ thống quốc hệ đầu tiên. Ngoài sự phát triển của quan hệ quốc tế và những điều kiện thuận lợi ở trên, hệ thống khu vực châu Âu đã ra đòi có phần quan trọng là nhờ sự xuất hiện mô hình quốc gia độc lập có chủ quyền theo kiểu quốc gia - dân tộc sau Hiệp ước Westphalia năm 1648. Chủ quyền và sự độc lập của các quốc gia châu Âu đem lại cho chứng vai trò phần tử của hệ thống quốc tế này. Hệ thống này trong lịch sừ được gọi là Hệ thống các quốc gia độc lập ở châu Âu. Và củng bắt đầu từ châu Âu, hệ thống quốc tế củng dần dần được mờ rộng từ khu vực sang liên châu lục. Thực ra, các liên hệ xuyên khu vực đã xuất hiện từ trước nhưng rất yếu ớt và chưa đủ tạo nên hệ thống quôc tế vượt khỏi khuôn khổ khu vực. Các khu vực trên thê' giới có rất ít hoặc gần như không có các liên hệ với nhau. 336 Một s ố vấn đ ề lý luận quan h ệ q u ố c té ơưcn g ó c nhin lịch sử Những chứng cứ về quan hệ xuyên khu vực thi ít oi và yếu ớt. Đây đó nổi tiêng thì có Con đường to lụa, cuộc xâm lăng của Đ ế quốc Mông Cổ, chuyên đi cua người Venice là Marco Polo (1254-1324) tới Đ ế quốc Nguyên Mông ở Trung Quốc, bảy chuyên vượt An Độ Du ang của Trịnh Hòa dưới thời nhà Minh hay người Viking đến Bắc Mỹ... Các nguyên nhân chính quy định sự phát trién của hệ thống quốc tế liên khu vực trong thời cận đại là: thứ nhút, sự phát triển của các quốc gia làm tăng nhu cáu mờ rộng quan hệ. Thứ hai, đó là các cuộc phát kiến địa lv vĩ đại như cuộc thám hiếm của Vasco da Gama (1460-1524), của Columbus (1446-1506) và chuyến đi vòng quánh thế giới đâu tiên của Magenlan (1520). Các phát kiến địa lý này đã góp phần mở rộng thế giói quan, khơi thông mối liên hệ Đông - Tây và tạo điểu kiện cho quan hệ quốc té vươn ra khòi khu vực và đi ra thế giới. Thứ ba, đó là sự phát triển của thương mại quốc tế và chủ nghĩa thực dán. Thương mại quốc tế vốn đã phát triến từ lâu nhưng đéh thời kỷ này lại càng phát triển và làm tăng nhu cầu trao đổi hàng hóa, san vật với các vùng đất mói. Nhu cầu thương mại quốc tế đã kích thích chủ nghĩa thực dân. Chu nghĩa thực dân đến lượt mình củng góp phần mở rộng quan hệ từ châu lục này sang châu lục khác. Thứ tư, đó la sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực vũ khí và hàng hai. Hai sự phát triển này tạo điểu kiện cho việc đi lại liên châu lục và chinh phục các vùng đất mói cùa H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử : q u á trình và loại hình 337 chủ nghĩa thực dân châu Âu. Thứ năm, đó là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản với các hoạt động kinh tế của nó như tìm kiếm tài nguyên, mở rộng thị trường, xuất khẩu hàng hóa và tư bản,... và các hoạt động chính trị như chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đ ế quôc, mở rộng khu vực ảnh hưởng... đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển các quan hệ xuyên khu vực đế dần tiến ra thế giói. Cũng chính chủ nghĩa tư bản đem lại cơ sở cho sự thống nhất thị trường quốc tế và cơ câ'u chính trị trong hệ thống quốc tế mở rộng này. Trong thời kỳ cận đại, các hệ thống quốc tế liên khu vực đầu tiên đã được hình thành thông qua hệ thống đế quốc - thực dân của các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bổ Đào Nha, Hà Lan,... Trong khi đó, hệ thống khu vực châu Âu cũng có sự chuyển giao sang hệ thống quốc tế mới với sự thay đổi lớn trong câu trúc phân bố quyền lực sau cuộc chiến tranh Napoleon. Napoleon đã that bại trong cố gắng thiết lập hệ thống đon cực ở châu Âu với sự bá chủ của Pháp. Hội nghị Vienna năm 1815 đã thiết lập cơ sở pháp lý cho sự hình thành trật tự đa cực mới ở châu Âu, còn được gọi là hệ thống hài hòa quyền lực châu Âu (Concert of Europe). Đây là hệ thống đa cực với các trung tâm quyền lực là Anh, Pháp, Nga, Áo-Hung và Phổ (sau năm 1871 là Đức). Tuy có vẻ vẫn là hệ thống khu vực châu Âu nhưng thực tế hệ thống này có tính liên châu lục rất rõ. Điều này được thể hiện trong sự đan xen giữa hệ thống này với các hệ thống thuộc địa của các cường quốc châu Âu ở châu lục 338 Một s ố vẩn đ ề lý luận qu an h ê q u ó c té dưcn g ó c nhìn lịch sử khác. Đổng thòi việc xuâ't hiện những cuớng quổc khác như Mỹ ở châu Mỹ, Nhật Bản ỏ châu Á cũng làm cho hệ thống Vienna bắt đầu chịu ảnh hường nhiếu bcri quan hệ giữa các cường quốc thế giói. Hệ thống hài hòa quyền lực châu Âu đã bị phá vỡ bởi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau cuộc chiến tranh này, xuất hiện hệ thống quốc tế vói tính thê giới lớn hơn. Đó là hệ thông quốc tế thời kỳ 1918-1939 mà còn được gọi là Trật tự Versailles-YVashington. Đây vẫn là hệ thống đa cực nhưng có quy mô liên châu lục rõ rệt hơn nhiều, bao gồm cả các cường quốc ngoài châu Âu là Mv và chừng mực ít hơn là Nhật Bản. Sự tương tác liên châu lục chặt chẽ của hệ thông này cũng sâu sắc hơn thê hiện qua sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các cường quốc trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 và những vân đề an ninh chung trong chương trình nghị sự quổc tế. Hệ thống này có cơ cấu chặt chẽ hơn và mở rộng hon với sự ra đời của Hội quốc liên và hệ thống cường quôc th ế giới nhưng lại bâ't ổn định bời tình trạng mâu thuẫn gay gắt khiến tương tác giữa chúng thay đổi liên tục. Cuối cùng, hệ thống quốc tế này đã bị chấm dứt bời sự bùng nổ cùa Chiến tranh thế giói thứ hai. Sau năm 1945, hệ thống quốc tế đã chính thức đạt tới quy mô toàn cầu. Hệ thống quốc tế trong thòi kỳ náy là hệ thống hai cực với sự chi phối của Mỹ và Lién Xô. Tính toàn câu cua hệ thông này được thế hiện trong vai trò siêu cường - là thuật ngữ chi quốc gia có ảnh hưcrng trén toàn H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử: qu á trình và loại hình 339 thế giới - của Mỹ và Liên Xô. Tính toàn cẩu của hệ thống hai cực còn được phản ánh trong tác động lên toàn thế giới của sự đôi đầu giữa hai phe trong Chiên tranh lạnh cũng như sự hình thành một mạng lưới các tổ chức quô'c tế toàn cầu như hệ thống Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Hiệp định chung vể thương mại và thuế quan (GATT),... Đồng thời, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quôc gia ở mọi nơi trên thế giới cũng ngày càng sâu sắc. Hệ thông hai cực này cho dù đã đạt tới quy mô thế giới nhung lại phân liệt sâu sắc nên tính toàn cầu của nó đã bị hạn chế không nhỏ. Hệ thống này đã chính thức châm dứt trong thời gian 1989-1991 khi một cực là Liên Xô tan rã và một phe là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu không tổn tại nữa. Sau Chiến tranh lạnh, chúng ta đang chứng kiến sự xuất hiện của một hệ thống quốc tế toàn cầu mới. Đối với cấu trúc phân bô' quyền lực của hệ thống này, vẫn đang có sự tranh luận rằng đây là hệ thống đơn cực hay đa cực. Quyển lực của siêu cường duy nhất là Mỹ chưa đạt tới mức chi phôi các nước khác như địa vị bá chủ trong hệ thống một cực. Các "cực" khác cũng chưa đủ mạnh để tạo được sự cân bằng với Mỹ như trong hệ thống đa cực. Vì thê' có cách gọi câu trúc này là "nhât siêu, đa cường" hoặc mô tả nó theo chiều dọc bằng kim tự tháp quyển lực hay chòm sao quyển lực. Theo đó, Mỹ là quốc gia ở đinh, còn ờ tầng tiếp theo là các cường quốc chủ yếu khác. Mặc dù có ý kiến cho rằng đây có thể là tình trạng quá độ đế 340 Một s ố vấn đ ề lý luận quan h è q u ó c té ơưo* g o c nhin lịch sủ chuyên giao sang hệ thống đơn cực hoặc đa cực nhưng chứng tôi cho rằng câu trúc "nhất siêu, đa cuơng" vàn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm tới. Cho đến ngày nay, hệ thống quốc tế đã \~uon ra quy mô toàn cầu. Các vấn đề vượt khòi biên giới địa lý và liên kết con người khắp noi lại. Các mạng lưới kinh doanh địa phương và khu vực cũng gắn liền với nhau đê tạo nên mạng lưới kinh doanh toàn cầu. Các vấn để an ninh địa phương đã thu hút sự quan tâm chú ý trên quy mô toàn cầu. Các quổc gia không thê sống biệt lập mà ngày càng phụ thuộc vào nhau trên nhiều phương diện, phụ thuộc vào các xu hướng vận động chung của hệ thóng quốc tê khu vực và thế giới. So với các hệ thông quốc tế trước, hệ thống hiện nay có một SỐ điểm mói. Thứ nhất, là tình trạng "nhất siêu, đa cường" trong cấu trúc phân bố quyển lực như trên đã để cập. Thứ hai, về không gian, nó đang đạt được quy mô toàn cẩu hon bất cứ hệ thống nào trước đó. Một trong những biểu hiện chính là sự nổi lên mạnh mẽ cua toàn cầu hóa. Thứ ba, hệ thống này đa diện hơn khi có sự đan xen giằng chéo giữa hệ thống chính trị thế giới va hệ thống kinh tế thế giới cũng như có sự tham gia tương tác cua các lĩnh vực xã hội, văn hóa quốc tế. Thứ tư, chu thể quan hệ quôc tê hay phần từ cua hệ thông này cũng có sụ thay đổi đáng chú ý với sự tham gia ngày càng tăng cua chủ thê phi quốc gia và điểu này đang góp phán lam thay đổi tương tác. Thứ năm, so với các hệ thống quóc té trước kia H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử: qu á trình và loại hình 341 hệ thông hiện nay có tính hợp tác hơn, mở hơn với xu thế hợp tác và hội nhập đang diễn ra cả trên quy mô khu vực lân thế giới và diễn ra cả trong quan hệ giữa các cường quốc hàng đầu của thê'giới. Thứ sáu, sự tương tác trong hệ thống này cũng mạnh mẽ và sâu sắc hơn vói sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng. Thứ bảy, trên cơ sở các tương tác này, hệ thống quổc tế ngày nay đang chi phối đáng kê các phần tử của nó. Sự chi phôi này lớn hơn bất cứ thòi kỳ nào trước đó. Như vậy, sự tương tác giữa các chủ thể quan hệ quốc tế hay sự phát triển của quan hệ quốc tế là cơ sở chính đế hình thành nên hệ thống quốc tế. Ngược lại, sự phát triển hệ thống quốc tế cũng khiến nó ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng định hình sự vận động của lịch sử quan hệ quốc tế. Rõ ràng, sự phát triến lịch sử quan hệ quốc tế trong chừng mực nào đó chính là quá trình phát triển tương tác, thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau, dẫn tới hình thành và phát triển hệ thống quốc tế. Với mối quan hệ qua lại như vậy, hệ thống quốc tế có thê được coi như một cách tiếp cận hữu ích trong việc xem xét tiến trình vận động của lịch sừ quan hệ quốc tế. CÁC LOẠI HÌNH HỆ THỐNG QUỐC TẾ Có nhiều cách phân loại hệ thống quốc tế khác nhau. Sự phân loại khác nhau xuất phát tò cách tiếp cận khác nhau với nhũng tiêu chí khác nhau như không gian địa lý, lĩnh vực tương tác, trạng thái và tính chất, cấu trúc phân 342 Một s ố vấn đ ể lý luận qu an h ệ q u ó c tế dưcn g ó c nhin lịch sừ bô quyền lực của hệ thống quốc tế,— Sự phân loại khác nhau là điểu bình thường bởi tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu khác nhau. Mỗi cách phân loại đẽu có ưu điêm riêng khi giúp làm rõ những đặc thù và phuơng diện khác nhau của hệ thống quốc tế. Vi thê', việc tìm hiẻu các cách phân loại khác nhau sẽ giúp đem thêm sự đa dạng và linh hoạt trong nghiên cứu quan hệ quốc tế và lịch sử quan hệ quốc tế. 1. Dựa trên không gian địa lý Theo cách phân loại này, hệ thống quốc tê được phân chia làm hai loại: hệ thống quốc tế toàn câu (hay còn gọi là hệ thông toàn cầu, hệ thống thế giới) và hệ thông quốc tế khu vực (hay còn gọi là hệ thống khu vực). Hệ thống toàn cầu là đê chi hệ thống quổc tế có quy mô không gian địa lý khắp thế giói hoặc gán khắp thế giói. Hệ thông toàn cầu chỉ xuâ't hiện khi quan hệ quốc tế đã phát triển đạt tói quy mô toàn cầu, khi sự phụ thuộc lân nhau giữa các chủ thê quan hệ quốc tế cũng diễn ra khắp thế giới. Trong lịch sử quan hệ quốc tế, chi có hai hệ thống quốc tế được coi là hệ thống toàn cáu. Đó là hệ thống quốc tê thời kỳ 1945-1991 và hệ thống quốc tế sau Chiến tranh lạnh hiện nay. Hệ thống khu vực đê chi hệ thống quôc té có quy mô không gian trong một khu vực địa lý nào đó cua thế giới. Theo định nghĩa cua Braillard Ph. và Djalili M.R., hệ thống khu vực là "tổng hợp các tương tác đặc trung trén cơ sỏ sự H ệ thống q u ố c t ế trong lịch sử: qu á trình và loại hình 343 phụ thuộc vào địa lý "1. Nếu dựa trên khái niệm hệ thông quốc tế như đã trình bày ở trên thì hệ thông khu vực có thê’ được hiếu là "tông hợp các chủ thê quan hệ quốc tế gắn bó trong cùng một khu vực địa lý và những tương tác đặc trưng của chúng". Trong thực tiễn lịch sử, hệ thống khu vực xuất hiện trước hệ thống toàn cầu khi quan hệ quổc tế mói chỉ phát triển trên quy mô khu vực. Nhưng khi hệ thống quốc tế toàn cầu hình thành, hệ thống khu vực vẫn tiếp tục tổn tại và trở thành những tiểu hệ thông bên trong hệ thống đó, tức là một dạng phần tử của hệ thống quốc tế toàn cầu. Trên cơ sở đó mà người ta có thể chia thế giới thành các hệ thống khu vực như châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, châu Á... Các hệ thống khu vực này cũng được chia tiếp thành các tiểu hệ thống khu vực nhỏ hơn như Tây Âu và Đông Âu ở châu Âu; Bắc Mỹ, Mỹ Latinh ở châu Mỹ; Đông Nam Á, Đông Bắc Á, Nam Á, Trung Cận Đông ở châu Á; Bắc Phi, Trung Phi, Nam châu Phi ở châu Phi... Thậm chí, các tiểu hệ thống khu vực này còn được chia nhò tiếp nữa như Đông Nam Á hải đào và Đông Nam Á lục địa, như Benelux của Tây Âu và Balkan của Đông Âu... Tuy cũng là một phần tử của hệ thống quốc tế toàn cầu, song hệ thống khu vực thường là một hệ thống khá chặt do có nhiều mối tương tác lâu đời, sâu sắc và phong phú hơn 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, tr. 135. 344 Мо? во уап бё 1у 1иап диап Ьё дибс Ч (Шеи дос Шип 11сЬ эй бо уот Ьё th 6h g quбc Юап саи. В ш уот сас Ьё кЬи уис сИгк сЬё, Ьё thбng 1:оап саи пЫеи кЫ 1а1 d 6 n g Уа1 Лэ пЪи т о г Ьягог^ Ьёп ^ о ш сйа Иё Л б ^ кЬи \ ис. Tгong Ие Л б г ^ кЪи уи с пау, сас рЬап Л th u 6 n g сЫи 1ас dpng Л И? thбng кЬи уи с пЫеи Ьоп 1а Ьё Й ю г^ 1оап саи Ьсп кЪи уис 1а ш б 1 Ш кл-^ Ь*ис Нё'р. № ап с Ъ ш ^ Ыёп пау, Ьё thбng кЪи уис уап tбn Ьа1 шапЬ ш ё Ьё thбng 1оап саи уа Л и д ^ rnаng Л е о гп'шЬ п Ь й г^ d ac tn m g riёng са уё сИлпЬ Л ё 1ап tu o n g {ас g ш a сас рЬап й сйа Ьё Л б г ^ . Cйng dua ^ё п уёй Ьо dia 1у, со nguбi рЬап сЫа кй Ьор уо1 уёй t6' сЬигЬ Ы ЛапЬ D 6ng уа Тау пЪи tгong СЫеп ^апЪ 1апЬ (у Л и с Ие, сИ ё^о сЫпЬ Ы , сЫёп 1иос ал ЫпЬ,...), к й Иор уо1 уёй Ьо к1пЬ 1ёЧЬапЬ Вас уа N 3111 п1ш Ыёп пау (т и с dб giau nghёo, trirLh dб рЬа! Ыёп к^пЪ 1е,...)1. Мае dй сас Лиа1 ngй пау d u oc ей dung кЬа рЬю Ыёп, пЪит^ Вас, № т , D6ng, Тау kh6ng Ьюап 1оап 1а nhйng Ьё thбng. Xёt Л ео quan diёm сйа сЬй nghTa кЬи уис, d6 kh6ng рИш 1а сас кЬи уис т а сЫ 1а Ьар Ъдр сас рМ'п Л со cйng nhйng dac diёm chung уё сЬтЪ Ы Ьау кнЛ tё v a dйng Л иг^ ngй dia 1у dё т о 1а ибс 1ё т а Лбь Ци diёm сйа сасЬ рЬап 1ош пау 1а giйp Лау duoc qua trinh т о гот^ сйа quan Ьё quбc tё НсЬ Би уа Ыёп Ы. N6 cйng giйp tim Ыёй Л ё т сас хи huбng toan саи Ьюа, кЬи уис Ьоа уа т о ! ^ с п ^ гёс giйa сЬщ-^. Ngoai га, сасЬ 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, №. 135. Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 345 phân loại này cũng giúp thấy các tác động từ cả thế giới và khu vực tới sự vận động của quan hệ quốc tế. Nhược điếm của cách phân chia khu vực này là ở ba điểm. Thứ nhất, khu vực địa lý được hình thành không chỉ từ sự gần kề về địa lý mà còn phụ thuộc vào ba yếu tô' nữa là tương đổng về văn hóa xã hội, tương tác về chính trị và tương tác kinh tế. Vì thế, việc phân loại chí dựa thuần túy vào tiêu chí không gian địa lý không phản ánh được tính chinh thê và lĩnh vực tương tác đa dạng của hệ thống khu vực. Thứ hai, sự phân chia dựa theo yếu tô' địa lý như trên cũng không phản ánh chính xác mức độ tương tác giữa các phần tử vốn là cơ sở hình thành nên hệ thống. Ví dụ, châu Á không hẳn là một hệ thống bởi sự tương tác giữa Đông Nam Á và Tây Á là khá yếu, Đông Nam Á là một hệ thống rõ ràng song thực tế các tương tác kữih tế vói bên ngoài lại mạnh hơn trong hệ thống... Thứ ba, cách phân chia này bị chi phối bởi sự phân chia địa lý truyền thống nên đang gặp khó khăn trong việc giải thích hiện tượng xuâ't hiện nhiều hệ thống khu vực không nằm trong khuôn khô địa lý như quan niệm trước kia. Ví dụ, châu Á - Thái Bình Dương có được coi là hệ thống khu vực hay không khi có nhiều yếu tố của hệ thống nhưng lại hơi khó xác định khuôn khô địa lý của nó. 2. Dựa trên lĩnh vực tương tác Trong nghiên cứu lịch sử và-quan hệ quốc tế, đôi khi hệ thống quốc tế được phân loại theo lĩnh vực hoạt động 346 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té duoi goc nhìn lịch sủ nào đó của hệ thông. Đó cũng là Enh vực tập trung sự tương tác giữa các phần tử. Đó cũng là noi diễn ra hoạt động chức năng chủ yếu của hệ thống quốc tế, tức là phan ứng cua hệ thống đối với các phần từ thường diễn ra chủ yêu trong lĩnh vực này. Vì thế, các hệ thống quốc tế được phản loại theo lĩnh vực tương tác còn được gọi là hệ thống chức năng. Theo cách phân loại này, hệ thống quòc tế thường được chia thành các hệ thống chức năng nhu hệ thống kinh tế và hệ thông chính trị. Tuy nhiên, trong tùng loại hệ thống chức năng, sự phân chia tiếp cũng khá khác nhau do dựa trên sự kết hợp thêm những tiêu chí khác bên cạnh tiêu chí chung là mức độ tương tác trong lĩnh vực chức năng. Ví dụ, dựa trên tiêu chí kết hợp là ché độ sờ hữu kinh tế, có các hệ thông kinh tế như hệ thống kinh tế tu bàn chủ nghĩa và hệ thống kinh tế xã hội chù nghĩa. Tương tự như vậy, dựa trên ý thức hệ, hệ thống chính trị gổm hệ thống chính trị tư bàn chủ nghĩa và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong thòi kỳ Chiên tranh lạnh. Ví dụ khác dựa trên tiêu chí kết hợp là chu nghĩa khu vực kinh tế, có hệ thống kinh tế Tây Âu (EU), Bắc Mỹ (NAFTA) và Đông Á; kết hợp với thương mại hay tài chính, có hệ thống thương mại quốc tế và hệ thống tai chính quô'c tế... trong thời kỳ hậu Chiên tranh lạnh. Trong một chừng mực nhò hơn, củng có người đua thêm hệ thống văn hóa - xã hội vào trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Hệ thống này có thê được xác định theo những tương đổng chung vể văn hóa, tôn giáo, ngón ngữ hay Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trinh và loại hình 347 cùng nguồn gốc sắc tộc... hoặc được phân loại theo từng tiêu chí riêng rẽ. Tuy nhiên, việc sử dụng hệ thông này không phô biến lắm trong nghiên cứu lịch sư quan hệ quốc tê bời những điếm chung văn hóa - xã hội chưa hăn đã đem lại tính chinh thê cho hệ thông cũng như tương tác văn hóa - xã hội chưa đủ mạnh đê có thể tạo ra hệ thống. Các hệ thống chức năng theo cách phân loại này cũng có thê được coi là những tiểu hệ thông bên trong một hệ thống quốc tế toàn cầu hay khu vực nào đó. Richard w. Mansbach cho rằng tiếu hệ thống là "những tương tác rộng rãi giữa các chủ thê trong một hệ thống lớn hơn về những vẩn đề cụ thể"1. Theo định nghĩa này, các hệ thống kinh tế, chính trị, văn hóa... là những tiểu hệ thống của hệ thống quốc tê đa diện vốn gồm nhiều lĩnh vực tương tác. Ưu điếm của cách phân loại này là giúp thấy được cơ sờ và lĩnh vực liên kết chủ yếu giữa các phần từ đê tạo thành hệ thống tjuốc tế. Nó cũng giúp thấy được chức năng của hệ thông đê từ đó đoán định được phần nào phản ứng cua hệ thống đối với các phần tư và quan hệ giữa chúng. Cách phân loại này củng giúp tìm hiêu sự vận động của quan hệ quốc tế trong từng lĩnh vực cụ thế. Tuy nhiên, cách phân loại nặv cũng có ít nhất hai nhược điếm. Thử nhất, sụ quá tập trung vào một lĩnh vực 1. Richard W. Mansbach, Global Puzzle: Issues and Actors in World Politics, Houghton Mifflin Company, Boston and New York, 1997, tr. 142. 348 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dơcn góc nhìn lịch sử hoạt động chức năng của hệ thống dễ dân đẻn cái nhìn phiến diện khi không phản ánh được tính đa diện cua hệ thống cũng như tương tác trong hệ thống. Hệ thông quôc tế thường là đa lĩnh vực và các lĩnh vực nàv đểu quan trọng như nhau. Thứ hai, sự phân loại này cũng khó giúp thây đầy đủ nguyên nhân và điều kiện cùa sự vận động trong hệ thống quốc tế khi thực tế cho thây, giữa các lĩnh vực thường có sự đan xen và tương tác lân nhau khá mạnh mẽ. Thậm chí, nhiều khi sự tương tác trong lĩnh vực này hoàn toàn có thể bị thay đổi bởi những biến động trong những lĩnh vực khác. 3. Dựa vào trạng thái, tính chất Đây là cách phân loại xuâ't phát tù mục đích cùa người nghiên cứu. Cách phân loại này có thê vận dựng dựa trên những tiêu chí khác nhau. Có bôn loại tiêu chí được sử dụng phô biến là mức độ tương tác giữa các phẩn tử trong hệ thống, trạng thái quan hệ với bên ngoài, trạng thái ổn định và tính châ't chủ yếu của tương tác trong hệ thống. Cách thứ n hất dựa trên mức độ tương tác mạnh hay yếu, lỏng hay chặt giữa các phần từ trong hệ thó'ng. Theo cách này, có hai loại hệ thống quốc tế chặt và long. Trong hệ thống quốc tế chặt, sự tương tác giữa các phẫn từ là khá sâu sắc vói mức độ phụ thuộc lẫn nhau tương đối lớn. Cấu trúc của hệ thống cũng chặt chẽ hơn và các luật chơi của hệ thống này cũng có hiệu lực lớn hơn. Đổng thời, hoạt động chức năng hay phàn ứng của hệ thống tới các Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 349 phần từ cũng thường mạnh hơn. Còn ưong hệ thống quốc têTòng, tất cả các yếu tố trên đều yếu hơn nhiều. Hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong Chiến tranh lạnh là những ví dụ điển hình của hệ thống chặt. Đôi vói hệ thống lỏng, đa phần các hệ thống quốc tế thòi cận đại đểu là hệ thống lỏng. Trong thòi hiện đại, các hệ thống quốc tế toàn cầu đều là hệ thống lòng. Trên câ'p độ khu vực, ASEAN ờ Đông Nam Á củng là một hệ thống tương đối lòng lẻo trong khi EU lại là hệ thống tương đối chặt. Cách thứ hai dựa trên trạng thái quan hệ với bên ngoài nhiều hay ít. Theo cách này, có hai loại là hệ thống quốc tê mờ và hệ thống quốc tế đóng. Hệ thống quốc tê mờ là hệ thống có quan hệ vói bên ngoài nhiều, thậm chí là có xu hướng mở rộng kết nạp thêm các phần từ mới. Còn hệ thống quốc tế đóng là hệ thống tương đôi khép kín, ít quan hệ với bên ngoài và có xu hướng phân biệt đối xừ với các phần từ ngoài hệ thống. Bời tương tác với môi trường bên ngoài nhiều hơn nên hệ thống mỡ củng dễ chịu tác động từ bên ngoài hơn hệ thống đóng. Ví dụ, hâu hết hệ thống kinh tế của các nước đế quốc thành lập cùng với các thuộc địa hoặc đồng minh cua mình trước năm 1945 đểu là hệ thống đóng trong khi hệ thống kinh tê thê giói củng như các hệ thống kinh tế khu vực hiện nay đêu là hệ thống mơ. Hay NATO là một hệ thống quân sự chính trị tương đối đóng trong Chiến tranh lạnh nhưng đã có xu hướng trờ thành hệ thống mơ hon sau khi khôi Hiệp ước quân sự Warsaw không còn nửa. 350 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sù Cách thứ ba dựa trên trạng thái ôn định cua hệ thống. Theo cách này, có thế phân loại hệ thống quòc tê thành hai loại: hệ thống quốc tế ổn định hay không ỏn định. Hệ thống quốc tế ổn định là hệ thống có sự ổn định tương đối trong cấu trúc phân bố quyền lực của hệ thống, trong cách thức quan hệ giữa các chủ thể quan hệ quõc tế và trong phương thức tác động của hệ thống quốc tê đối với các phần tử. Còn hệ thống quốc tế không ổn định thì không được như vậy. Ví dụ, hệ thống quốc tế trong thòi kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giói (1919-1939) là không ôn định với những biến động thường xuyên. Trong khi đó, hệ thống quốc tế trong thời kỳ Chiến tranh lạnh lại tương đối ổn định với những xu hướng vận động khá rõ ràng. Tương tự như vậy, hiện nay, hệ thông khu vực Tây Âu là hệ thống ổn định, còn hệ thống khu vực Trung Đông vẫn tiếp tục không được ổn định. Cách thứ tư dựa trên tính chât chủ yếu cùa tương tác trong hệ thống. Theo cách này, hệ thống quốc tế có thế là hệ thống xung đột hay hệ thống hợp tác. Tính chát hợp tác hay xung đột được phản ánh qua mẫu hình tương tác chủ yếu giữa các phần tử và tạo thành xu thế quan hệ chung trong hệ thông quôc tê. Đây là cách phân loại thường được áp dụng đê phân kỳ lịch sử quan hệ quốc tế. Ví dụ, hệ thống hài hòa quyển lực ờ châu Âu thời gian 1815-1914, hệ thông quốc tê trong thời kỳ giữa hai cuộc chiéh tranh thế giới (1919-1939) và hệ thống quổc tế trong thòi kỳ Chiến tranh lạnh đều là hệ thống xung đột. Trong khi đó Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 351 hệ thống quốc tế sau Chiến tranh lạnh có vẻ như là một hệ thống hợp tác nhiều hơn khi hợp tác và hội nhập đang là những xu thế lớn, lôi cuôín mọi chủ thê tham gia. Cách phân loại này có ưu điểm ở chỗ là nêu bật được những đặc điểm hay khả năng nổi bật nào đó của hệ thống quốc tế và điều này là có ích trong nghiên cứu. Tuy nhiên, việc chi dựa trên tính chất hay trạng thái nào đó của hệ thống thì không giúp phản ánh được mức độ và quy mô của tương tác cũng như không cho thây được cấu trúc vốn là những đặc tính căn bản của hệ thông. Nhược điểm nữa là nó chỉ phản ánh được trạng thái tĩnh mà không làm rõ được trạng thái động của hệ thông trong khi thực tế hệ thống luôn vận động và biến đổi. 4. Dựa vào sự phân bố quyền lực hay cấu trúc quyền lực của hệ thống Đây là cách phân loại được sử dựng khá phổ biến trong nghiên cứu củng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cách phân loại này chịu ảnh hưởng lớn của hệ quy chiếu quyền lực và cách tiếp cận hệ thống của chủ nghĩa hiện thực mói. Theo đó, hệ thống quốc tế được phân loại dựa theo câu trúc phân bố quyền lực trong hệ thống. Cơ cấu phân bố quyền lực được thể hiện bằng "cực". Cực (polarity, polar) vốn là một thuật ngữ vật lý và được sư dụng trong quan hệ quốc tế đế chi những trung tâm quyền lực độc lập trong hệ thống quốc tế. Các trung tâm quyền lực này có thê là quốc gia hoặc liên minh giữa các 352 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc tế dưcn góc nhin lịch sủ quốc gia1. Theo cách phân loại này, có những dạng hệ thống quô'c tế sau: hệ thống đơn cực, hệ thống hai cục, hệ thống ba cực và hệ thống đa cực. + Hệ thống đơn cực (unipolar system) là hệ thống quốc tế có một trung tâm quyền lực mà các phán tư khác phái xoay quanh nó2, tức là phải chịu ảnh hưởng chi phối của nó. Hệ thống đơn cực được biếu hiện dưới nhiêu dạng thức khác nhau như bá chủ, hệ thống đ ế quốc hay hiện tượng một siêu cường. Trong đó, bá chủ (hegemony) có ưu thế quyền lực vượt trội so với các phần từ khác trong hệ thông quốc tế đến mức có thể một mình chi phối các luật lệ cũng như sắp xếp trong quan hệ quổc tế. Ví dụ, vai trò bá chủ của Mỹ và Liên Xô trong từng phe tư bản chù nghĩa và xã hội chủ nghĩa thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hệ thông đ ế quô'c có quyền lực gần như tuyệt đối của một nước đê' quốc được thê hiện qua sự cai trị hoặc kiếm soát các phần tử khác trong hệ thống cả vê đối ngoại lẫn đối nội. Hệ thông đ ế quốc tồn tại nhiêu trong lịch sử với các đê' quôc và hệ thống thuộc địa của nó. Ví dụ, hệ thống đế quô'c La Mã thời cô đại, hệ thống đế quốc Trung Hoa thời trung đại, hệ thống đê'quốc Anh và Pháp thời cận đại,...3. Siêu cường củng là một cường quốc nhưng có quvẽn lực 1, 2. Joshua S. Goldstein, International Relations, Longm an, New York, 1999, tr. 84-85. 3. Cũng có ý kiến cho rằng hệ thống đ ếq u õ c khóng phai la hệ thống quốc tế bởi các nước thuộc địa mâ't độc lập nén khỏng phài là chủ thế quan hệ quốc tế. Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 353 vượt trội và cả khả năng chi phối các cường quốc khác. Dạng thức này gần giông vói bá chủ nhưng được sử dụng trong những điều kiện mới của hệ thông quốc tế thòi hiện đại và trên quy mô toàn cầu. Vai trò siêu cường của Mỹ và Liên Xô thòi kỳ Chiên tranh lạnh là một ví dụ. + Hệ thống hai cực (bipolar system) là hệ thông quốc tế có hai quốc gia hoặc hai khối liên minh lớn có vai trò như những trung tâm quyển lực chi phối các phần tử khác và cả hệ thông quốc tế. Ví dụ lớn nhất trong lịch sử về hệ thống hai cực chính là vai trò của Liên Xô và Mỹ trong thời kỳ Chiên tranh lạnh. Hai quốc gia này đã tập hợp và đứng đầu hai liên minh đối địch nhau là phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Hai cực và hai phe này đã tạo nên cơ câ'u chính trị quốc tế khi đó và chi phối hầu hết quan hệ quốc tế thế giới. Trước đó, đẩu thế kỷ XX cũng tổn tại hệ thống hai cực ở châu Âu là khối Antanta (Anh, Pháp, Nga) và phe Liên minh (Đức, Áo-Hung, Bungari, Thổ Nhĩ kỳ). Hệ thống hai cực cũng được phản ánh ít nhiều trên quy mô khu vực. Trong đó, thường tổn tại hai quốc gỉa có ảnh hưởng hơn trong khu vực và có sự tranh giành ảnh hưởng khu vực nhất định giữa chúng. Ví dụ, Ân Độ và Pakixtan ở Nam Á, Braxin và Áchentina ở Nam Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc ở Đông Á... + Hệ thống ba cực (tripolar system) là hệ thống quôc tế có ba trung tâm quyền lực lớn hơn hẳn các phần tử khác. Có người gọi đây là hệ thống chân vạc. Đây là một dạng hệ thống quốc tế hay cấu trúc quyền lực đã từng hiện diện 354 Một số ván đê lý luận quan hệ quóc té dưởi góc nhin lịch sủ trong lịch sử. Song, so với các hình thái khác, tinh ôn định của nó không cao và tuổi thọ của nó không bển vững bới thường có xu hướng hai nước liên minh đê chống lại nước kia và dễ chuyên thành hệ thông hai cực. Ví dụ điển hình là tam giác chiến lược Xô - Mỹ - Trung ở châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ Chiên tranh lạnh. Đầu tiên, những năm 1950, đó là hai cực với Xô - Trung một bên, Mỹ một bên. Sau đó, Trung Quốc tách khỏi Liên Xô và hệ thông ba cực hình thành ở châu Á - Thái Bình Dương trong những năm 1960 - 1970. Đên cuối thập niên 1970, Mỹ và Trung Quôc đi vói nhau chống lại Liên Xô. Hệ thống ba cực lại bị lắng xuô'ng. Tính ba cực của nó ngắn đến nỗi nhiều người không quan tâm đên hệ thống ba cực và coi nó nằm trong hệ thổng hai cực. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống ba cực đang được nhiều người quan tâm từ góc độ kinh tế khi cho rằng hệ thống kinh tế thế giới thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh sẽ bị chi phối bởi ba trung tâm kinh tế lớn là Bắc Mỹ, EU và Đông Á. + Hệ thống đa cực (multipolar system) là hệ thống quổc tế có nhiều trung tâm quyền lực. Hệ thông đa cực được xây dựng dựa trên cân bằng quyền lực tương đối giữa các cực. Trong hệ thống này, không có một trung tám nào quá mạnh đê có thê lấn át được các cực khác và làm cho hệ thống quốc tế trờ thành đơn cực. Trong đó, các quốc gia thường cô' gắng kiềm chế lẫn nhau để ngăn ai đó trỏ nên mạnh lên, phá vỡ cân bằng quyền lực. Cũng có thể có một quốc gia đóng vai trò "người cân bằng" (balancer) Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 355 đứng trung lập, sẵn sàng nhảy vào bên yếu đê làm cho cán cân quyển lực trở lại cân bằng. Đó là vai trò mà Anh đã đóng trong thòi cận đại. Trong hệ thống đa cực, do xu hướng các quốc gia theo đuổi quyền lực nên thường có nguy cơ đe dọa phá vỡ cân bằng cũ và vì thế các quốc gia có thể thay đôi liên minh đê tạo ra những cân bằng mới. Nhưng cũng vì điếm này mà số lượng các cực ở đây được nhiều người (Morton Kaplan, Joshua Goldstein,...) cho rằng phải từ năm cực trở lên1. Hệ thống bốn cực được coi là khó tổn tại và dễ bị chuyển thành hai cực bởi A sẽ tìm cách liên minh với B nhằm giành ưu thế quyền lực và khi đó, c và D sẽ liên minh vói nhau để đối trọng lại. Cấu trúc quyền lực trong hệ thống đa cực có thể được phản ánh theo chiều ngang bằng hệ thống các cường quốc. Nhưng nó cũng có thê được phản ánh theo chiều dọc qua thứ bậc quyền lực giữa các trung tâm như mô hình kim tự tháp quyền lực {pyramid o f power). Trong mô hình này, quốc gia mạnh nhất nằm ở đỉnh, kế tiếp là các cường quốc khác. Quốc gia càng manh thì càng nằm ở gần đinh. Rồi dưới nữa là những quốc gia yếu hon. Độ dốc của kim tự tháp phàn ánh mức độ so sánh quyền lực cũng như tính chât tương tác giữa chúng. Kim tự tháp càng thâp, sự chênh lệch quyền lực không cao, các quốc gia càng binh đăng. Kim tự tháp càng dốc, khoảng cách quyển lực càng cách biệt, quan hệ bất bình đẳng càng tăng. 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Sđd, tr. 85. 356 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưo< góc nhìn lịch sủ Hệ thống đa cực khá phô biên trong lịch sử quan hệ quốc tế. Hệ thống đa cực nổi tiêng nhất lá hệ thống hài hòa quyền lực. châu Âu trong khoáng thòi gian từ sau Hiệp ước Vienna năm 1815 đến trước Chiêh tranh thế giới thứ nhât. Hệ thống này có các trung tâm là Anh, Pháp, Nga, Áo - Hung, Phổ/Đức vói Anh là người đóng vai trò cân bằng. Nhiều người cũng cho rằng hệ thống quôc tế sau Chiến tranh lạnh sẽ là đa cực bời sự tổn tại của ba trung tâm kinh tế Bắc Mỹ - EU - Nhật Bản/Đông Á và năm trung tâm chính trị là Mỹ - EƯ - Nga - Trung Quốc - Nhật Bản. Theo quan điểm của chủ nghĩa hiện thực, cách phân loại dựa trên sự phân bố quyền lực có ưu điếm phản ánh được câ'u trúc của hệ thông quốc tế với sự phán tầng theo sức mạnh của các quốc gia thành viên. Các "cự c" cũng là nơi chủ yếu tạo ra các luật lệ trong tương tác giữa các phần tử, là nguồn chính của các phản ứng chức năng từ môi trường bên trong. Sự ổn định của hệ thống cũng phụ thuộc rât nhiều vào các cực và sự tương tác giữa chúng. Tuy nhiên, cách phân loại này cũng chứa đựng những nhược điểm nằm trong nhược điếm chung cua chù nghĩa hiện thực như sự tập trung vào quổc gia và chính trị quyền lực mà không tính đến các phần tử khác và những tương tác thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. 5. Sự phân chia hệ thống quốc tế của Kaplan M. Mô hình của Morton Kaplan khá nổi tiêng boi nó là một trong nhũng công trinh đấu tiên nghiên cứu tưong đô'i toàn Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 357 diện vê' hệ thông quổíc tế. Trong chừng mực nào đó, đây cũng là một cách phân loại hệ thông quốc tế. Mô hình này gồm sáu kiểu hệ thông, trong đó bôn mô hình đầu mang tính giả thiết và hai mô hình sau mang tính tiên nghiệm. + Hệ thống phủ quyết: mọi quốc gia đều có khả năng tự bảo vệ mình và ngăn chặn sự đe dọa bên ngoài sử dụng sức mạnh đối với mình. Trong hệ thống này, mọi quốc gia đểu có thê sử dụng các khả năng đê ngăn chặn sự đe dọa và đều tích cực chống lại sự đe dọa đó; vai trò của các tổ chức quốc tế toàn cầu thường là hạn chế. Hệ thông này sẽ trở thành nguy hiểm nếu vũ khí hạt nhân được phổ biến rộng rãi. Ví dụ, đó là hệ thống quốc gia độc lập của châu Âu sau năm 1648. + Hệ thống cân bằng quyền lực: đây là dạng hệ thông đa cực. Theo Kaplan, hệ thống này cần ít nhất năm cường quốc vì nếu ít hơn, hệ thống dễ trở thành hai cực. Theo Kaplan, hệ thống này có sáu nguyên tắc tạo nên những hoạt động đặc trưng của hệ thống quốc tế. Một là, tăng cường khả năng đàm phán mà không phải đâu tranh. Hai là, đấu tranh chứ không phải là thất bại trong việc tăng cường khả năng. Ba là, dừng đấu tranh mà không phải loại trừ quốc gia chu chốt nào đó. Bốn là, chống lại bất cứ liên minh hay quốc gia nào đó có xu hướng đóng vai trò ưu thế trong hệ thống. Năm là, kiềm chế những chù thê tán thành các nguyên tắc của tô chức siêu quốc gia. Và sáu là, cho phép các quốc gia chu chốt bị đánh bại hoặc bị kiềm chế tiếp tục tham gia vào hệ thống quốc tế với một 358 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc té dơỡ» góc nhin hch sủ vai trò tương đối hoặc đưa một số quốc gia không phai là chủ chốt nay trở thành chủ thê quan trọng hơn. Ví dụ, đó là hệ thống hài hòa quyền lực ở châu Ảu trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. + Hệ thống hai cực linh hoạt (hay mèm déo): trong hệ thống này có quốc gia, các chủ thể mới như liên minh và các chủ thế mang tính toàn cầu như tổ chức quốc tế. Tính linh hoạt ở đây thể hiện ở chỗ có nhiều phương án của hệ thống hai cực. Cơ sở của nó phụ thuộc vào tô chức bên trong từng khôi. Khôi có thê đẳng câp hóa mạnh mẽ và có tính độc đoán khi người đứng đầu ràng buộc được các đồng minh. Khi đó, hệ thống sẽ biến đổi sang hệ thống hai cực chặt chẽ hoặc thành hệ thông thứ bậc. Khối cũng có thê không đẳng cấp hóa hoặc được đẳng câ'p hóa có mức độ nếu được hình thành qua con đường tham khảo lân nhau giữa các quôc gia tự chủ. Khi đó, hệ thống lại trờ thành hệ thống đa cực. Hoặc giả nếu có chiên tranh tổng thê thì sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ hoặc hệ thống thứ bậc. Tính chất đẳng câ'p trong từng khôi khác nhau sẽ dẫn đến các phương án khác nhau của hệ thống hai cực này. Ví dụ, đó là hệ thống quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giói với quá trình hình thành hai phe đông minh và phe Trục. + Hệ thống hai cực chặt chẽ (hay címg rắn): khác với hệ thông trên, hệ thống này được hình thành báng trật tự đăng cấp mạnh mẽ. Trong hệ thống này, mức độ chặt chẽ đến mức không có các quốc gia trung lập hay đứng ngoài Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 359 như trong hệ thông hai cực linh hoạt. Các chủ thể có tính toàn cầu ở đây cững chi đóng vai trò hạn chế và ít có ảnh hưởng lên khôi này hay khối kia. Bình luận vể hệ thông này, nhiều học giả cho rằng đây là hệ thống rất dễ gây ra tình trạng bâ't ổn định bởi mâu thuẫn sâu sắc, sự biến động liên tục trong lực lượng hai bên làm cho cân bằng dễ thay đổi và sự đấu tranh thường xuyên giữa hai cực. Ví dụ, đó là hệ thống hai cực thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong những năm 1950, hệ thống này được coi là chặt chẽ nhưng đã được coi là lỏng sau sự tách rời của Trung Quốc và Pháp. + Hệ thông toàn cầu: hệ thống này có thế có được khi các tô chức toàn cầu thực hiện được chức năng của mình một cách hiệu quả. Trong hệ thống này, các chủ thê toàn cầu có vai trò nổi trội và có nhiều quyền của quôc gia như xác định quy chế quốc gia và phân chia nguồn lợi cho chứng. Các tô chức này củng đề ra những quy định cho quan hệ quốc tế và có trách nhiệm theo dõi việc thực thi. Hệ thống này được xây dựng trên sự nhất nguyên trong môi trường chính trị quốc tế và trên cơ sở có sự đoàn kết giữa các chu thê quốc gia và toàn cầu. Các xung đột quốc tế sẽ được giải quyết theo những nguyên tắc chính trị cua hệ thông. + Hệ thống có thứ bậc: hệ thống này có thê được hiếu là một hệ thống chính trị chung cho toàn thế giói. Trong đó, vai trò của các tố chức quốc tế chung là lớn hơn quốc gia, quốc gia - dân tộc mất đi ý nghĩa của nó và có thê trơ thành nhũng đon vị lãnh thổ đon thuần. Hệ thống này có 360 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dướt góc nhìn lịch sử tính liên kết cao đến mức có khá năng ngăn chặn khuynh hướng rút lui ra khỏi hệ thống và sự quav trò lại của quôc gia - dân tộc. Hệ thống thứ bậc có thê là dán chù khi các nước đều mong muốn củng cố và phát triển hệ thống quốc tế. Hệ thống thứ bậc cũng có thê là độc tài khi cường quốc hoặc một khối quốc gia nào đó áp đặt hệ thống đó lên các quôc gia khác1. Cách phân loại hệ thống quốc tế cua Kaplan củng phần nào dựa trên câu trúc phân bố quyển lực. Trong chừng mực nào đó, Kaplan đã cố gắng dựa trên lịch sử để khái quát thành các mô hình có tính giả thiết củng như đê ra những phương án dự báo cho tương lai. Kaplan cũng phân tích về khả năng tương tác giữa các chu thê bên trong từng mô hình. Tuy nhiên, cách phân loại này cũng có những nhược điếm là thiên vể quyền lực, các cường quốc và sự xung đột như những đặc trưng cua hệ thống quốc tế. Do những nhược điếm trên mà cách phán loại cùa Kaplan hiện nay đã không còn được s ù dụng nhiêu. Như vậy, hệ thống quốc tế với tư cách là một công cụ lý luận đã có nhiều cách phân loại khác nhau. Mỗi cách đều có những ưu, khuyết điếm nhất định và cho đến nay vân chưa có cách phân loại nào có tính tổng hợp. Tuy nhiên, tất cà các cách phân loại giới thiệu ớ trén đếu có 1. Morton Kaplan, "Som e Problems of International System Research" trong John A. Vasquez, Classics o f International Relations, Prentice Hall, New Jersey, 1996, tr. 297-302. Hệ thống quốc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình 361 khả năng vận dụng vào nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế. Việc áp dụng chứng vào nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế có thể giúp ích phẩn nào trong việc tìm hiểu sự vận động của quan hệ quốc tế trong lịch sử bởi hệ thông quốc tế vừa là sự phản ánh, vừa là kết quả của quá trình phát triển quan hệ quốc tế. Sự vận động này có thể là sự mở rộng không gian tác động và ảnh hưởng của hệ thống quốc tế, có thể là sự phát triển lĩnh vực và mức độ tương tác cũng như mối quan hệ giữa chúng bên trong hệ thống, có thể là sự biến đổi trạng thái và tính chất của chính hệ thông, có thể là sự thay đổi câu trúc phân bố quyền lực và tác động của nó tói quan hệ quôc tế,... Chúng cũng có thể được áp dụng đế phân kỳ lịch sử quan hệ quốc tế khi giúp thấy được những đặc điểm riêng của từng thời kỳ. Không những thế, vói tư cách là một phương pháp, hệ thông quốc tế còn là một công cụ lý luận giúp tìm hiểu thêm những yếu tố tác động tói quan hệ quốc tế cũng như có thế dự báo phần nào sự vận động của tiến trình lịch sử quan hệ quốc tế. 362 NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH CÁC CẤP Độ PHÂN TÍCH Suốt cả chiều dài lịch sử, nhân loại bị vò xéo bời chiêri tranh. Lịch sừ nhân loại đầy rẫy xung đột và bạo lực. Thời gian chiên tranh nhiều hơn hòa binh. Hình như chiên tranh là một phần tất yếu của nhân loại, bạo lực là một hành vi không ưánh khòi của con người? Con người là một động vật ăn thịt và nó sẵn sàng "ăn thịt" cả đổng loại? Cáu hoi này là sự day dứt hàng chục thếkỷ trong tâm tường cua con người. Chiến tranh là thảm họa lớn nhất của con ngưcn, một thảm họa đem lại sự tàn phá, hủy diệt và chết chóc nhiêu nhất. Chiến tranh đe dọa sự tổn tại và phát triẽn cùa con người. Khác với các thảm họa tự nhiên, chiên tranh còn tạo sự chia rẽ, hằn thù và đau khổ. w. Churchill đã từng nói: sự sợ hãi và lòng hận thù là hai cái ách lớn nhát cùa con người. Chiến tranh đem lại cả hai điểu nàv. Bởi thế, nhu cầu nghiên cứu chiên tranh đã nay sinh từ khi chiến tranh trở thành thực tế. Việc nghién cứu vấn đê này được bắt đầu từ sớm và dán dán được đặt vào trong bối canh khoa học. Các môn Triết học, Lịch sử, Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phân tích 363 Xã hội học, Chính trị học, Tâm lý học,... đểu coi chiến tranh như một phần đôi tượng nghiên cứu. Chính trị quốc tê' là một trong những môn khoa học nghiên cứu chiên tranh nhiều nhất. Chiến tranh là đôi tượng nghiên cứu chủ yếu của môn Chính trị quôc tế. Điều này được quy định bởi bản châ't chính trị của chiến tranh, bởi tác động to lớn của chiến tranh tói nền chính trị quổíc tế. Các nghiên cứu chính trị quôc tế đầu tiên đều xoay quanh chiến tranh. Và cho đến nay, chiến tranh vẫn luôn là một vâh đề trung tâm trong nghiên cứu chính trị quốc tế. Trong nghiên cứu xung đột và chiến tranh của môn Chính trị quốc tế, có nhiều phương diện và đối tượng cụ thể. Ví dụ, khái niệm xưng đột quốc tế và chiến tranh; phân loại xung đột và chiến tranh; mối quan hệ giữa xung đột với chiến tranh; nhận thức luận, bản thể luận và phương pháp luận trong nghiên cứu chiến tranh; nguyên nhân xung đột và chiến tranh; chủ thể của chiến tranh; tính châ't chiến tranh; các yếu tố tác động tới chiến tranh; biện pháp giải quyết chiến tranh; các mô hình tương lai của thế giới có khả năng loại trừ chiến tranh... Trong đó, CỐ gắng tập trung nhất là tìm hiểu nguyên nhân chiên tranh. Việc nghiên cứu này nhằm hai mục đích. Thứ nhât, trả lời câu hòi chiên tranh có phải là tất yếu không? Thứ hai, xác đinh nguvên nhân đê’ từ đó có thể tìm ra phương cách ngăn ngừa xung đột và loại trừ chiên tranh. Việc nghiên cứu nguyên nhân chiến tranh hiện nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Sự đa dạng ý kiến vẫn rất 364 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té duớ* góc nhìn lịch sử phô biến. Mặc dù vậy, vói tính chát đa nganh và liên ngành, với những đặc thù riêng cua chiên tranh trong quan hệ quôc tế, việc nghiên cứu chiến tranh từ góc độ chính trị quốc tế có thê đóng góp phẩn nào cho lý luận chưng về chiến tranh. Hơn nữa, việc tiếp tục tìm hiếu nguyên nhân chiến tranh vẫn là sự đóng góp cho hòa bình và ổn định của nước ta trong thời đại ngày nay. Bài viết này được phân chia trên những cấp độ nghiên cứu. Sự phân chia này được bắt đầu bằng Kenneth N. Waltz trong tác phẩm Man, the State and War (Con người, Nhà nước và Chiến tranh). Trong đó, ông đề ra các câp độ cá nhân, quốc gia và hệ thống (quốc tê) đê phân tích các hiện tượng chính trị quốc tế nói chung, nghiên cứu nguyên nhân chiến tranh nói riêng. Việc nghiên cứu theo các cấp độ chứng tỏ được những ưu điếm nhât định trong nghiên cứu chính trị quôc tế. Hiện nav, cách thức nghiên cứu theo các câ'p độ phân tích đã được ứng dụng khá rộng rãi. Xung đột và chiến tranh là một hiện tượng chính trị quốc tế và hiện diện trong quan hệ quốc tế nên việc nghiên cứu theo các cấp độ cũng thích hợp đối với đề tài này. Xuất phát từ lý do đó, nguyên nhản chiến tranh sẽ được xem xét lần lượt trên câp độ phán tích cá nhân, quốc gia và hệ thống. 1. Nguyên nhân chiến tranh cấp độ cá nhân Chiến tranh do con người tiến hành, vì mục đích nào đó cua con người, đối tượng chống lại củng la con người. Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phàn tích 365 Đó là cơ sở của câp độ phân tích cá nhân. Việc nghiên cứu nguyên nhân chiến tranh câp độ cá nhân nhằm giải quyết vấn đề hết sức quan trọng: chiến tranh xuất phát từ bản chất con người hay không? Nếu không phải, xu hướng sử dụng bạo lực quân sự của chiến tranh chịu ảnh hưởng từ những yếu tố nhân tính gì? Trả lời câu hỏi đầu tiên sẽ cung câ'p cơ sở cho việc xác định khả năng tất yếu của chiến tranh. Trả lời câu hỏi thứ hai sẽ giúp tìm cách hạn chế một nguồn gốc của chiến tranh. Trong các ý kiến cho rằng chiến tranh thuộc về bản châ't con người, cách tiếp cận khá khác nhau. Xuất phát từ góc độ tâm lý học, trong bức thư gửi cho Albert Einstein năm 1932, Sigmund Freud (1856-1939) đưa ra sự giải thích về nguyên nhân chiến tranh và hành vi hiếu chiến của con người mà ông quy cho thuộc về bản năng. Theo ông, trong mọi sinh vật đều có bản năng phá hoại. Bản năng phá hoại có thế được gọi là bản năng chết (death-instinct). Với sự trợ giúp của những cơ quan nhất định, bản năng chết trờ thành lực đẩy phá hoại khi nó dẫn dắt hành động của con người hướng ngoại, chống lại các đối tượng bên ngoài. Bản năng này quy định hành vi của con người nhằm phá hủy các thực thế bên ngoài đê bảo vệ cuộc sống và sự tồn tại của mình1. Freud cũng cho rằng tác động của bàn năng 1. Sigmund Freud, "W hy W ar?", Richard K. Betts, Conflict after the Cold War - Arguments on Cause o f War and Peace, Pearson & Longman, New York, 2005, tr. 167. 366 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc té dưới góc nhin lịch sủ chết không phải hoàn toàn tiêu cực mà có thẻ còn có lợi và giúp phá bỏ sự trì trệ. Bên cạnh bản năng chét, trọng con người còn có bản năng sống mà Freud gọi là bản năng sinh lý. Bản năng này thể hiện ở sự đấu tranh của con người nhằm duy trì sự sông của minh. Điểu đó có nghĩa đấu tranh để duy trì sự sông thì khó lòng tránh được việc sử dụng bạo lực và gây ra cái chết cho kẻ khác. Như vậy, sự tổn tại cả hai bản năng sông và chết, đặc biệt bản năng chết đã tạo ra tâm lý hiếu chiến khi con người muốn giành sự sông cho mình bằng cách hướng cái chêt sang cho kẻ khác. Bản năng tâm lý này được Freud cho là căn nguyên dẫn đên xâm lược và bạo lực. Tuy nhiên, có hai điểm cho thây Freud tò ra không thực sự chắc chắn trong luận điếm này. Thứ nhắt, Freud chỉ nêu ý kiến chứ không đưa ra chứng cứ thực tiễn đê chứng minh1. Ngoài ra, ông không nói rõ mối liên hệ như thế nào giữa bản năng sống và bản năng chết và tác động ra sao của mối liên hệ đó tới tâm lý hiếu chiến. Có lẽ, đây mới chỉ là sự nhận định có tính phỏng đoán nhiẽu hơn là một luận cứ khoa học. Thứ hai, sau đó ông lại cho rằng nhân loại càng tiến hóa, con người càng dễ kiếm soát bản năng đối với sự hiếu chiến. Freud nhấn mạnh vai trò cùa văn hóa. Theo ông, văn hóa là một quá trình có tính hữu 1. Conway w. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 22s' Century, M cGraw -Hil], Boston, 1998, bàn dịch của Khoa Quốc tê'học, Trường Đại học khoa học xả hội và nhân văn, t.l, tr. 105. Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phân tích 367 cơ, có liên quan đến sự thay đổi vật chât của cơ cấu và có khả năng thay đổi tinh thần mà ông đã ví như quá trình thuần hóa sinh vật. Phát triến văn hóa sẽ "củng cố trí tuệ vốn có xu hướng làm chủ cuộc sông bản năng của chúng ta" và sẽ "hướng sức đẩy xâm lược vào nội tâm "1. Do sự phát triển của văn hóa, Freud cho rằng con người sẽ phản đối chiến tranh nhiều hơn và chiến tranh nếu có là đê chống lại xu hướng áp đặt tình thần lên con người. Như vậy, ít nhất Freud đã không cho rằng giữa bản năng chết với chiến tranh có mối liên hệ tất yếu. Học giả người Italia Franco Fomari cũng tiếp cận nguyên nhân chiến tranh trên cơ sở phân tích tâm lý nhưng không hoàn toàn giống vói Freud. Trong tác phẩm The Psychoanalysis o f War (Phân tích tâm lý chiến tranh) (1966), Franco Fomari cho rằng chiến tranh không chi nhằm mục đích bảo vệ mình chông lại kẻ xâm lược bên ngoài, mà còn xuất phát từ nỗi lo sợ hoang tưởng bên trong con người. Đây là nỗi lo sợ hoang tường một cách vô thức về kẻ thù tưởng tượng trong chính bản thân con người tựa như một cơn ác mộng. Trạng thái tâm lý này được tạo ra bời nhũng nguy hiếm tưởng tượng và hoàn toàn hão huyền của thế giới nội tâm. Fomari cho rằng con người luôn bị nỗi lo lắng này ám ảnh sâu sắc. Vì thế, con người đã coi chiến tranh như một cách thức đê trấn áp nỗi sợ hoang tương của chính mình. Giành một thắng 1. Sigmund Freud, "W hy W ar?", Sđd, tr. 167. 368 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc tế ơưó1 góc nhin lịch sử lợi bên ngoài sẽ giúp con người giám bớt nôi lo sợ bên trong và tăng thêm phần tự tin vào bản thán. Fomari cho rằng nỗi lo sợ hoang tưởng về kẻ thù bên trong là rất lớn. Ông so sánh nguyên nhân tâm lý này như phấn chìm của núi băng trôi, còn mục đích bảo vệ chống lại kẻ thù bằng xương bằng thịt bên ngoài chi là phần nổi mà thôi. Theo Fomari, chiến tranh được tiến hành chủ yếu đê giải quyết nỗi lo sợ hoang tưởng bên trong bản thân con người chứ không phải vì tranh giành quyền .lực hay lợi ích nào khác. Từ đó, ông kết luận rằng chức năng an ninh quan trọng nhât không phải nhằm bảo vệ chúng ta trước kẻ thù bên ngoài mà là đế tìm ra kẻ thù đích thực1. Quan điếm của Franco Fomari cũng bộc lộ những điểm yếu nhất định. Thứ nhất, cho đến nay, việc giải thích nguyên nhân chiến tranh bằng phân tích tâm lý đã bị phê phán là không đủ sức thuyết phục. Bản chất sinh học của mối liên hệ giữa nỗi lo sợ hoang tưởng với tính hiếu chiến và từ đó là chiến tranh vẫn chưa được khẳng đinh. Như Margaret Mead đã khẳng định, chiến tranh chi là sự phát minh của con người chứ không phải là sự đòi hòi vể mặt sinh học2. Thứ hai, sự hoang tưởng và nỗi sọ hãi không hăn là trạng thái tâm lý thường xuyên cùa con người. 1. Franco Fomari, The Psychoanalysis o f War, Richard K. Betts, Sđd, tr. 171-172. 2. Xem Margaret Mead, "Warfare is only invention - not biological necessity", Richard K. Betts, Conflict after the Cold War Arguments on Cause o f War and Peace, Sđd, tr. 176-180. N guyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 369 Vì thê' nó khó trở thành nguyên nhân chung cho mọi cuộc chiến tranh. Nhìn chung, nguyên nhân tâm lý này khó được chứng minh phổ biến trong thực tiễn. Mặc dù vậy, theo chúng tôi, nghiên cứu nguyên nhân chiên tranh từ góc độ tâm lý học nói chung, quan điểm của Franco Fomari nói riêng vẫn đáng được lưu tâm khi có thê giúp tìm ra sự tác động khác nhau của yếu tô' tâm lý trong một số trường hợp chiên tranh cụ thế. Cũng dựa trên nghiên cứu bản năng nhưng đi theo một hướng khác là nghiên cứu của Konrad Lorenz. Trên cơ sở nghiên cứu môi liên hệ giữa bản năng và hành vi của động vật, ông cho rằng sự hiếu chiến là bản năng của các loài động vật, nhưng đó là bản năng sống và h o ạ t động chức năng của chúng. Trong tác phẩm On Aggression (Sự hiếu chiến) (1966), Lorenz đã chứng minh tính hiếu chiến là có ích cho sự tổn tại của động vật1. Các loài động vật phải chiến đấu đế tranh giành thức ăn, bạn tình và nơi cư trú. Chiên đấu là thường xuyên đê phục vụ cho chính các hoạt động chức năng của động vật và giúp chúng tổn tại được trong thế giới cùa sự cạnh tranh sinh tổn. Ban năng, mục đích và quá trình như vậy đã hình thành nên tính hiếu chiêh của các động vật. Con người là một động vật dù là bậc cao nhung cũng phải sống và hoạt động chức năng. Từ đó, Lorenz suy luận rằng, tổn tại trong hoàn 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21s1 Century, Sdd, tr. 106. 370 Một s ố vấn đ ề lý luân qu an h ệ q u ố c tế dưỡi g ó c nhìn lịch sủ cảnh và điều kiện sống tương tự, con nguời củng phải hiếu chiến để thực hiện hoạt động chức năng và duy trì sự tổn tại của mình. Nhưng do con người thiếu nanh vuôt đẻ đối phó vói đổng loại nên đã tạo ra vũ khí đê bù đăp cho sự hạn chế tự nhiên đó. Bản năng tổn tại, hoạt động chức năng và nhu cầu phát triển vũ khí đã tạo nên bạo lực và chiến tranh trong xã hội loài người. Luận điểm của Konrad Lorenz đã bị phê phán ở điểm quy kết cơ sở chung giữa động vật vói con người1. Khác với loài vật, con người vốn là sinh vật bậc cao, có khả năng tự nhận thức và có lý trí. Hơn nửa, con người luôn mang trong mình giá trị xã hội, và xã hội con người lại khác xa với xã hội loài vật. Bởi thế, sự so sánh của Lorenz là không cân xứng. Liệu có chắc chắn rằng trong xã hội loài vật, chi có mỗi tranh giành bạo lực mà không có sự liên kết bầy đàn và sự phân chia lãnh địa như một sô' nghiên cứu sinh vật học đã chỉ ra? Ngoài ra, sự có ích của tính hiếu chiến chi là một mặt của vấn đề. Mặt trái rất lớn của nó như sự tàn phá và giết chóc... liệu có thường xuyên là sự phù hợp với bản năng sống và hoạt động chức năng cua con người hav không? Con người có lý trí nên hoàn toàn có thê chọn lựa được cách thức quan hệ khác cho hoạt động chức năng chứ không nhất thiết chỉ mỗi tranh giành bằng bạo lực. Hơn nữa, nếu đi theo quan điếm của Konrad Lorenz, sẽ 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, tr. 106. N guyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 371 Tất khó giải thích sự phát triển của nhân loại vôn dựa nhiều vào hợp tác hòa bình như đã được chứng tỏ ngày nay. Ngoài ra, những luận điếm tương tự với Lorenz gắn sự phát triến vũ khí vói chiến tranh cũng bị phê phán rằng đó chỉ là sự che đậy cho lợi ích ích kỷ của các nhà chính trị và những nhà sản xuâ't vũ khí1. Thậm chí, những người phê phán còn cho rằng đôi khi chính sự phát ưiến của vũ khí lại giúp cho hòa bình và an ninh như trường hợp vũ khí hạt nhân đã giúp ngăn chặn cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Một cách tiếp cận khác dựa trên cơ sở di truyền. Nếu tính hiếu chiến là sự di truyền thì hành vi bạo lực là cái gì đó gần với bản năng và chiến tranh là khó tránh khỏi. Trong tác phẩm Sociobiology: The New Synthesis (Sinh học xã hội: Sự tổng hợp mới) của mình, Edward O.VVilson cho rằng khả năng phân biệt bạn thù trong đầu óc con người có tính di truyền. Vì thế, con người dễ có xu hướng tiếp nhận bạo lực như phương cách giải quyết xung đột2. Theo Wilson, sự phân biệt bạn thù có tính di truyền quy định sự tổn tại xuyên thời gian của xung đột, chiến tranh và bạo lực. Có lẽ Wilson đã dựa trên thực tế tồn tại sự "hằn thù lịch sử" đê nhận đinh về tính di truyền của sự phân biệt bạn thù. Và cũng có thể, Wilson cho rằng sự căm ghét có 1. Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, Lỷ luận quan hệ quôc tê', Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2001, tr. 189. 2. Conway w. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Tum o f the Ĩ V Century, Sđcỉ, tr. 106. 372 Một số vấn đê lý luân quan hè quốc té ơướt góc nhin lịch sử khả năng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn và lam con người dễ dàng hơn ưong việc sử dụng công cụ bạo lực đê giải quyết mâu thuẫn. Bên cạnh đó, kết hợp với phân tích tâm lý, Wilson còn cho rằng sự thiếu thốn các nhu câu tâm sinh lý râ't dễ dẫn đến xung đột .và bạo lực. Tuy nhiên, Wilson cũng tỏ ra băn khoăn về mối liên hệ thực chất giữa chiên tranh và bản năng di truyền khi ông thùa nhận hành vi hiếu chiên của con người rất khác nhau và sự hợp tác giữa người với người vân là có thế. Mặc dù vậy, quan điểm của Wilson vẫn có xu hướng coi chiên tranh là cái gì đó gần vói tất nhiên. Theo chúng tôi, kết luận của Wilson vê tính di truyền cua sự phân biệt bạn - thù như một nguvên nhân của chiến tranh chưa đủ cơ sở khoa học. Sự phân biệt bạn - thù là có nhưng không thường xuyên và dễ thav đổi. Bạn có thê biến thành thù và ngược lại. Phân biệt bạn - thù là hiện tượng tâm lý nhiều hơn là thuộc bản năng. Xhìn chung, nhiều nghiên cứu dựa trên cách tiếp cận sinh học xã hội vẫn chưa đưa ra được kết luận con người có mã số di truyền tính hiếu chiến hay không và tính hiếu chiến có phai là sản phẩm của sự di truyền sinh học hav không. Ngoài ra, sự phân biệt bạn - thù nếu có tính di truyển thi cũng không tâ't yếu dẫn đến bạo lực và chiéíi tranh. Lịch sừ đã cho thấy điểu này. Kẻ thù vẫn tồn tại nhưng bạo lực và chiến tranh chưa chắc đã xảy ra. Như vậy, nếu dựa trên cơ sò di truyền, chưa đủ chứng cứ để có thê khăng đinh tính hiếu chiến là cái gì đó gắn với bàn chát con người. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 373 Tuy nhiên, nghiên cứu của Wilson cũng đã gợi ý cho chúng ta về các cung bậc tình cảm và tâm lý lịch sử vốn là những yếu tố có mặt trong nhiều xung đột và chiến tranh, đặc biệt là các xung đột sắc tộc. Cũng dựa trên bản năng nhưng đi theo hướng khác, Bertrand Russell và những người khác cho rằng nguyên nhân chiến tranh chủ yếu xuất phát từ bản năng chiêm hữu của con người. Bản năng chiếm hữu khiến con người tranh giành đất đai, của cải và các quyền lợi khác. Trong cuộc tranh giành như sự tất yếu của cuộc sông, con người sẵn sàng sử dụng bạo lực đê’ chiếm hữu hoặc bảo vệ sự chiếm hữu của mình. Quan điếm của Russell dường như được thực tiễn ủng hộ khi chiến tranh được tiến hành đa phần dựa trên tính toán lợi - hại: tôi được cái gì, mất cái gì nếu tiến hành chiến tranh. Nó cũng được lịch sử ủng hộ khi cho thấy rât nhiều cuộc chiến tranh là sự tranh giành đất đai, khu vực ảnh hưởng, nguồn lợi kinh tế... Tuy nhiên, Bertrand Russell cũng cho rằng "bản năng" này có thể được kiềm chế và giảm bớt. Nhờ đó, chiến tranh cũng có thê được giảm theo. Nhưng dù sao, chiến tranh vẫn sẽ còn bởi chiếm hữu là bản năng con người. Chúng tôi thừa nhận sự có lý nhất định trong quan điếm của Bertrand Russell khi cho rằng chiếm hữu nhiều khi là nguyên nhân dẫn đến bạo lực và chiên tranh. Quan điểm cùa Bertrand Russell có ý nghĩa khá lớn trong việc tìm hiếu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược liên quan đến chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên, vẫn 374 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc té ƠUỚI góc nhìn lịch sủ có những điểm cần phải bàn thêm. Thứ nhát, chiếm hữu có nên coi là thuộc về bản năng con người hay khỏng? Nếu như thế thì giải thích thế nào vê xã hội nguvẻn thuy với các công xã thị tộc? Giải thích thế nào vế nhũng tài sản công trong xã hội hiện đại? Thứ hai, chiếm hữu có phải lúc nào cững được thực hiện bằng con đường bạo lực hay không? Chủ nghĩa trọng thương trước kia và các cố gắng phát triển kinh tế qua thương mại, công nghệ, đâu tư... đang phổ biến ngày nay cũng xuất phát từ động cơ chiếm hữu, nhung không phải bằng bạo lực. Rõ ràng, vẫn có những cách khác đê đạt được sự chiếm hữu mà không cấn chiến tranh. Thứ ha, nếu chiếm hữu là nguyên nhân phô biến thì giải thích thế nào về các cuộc chiến tranh tôn giáo, xung đột sắc tộc... vổn tranh chấp chủ yếu vê các giá trị tinh thần. Thứ tư, sự chiếm hữu có giới hạn hay không? Có thê nói ước muốn của con người là vô tận nhung ước muôn của cá nhân luôn gặp phải những giói hạn chủ quan và khách quan mà con người lý trí có thể tự nhận thức được. Hom nữa, mạng sống mói l à mong muốn chiếm hữu lớn nhất của con người mà chiến tranh lại l à sự đ e dọa mạng sống lớn nhất, kê cả đối vói phía chù động. Rõ ràng, "bản năng chiếm hữu" không hoàn toàn l à mẫu số chung của bạo lực và chiến tranh. Như vậy, một lần nữa, khó có thê quy kết bản năng chiếm hữu là nguyên nhân chung và quy định tính tất yếu của chiến tranh. Một cách tiếp cận khác cũng tương đói phó bién là dựa trên cá tính. Cách tiếp cận này dựa vào những cá tính Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 375 có liên quan đến bạo lực của một nhóm người rất nhỏ là các nhà lãnh đạo - những người làm ra quyết định chiến tranh. John Stoessinger trong tác phẩm Why Nations Go To War (Tại sao các nước lại tham gia chiến tranh) đã nghiên cứu sự liên quan giữa chiến tranh với đặc điểm cá tính cua các nhà lãnh đạo. Một nhận định quan trọng của ông là quyết định tham gia chiến tranh của các nhà lãnh đạo nhiều khi không hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, mà chịu ảnh hưởng nhiều của tình cảm và tính cách cá nhân. Các nhân tố tâm sinh lý đã quy định tình cảm và tính cách cá nhân. Đến lượt mình, cá tính và tình cảm cá nhân lại hoàn toàn có thế chi phối quyết định tham gia chiến tranh. Stoessinger cho rằng sự yếu đuối của cá nhân và một sô đặc điếm cá tính khác như sự hoang tường, trạng thái thần kinh, cái tôi... đều có thế đóng góp vào nguyên nhân chiên tranh. Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh, cá tính của cá nhân và các trạng thái tình cảm có thê dẫn đến sự thiếu nhận thức của các nhà lãnh đạo trong quyết định chiến tranh1. Tuy nhiên, Stoessinger cũng như nhiều nghiên cứu theo hướng này vẫn chưa đưa ra được cá tính nào là có giá trị phô quát đối với bạo lực và chiến tranh. Nếu các cá tính đó có thật, giữa chúng vói chiến tranh có mối quan hệ tât yêu hay không? Cá tính có phai là yếu tố quyết định chiến tranh hay không? Chiến tranh là một việc lớn, liên quan 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21ft Century, Sdd, tr. 106-107. 376 Một số vấn đề lý luân quan hệ quốc tế dưới goc nhìn lịch sủ đến cả xã hội và sự tổn tại nên không thê được khcri phát một cách đơn giản như vậy. Hơn nữa, củng không có cơ sở nào đê xác định những người lãnh đạo nhu thê nào là hiếu chiến, hơn. Trong thực tiễn, có những người trước ủng hộ bạo lực nhưng sau lại ủng hộ hòa bình hoặc ngược lại. Môi liên quan giữa cá tính với tính hiếu chiến là có nhưng không phải là quan hệ nhân quả và củng không mang tính quyết định. Mặc dù vậy, điếm đáng lưu ý của quan điểm này là không còn quy hành vi bạo lực và sự hiếu chiến vào bản chất chung của con người, mà đã cố gắng ,ằcá thê hóa" chứng. Bên cạnh đó, cách tiếp cận dựa trên cá tính của Stoessinger cũng đem lại nhũng gợi ý quan trọng về phương pháp luận nghiên cứu chiến tranh khi dựa trên vai trò của cá nhân trong lịch sứ. Cách tiếp cận này cũng cho rằng con người không hoàn toàn là công cụ của khách quan, mà còn chịu chi phôi của những yếu tố chủ quan, kể cả trong những quyết định lớn như tiến hành chiến tranh chẳng hạn. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, với sự nổi lên cùa chù nghĩa hiện thực (realism), việc nghiên cứu chiến tranh đã có thêm một cách tiếp cận mới dựa trên lý trí. Cách giải thích này đang ngày càng phổ biến trong các cóng trình nghiên cứu về chiến tranh. Nó được xây dựng trén cơ sờ của cách tiếp cận chủ nghĩa lý trí (rationalism) - một cách tiếp cận dựa trên giả định các chú thê luôn hành động một cách có lý trí. Theo cách tiếp cận này, có hai luóng ý kiến. Luồng thứ nhât cho rằng, do sự chi phối cua quyển lực Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 3 77 trong chính trị quôc tế, quyết định đi đên chiến tranh là kết quả của sự phân tích và lựa chọn lý trí của các nhà lãnh đạo. Họ quyết định chiến tranh bởi vì chiến tranh có thế đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn cũng như giúp nâng cao quyền lực quốc gia. Đây cũng là quan điểm của lý thuyết lợi - hại (theory o f cost and benefit) cho rằng mọi hành vi chính sách đều xuất phát từ sự tính toán kết quả có thê thu được lợi nhiều hơn hay lợi bất cập hại. Luồng ý kiến ngược lại, chẳng hạn như của Spinoza, thì cho rằng quyết định chiến tranh cũng xuất phát từ lý trí nhưng là từ sự lệch lạc về lý trí và những sai lầm trong nhận thức1. Tương tự như vậy, Stephen Van Evera coi ảo tưởng về chiến thắng hay ảo tưởng về "một cuộc chiến tranh rẻ" cũng là những nguyên nhân gây ra chiến tranh2. Cũng có quan điểm như vậy mặc dù xuất phát từ cơ sở cá tính, John Stoessinger cho rằng sự thiếu nhận thức của các nhà lãnh đạo về khả năng và sức manh đối thủ có thê là nguyên nhân cơ bản nhất của chiến tranh3. Như vậy, khác vói tất cả các quan điếm trên, quan điểm này không đề cập nhiều đến cơ sở sinh học như nguyên nhân chiến tranh. Nó thiên nhiều hơn về bàn chất 1. Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, Ly luan quan he quoc te, Sdd, tr. 190. 2. Stephen Van Evera, Cause o f War - Poiver and the Roots o f Conflict, Cornell University Press, Ithaca and London, 1999, tr. 16-33. 3. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, tr. 106-107. 378 Một số vấn đề lý luân quan hê quóc tế dưới góc nhìn lịch sử xã hội và tính lý trí của chiến tranh. Củng giông nhu cách tiếp cận cá tính, quan điểm này là cố gắng cá thẻ hóa chứ không quy chung cho con người. Tuy nhiên, diêm đáng lưu tâm của cách tiếp cận lý trí là ờ chỗ: chiêh ưanh không phải là tất yếu. Nếu lý trí có thê giúp thây chiên tranh là có lợi thì cũng có thê giúp thấy hòa bình là có lợi hơn. Nhận thức và lý trí con người đều có thê thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh chủ quan lẫn khách quan. Chúng tói thừa nhận lý trí là một phần quan trọng của chiến tranh, nhung rõ ràng khó mà tuyệt đối hóa lý trí. Trong một quyết định chiến tranh, lý trí hay thiếu lý trí đêu không phải là tất cả và đểu không đủ sức thuyết phục. Thực tế cho thây có cuộc chiến tranh phản ánh tính toán lý trí của người lãnh đạo quốíc gia nhưng có cuộc thì không. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này khi xem xét nguyên nhân chiên tranh trên câp độ quốíc gia. 2. Nguyên nhân chiến tranh cấp độ quốc gia Trong con người có cả bản chát sinh học và ban chất xã hội. Quá trình tương tác chặt chẽ vói xã hội đã tạo nên bản chất xã hội và hệ thống giá trị của con ngươi. Nhận thức và hành vi con người luôn chịu tác động cua môi trường xã hội. Điều đó có nghĩa, chiến tranh - vốn do con người tiến hành và nằm trong quan hệ giữa ngươi với người - cũng chịu chi phối bời các tác động xã hội tư bén ngoài chứ không đơn thuần chì từ các nguyên nhản sinh học bên trong. Thực tế này dân đến yêu cẩu vé mặt Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tich 379 phương pháp luận: tìm hiếu nguyên nhân chiến tranh cần được tiến hành cả trong môi trường xã hội trực tiếp của con người. Đó chính là cấp độ phân tích quốc gia. Cấp độ phân tích quốc gia (state level o f analysis) còn được gọi là cấp độ trong nước (domestic level) hay cấp độ xã hội (societal level). Việc nghiên cứu nguyên nhân chiến tranh ở cấp độ quốc gia nhằm tìm ra sự liên quan giữa chiến tranh với các yếu tố nội tại của quốc gia hay xã hội. Đây là xu hướng đi tìm nguyên nhân chiến tranh trong bản chất và nội dung hoạt động chính trị - xã hội bên trong khuôn khổ quốc gia. ơ cấp độ này, dựa trên ý tưởng ban đầu của Immanuel Kant (1724-1804), lý thuyết hòa bình dân chủ cho rằng có sự liên quan giữa chiến tranh với chê'độ chính trị hay kiêu dạng nhà nước. Trong nhiều năm gần đây, một số học giả nước ngoài đã cố chúng minh chế độ dân chủ theo kiêu phương Tây thường có xu hướng hòa bình hơn các quôc gia xã hội chủ nghĩa và chế độ độc tài. Họ lập luận rằng, trong các nền dân chủ, chính phủ do nhân dân bầu ra và chiu sự kiếm soát thực tế của nhân dân. Vì thê' các quyết định của chính phu thường phàn ánh nhiều hơn ý nguyện của nhân dân. Nhân dân vốn mong muốn hòa bình nên chính sách đối ngoại cua các quốc gia này củng có xu hướng hòa bình hơn. Ngược lại, trong chế độ độc tài và chế độ xã hội chủ nghĩa, chính sách chi phụ thuộc vào một cá nhân hay một nhóm cầm quyền nên quyết đinh cua họ thuồng phàn ánh lợi ích cục bộ chứ 380 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c tế dưởi g ó c nhìn lịch sử không xuât phát từ lợi ích cộng đống. Vì thế, chiến tranh cũng được quyết định dễ dàng hơn. Những người theo quan điểm này dựa vào thực tế không có chiên tranh giữa các nước dân chủ phương Tây từ sau Chiên tranh thế giới thứ nhất để chứng minh cho luận điểm của mình. Tuy nhiên, lập luận này không đủ vững chắc cả vê lý thuyết lẫn thực tiễn. Chúng chi là những nhận định có tính kinh nghiệm, thiếu cơ sở và không có giá trị phổ quát. Về mặt lý thuyết, cớ sở nào quy định mối liên hệ giữa chế độ chính trị/kiểu dạng nhà nước với xu hướng chiến tranh? Nếu có thì đó có phải là mối liên hệ tât yếu không? Tất cả các câu hỏi này cho đến nay đểu chưa có câu trả lời. Những liên hệ nhất định được chỉ ra trong lập luận trên chi có tính điều kiện và không phải là tất yếu. Trong một nghiên cứu về vấn đề này, Richard Merritt và Dina Zinnes đã cho thấy không có sự liên quan chặt chẽ nào giữa sự lựa chọn chiến tranh vói kiểu dạng nhà nước nói chung, dù dân chủ hay phi dân chủ1. Vê' mặt thực tiễn, lập luận trên còn tỏ ra kém thuyết phục hơn. Thứ nhất, việc dựa vào mỗi chứng cứ sau năm 1945 không có chiến tranh giữa các nước dân chù phương Tây là sự chứng minh yếu. Thực tế lịch sử cho thây, các nước này đã tham gia chiến tranh nhiều hơn so với các nước có chế độ chính trị hay kiểu dạng nhà nước khác. 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, tr. 107. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 381 Hai cuộc chiên tranh thế giới và vô số các cuộc chiến tranh xâm lược đều do chúng gây ra. Thậm chí, Jack s. Levy còn đưa ra nhận xét rằng chiến tranh do các nền dân chủ tiến hành có thê mang tính hủy diệt nhiều hơn1. Thứ hai, lập luận trên chi tính đến nền hòa bình tương đôi giữa các nước phương Tây mà không tính đên rất nhiều cuộc chiến tranh do các nước này gây ra ở Thế giói thứ ba. Ngay trong thòi kỳ Chiến tranh lạnh, các nước dân chủ phương Tây tham gia chiến tranh ở đây nhiều hơn bất cứ kiểu dạng nhà nước nào khác. Thứ ba, trong các chế độ dân chủ phương Tây, không hiếm trường hợp công luận đã thúc đẩy chính phủ đi đến quyết định chiên tranh như trường hợp quyết định của Tổng thông William McKinley phát động chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898-1900)2 hay quyết định tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhẩt của Tổng thống w. Wilson năm 1917. Không thê nhìn công chúng và công luận đơn giản như cái gì đó không thể thay đổi. Thứ tư, thực ra tình trạng hòa bình giữa các nước dân chủ phương Tây sau năm 1945 phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Sự lệ thuộc nhất định vào Mỹ, cùng đối đầu với Liên Xô, sự tồn tại của vũ khí hạt nhân... là những yếu tô góp phần ngăn chặn chiến tranh giữa chúng nhiều hơn là bản chất chế độ. 1, 2. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, tr. 108. 382 Một s ố vấn đ ê lý luận qu an h ệ q u ố c tế dư òt g ó c nhìn lịch sử Dù sao, ưong một chế độ mà tiêng nói cua nhân dân có sức nặng đối vói chính phủ thì kha nàng ngăn chặn chiên tranh sẽ cao hơn. Nhưng đó lại không phai là “độc quyển" cùa chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Lập luận trên đã được phô biến còn vì mục đích tuyên truvển cho "tính ưu việt" của các giá trị dân chủ theo kiếu phương Tây. Cũng trên cấp độ này, một xu hướng nghiên cứu khác đi tìm nguyên nhân chiến tranh trên góc độ kinh tế. Xu hướng này gắn nguyên nhân chiến tranh với lợi ích kinh tế của giai cấp, của bộ phận xã hội nào đó hay của quốc gia. Trong tác phẩm kinh điển Chủ nghĩa đếqu óc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1918), V.I. Lênin cho rằng trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bàn sẽ tiến lên giai đoạn chủ nghĩa đ ế quốc. Nhà nước tư bàn chu nghĩa sẽ trở thành nhà nước đ ế quốc. Bị lợi ích kinh tế cua giới đẩu sỏ chi phối, các nước đếquôc lao vào giành giật thị trường và khu vực ảnh hưởng. Mâu thuẫn giữa các nước đ ế quốc ngày càng cao và chiến tranh là không tránh khỏi. Phát hiện quan trọng của Lênin là tìm ra sự liên quan giữa động lực kinh tế của giai cấp tư sản cầm quyển - bản chât đế quốc của nhà nước - chiến tranh đếquôc. Quan điếm gắn lợi ích kinh tê' của chủ nghĩa đ ế quõc vói chiến tranh được khá nhiều học giả phương Táv chia sẻ. Ví dụ, nhà lý tường chủ nghĩa J.A. Hobson đã quv kết chù nghĩa đế quốc là nguyên nhân chủ yếu gây ra chién tranh. Ống cho rằng chủ nghĩa đê' quốc xuâ't phát tử động cơ lợi nhuận và tình trạng thiếu thị trường trong nước. Điẽu này N guyèn nhân ch iến tranh - c á c cấ p đ ộ p h ân tích 383 dẫn đên canh tranh giữa các nước và trở thành chất xúc tác cho chủ nghĩa quân phiệt. Do đó, chiến tranh đã xảy ra1. Trên một phạm vi xã hội rộng hơn, nhiều học giả đã ủng hộ quan điểm gắn kinh tế với nguyên nhân chiến tranh nhưng theo những cách tiếp cận khác nhau. Hoặc khái quát bản chất chiếm hữu của con người thành lợi ích cộng đồng và được thể hiện thành lợi ích quốc gia. Quan điểm này được phản ánh trong nhiều nghiên cứu về hiện tượng chiến tranh bành trướng và xâm lược vốn diễn ra khá nhiều trong lịch sử. Hoặc chiến tranh xảy ra từ sự thiếu hụt tài nguyên cho sự phát triển quốc gia. Ví dụ, một số học giả đã cố gắng giải thích nguyên nhân kinh tế dẫn đến quyết định gây chiến tranh Thái Bình Dương của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhâ't là bởi đất nước này nghèo tài nguyên, nền kinh tế bị tàn phá trong cuộc Đại suy thoái (1929-1933) và sự cấm vận của Mỹ. Tương tự như vậy là những giải thích vê dầu mỏ như nguyên nhân của chiến tranh tại Trung Đông và vùng Vịnh hay những dự báo về các cuộc xung đột tương lai đối với tài nguyên không tái tạo được2. Cho dù dấu vết kinh tế trong nguyên nhân chiến tranh là khá phô biến trong lịch sử nhưng quan điếm này củng 1. John Baylis & Steve Smith, The Globalization o f World Politics, Oxford University Press, 1997, tr. 151. 2. Xem Thom as E. Homer-Dixon, "Environmental Changes as Cause of Acute Conflict", Richard K. Betts, Conflict After the Cold War: Arguments on Cause o f War atid Peace, Sdd, tr. 567-581. 384 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té ƠUỜI góc nhìn lỊCh sư không đạt được sự nhất trí. Những nguoi phê phán cho rằng không phải tất cả các cuộc chiên tranh đêu xuât phát từ nguyên nhân kinh tế. Vô số cuộc chiéh tranh xảy ra vì những giá trị tinh thần mà không phai vì vật chât. Thứ nữa, cho dù chiên tranh có xuất phát từ kinh tê thì bản thân nguyên nhân này cũng đang thay đôi. Có thê trước kia kinh tế là động lực chiến tranh thì nay lại là động lực hòa bình. Thương mại, trình độ phát triển và sự thịnh vượng sẽ giúp ngăn chặn chiến tranh bởi chiến tranh sẽ phá hoại chính mục đích và lợi ích kinh tế đó. Hobson và những nhà chủ nghĩa lý tưởng khác cũng cho rằng phát triển tự do kinh doanh sẽ là con đường loại trừ chiên tranh. Quan điếm này dường như đang được thực tiễn quan hệ quổc tế hiện đại ủng hộ. Giao dịch kinh tế phát triển mạnh và do đó xung đột kinh tế cũng tâng lên. Nhưng chiến tranh nóng đã không vì th ế mà diễn ra1. Điều này được giải thích là chiến tranh sẽ gây mâ't mát và sụp đổ nhiều hơn. Giao dịch kinh tế phát triển làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau và điều này khiến cho chiên tranh được coi như việc tự bắn vào chân mình. Mặc dù khó lòng quy kết nguyên nhân kinh tế cho mọi cuộc chiên tranh nhung nguyên nhân kinh tế nói chung, luận điểm của Lênin nói riêng là có ích trong nghiên cứu chiến tranh từ góc độ kinh tế chính trị quổc tế. 1. Chúng tôi có sự phân biệt nhâ't định giữa xung đột và chiến tranh. Xin tham khao Hoàng Khắc Nam, "Khái niệm va co sỏ cùa xung đột trong quan hệ quô'c tê", Tạp chí Nghiên cừu cháu Áu số 2 (68), 2006, tr. 11-21. Nguyên nhân chiến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ản tích 385 Xu hướng nghiên cứu thứ ba trong cấp độ này liên quan đên đặc tính của quốc gia. Trong xu hướng này, có nhiều hệ quy chiêu khác nhau. Một trong số đó là chủ nghĩa Darwin xã hội (social darwinism). Dựa ưên quan điểm của Charles Darwin (1809-1882) về sự tiến hóa của giói tự nhiên qua quá trình cạnh tranh sinh tổn và chọn lọc tự nhiên, thuyết này đã vận dụng ý tưởng đó vào giải thích xã hội. Xuất hiện từ thế kỷ XIX, chủ nghĩa này mưu tìm giải thích nguyên nhân chiên tranh theo ý tưởng của Darwin về giới tự nhiên. Về đại thể, họ coi quốc gia có đặc tính sinh học và chiến tranh là cách thức đấu tranh sinh tổn giữa các quốc gia. Thông qua chiên tranh, những quốc gia tốt và mạnh sẽ tổn tại, còn quốc gia xấu và yếu sẽ bị tiêu vong. Thuyết định mệnh quốc gia là một cố gắng như vậy. Đây là một thuyết khá nổi tiêng bởi vai trò của nó đối với sự hình thành và phát triển môn địa-chính trị. Đại biểu đầu tiên của thuyết này là Karl Ritter (1779-1859). Dựa trên định luật tiên hóa của Darwin, Ritter đê' ra thuyết hữu cơ về các nền văn hóa, trong đó các nền văn hóa giống như sinh vật cũng có sự sinh trưởng, lớn lên và chết đi. Tương tự như động vật, các nền văn hóa/văn minh cũng phải đấu tranh sinh tồn. Theo Ritter, muốn tổn tại, một nền văn hóa/văn minh cần đấu tranh giành không gian và đè bẹp các đối thủ cạnh tranh vói nó. Gần giống vói Ritter, nhà địa-chính trị Đức Friedrich Ratzel (1844-1904) cho rằng quốc gia giống như một thực thê hữu cơ và vì thế luôn phải chiến đâu không ngừng để chiếm lấy và mở rộng đất sống. Qua cuộc đấu 386 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế ƠƯỚI góc nhìn lịch sủ tranh này như sự đào thải tự nhiên, chi có quốc gia mạnh mới tổn tại. Sau đó, các quốc gia manh sẽ tiếp tục đâu tranh vói nhau để giành quyền bá chủ. Lý luận vê tinh hữu cơ và "không gian sinh tồn" của quốc gia sau nav đã được Đức Quốc xã sử dụng đê biện minh cho ý đổ bành trướng và bá chủ của mình rằng đó là theo quy luật tự nhiên. Cũng coi quốc gia như một sinh vật hữu cơ và phải bành trướng, nhưng học giả Thụy Điên Rudolf Kjellen (1864-1922) đỡ tiêu cực hơn. Ông cho rằng quốc gia là sinh vật có ý thức, có lý trí và có tình thần nên bành trướng đât đai không phải là con đường duy nhất. Quốc gia có thê dùng kỹ thuật và văn hóa để thay thê1. Sự giải thích nguyên nhân chiến tranh dựa trên hệ quy chiếu sinh học như vậy xem chừng khá thô thiển khi đánh đổng thực thể quốc gia với các loài vật. Nó không giải thích được hiện tượng chiến tranh khi chưa có quốc gia. Nó càng không giải thích được việc sô' lượng quốc gia tăng lên cững như sự phô biến các nguyên tắc hiện nay như tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác quổc tê' chung sống hòa bình... Trong chừng mực nào đó, lv thuyết này không hoàn toàn là sự giải thích nguyên nhân chiến tranh, mà còn có vai trò kích thích chiến tranh. Bên cạnh chủ nghĩa Darwin xã hội, còn một số quan điêm khác quy nguyên nhân chiến tranh cho những đặc 1. Lewis M. Alexander, Mó thức chính trị thê'giới, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Sài Gòn, 1963, tr. 8. Nguyên nhân chiến tranh - các cáp độ phân tích 387 điểm khác nhau của quốc gia. Dựa trên đặc điểm lịch sù có nhiều cuộc chiến tranh và bạo lực, có những quốc gia, dân tộc được coi là có truyền thống chiến tranh và tính "hiếu chiên" hơn các quốc gia, dân tộc khác. Quô'c gia, dân tộc có tính "hiếu chiến" hơn dễ khiến chiến tranh xảy ra nhiều hơn. Cách nhìn nhận này dựa trên lịch sử nhưng lại thiếu tính lịch sử khi coi "tính hiếu chiên" là bất biến. Lịch sử đã cho thấy truyền thống bạo lực và tính hiếu chiến hoàn toàn có thê thay đổi được. Ngoài ra, cơ sở của tính hiếu chiến nhiều khi được đo đạc bằng thời gian chiên tranh trong lịch sử. Vậy đâu là tính hiếu chiến trong hai trường hợp: Chiến tranh nhiều nhưng là nạn nhân, chiến tranh ít nhưng lại là kẻ xâm lược? Quan điểm này chi có lý ở điểm, các quốc gia, dân tộc gặp chiến tranh nhiều thì dễ nhạy cảm hơn với chiến tranh. Nhưng nhạy cảm không có nghĩa là hiếu chiến. Có quan điếm khác quy "tính hiếu chiến” thuộc vê đặc tính văn hóa của cộng đồng hay quôc gia nào đó như trường hợp văn hóa Hồi giáo chính thống chằng hạn. Theo đó, chiến tranh dễ xảy ra hơn bởi đặc tính văn hóa, niềm tin và hệ thống giá trị của cộng đổng này hiếu chiến hơn cộng đổng khác. Cũng như trên, thực tế cho thấy cái gọi là "tính hiếu chiến" của một cộng đồng văn hóa hoàn toàn có thể thay đổi tuỳ theo hoàn cành lịch sử. Ngav trong cộng đổng văn hóa Hổi giáo, đa số người Hổi giáo vẫn là hòa bình. Nhũng người Hổi giáo cực đoan sử dụng chủ nghĩa khung bố chi là số ít. Sự phản kháng bạo lực 388 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c té dưới g ó c nhìn lịch sủ của họ xuất phát từ những lý do chính trị lịch sư khác chứ không hoàn toàn bởi bản chất của văn hóa Hối giáo. Một quan điểm khác cho rằng trình độ phát triên thấp kém là nguyên nhân dẫn đến chiên tranh. Nghèo đói dê sinh ra phản kháng và bạo lực. Quart điểm này lây thực tế chiến tranh giảm đi cùng vói sự phát triên văn minh đê chứng minh1. Cũng có người dựa vào thực tế chiến tranh cục bộ hiện nay xảy ra ở các nước chậm phát triến nhiểu hơn hẳn so vói các nước phát triển. Vì thế, muốn ngăn ngừa chiên tranh thì cần nâng cao ý thức cua nhân dân qua giáo dục. Tô chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa cùa Liên hợp quốc (UNESCO) ủng hộ quan điểm này khi đề cao vai trò giáo dục như biện pháp hạn chê chiến tranh. Mặc dù chứa đựng cơ sở hợp lý nhất định, song quan điểm này không giải thích được nhiều cuộc chiến tranh của các nước "văn minh" chông lại các nước "chậm phát triển". Và suy cho cùng, trình độ phát triển mang tính điều kiện hơn là nguyên nhân chiến tranh. Xu hướng nghiên cứu thứ tư là chủ nghĩa vị nữ (feminism) mới nổi lên sau Chiên tranh lạnh. Là một lý thuyết xã hội học chính trị, chủ nghĩa này mưu tìm giải thích chiên tranh bằng nguyên nhân giới tính. Theo chù nghĩa vị nữ, nam giới thường hiếu chiên hơn va cũng sẵn sàng sử dụng bạo lực hơn là nữ giới. Thế giói chúng ta 1. Quan điểm này có sự gẩn gui với Freud khi cho rằng văn hóa phát triển sẽ giúp làm giảm chiến tranh. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h àn tích 389 đang sông gồm các quôc gia và xã hội do đàn ông thông trị, vì thê' cũng dễ xung đột và chiến tranh hơn. Những người theo chủ nghĩa vị nữ cho rằng đặc điểm giới tính này của đàn ông được quy định không chỉ bởi cơ sở sinh học. Trên góc độ văn hóa - lịch sử, họ giải thích rằng tính hiếu chiên của đàn ông được củng cố qua quá trình lâu dài của xã hội phụ hệ, của lịch sử chiên tranh liên miên nên đã trở thành truyền thông, giá trị và biểu tượng sức mạnh của đàn ông. Vì thê' đàn ông thường sẵn sàng theo đuổi chiên tranh hơn phụ nữ. Chiên tranh góp phần quy định vai trò của đàn ông và xã hội phụ hệ. Ngược lại, xã hội phụ hệ bị ngự trị bởi đàn ông với các truyền thông, giá trị và biểu tượng sức mạnh nên có xu hướng dẫn đến chiến tranh nhiều hơn chế độ mẫu hệ. Thế giới này hầu như là phụ hệ nên kết quả là tình trạng bạo lực và chiến tranh không chấm dứt. Tóm lại, theo chủ nghĩa vị nữ, những đặc điếm giới tính của đàn ông đã tạo nên một thế giới cua sức mạnh và chiến tranh. Chủ nghĩa vị nữ phê phán quan niệm của chủ nghĩa hiện thực coi chiến tranh như sự đương nhiên là lý thuyết có tính đàn ông và vị đàn ông. Trong con mắt các nhà chủ nghĩa vị nữ, phụ nữ có xu hướng hòa bình hơn bời vai trò người mẹ, bời sức mạnh và kha năng thích nghi với hành vi chiến tranh không như đàn ông. Theo họ, thê giới này sẽ ít bạo lực hơn, ít chiến tranh hơn nêu người phụ nữ được bình đẳng với nam giới, nhất là trong quá trình quyết định chính trị và chiến tranh. Và khi đó, lịch sử sẽ không còn là history nữa mà là herstory. 390 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Chủ nghĩa vị nữ đem lại một cách nhìn mới vê thẻ giới. Nó cũng có dâ'u ấn nhất định trong nghiên cứu chinh trị quốc tế. Tuy nhiên, những lý giải của nó vê chiến tranh bộc lộ tính thiếu chắc chắn về khoa học. Thừ nhát, không có chứng cứ để khẳng định xã hội phụ hệ có chiến tranh nhiều hơn xã hội mẫu hệ. Đon giản là thòi kv mẫu hệ quá ngắn và không đế lại nhiều tư liệu lịch sừ. Chúng ta dê bị quan điếm này thuyết phục bời hầu như chi được chúng kiến xã hội phụ hệ. Rất khó có thể lập luận xã hội mẫu hệ như cái gì đó đối lập với xã hội phụ hệ. Thứ hai, về cơ sở sinh học của quan điểm, các nhà khoa học cho đến nay vẫn không thể chứng minh được sự liên quan giữa nhiêm sắc thế XX hay XY với tính hiếu chiên, sự liên quan giữa số lượng testosterone thâp hơn của phụ nữ với xu hướng hòa bình. Ngoài ra, những chứng cứ mới do các nhà chủ nghĩa vị nữ đưa ra cũng không đủ để thuvết phục1. Thực tế vẫn có những phụ nữ lãnh đạo sẵn sàng sử dụng bạo lực chẳng kém đàn ông như Võ Tắc Thiên của Trung Quốc, nữ hoàng Nga Catherina đã gây ra nhiẽu cuộc chiến tranh, nữ hoàng Anh Victoria trong chiến tranh chống Mỹ năm 1862, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi trong chiến tranh với Pakixtan năm 1971, hay Golda Meir cua Ixraen 1. Ví dụ, Birgit Brock-Utne đã tiến hành điều tra xã hội học ở một sô' nước châu Âu và cho rằng phụ nữ có xu hướng hoa binh hơn đàn ông qua số lưọng phụ nữ không muốn tăng phòng nhiều hon đàn ông. chi phí quốc Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 391 trong cuộc chiến Yom Kippur năm 1973 và "người đàn bà thép" Margaret Thatcher của Anh trong cuộc chiến quần đảo Falkland năm 1982... Cùng là con người với những giá trị chung, câu chuyện "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” không phải là hiếm trong lịch sử chiến tranh. Theo chúng tôi, đàn ông có thê dễ đi vào chiến tranh hơn phụ nữ bời lịch sử, giá trị truyền thống, quá trình xã hội, thế chế quốc gia... chứ không hoàn toàn là do đặc điểm sinh học. Thực tế chiến tranh liên miên đã góp phần quyết định vai trò của đàn ông chứ chưa hẳn vai trò của đàn ông quyết định chiến tranh. Giữa đặc điểm giới tính và chiến tranh không có quan hệ nhân quả. Như vậy, khó mà kết luận đàn ông hiếu chiên hơn phụ nữ. Cuối cùng, mặc dù có những hợp lý nhất định, luận điểm đàn ông dễ đi vào chiến tranh hơn phụ nữ chỉ có ích đê tham khảo chứ không nên được sử dụng như một lý thuyết chung. Cách tiếp cận thứ năm trên cấp độ này là chủ nghĩa sắc tộc!dân tộc. Cách tiếp cận này cho rằng sự tồn tại chủ nghĩa sắc tộc/dân tộc vói bản sắc và lợi ích khác nhau nên dê dân đến xung đột, và xung đột giữa chúng dễ dẫn đến chiến tranh. Chu nghĩa này được củng c ố qua chiều dài lịch sừ nên kha năng gây ra chiến tranh củng tương đối vững bền về mặt thời gian. Thê' giới này bao gồm hàng nghìn sắc tộc nên nguyên nhân chiến tranh này củng rất phổ biến về mặt không gian. Chủ nghĩa sắc tộc/dân tộc chứa đựng hiếm họa chiến tranh cả về phương diện vật chât lẫn giá trị tình thần. Nó còn được coi là một nguồn 394 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới goc nhìn lịch sủ trên có thê có lý đối với các cuộc xung đột săc tộc. Nhung sẽ là không Ổn khi coi nó là nguyên nhản bao trùm và xuyên suốt. Không hiếm cuộc chiên tranh xuât phát từ các nguyên nhân khác. Trong nhiêu truơng hợp, chú nghĩa sắc tộc/dân tộc bị lợi dụng và lôi kéo chứ không phải là nguyên nhân. Hơn nữa, giải thích thẻ nào vê các cuộc nội chiến giữa những người anh em chung một dòng máu mà có người cho rằng nhiêu khi đẫm máu hơn chiến tranh quốc tế. Ngoài ra, cũng thật không ôn khi quy kết cho chủ nghĩa sắc tộc/dân tộc chi có tác động một chiều tới chiến tranh khi trong chủ nghĩa nàv chứa đựng cả lợi ích phát triển, nhu cầu hợp tác và kha năng hòa hợp dân tộc. Khả năng giải thích chưa đầy đủ nguyên nhân chiên tranh trên cấp độ cá nhân và quốc gia dẫn đên yêu cầu phải bô sung. Cấp độ hệ thống chính là sự bò sung đó. 3. N guyên nhân ch iến tra n h cấp độ hệ th ố n g Thế giới phân chia con người thành những quốc gia khác nhau. Giữa các quốc gia diễn ra râ't nhiếu xung đột và chiến tranh. Nếu cấp độ cá nhân đi tìm nguyên nhản chiên tranh ưong bản thân con người, cấp độ quốc gia đi tim bên trong quốc gia, thì câ'p độ phân tích hệ thông ịsystemic ỉevel of anaỉysis) đã cố gắng chi ra những nguvên nhán chiến tranh xuâ't phát từ bên ngoài quôc gia. So vói hai cấp độ phân tích trên, câ'p độ phân tích hệ thống đã bó sung thêm vếu tô' "khách quan" vào nghiên cứu chiên tranh. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 395 Những người theo chủ nghĩa hiện thực (realism) đã phát hiện ra môi liên hệ nhâ't định giữa chiên tranh vói những yếu tô'bên ngoài, đặc biệt là sự tương tác quyền lực giữa các quốc gia. Theo họ, sự tương tác này chính là yếu tô' bên ngoài quan trọng nhất quy định nên nguyên nhân chiên tranh. Sau này, cùng vói sự phát triêh và ứng dụng lý thuyết hệ thông vào khoa học xã hội, những người theo chủ nghĩa hiện thực mới (neo-reaỉism) đã bô sung thêm khi đặt tương tác quyển lực vào frong sự vận hành của hệ thống quôc tế và đi tìm nguyên nhân chiến tranh từ hệ thống quôc tế. Xu hướng tìm hiếu nguyên nhân chiến tranh tà sự tương tác quyền lực giữa các quốc gia xuất hiện từ rât sớm và được bắt đầu từ Thucidides (471-401 trước CN)1. 1. Có quan điểm coi chủ nghĩa hiện thực của Thucidides và Hans Morgenthau là chủ nghĩa hiện thực câu trúc I (dựa vào câu trúc trong hệ thông sinh học của con người) và chủ nghĩa hiện thực mới của Kenneth Waltz là chủ nghĩa hiện thực II (dựa vào câu trúc của hệ thông quôc tê) [Xem Timothy Dunne, Realism, John Baylis & Steve Smith, The Globalization o f World Politics, Oxford University Press, 1997, tr. 112-113]. Đ ể phù họp với cách phân chia của Kenneth Waltz và dựa vào quan điểm trên, trong bài này, chúng tôi vân đê nguyên nhân chiến tranh từ sự tương tác quyển lực thuộc câp độ phân tích hệ thống. Tuy nhiên, theo quan điểm riêng cua chúng tôi, có lẽ nên tách nguyên nhân này thành một cấp độ phân tích riêng - cấp độ liên quốc gia (interstate level) - thì hợp lý hơn bời câ'p độ phân tích hệ thống cua Kenneth Waltz dựa vào hệ thống quốc tê' chứ không phài là hệ thống sinh học của con người. Nếu dựa vào yếu tố sinh học thì nên đế ờ trong câ'p độ phân tích cá nhân là phù họp hon. 396 Một s ố vấn đ ê lý luận qu an h ệ q u ố c té ơưởi g ó c nhin lịch sử Thucidides cho rằng chiến tranh xuất phát tù nỗi lo sợ của quốc gia này trước sự lớn mạnh của quốc gia khác. Vì coi sự lớn mạnh đó là mối đe dọa nên các quốc gia có xu hướng phát động chiến tranh trước đê ngăn chặn sự thay đổi cán cân quyền lực không có lợi cho mình1. Trên hệ quy chiếu quyền lực, chiến tranh được coi là xuất phát từ bán chât chính trị của sự tương tác liên quốc gia. Tuy mới chi đề cập sự tương tác quyền lực mà chưa để cập hệ thống quốc tế, nhung Thucidides đã cho thây khả năng nguyên nhân chiến tranh có thể đến từ bên ngoài, cụ thê là từ sự thay đổi cán cân quyền lực giữa các quốc gia. Bởi quyền lực có thê biến đổi và coi mối đe dọa từ bên ngoài là thường xuyên, Machiavelli (1469-1527) cho rằng mục tiêu sông còn của quốc gia là sự tổn tại và nhiệm vụ căn bản của quốc gia trong quan hệ quôc tế chính là "an ninh quốc gia". Quốc gia cần sử dụng mọi phương tiện và cách thức, kế cả sử dụng bạo lực đế đảm bảo sự tổn tại. Điều đó có nghĩa sử dụng bạo lực là điều birth thường và chiến tranh là lẽ đương nhiên. Thomas Hobbes (1588-1679) cung cấp thêm một cơ sở lý luận quan trọng cho quan 1. Có ý kiến cho rằng nỗi lo sợ này có bàn chát sinh học (John Bavlis & Steve Smith) và vì thê' nên xếp nó vào câ'p độ cá nhân. Chúng tôi không nghĩ như vậy bời vì nỗi lo sọ này chi la một hiện tượng tâm lv nay sinh từ nhũng tác động nhâ't định cua hoan canh chứ không thuộc vế ban chât con người. Hay nói cách khác, sự thay đối tương quan quyển lực là cái có trước và là nguvén nhán. Nỗi lo sợ có sau và là kết quả của sự thay đối cán cân quyển lực. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 39 7 điểm này là tình trạng vô chính phủ. Sự thiếu vắng cơ cấu quản lý và luật pháp bên trên quốc gia chính là điều kiện nảy sinh xung đột thường xuyên giữa chúng. Không giông như trong quốc gia có nhà nước, luật pháp và bộ máy cưỡng chế, môi trường vô chính phủ được ví như cuộc sống ở rừng rậm. Trong đó, các quốc gia phải tự lo cho mình và "luật rừng" là cách thức chủ yếu điều chinh hành vi quan hệ giữa các quốc gia. Xuất phát từ quan điểm trên, các nhà hiện thực chủ nghĩa đi đến kết luận: sống trong tình trạng vô chính phủ, quốc gia đều có xu hướng theo đuổi quyền lực trong quan hệ quốc tế để bảo đảm sự tồn tại của mình. Quyền lực là một "trò chơi tổng sô' bằng 0", tức là quyền lực tăng lên của nước này đổng nghĩa với sự suy giảm quyền lực của nước kia. Bởi thế, xung đột quyền lực là thường xuyên và tất yếu. Do đó, chiên tranh rất dễ xảy ra. Chiến tranh càng dễ xảy ra hon khi các nhà hiện thực chủ nghĩa, đặc biệt là Carl von Clausewitz (1780-1831) coi lực lượng quân sự là phương tiện cơ bản để đạt được quyền lực và là thành tố quan trọng nhất của quyền lực. Ông đã khẳng định điểu này khi tuyên bố "Chiến tranh là sự tiếp tục chính trị bằng phương tiện khác". Điều đó có nghĩa, chiến tranh là cách thức đê đạt được mục tiêu chính trị. Cũng coi tương tác quyền lực là nguyên nhân dẫn đêh chiến tranh, Edward Mansfield đã cố gắng làm rõ hơn mối liên quan giữa tương quan quyền lực với chiến tranh qua lý thuyết tập trung quyền lực (theory of power concenừatìon). 398 Một s ố vấn đ ề lý luận quan hệ quóc té ƠOỚI goc nhìn lỊCh sứ Qua phân tích và thống kê các trường hợp chiên tranh trong lịch sử, Edward Mansfield cho rằng chiẻn tranh xuát phát từ mức độ chênh lệch quyển lực giữa các quốc gia. Vê đại thể, mức độ chênh lệch quyến lực giũa các quốc gia lớn thì nguy cơ xảy ra chiến tranh ít bơi kết qua chiến tranh có thê thấy trước một cách dễ dàng. Đối với mức độ chênh lệch quyền lực thấp, tức là quyển lực các nước tương đối ngang bằng, các nước cũng khóng dám mạo hiểm đi vào chiến tranh vì không ai nắm chắc được phãn thắng. Trong khi đó, khả năng chiên tranh cao nhât nằm trong mức độ chênh lệch quyền lực vừa phải, tức là các nước có quyền lực hon kém nhau không nhiều. Trong tương quan đó, quốc gia có quyển lực nhinh hon muốn gia tăng khoảng cách đê đảm bảo địa vị ưu thế. Quốc gia có quyền lực thâ'p hơn một chút thì lại muốn thay đổi mức chênh này trước khi nó trở thành quá lớn. Khi đó, chiêh tranh có thê được cả hai bên lựa chọn nhằm thay đổi tương quan quyền lực đang tổn tại1. Stephen Van Evera đưa ra một loạt gia thuyết có khả năng dẫn đến chiên tranh. Ngoài già thuyêt đầu tién vẽ lý trí và nhận thức của nhà lãnh đạo, ông đưa ra bốn già thuyết khác đểu liên quan đến sự tương tác quvẽn lực liên quôc gia. Theo đó, chiên tranh có thê xày ra khi quốc gia có được nhũng lợi thế tù việc động viên lực lượng hoặc 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21s1 Century, Sdd, tr. 92. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c cấ p đ ộ p h ân tích 399 tâh công trước; quyền lực tương đối của quốc gia dao động mạnh khiến cho cơ hội và khả năng tổn thương đều lớn hơn; việc kiểm soát các nguồn chính trị (sự thịnh vượng, giáo dục, đâ't đai, bầu cử, sức mạnh quân sự, quyển lập pháp...) có khả năng tăng lên và mở rộng đôi vói các nguồn khác; và khi quốc gia nhận thấy việc chinh phục là dễ dàng1, tức là tương quan so sánh lực lượng khá chênh lệch. Lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực về môi quan hệ giữa tương tác quyền lực với chiến tranh đã chi phối chính trị quôc tế trong hàng thế kỷ. Tuy nhiên, đến thời hiện đại, chủ nghĩa hiện thực đã bị phê phán mạnh mẽ bởi không giải thích được nhiều vận động và hiện tượng mới trong nền chính trị thế giới. Đôi với quan điểm về chiến tranh, nó cũng bị phê phán vì không tính đến hoặc coi nhẹ một SỐ yếu tố có khả năng làm giảm xung đột quyền lực và chiến tranh như sự nôi lên của chủ thể phi quốc gia, thê chế hóa đang làm giảm tình trạng vô chính phủ, vai trò thúc đẩy hợp tác của lợi ích kinh tế - văn hóa - xã hội, vai trò của giá trị như đạo đức và chuẩn mực trong xung đột quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, sự bùng nổ những vâh đề toàn cầu,... Rõ ràng, sự quy kết tranh chấp quyền lực cho nguyên nhân chiến tranh của chu nghĩa hiện thực là không hoàn chinh, thái độ phủ nhận khả năng hòa hợp lợi ích của con 'người và quốc gia của nó 1. Stephen Van Evera, Cause o f War - Power and the Roots o f Conflict, Sdd, tr. 4, 105. 400 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dướt góc nhìn lịch sủ là có vâh đề. Thực tế cho thấy, dù tranh chảp quyển lực phô biến thì chiến tranh cũng không phai lá cách thức duy nhất để giải quyết. Ngay nhiều nhà hiện thực chủ nghĩa đã coi cân bằng lực lượng là biện pháp có thê ngăn chặn được chiến tranh. Những khiếm khuyết này đã được chú nghĩa hiện thực mới C Ố gắng khắc phục bằng việc bô sung vai trò của hệ thống quốc tế đối với chính trị quốc tế. Hệ thống quốc tế là một tập hợp những mổi quan hệ giữa các quốc gia của thế giới, được cấu trúc theo những luật lệ và mẫu hình nhất định. Trong mỗi hệ thống quốc tế, có một cấu trúc phân bố quyền lực riêng. Bên trong hệ thống, dưới tác động của sự phát triển chính trị, quân sự, kinh tế, công nghệ..., lợi ích quốc gia và quan hệ quyển lực củng vận động và thay đổi. Các quá trình này dẫn đên sự thay đổi cấu trúc phân bô' quyền lực. Khi sự thay đổi đạt đến mức nào đó thì sẽ làm suy yếu cơ sở của hệ thông và hệ thống bị mất cân bằng. Hệ thống bị lâm vào tình trạng khủng hoảng và buộc phải thay đổi. Mặc dù có thế điểu chỉnh tình trạng này bằng con đường hòa bình "nhưng cơ chế chủ yếu của thay đổi trong suốt quá trình lịch sừ là chiên tranh,..."1. Như vậy, chiến tranh được coi là có liên quan chặt chẽ tói câu trúc phân bố quyền lực nói riêng và sự thay đổi hệ thông quốc tế nói chung. 1. Robert Gilpin, "Chiên tranh và thay đổi trong chính trị quổc tế', dân theo Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, Lý luận quan hé quốc t ế Sđd, tr. 218. Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 401 Theo quan điếm này, tình trạng vô chính phủ của hệ thống quốc tế và sự vận động của cấu trúc phân bô' quyền lực đã cho phép chiến tranh xảy ra. Điều đó có nghĩa nguyên nhân chiến tranh nằm cả trong hệ thông quốc tế chứ không đơn thuần chi từ tương tác quyền lực liên quốc gia như quan niệm của chủ nghĩa hiện thực. Cũng khác vói chủ nghĩa hiện thực coi cân bằng lực lượng như biện pháp duy nhất có thể ngăn chặn chiến tranh, chủ nghĩa hiện thực mới cho rằng câ'u trúc thứ bậc quyền lực của hệ thông quốc tế cũng sinh ra những tác động giúp kiềm chế chiến tranh. Các nhà hiện thực chủ nghĩa mới gần gũi với nhau ở vâri đề này nhưng lại bất đổng ở điểm: cấu trúc phân bô' quyền lực như thế nào trong hệ thông quốc tế thì chiến tranh dễ xảy ra hơn, hoặc ít xảy ra hơn? Đầu tiên là hệ thông m ột cực. Đó là hệ thông quốc tế có một trung tâm quyền lực lớn hơn hẳn các phần tử khác. Các phần tử khác phải xoay quanh và chịu sự chi phối của trung tâm này. Cơ cấu này cũng được phản ánh trong lý thuyết về sự bá chủ (theory o f hegemony). Bá chủ là ưu thế quyền lực vượt trội đên mức có thể một mình sắp xếp và chi phối các luật lệ trong quan hệ quốc tế. v ề mặt nào đó, có thể hiếu hệ thống một cực là tôn ti trật tự quyển lực quốc tế do một bá chủ lãnh đạo1. 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Longman, New York, 1999, tr. 85. 402 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c té dướ* g óc nhìn hch sư Những người ủng hộ cấu trúc một cực biện luận răng cực duy nhất hay bá chủ sẽ thực hiện đuợc một vài chức năng của chính phủ thế giới và qua đó giúp hạn chê tình trạng vô chính phủ - điều kiện quan trọng cua bạo lực và chiên tranh1. Cực duy nhất muốn duy tri cơ cấu phân bố quyền lực và sự ổn định của hệ thống đê đàm bảo quyển lực vượt trội của mình. Do đó, nó cố gắng quản lý và kiềm chế chiên tranh, sẵn sàng can thiệp vào những bất ổn trong hệ thống có nguy cơ đe dọa cơ câ'u tổn tại đang có lợi cho mình. Với ưu thế vượt trội, nó có thể áp chế được nhiều cuộc xung đột có khả năng dẫn đến chiên tranh. Từ đó, những người ủng hộ quan điểm này cho rằng câu trúc phân bố quyền lực một cực ít khả năng dẫn đên chiên tranh hon. Quan điểm này được sự ủng hộ nhiệt tình của những người theo thuyết Ổn định bá chủ (hegemonial stability theory) vốn là lý thuyết về kinh tế chính trị quốc tế. Lý thuyết này cho rằng có thể thiết lập được một chế độ pháp lý ổn định, nhất là trong kinh tế chính trị quốc tế dựa trên sự tổn tại bá chủ. Bá chủ là người đưa ra các chuẩn mực và luật lệ cho chế độ đó. Bá chủ cững là người khuyến khích quốc gia khác tuân theo chế độ. Bá chủ có đủ năng lực và quyển lực đế giám sát sự thực thi và đàm bào tính hiệu lực của chế độ. Trong khi đó, những người phản đôi cho răng cáu trúc này hoàn toàn có khả năng dẫn đêh chiên tranh. Chiéh tranh 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Longm an, New York, 1999, tr. 85. N guyên nhân ch iến tranh - c á c cấ p đ ộ p hán tích 403 có thế xảy ra khi quốc gia bên dưới nào đó tăng trưởng quyên lực và thách thức địa vị của bá chủ. Sự cạnh tranh giữa bá chủ và quôc gia mới nổi lên sẽ tạo nên tình trạng căng thẳng. Và nguy cơ chiên tranh là hoàn toàn có thể. Quốc gia mới nổi lên có thể gây chiến trước đê thay đổi địa vị bá chủ và câu trúc một cực. Ngược lại, bá chủ cũng có thê’ tiến hành chiên tranh trước nhằm duy trì lợi ích và địa vị bá chủ của mình. Ở đây, sự tranh giành quyền lực bá chủ chính là nguyên nhân chiên tranh. Đó chính là quan niệm của lý thuye't bá chủ về chiến tranh (hegemonic theory of war). Theo Robert Gilpin, lý thuyết này được chứng minh trong thực tiễn nhiều hơn bất cứ lý thuyết nào khác về nguyên nhân chiêh tranh. Tuy nhiên, Gilpin cũng thừa nhận rằng lý thuyết bá chủ không giải thích được tất cả các cuộc chiến tranh1. Ngoài ra, trong cấu trúc một cực cũng chứa đựng kha năng khác dẫn đến chiến tranh chứ không phải chi vì tranh gianh quyền lực bá chủ. Cực duy nhât hay bá chủ đó có những lợi ích riêng, những tính toán sai lâm, sự xâm phạm chủ quyền và cưỡng bức lợi ích của quôc gia khác nên mâu thuẫn giữa chúng là không tránh khòi. Sự áp chê và can thiệp thô bạo cua cực duv nhât hoàn toàn có kha năng dẫn đến sự phan kháng bằng bạo lực của nước khac. Ví dụ, sự bá chù của Pháp dưới thời Napoleon đa dan đen 1. Conway YV. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Century, Sdd, tr. 112. 404 Một s ố vấn đê lý luận qu an h ệ q u ố c té ơưòi g o c nhìn lỊCh sủ sự chống lại của gần như toàn bộ châu Ảu. Bẽn cạnh đó, vì nhiêu lý do khác nhau, chiên tranh vẫn diên ra giữa các nước trong vùng ngoại vi. Quyền lực cúa bá chu dù mạnh đến đâu cũng khó có thế can thiệp vào mọi chiến tranh và xung đột trên thế giói. Cấu trúc quyển lục thê giói hiện nay với vai trò siêu cường duy nhất của Mỹ đang cho thây điều này. Mỹ đã trực tiếp gây chiến ở Ápganixtan và Irắc. Vai trò SỐ 1 của Mỹ đang gặp nhiều thách thúc và sự phản đối từ xu hướng liên kết khu vực hiện nay, từ những quyền lực tiềm ẩn của Tây Âu, Nga, Trung Quốc... Cho dù đang là siêu cường duy nhất, Mỹ cũng khóng có đù khả năng can thiệp và giải quyết nhiều cuộc xung đột hiện nay trên thế giới. Bản thân lý thuyết ổn định bá chù cũng tìm thấy rất ít minh chứng trong thực tiễn kinh tê chính trị quốc tế khi vai trò chi phối của Anh đối với hệ thống thương mại quốc tế chi kéo dài khoảng 30 năm sau sự bãi bỏ Đạo luật Ngũ cốc năm 1846. Tương tự như vậy, ảnh hưởng của Mỹ cũng chi kéo dài như vậy từ năm 1945 cho đến khi hệ thống kim bản vị của đổng đôla Mỹ bị đô vỡ đâu thập niên 1970. Những người như Kenneth N. Waltz lại ung hộ hệ thông h ai cực khi cho rằng nó có khả năng tránh được chiến tranh cao hơn. Trong hệ thõng hai cực, hai quốc gia hoặc hai khối liên minh lớn đóng vai trò trung tám quyẽn lực chi phối các phẩn từ khác và toàn bộ hệ thống quốc tê1. 1. Joshua S. Goldstein, International Relations, Sdd, tr. 85. Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phân tích 405 Những người ủng hộ quan điểm trên lập luận như sau: trong cấu trúc quyển lực hai cực, sự kiềm chế lẫn nhau giữa hai bên sẽ buộc các quốc gia phải tính toán thận trọng hơn trong vâh đề chiến tranh. Sức mạnh tương đôi ngang bằng giữa hai bên cũng không cho phép chúng liều lĩnh đi vào chiến tranh. Hai cực cũng dễ thoả thuận và chấp nhận hòa bình nhiều hơn đế duy trì sự ổn định cho hệ thống và vị thế của mình. Hai cực cũng cô' gắng đảm bảo trật tự và ổn định trong từng khối đế duy trì thế lực toàn cầu của mình. Do đó, chiên tranh cũng khó xảy ra hơn. Kenneth N. Waltz đã dựa vào tình trạng phi chiến tranh nóng giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh lạnh đê chứng minh cho quan điểm của mình. Những người ủng hộ hệ thống hai cực còn đưa ra thêm những lập luận khác. Theo họ, so với hệ thống một cực, hệ thống hai cực không mang tính chuyên chế nên giảm thiểu được nhiều mâu thuẫn dẫn đến xung đột và chiến tranh. So với hệ thống đa cực vốn tản quyền hơn, hệ thống hai cực có tính tập quyền cao hơn khi quyền lực chi tập trung vào hai cực. Nhờ đó, cấu trúc hai cực có khà năng kiểm soát tình trạng vô chính phủ tốt hơn và có thê duy trì được sự trật tự của hệ thống. Ngoài ra, so với các cấu trúc khác, cấu trúc hai cực dễ kiểm soát chiến tranh ờ ngoại vi hơn, ít nhâ't là trong khối của mình. Trái với quan điếm trên, một sô' học giả khác như Aron R. (Pháp) lại coi cấu trúc hai cực có khả năng dẫn 406 Một số vấn đề lý luân quan hệ quóc té ơư<ỹ góc nhìn lịch sủ đến chiên tranh nhiều hơn. Câu trúc nàv chưa đựng sự phân liệt khá sâu sắc trong quan hệ quốc tê và sụ phân liệt này đem lại sự bất ổn định cho toàn hệ thông1. Bên cạnh đó, sự nguy hiểm còn nằm ở mức độ mâu thuân sâu sắc hơn, sự tập trung sức mạnh lớn hơn, tham vọng tiên tới bành trướng toàn cầu và mong muốn loại trù đối thù lớn hơn, sự đâu tranh giữa chúng cũng thường xuyên hơn... Chiến tranh được ngăn chặn ở trung tâm nhưng lại diễn ra không ít ở ngoại vi dưới hình thức gián tiếp "chiến tranh ủy nhiệm" (Proxy War). Trong Chiến tranh lạnh, thế giới không phải chịu chiến tranh Xô - Mỹ nhưng thuờng xuyên phải đối diện với nguy cơ chiến tranh hạt nhản và sự lôi kéo mạnh mẽ từ hai phía. Kết quả là tình trạng cáng thẳng thường xuyên trong nền chính trị quốc tế và hơn 100 cuộc chiến tranh lớn nhỏ đã xảy ra. Ngoài ra, lập luận cùa Kenneth N. Waltz cũng không hoàn toàn chính xác. Hình thái hai cực như vậy tổn tại không nhiều nên những lập luận của ông không giúp đem lại một cái nhin khái quát cho toàn bộ tiến tnnh lịch sử2. Hơn nữa, thực tế cho thấy, hình thái hai cực trước Chiêh tranh thế giới thứ nhât đã không ngăn chận được chiéín tranh mà thậm chí là ngược lại. Sự hình thanh hai khối 1. Цыганков П. А., Международные отношения, Ноьая школа, Москва, 1996, с. 141. 2. Conway w . Henderson, international Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 2 V Century, Sđd, tr. 113. Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phân tích 407 Antanta và Liên minh tay tư đã kích thích chiến tranh đến gần hơn. Và Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nô khi câu trúc hai cực đã hình thành rõ rệt. So với hệ thống hai cực trên, hệ thống hai cực trong Chiến tranh lạnh ổn định hơn và khả năng giữ trật tự cũng cao hơn. Tuy nhiên, như trên đã đề cập, hệ thống hai cực này không giúp gì nhiều cho việc ngăn chặn chiến tranh. Chiến tranh trực tiếp Xô - Mỹ không xảy ra chưa hẳn nhờ tác dụng của cấu trúc hai cực. Cả Liên Xô và Mỹ đều không dám gây chiến bởi nỗi lo sợ chung cùng bị hủy diệt trong một cuộc chiến tranh hạt nhân. Vì thế, cả Mỹ và Liên Xô đều hết sức kiềm chế đụng độ quân sự trực tiếp bởi một cuộc chiến tranh thông thường Xô - Mỹ rất dễ leo thang thành chiến tranh hạt nhân. Một quan điếm khác cho rằng hệ thống đa cực mói là cấu trúc lý tưởng đê hạn chế chiến tranh. Hệ thông đa cực là hệ thống bao gồm nhiều trung tâm quyền lực. Các trung tâm này có sức mạnh không chênh lệch nhiều và không có một trung tâm nào quá mạnh đê có thế lẩn át được các trung tâm khác. Morton Kaplan cho rằng một hệ thống đa cực đúng nghĩa phải có ít nhất năm trung tâm quyền lực. Ba hay bốn trung tâm quyền lực đều dễ bị biến đổi sang thành hệ thống hai cực. Trong hệ thống này, các quốc gia kiềm chế lẫn nhau nhằm ngăn càn bâ't kỳ ai mạnh lên, phá vỡ cân bằng lực lượng và trờ thành bá chủ. Đây là một cấu trúc khá phô 408 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhìn lịch sủ biến trong lịch sử quan hệ quốc tế. Ví dụ, cấu trúc đa cực nổi tiếng nhất là hệ thống hài hòa quyển lực châu Au trong thế kỷ XIX bắt đầu từ sau Hiệp uớc Vienna 1815. Hệ thống này giúp châu Âu ngăn chặn được nhiêu cuộc chiến tranh trong một thời gian dài. Nhiêu cuộc tranh châp thuộc địa giữa các cường quốc đã được giải quyết bằng thương lượng. Nhưng người tin vào khà năng hạn chế chiến tranh của hệ thống đa cực đã lây thực tiễn này để bảo vệ quan điểm của mình, v ề lý luận, họ cho rằng cân bằng quyền lực trong cấu trúc đa cực với sự linh hoạt của người cân bằng (balancer) là cơ sỏ quan trọng đế duy trì cơ cấu, ngăn ngừa chiến tranh. Với sự hiện diện của nhiều trung tâm quyền lực, mỗi khi có nguy cơ đe doạ, sự sắp xếp các liên minh sẽ giúp điều chinh lại cán cân lực lượng và giữ cho nó trở lại trạng thái cân bằng. Khả năng linh hoạt của cán cân lực lượng khién cho các bên khó dự đoán trước được kết quả chiến tranh nếu nó xảy ra. Vì thế, tất cả các bên sẽ ít dám phát động chiến tranh hon. Những người phản đối cho rằng hệ thống đa cực hoàn toàn có khả năng dẫn đến chiến tranh. Thứ nhất, tinh trạng linh hoạt của cán cân lực lượng không phài cha có tác động một chiều. Sự thay đổi liên tục các liên minh sẽ dẫn đến tình trạng bất Ổn định thường xuyên của hệ thống và chính điểu đó làm cho cấu trúc phân bố quvẽn lực dễ bị phá vỡ. Thứ hai, câu trúc đa cực vốn kém trật tự hon nén Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c á p đ ộ p h àn tích 409 sự thiếu tính toán của một cực nào đó rất dễ lôi kéo các quốc gia đi vào chiên tranh1. Thứ ba, sự cân bằng lực lượng giữa nhiều trung tâm là rất mong manh do luôn bị đe dọa bởi nỗi lo sợ thua thiệt quyền lực và sự khó nhận biết chính xác năng lực của mọi đôi thủ. Khi không có cùng nhận thức về sự cân bằng lực lượng, tham vọng đạt được ưu thế quyền lực của các bên càng dễ bị kích thích. Thứ tư, theo chính quan điểm của chủ nghĩa hiện thực, quôc gia luôn có xu hướng mưu tìm quyền lực lớn hơn cho mình. Vì thê' sự tranh giành địa vị giữa các trung tâm quyền lực là không tránh khỏi. Theo quan điểm của lý thuyết quá độ quyền lực (power transition theory), chính việc tranh giành địa vị hàng đầu trong cấu trúc đa cực mới là nguyên nhân quan trọng dân đên chiến tranh. Những người theo lý thuyết này đã lấy trường hợp nước Đức trong hai cuộc chiến tranh thế giói đê làm minh chứng2. Morton Kaplan cũng chi ra thêm những nhược điếm khác của cấu trúc đa cực là sự phô biến vũ khí hạt nhân sẽ khó kiểm soát hơn do khó đạt được sự đổng thuận của các cường quốc. Tương tự như vậy, vâh đề xung đột giữa các quốc gia nhỏ cũng khó kiềm chế bơi các nước lớn sẽ tranh nhau nhảy vào kiếm lợi...3. 1. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21“ Century, Sdd, tr. 113. 2. Joshua S. Goldstein, International Relations, Sdd, tr. 86. 3. Цыганков П. А., Международные отношения, Новая школа, Москва, 1996, с. 141. 410 Một số ván đê lý luận quan hệ quốc tế dươi goc nhìn lịch sủ Thực ra, chứng cứ lịch sử cho thấy mọi hệ thống quổc tế và câ'u trúc phân bố quyền lực đêu chứa đựng khả năng chiến tranh. Thực tiễn lịch sử cũng không khàng định được câu trúc nào dễ ngăn chặn chiên tranh hơn. Các nghiên cứu trên chủ yếu dựa vào tư tường q u y ể n lực của chủ nghĩa hiện thực nên chúng bao gồm cà những hạn chế của chủ nghĩa này. Chúng nêu lên được sự liên quan giữa cấu trúc phân bô' quyền lực của hệ thống quốc tê và nguyên nhân chiến tranh nhưng không khăng định được giữa chứng có sự tất yếu hay không. Các quan điếm trên đều không giải thích được toàn bộ lịch sử chiên tranh bởi chi tìm được sự chứng minh trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Đổng thời, cấp độ phân tích nàv cũng không đưa được câu trả lời chưng về nguyên nhân chiến tranh bởi nó chỉ quan tâm đên các nước lớn mà khóng chú ý đầy đủ đến các quốc gia vừa và nhỏ. Dường như nó chi thích hợp đối vói các cuộc chiến tranh xuât phát từ nguyên nhân quyền lực. Trong khi đó, nguyên nhân chiến tranh là đa dạng hơn nhiều. KẾT LUẬN Chiến tranh là một hiện tượng phức tạp va đa dạng. Việc nghiên cứu nguyên nhân của chiên tranh chưa đạt được sụ nhất trí. Sự bâ't nhât không chi xảy ra giữa các câ'p độ mà còn diễn ra trong từng cấp độ. Hẩu hết chúng không có kha năng giải thích phô quát thực tiễn chién tranh Nguyên nhân ch iến tranh - c á c c ấ p đ ộ p h ân tích 411 mà thường chi đáp ứng được một góc độ nhất định trong những trường hợp cụ thể nào đó. Cho dù cả ba câp độ phân tích đểu chưa đầy đủ nhưng việc tham khảo các lý thuyết nói trên vẫn là có ích. Chúng giúp tìm hiểu những khía cạnh khác nhau trong nguyên nhân chiến tranh. Chúng cho thấy sự đa dạng trong nguyên nhân và điều kiện chiến tranh. Chúng đem lại những cách tiếp cận khác nhau trong lý giải hiện tượng chiến tranh. Từ đó, có thêm cơ sở đề ra các biện pháp ngăn chặn xung đột, loại trừ chiến tranh ra khỏi đời sống nhân loại. Việc mưu tìm cho chúng một lý thuyết chung là cần thiết song đó lại là con đường đầy khó khăn. Chiến tranh là một hiện tượng đa nguyên nhân. Không thể tìm hiểu nguyên nhân chiến tranh dựa trên một cấp độ nào đó. Vì thế, việc xem xét nguyên nhân chiến tranh theo cách kết hợp các cấp độ phân tích có thể là hữu ích. Kenneth Waltz đã chi ra rằng các cấp độ trên “đều là một phần của tự nhiên"1. Mặc dù việc tìm kiếm nguyên nhân chiến tranh rất khó khăn nhưng hết sức cần thiết, bởi càng hiểu nhiều vê' nguyên nhân, triển vọng ngăn chặn chúng càng lớn. Qua các nghiên cún trên, ít nhât chúng ta có thể thấy được 1. Kenneth N. Waltz, "Giải thích chiến tranh", dần theo Paul R. Vioti & Mark V. Kauppi, Lý luận quan hệ quô'c tế, Sđd, tr. 189. 412 Một số vấn đê lý luân quan hè quốc tế dưới góc nhìn lịch sủ rằng chiến tranh không phải là bản chát của con người, không phải là tất yếu của xã hội và củng không hoàn toàn là sản phẩm của quan hệ quốc tế. Và như vậy, chiên tranh và bạo lực trong quan hệ quốc tê' hoàn toàn có thê được ngăn chặn hay ít nhất là được hạn chế. Chúng ta có thế hy vọng về một tương lai tổt đẹp hơn, hòa bình hon. 413 cơ sử NHẬN THỨC CỦA CUỘC CHẠY ĐUA HẠT NHÂN TRONG CHIẾN TRANH LẠNH CÓ ý kiến cho rằng sự xuất hiện vũ khí hạt nhân là cuộc cách mạng lớn nhất thê' kỷ XX. Quan điểm này còn phải tranh luận nhưng điều đó không hoàn toàn vô lý nếu nhìn lại lịch sử trước và sau năm 1945. Sự xuất hiện vũ khí hạt nhân đã sắp xếp lại bản đổ quyền lực thế giới khi làm thay đôi quan niệm về quyền lực quốc tế và kích thích những vận động mới trong trật tự thế giói. Vũ khí hạt nhân là cơ sở quan trọng hình thành nên trật tự hai cực trong Chiến tranh lạnh khi đem lại địa vị siêu cường1 cho Liên Xô và Mỹ. Vũ khí hạt nhân là một động lực tạo nên hai phe tập trung quanh Xô - Mỹ qua các quá trình hướng ly tâm vì sự đe dọa hạt nhân và hướng tâm vì sự bảo hộ hạt nhân. Vũ khí hạt nhân cũng khiên các quốc gia không thể sống như trước khi buộc họ quy định lại chiến lược quân sự, cơ cấu lại nền kinh tế, tạo định hướng mới cho khoa học và đem lại những mục tiêu mới trong chánh sách đối ngoại. 1. Siêu cường (super power) là khái niệm đê chỉ cường quốc có khả năng chi phối các cường quốc (major power) khác và đóng vai trò trung tâm đối với các cường quốc này. 414 Một số vấn đê lý luận quan hệ quóc té dướt gõc nhìn lịch sủ Vũ khí hạt nhân cũng là động thái chi phôi diên biến quan hệ Đông - Tây (Xô - Mỹ) trong Chiên tranh lạnh. Chạy đua vũ trang hạt nhân luôn là nguổn gốc đôi đâu và tâm điếm tranh giành quyền lực Xô - Mỹ. Vũ khi hạt nhản chính là vấn đề đối đầu lớn nhất và căng tháng nhát trong quan hệ Xô - Mỹ hơn là cạnh tranh về ý thức hệ hay tranh giành khu vực ảnh hưởng, bởi đây chính là mối đe dọa lớn nhất đến sự tổn tại của cả hai bên và rộng hơn là cả nhân loại. Đồng thời, vũ khí hạt nhân cũng trơ thành yếu tố chính đem lại ưu thế quyền lực cho cả hai bên. Vì thế, đối đầu trở nên quyết liệt và chạy đua hạt nhán trờ nên ráo riết trong gần như toàn bộ thời kỳ Chiến tranh lạnh. Ngược lại, sự hòa hoãn (1967-1978) hav sự hòa dịu (1985-1991) đều có động cơ liên quan đến vũ khí hạt nhân. Gánh nặng chi phí quá lớn của cuộc chạy đua hạt nhân và nỗi lo sợ trước nguy cơ bùng nô chiến tranh hạt nhân là nguyên nhân chính dẫn đến việc hai bén phải đi vào hòa hoãn, hòa dịu. Sự khác nhau căn ban giữa hai giai đoạn này cũng được phản ánh tập trung trong vân đề giải trừ vũ khí hạt nhân. Nếu trong giai đoạn hòa hoãn, Liên Xô và Mỹ chi đạt được thoả thuận luật lệ hóa sự phát triển hạt nhân1 thì trong giai đoạn hòa dịu, các CỐ gắng giải giáp và cắt giảm2 đ ã được tiến hánh. 1. Ví dụ, Hiệp ước SALT-I và ABM ký năm 1972 có nội dung quv định mức trần số vũ khí các bên được phép có. 2. Ví dụ, Hiệp ước tên lửa tẩm trung INF ký năm 1987 la hiệp ước quy định vể sự giải giáp hạt nhân, còn Hiệp ước START-I ký năm 1991 là hiệp ước quv định về việc cắt giảm số vũ khí đviêh lược. Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân. 415 Vũ khí hạt nhân dõng là cơ sờ quan trọng quv định tình trạng chiên tranh, hòa bình trong thời kỳ này. Trong chừng mực nào đó có thê nói, nền hòa bình mong manh giữa các cường quốc trong 46 năm Chiến tranh lạnh sẽ không có nếu không tồn tại vũ khí hạt nhân. Sự kiềm chế giữa các thế lực đối đầu được quy định bời nỗi sợ hãi vê việc cùng bị hủy diệt. Sự tổn tại của vũ khí hạt nhân cũng tạo nên một đặc điếm riêng của hệ thống quốc tế thời kỳ này so với các hệ thống khác đã từng tổn tại trong lịch sừ. Đây là hệ thống quốc tế thế giới đầu tiên kết thúc và chuyên giao sang hệ thống khác mà không qua một cuộc chiến tranh1. Rõ ràng, với sự xuất hiện vũ khi hạt nhân, lịch sử quan hệ quôc tê trước và sau năm 1945 đã có những khác biệt. Lịch sừ nhân loại chưa từng chứng kiên sự đe dọa nào lớn hơn nguy cơ hạt nhân. Lần đâu tiên con người đã tự tìm ra, chế tạo và phát triến một thứ vũ khí có thê hùv diệt chính mình và toàn bộ sự sống trên trái đất. Đó là một thảm họa thực sự mà không một câu chuvện cô tích nào đã hình dung ra. Ac thay, cái duy nhất con người vượt qua được sự hoang tương của mình vê' sức mạnh siêu 1. Trong lịch sừ quan hệ quốc tế thế giới, các trật tự quốc tế được nhắc đến đêu kết thúc bằng chiến tranh. Hệ thông các quổc gia độc lập ơ châu Âu (1648-1815) được bắt đầu bằng cuộc Chiên tranh 30 năm và kết thuc bằng cuộc chiến tranh cua Napoleon. Các trật tự tiếp theo là Vienna (1815-1918) và Versailles-VVashington (1918-1945) đều kết thúc bằng cuộc chiến tranh thếgiới. 416 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưcn góc nhìn lịch sử nhiên lại chính là cái chứa đựng sự huy diệt. Kho hạt nhân tạo ra đủ sức đem lại sự tận thế cho cả hanh tinh. Biết dở mà vẫn làm. Chi phí lớn nhất cho sự vô nghĩa nhâ't. Đó là nghịch lý khủng khiếp cùa cuộc chạy đua vũ trang này. Nghịch lý này do đâu lại tổn tại và đây cả thế giới tới bờ diệt vong? Tại sao vũ khí hạt nhân vừa là sự tự sát vừa là sự hủy diệt sự sống mà nhiều quốc gia lại muôn có? Tại sao chỉ một phần kho hạt nhân đang có cũng đủ tiêu diệt cả th ế giới mà cuộc chạy đua vẫn không ngừng? Tại sao các nước lại sẵn sàng ném những chi phí khổng lồ cho vũ khí hạt nhân bất châp điều kiện kinh tế để rồi thực tế không sử dụng đến?... Tât cả những mâu thuẫn này đều có nguồn gốc và quá trình từ trong Chiến tranh lạnh. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, nghịch lý này tổn tại được còn do cơ sở nhận thức. Đây chính là vâh để mà bài viết này muốn đề cập. Cuộc chạy đua bị đẩy quá giới hạn cần thiết chính bởi nhận thức chủ quan chứ không đơn giản chi bởi yêu cầu khách quan. Cốt lõi của nhận thức này chính là chiến lược hạt nhân cùa các cường quốc - một sản phẩm tư duy được những người trong cuộc coi là lôgích và người ngoài cuộc coi là điên rõ. Giải quyết bài toán này chính là giải quyết vấn đê nhận thức. Vậy chiến lược hạt nhân trong Chiên tranh lạnh được xây dựng trên những cơ sở nhận thức nào? Nội dung của nó ra sao? Vai trò của chiến lược này đối với chạy đua hạt nhân như thế nào? Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân. 417 Cơ sở đầu tiên dẫn đến sự hình thành chiến lược xây dựng, phát triển và chạy đua vũ khí hạt nhân chính là sự nhận thức được sức mạnh tàn phá khủng khiếp của vũ khí hạt nhân. Tác động cụ thể đầu tiên dễ nhận thấy của vũ khí hạt nhân là sự phá hoại của chính vụ nổ. Sức công phá của vũ khí hạt nhân mạnh về cường độ, rộng về quy mô gấp nhiều lần so vói thu ô i nổ thông thường. Nhiệt độ có thê tạo ra "bão lừa" trong thành phố, làm cháy tất cả mọi vật. Bức xạ với liều lớn có thế giết chết con người trong vài ngày, còn vói liều nhỏ thì gây ra các bệnh tật, đặc biệt là ung thư. Bức xạ tập trung mạnh nhất ở vùng lân cận vụ nô nhưng cũng có thê đi vào khí quyên tới các vùng xa dưới dạng bụi phóng xạ. Vũ khí hạt nhân cũng tạo ra 'xung điện từ trường có thể làm ngắt hoặc phá hủy thiết bị điện từ (một vài loại vũ khí hạt nhân được thiết kế để tối đa hóa tác động này). Ngoài ra, các vụ thừ vũ khí hạt nhân còn tác động thường xuyên tói khí hậu toàn cầu. Các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết về mùa đông hạt nhân (nuclear winter). Theo đó, nếu một cuộc chiến tranh hạt nhân xảy ra, trái đất sẽ trờ nên lạnh và tối hơn, đe dọa sự sống của toàn bộ hành tinh. Tính chủ quan của cơ sờ này là rất rõ. Trên phương diện nào đó, sự phát triên của con người chính là sự phát triển cùa các loại công cụ, trong đó có vũ khí. Vũ khí đem lại sức mạnh và sự tự tin. Vì thê' với ưu thế tuyệt đối so với vũ khí thông thường, việc các quốc gia muốn có vũ khí 418 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té ducn góc nhìn lịch sủ hạt nhân là điêu dễ hiểu. Vũ khí hạt nhân tro thanh phương tiện quan trọng thực hiện quyến lực quôc té củng như đê bảo đảm an ninh cho mình. Trong trường hạp này, nhận thức đã đi trước thực tiễn. Sức mạnh của vũ khí hạt nhân đã được nhận thức từ sớm và việc nghiên cứu chê tạo đã được triển khai trước khi được chứng tỏ bằng hai cuộc ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki tháng 8-1945. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cả Đức, Nhật Ban, Anh, Liên Xô và Mỹ đều theo đuổi chương trình hạt nhãn nhưng chi có Mỹ là thành công. Chương trình hạt nhân của Mỹ được bắt đầu tiến hành năm 1940 vói việc Tổng thống Roosevelt quyết định thành lập ủ y ban cô' vâh về uranium. Các thí nghiệm được tiến hành ở nhiều nơi, trong đó có ba trường đại học là Đại học Columbia, Đại học Berkelev và Đại học Chicago. Ở Liên Xô, vào đầu năm 1942, một nhà vật lý Liên Xô đã phát hiện thâ'y rằng những bài viẻt vê nguyên từ không còn được đăng trên các tạp chí khoa học cùa phương Tây chứng tỏ sự cần phải giữ bí mật. Với nhạy cam của mình, Xtalin đã ra lệnh tiến hành chương trình nghiên cứu hạt nhân của Liên Xô vào năm 1943. Đáy là thời điếm nhiểu học giả cho là mốc bắt đầu cua cuộc chạy đua hạt nhân chứ không phải sau năm 1945. Cuộc chạy đua ban đầu diễn ra chú yếu trong việc nghiên cứu và chế tạo bom A (atomic bomb), tức la loại bom dựa trên phan ứng phân rã hạt nhân. Vào những nám đấu Chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua bom A diễn ra khóng ổn ào và chi chu yếu trong nghiên cứu và thư nghiệm. Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân.. 4 19 Tới cuối năm 1948, Mỹ vẫn là nước duy nhất có vũ khí hạt nhân và chỉ có 32 quả bom tầm xa1. Tất nhiên, khả năng kỹ thuật, điều kiện tài chính và tiềm lực kinh tế là những lý do khách quan quy định số lượng hạn chế của kho bom này nhưng không thể loại trừ nguyên nhân nhận thức. Có ý kiến nói rằng lúc đầu Mỹ tin tưởng vào khả năng độc quyền hạt nhân của mình nên chỉ định duy trì số lượng vũ khí hạt nhân vừa phải đủ đế khai thác về mặt tâm lý như răn đe và ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô như tinh thần của tướng Hoyt Vandenberg: "Chỉ mỗi cuộc chiến tranh mà chúng ta thực sự thắng, đó là cuộc chiến tranh không bao giờ bắt đầu"2. Bên cạnh đó, còn có ý kiến khác cho rằng Mỹ không phát triển và sử dụng vũ khí hạt nhân bởi vì chúng không thích hợp để đối phó vói chủ trương của Liên Xô khi đó dựa vào nội chiến và xung đột nhỏ đê mở rộng khu vực ảnh hưởng3. Tuy nhiên, việc mất đi thế độc quyền hạt nhân từ năm 1949 và sự đối đầu tăng lên giữa các bên đã nhanh chóng châm dứt tình trạng này và dẫn đến cuộc chạy đua khủng khiếp nhất trong lịch sử. Khả năng tãn công và sức mạnh hủy diệt của bom nguyên tử được chứng tỏ ở Nhật Bản năm 1945 càng củng CỐ thêm nhận thức về sức mạnh của v ũ khí hạt nhân và thúc đẩy nhiều hơn lòng ham muốn sở hữu được loại vũ khí đó. Sự ham muốn này bây giờ còn liên quan đến nhận thức về tính răn đe và nỗi sợ hãi. Không có phương tiện 2, 3. Britanica 1999. 420 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử nào có thê chống lại vũ khí hạt nhân. Chi có việc sờ hữu thứ vũ khí này mới có thê tậo được kha năng răn đe quốc gia khác sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại minh. Nguy cơ cùng bị hủy diệt một cách chắc chắn sẽ khiến các quốc gia không dám phiêu lưu vào một cuộc chiên hạt nhân. Sau hai vụ ném bom kê trên, nhận thức này đã thúc đẩy cuộc chạy đua tìm kiếm năng lực hạt nhân giữa các nước lớn. Sau khi Liên Xô thử thành công bom nguyên từ lần đầu ngày 29-8-1949, cuộc chạy đua bắt đầu trờ nên công khai và ngày càng ráo riết. Tiếp đó là Anh ngày 3-10-1952, Pháp ngày 13-2-1960, Trung Quốc ngày 16-10-1964 đã thử thành công loại bom A. Câu lạc bộ cường quốc hạt nhân được hình thành. Nhận thức được rằng khả năng răn đe chi có được vói lực lượng hạt nhân ngang bằng hoặc vượt trội, kho vũ khí hạt nhân bắt đầu tăng nhanh cả vê lượng lẫn châ't. Và cùng vói đó, nguy cơ chiến tranh hạt nhân cũng lớn dần lên trong quan hệ quổc tế. Nguy cơ này càng lớn, nôi lo sợ chiến tranh hạt nhân càng tăng, yêu cấu răn đe càng lớn, cuộc chạy đua càng mạnh mẽ. Cái vòng nhận thức này đã góp phần quy định tính không ngừng cùa cuộc chạy đua hạt nhân trong Chiến tranh lạnh. Trong bối cành đối đầu quyết liệt, nỗi lo sợ này lại thúc đáv quốc gia có nhiều vũ khí hạt nhân hon là đem lại yêu cấu giải trừ hạt nhân. Cũng chính nhận thức về khả năng húy diệt cua vũ khí hạt nhân, nỗi lo sợ bị đe dọa và hy vọng vào kha năng răn đe là động lực cho quá trình phô biến vũ khi hạt nhềrn. Cơ sở nhận thúc của cuộc chạy đua hạt nhân.. 421 Cho đến cuối Chiến tranh lạnh, đã có thêm một sô' nước và vùng lãnh thổ triển khai chương trình phát triển vũ khí hạt nhân như Ấn Độ, Pakixtan, Nam Phi, Áchentina, Braxin, Ixraen, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Đài Loan (Trung Quổc), Libi, Iran, Irắc... Thực tế cho thây, ham muốn sở hữu vũ khí hạt nhân là phô biến và mạnh đến mức bất chấp các điều kiện khách quan và chủ quan. Nhiều nước không đủ khả năng về kinh tế, tài chính, kỹ thuật và điều kiện quốc tế nhưng vẫn theo đuổi chương trình này. Khi nghe tin Ấn Độ triển khai chương trình hạt nhân, Thủ tướng Pakixtan Zulfikar Bhutto đã tuyên bô rằng nhân dân Pakixtan sẵn sàng "ăn cỏ, nếu cần, đê có tiền cho bom (hạt nhân) của mình"1. Cơ sở nhận thức quan trọng thứ hai dẫn đến cuộc chạy đua hạt nhân chính là quan điểm về quyền lực trong nền chính trị quốc tế của chủ nghĩa hiện thực. Quan điểm này tổn tại từ lâu mà các dấu tích văn bản có thể thấy được qua Thucydides (Hy Lạp cô đại) hay Tôn Tử (Trung Quốc thời Chiến Quốc)... Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa hiện thực trờ thành một hệ thống các luận điểm và cơ sở lý luận vói người mờ đầu là Hans Morgenthau. Chủ nghĩa này coi ban chất cua thê' giới là vô chính phủ, quốc gia là chủ thê cơ ban trong quan hệ quốc tế, quyền lực là lợi ích cơ ban cua quốc gia trong nền chính trị thế giói. 1. Conway W. Henderson, International Relatioiis - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 2 V Century, Sdd, tr. 328. 422 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc té dưới góc nhìn lịch sử Theo chủ nghĩa hiện thực, các quốc gia đẽu muốn có được quyền lực quốc tế, ít nhất là đê tự bảo vệ rrunh. Đổng thời, vói xu hướng hướng ngoại và mở rộng lợi ích quôc gia ra bên ngoài biên giới, quyền lực ngày càng được coi là cơ sớ đê thực hiện các lợi ích đó. Quyền lực chính là sụ đảm bảo cho quổc gia tổn tại và phát triển được trong môi trường quốc tế vô chính phủ. Quyền lực là tập hợp cua nhiều thành tố như quân sự, kinh tế, công nghệ, địa lý, dán số, truyền thống, uy tín quốc tê'... Trong đó, sức mạnh quân sự là phương tiện chủ yếu đê đạt được quyền lực quôc tê” ít nhât là từ Chiến tranh lạnh trở về trước. Với khả năng vượt trội so với vũ khí thông thường, sở hữu vũ khí hạt nhân được coi là sự đem lại quyền lực quôc tế cho quốc gia. Các quốc gia đều muôn có được vũ khí hạt nhân chính là vì vậy. Vi các quốc gia đều có xu hướng mờ rộng quyển lực nên cạnh tranh quyền lực là không tránh khòi. Quyển lực là thứ khó tính đếm. Sức mạnh quân sự vốn được coi là thành phần quyển lực quan trọng bậc nhât, nhung bàn thân nó cũng không phải là thứ dễ tính được như vũ khí, SỐ lính bởi còn phụ thuộc vào điều kiện địa hình tác chiến, khả năng điểu khiển và chi huy, tính thần ngươi lính, chiến lược chiến tranh và chiến thuật trong từng trận đánh... Bởi thê' xác định cân bằng quyên lực (dựa trên sự so sánh quyền lực) trên trường quốc tế là tương đối khó. Tính khó xác định của quyển lực cộng với cố gắng giữ bí mật mọi mặt của các bên lại càng làm cho cân bâng quyẽn lực trơ nên mơ hổ và mong manh. Trong chừng mực nao đó, Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân. 423 cân bằng quyền lực cũng là sản phẩm của nhận thức. Hon nửa, dưới cái nhìn của chủ nghĩa hiện thực, cân bằng quyền lực dường như lại là không có quyền lực. Bời thê' cân bằng quyền lực luôn không ổn định và dễ bị phá v ỡ . Khi các quốc gia cảm thấy yếu thế hay không chắc chắn trong sự cân bằng, họ luôn mun tìm cho mình một sự vượt trội về sức mạnh quân sự. Cuộc chạy đua vũ trang vì thế đã diễn ra không ngừng. Và vũ khí hạt nhân trở thành tiêu điểm của cuộc chạy đua vũ trang nhằm giành ưu thế sức mạnh đê từ đó có được quyền lực thực sự. Nếu nhận thức về vai ưò của vũ khí hạt nhân chi dừng ở công cụ răn đe thì cuộc chạy đua đã không diễn ra mạnh mẽ như vậy. Các bên đều nhận thức được tính nguy hiếm, gánh nặng chi phí và sự quá sức trong cuộc chạy đua này. Tuy nhiên, bời những suy nghĩ theo kiêu chủ nghĩa hiện thực, bởi sự cân bằng quyền lực là mong manh và khó xác định, bởi tham vọng đạt được địa vị bá chu thế giới đòi hòi phải có ưu thế vượt trội so vói đôi thù, cuộc chạy đua hạt nhân đã trờ nên liên tục và dường như vô hạn độ. Các nhận thức chù quan này đã đẩy cà thế giới vào vòng nguy hiếm. Nhận thức này trong Chiến tranh lạnh được cổ vũ bơi hàng nghìn năm lịch sư đầy rẫy xung đột và chiến tranh. Trong Chiến tranh lạnh, quan điêm cua chu nghĩa hiện thực đã chi phối chinh sách đối ngoại của hầu hết quôc gia. Chu nghĩa hiện thực đã nhanh chóng được phản ánh trong học thuyết quàn sự với nhũng môn đệ trung thành 424 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử trong giới lãnh đạo của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Liên Xô1. Có thê nói, chủ nghĩa hiện thực là sự chi phối nhận thức chủ yếu trong trật tự hai cực và là nên tảng lý luận cho cuộc chạy đua hạt nhân. Vũ khí hạt nhân không chỉ được coi là công cụ răn đe, mà còn là phương tiện thực hiện quyền lực. Từ nhận thức đó, chạy đua hạt nhân trờ thành cách thức chủ yếu nhằm giành ưu thế chiên lược trong quan hệ quốc tế. Trên cơ sở nhận thức đó, cuộc chạy đua hạt nhân đã chuyển sang giai đoạn mới. Đó là cuộc chạy đua nghiên cứu và triển khai bom khinh khí, tức là bom H (hydrogen bomb) loại bom được xây dựng trên cơ sở phản ứng nhiệt hạch. Bom này được coi là "siêu bom" với sức công phá có thê gấp nghìn lần so vói bom A. Cuộc cạnh tranh hạt nhàn đã trở nên gay gắt và không dừng lại được. Truman phê chuẩn dự án bom H tháng 1-1950 và Mỹ thử thành công lần đầu ngày 1-11-1952. Quả bom này có sức nổ 10,4 triệu tấn, gấp 500 lẩn quả bom ở Nagasaki2. Cuộc chạy đua lập tức trở nên quyết liệt. Chỉ một năm sau, đến lượt Liên Xô thử thành công bom H lần đầu vào ngày 12-8-1953 với sức nổ khoảng 200-400 kilôtấn. Quy mô cuộc chạy đua nhanh chóng được mở rộng. Anh thử thành công bom H vào ngày 8-11-1957, Trung Quốc chính thức thử vào ngày 17-7-1967, 1. Có thê nêu lên một vài đại biểu nổi bật: đó là Xtalin, Ustinov... từ phía Liên Xô; Kissinger, Brzezinski, Reagan ... từ phía Mỹ. 2. Britanica 1999. C o so nhan thiic cua cuoc chay dua hat nhan.. 425 con Phap la ngay 24-8-1968. Kho bom hat nhan tang len nhanh chong. Nam 1945, co ba don vi vu khi hat nhan, nam 1962 co khoang 2.000 don vi, den nam 1990 da la 56.000 don vi1. Kho hat nhan tro nen "thua thai" so voi kha nang cong pha can thiet cua mot cuoc chien tranh huy diet toan cau. Nam 1990, tong sue no cua toan bo vu khi hat nhan tren toan the gioi la 18.000 mega tan. Trong khi do, tong sue no cua Chien tranh the gioi thu hai, chien tranh Trieu Tien va chien tranh 6 Viet Nam moi chi la 11 mega tan ma da cuop di khoang 44 trieu sinh mang2. Su thira thai nav chinh la ket qua cua cuoc chay dua khong gioi han nham gianh uu the quven luc. Trong Chien tranh lanh, nhan thiic ve moi lien quan giua quven luc voi khi hat nhan con ghi dam dau ah trong cuoc chay dua hat nhan nham gianh dia vi ba chu giua Lien Xo va Mv. Dia vi ba chu duoc miru tim bang uu the vu khi hat nhan so voi doi phuong. Vi the^ cuoc chay dua hat nhan da dien ra rat manh me giua hai nuoc nay. Dong thoi la co gang duv tri dia vi sieu cuong trong timg phe thong qua uu the hat nhan vuot troi so voi cac dong minh. Cho den truoc khi Chien tranh lanh ket thuc, Lien Xo va My chiem toi hon 97% kho vu khi hat nhan the gioi. Cac hanh dong ha nhiet cuoc chay dua giua hai nuoc lien 1. Britanica 1999. 2. Conway W. Henderson, International Relations - Conflict and Cooperation at the Turn o f the 21st Cm tiiry, Sdd, tr. 322. 426 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử quan nhiều đến cố gắng duy trì độc quyền và ưu thê hạt nhân của hai nước này. Những hiệp định đầu tiên trong lĩnh vực này như Hiệp định cấm thử hạn chế (Limited Test Ban Treaty) năm 1963 hay Hiệp định chông phô biến vũ khí hạt nhân1 (Non-Proliferation Treaty - NPT) năm 1968 được ký kết có phần xuât phát từ nỗi lo lắng của Liên Xô và Mỹ trước việc một số nước như Trung Quổc và Pháp có được vũ khí hạt nhân. Nhìn chung, Liên Xô và Mỹ đã dễ dàng đổng ý với nhau trong việc chông phô biến vũ khí hạt nhân hơn là giải trừ quân bị song phương bởi điểu này có lợi cho việc duy trì địa vị siêu cường của họ. Đổng thời, các hành động kiểm soát vũ khí hạt nhân đạt được giữa Liên Xô và Mỹ trong Chiến tranh lạnh còn nhằm giảm bớt căng thẳng và chi phí chạy đua vũ trang để giành nguồn lực cho việc duy trì địa vị lãnh đạo trong từng phe. Đó là chưa kê việc cắt giảm vũ khí hạt nhân giữa hai bên trong giai đoạn cuổi Chiến tranh lạnh (kê cả cắt giảm hiện nay giữa Mỹ và Nga) dù khá đáng kê nhưng vẫn đảm bảo ưu thế tuyệt đối về năng lực hạt nhân của hai nước này so vói phần còn lại của thế giới. 1. Cho đến nay, Hiệp định NPT 1968 vẫn là một trong những hiệp định có hiệu lực cao nhâ't với sự tham gia đông đảo cua khoảng 180 quốc gia. Sự tương đối thành công của hiệp định nav có phần quan trọng nhờ sự đổng thuận tương đôi cùa các nưóc lớn trong vấn để này. Xu hướng chống phô biến vũ khí hạt nhân hiện nay vẫn hàm chứa sự bâ't bình đằng lớn khi giúp duy trì quyển lực hon hăn cùa các nước có vũ khí hạt nhân so với các nước không có. Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân. 427 Điểu này lại càng được khẳng định hon trong cuộc chạy đua về hệ thống mang chở. Giai đoạn ba của cuộc chạy đua này là sự phản ánh rõ nét lôgích chiến lược hạt nhân - cơ sở nhận thức thứ ba của cuộc chạy đua hạt nhân trong Chiên tranh lạnh. Hệ thống mang chở (deliver systems) là hệ thống kỹ thuật có khả năng mang vũ khí hạt nhân tấn công vào các mục tiêu. Hệ thống mang chở là một phần của vũ khi hạt nhân bời vì nếu không có nó, vũ khí hạt nhân sẽ rất ít tác dụng. Trong số các hệ thống mang chỡ vũ khí hạt nhân, tên lừa là phương tiện chủ yếu và cơ bàn nhất. Tên lừa làm cho vũ khí hạt nhân trở nên nguy hiểm bởi những tính năng hơn hăn của nó so với máy bay như khả năng xa hơn, nhanh hơn, chính xác hơn, khó chống lại hon. Chi có tên lửa mới có khả năng đem vũ khí hạt nhân tân công và hủy diệt mọi nơi trên trái đất. Vũ khí hạt nhân sẽ ít có hiệu quả và ít được sừ dụng nếu không đem đi xa được. Tên lừa trang bị hạt nhân đã xóa bỏ sự bảo vệ biên giói lãnh tliô và làm cho mọi quốc gia dễ bị đe dọa hơn. Do có vận tốc lớn nên khả năng tấn công của tên lừa rất nhanh. Điều này dễ tạo sự kích thích bùng nô chiến tranh hạt nhân bởi một tên lừa phóng lên có thê dẫn tới đòn trả đũa hạt nhân ngay lập tức và từ đó là chiến tranh. Các cuộc khung hoàng tạo ra nguy cơ chiến tranh' hạt nhân trong Chiến tranh lạnh như Cuba năm 1962, Tây Âu năm 1982-1983 đều liên quan đến tên lửa. Tên lửa có hệ thống dẫn đường nên đạt độ chính xác cao. Ví dụ, tên lửa tốt 428 Một số vấn để lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử nhất của Mỹ có thê bắn vào mục tiêu vói độ dung sai khoảng 50 feet1. Phòng thủ chống lại tên lửa khó hơn nhiều so với máy bay bởi tốc độ nhanh hơn và bav cao hơn, kể cả bên ngoài khí quyển. Trong khi đó, các vũ khí chống lại thì gần như chưa có trong Chiến tranh lạnh. Điều này đã làm tăng nguy cơ xảy ra xung đột hạt nhân. Khi con người cảm thây bất lực và bị đe doạ, họ dễ bị khiêu khích và chủ động tâh công trước theo hướng lấy tấn công thay phòng thủ. Vói sự xuất hiện của tên lừa mang vũ khí hạt nhân, th ế giới đã trở nên kém an toàn hơn bao giờ hết2. Tên lửa đã trở thành công cụ chủ yếu của chiên tranh hạt nhân, thành phần chủ yếu của kho hạt nhân, cơ sỡ của chiến lược hạt nhân và đối tượng của chạy đua hạt nhân. Chạy đua tên lửa trở thành một phần của cuộc chạy đua hạt nhân. Do sự liên quan này, việc sở hữu tên lửa đã trờ thành vấn đề trong quan hệ giữa các quốc gia3. Chạy đua tên lửa đạn đạo và tên lửa cruise đã trở thành bước phát triển quan trọng trong quá trình chạy 1. Đon vị đo chiều dài Anh, 1 foot tương đương 0,3048 m (BT). 2. Cũng chính vì th ế mà hiện nay nhiêu người coi tên lưa như một thành phần của vũ khí hủy diệt hàng loạt khi họ khái quát các loại vũ khí này là NBC/M (M là viết tắt của missile, tức là tên lưa) chứ không đơn thuần là ABC như trước kia. 3. Một SỐ nước sau này gặp phải vấn đê' hạt nhân đểu khóng chi bơi họ có khá năng ch ế tạo nguyên liệu hạt nhân, mà còn vì họ có tên lửa có thê trang bị đầu đạn hạt nhân. Đó là Cộng hòa Dán chủ Nhân dân Triều Tiên, Irắc, Iran, Xyri, Libi,... Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân.. 429 đua hạt nhân. Chạy đua hạt nhân có lôgích riêng của nó. Khác vói vũ khí thông thường, ưu thế trong vũ khí hạt nhân thuộc về sô' lượng. Cuộc chạy đua này hoàn toàn phản ánh lôgích của chiến lược hạt nhân. Vòng quay theo chiều đi lên của cuộc chạy đua hạt nhân là: Vói hai cơ sở nhận thức nêu trên, quốc gia A tìm cách để có được vũ khí hạt nhân. Điều này tạo sự đe dọa đôi với quốc gia B nên nước này cũng tìm cách có vũ khí hạt nhân. Quốc gia B muốn có vũ khí hạt nhân bởi vì tin rằng chỉ có vũ khí hạt nhân mới có thể ngăn chặn được sự đe dọa tẩn công của bên kia bằng khả năng trả đũa mạnh mẽ của mình. Khi cả hai bên đều có vũ khí hạt nhân thì đểu tìm cách tăng số lượng vượt ưội hơn đối phương để duy trì khả năng tâh công tiếp tục sau cú đánh thứ nhất. Khả năng đánh cú thứ hai đã tạo ra ưu thế hạt nhân của nước này so vói nước kia. Tâ't nhiên, nước kia không châp nhận điều đó nên lại tìm cách tăng số lượng tên lửa của mình nhiều hơn đôi phương. Và vì thế, cuộc chạy đua tên lửa đã diễn ra không ngừng theo chiều đi lên. Thực tế này đã được chứng tỏ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đây là cuộc chạy đua cả về lượng lẫn chất (tính năng kỹ thuật). Cuộc chạy đua hệ thống mang chở được bắt đầu sau Chiến tranh thế giói thứ hai với nỗ lực chiếm các thành quả nghiên cứu tên lửa V-2 của Đức. Ngay khi kết thúc chiến tranh, cả Liên Xô và Mỹ đều tìm cách chiếm giữ công nghệ này. Ví dụ, Mỹ đã nắm được hai nhà khoa học Đức là Domberger và Von Braun với hơn 60 quả V-2. Tiếp 430 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử theo là các cố gắng tự phát triển khả năng tên lừa. Liên Xô bắt đầu triển khai chương trình phát triển tên lừa từ đầu năm 1947. Mỹ cũng chú ý phát triển tên lửa từ lâu nhưng đặt ưu tiên cao nhât cho chương trình này từ tháng 6-1954. Cuộc chạy đua đã bùng nổ công khai từ năm 1957 sau sự kiện Liên Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik. Điều khiến Mỹ lo ngại ở đây không phải là vệ tinh Sputnik mà là cái đã đưa vệ tinh này vượt ra khỏi khí quyển Trái đâ't. Đó chính là tên lửa. Từ năm 1957, cuộc chạy đua đầu tiên liên quan đến tên lửa tầm trung (intermediate range ballistic missiles IRBM) đã diễn ra mạnh mẽ. Lúc đó, Mỹ có tên lửa tầm trung Thor và jưpiter được dự kiến triển khai đầu thập niên 1960 nhưng do sức ép chạy đua sau vụ Sputnik năm 1957 nên Mỹ đã tăng tốc và triển khai sớm Thor ở Anh, Jupiter ở Italia và Thô Nhĩ Kỳ năm 1958. Liên Xô phát triển loại tên lửa tầm trưng SS-4 có tầm bắn 900-1.000 dặm, mang đầu đạn 1 mega tâh. Lúc đầu, Liên Xô triển khai tên lửa này tại các căn cứ của mình ở vùng Bắc Cực đê có thể bắn sang được lãnh thổ Mỹ qua Bắc Băng Dương. Nhưng do điều kiện khí hậu không thuận lợi nên Liên Xô chuyên sang bô' trí SS-4 ở Cuba, là nơi gần Mỹ hơn và có điều kiện thời tiết ấm hơn. Đây chính là nguồn cơn gây nên vụ khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. Do phong trào phản đốỉ ở các nước có đặt tên lửa hạt nhân của Mỹ nên Mỹ đã tìm cách nghiên cứu triên khai tên lửa vượt đại châu đê có thê đặt tại căn cứ nước mình Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân.. 431 mà vẫn bắn sang được Liên Xô. Đồng thời, Liên Xô củng tiến hành những cô' gắng tương tự. Cuộc chạy đua chuyển sang giai đoạn khác. Đó là cuộc chạy đua tên lửa vượt đại châu (intercontinental ballistic missiles - ICBM). Với những tiến bộ trong việc nâng cao sức đẩy của tên lừa, các nước lần lượt có ICBM: Mỹ năm 1962, Liên Xô năm 1969. Cuộc chạy đua tên lừa này đã làm kho hạt nhân/tên lửa tăng cao quá mức cần thiết, đù sức dân đến sự cùng hủy diệt lẫn nhau. Vì thế, Liên Xô và Mỹ chuyển sang chạy đua về tên lửa phòng thủ (anti-ballistic missiles ABM). Hai nước bắt đầu theo đuổi chương trình đó từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, cuộc chạy đua trong lĩnh vực này đã được chặn lại bời Hiệp ước chông tên lửa đạn đạo năm 1972. Hiệp ước ABM và phụ lục năm 1974 quy định mỗi bên chỉ được có 100 tên lừa ABM và bố trí ở một nơi1. Tuy nhiên, cuộc chạy đua trong nghiên cứu vẫn được tiến hành với hai ví dụ nôi bật là Chương trình sáng kiến phòng thủ chiến lược (Strategic Defense Initiative SDI) và sau Chiến tranh lạnh là Chương trình phòng thủ tên lửa quổíc gia (National Missile Defense - NMD) của Mỹ. Một cuộc chạy đua khác cũng diễn ra trong lĩnh vực tên lừa cruise2. Liên Xô tiên phong trong lĩnh vực này khi 1. Liên Xô được phép b ố trí ABM ờ Moscow, còn Mỹ ở Bắc Dakota. 2. Tên lừa cruise là loại tên lừa tầm thâ'p bay trong khí quyển và có gắn động cơ bên trong. Nếu tên lửa đạn đạo là dạng kéo dài cùa đạn pháo thì tên lừa cruise là dạng kéo dài cùa máy bay. 432 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử phát triêh tên lửa cruise chiên thuật vào đầu thập niên 1950 và triển khai tên lửa cruise chiến lược nổi tiêng là AS-15 Kent năm 1984. v ề phía Mỹ, nổi bật nhất là việc triên khai tên lửa cruise (cùng vói tên lửa tầm trung Pershing II) ở Tây Âu dẫn đến cuộc khủng hoảng tên lửa năm 1983-1984. Trong Chiến tranh lạnh, chỉ có Liên Xô và Mỹ mói chế tạo được loại tên lửa này. Mỹ cũng đã từng sử dụng tên lừa cruise không mang đầu đạn hạt nhân trong Chiên tranh vùng Vịnh năm 1991. Bên cạnh đó, người ta cũng tìm cách nâng cao kha năng phản ứng nhanh. Đầu tiên, bơm nhiên liệu được cải tiến. Ví dụ, loại Titan I của Mỹ đã giảm thòi gian bơm nhiên liệu từ trên 1 giờ xuống dưới 20 phút. Sau đó, người ta tìm cách chứa nhiên liệu sẵn cho tên lửa như các tên lừa SS-7, SS-8 của Liên Xô, Titan II của Mỹ. Đổng thời, đê nâng cao tính an toàn và sức mang chở, người ta thay nhiên liệu lỏng bằng nhiên liệu rắn vốn an toàn hơn, dễ bảo quản hơn và nhẹ hon vì không còn cần đặt boon trên tên lừa. Ngoài ra, vói sự phát triến của kỹ thuật vệ tính, khả năng dẫn đường cho tên lửa cũng ngày càng chính xác hơn. Nhằm tăng cường sức công phá cho mỗi lần phóng, Liên Xô và Mỹ cũng chạy đua về đầu đạn (nuclear warheads). Trước kia, đầu đạn hạt nhân thường là loại tương đôi nhẹ và mỗi tên lừa chỉ mang được một đầu đạn. Do khả năng mang chở được tăng lên, tên lừa đã bắt đầu được trang bị nhiều đầu đạn cùng một lúc. Đáng chú ý hơn cả là việc phát triển khả năng đa đầu đạn độc lập, tức là nhiểu đẩu Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân.. 433 đạn cùng một lúc bắn vào các mục tiêu khác nhau. Đối vói đa đầu đạn độc lập, Mỹ có vào năm 1970, Liên Xô có từ giữa những năm 1970. Một trong những yêu cầu của chiến lược hạt nhân là cố gắng đảm bảo sự "sông sót" của tên lửa sau cú đánh thứ nhất để duy trì năng lực cú đánh thứ hai. Một là tăng SỐ lượng, hai là làm cho tên lửa cơ động hơn. Vì thế, sự phát triển về bệ phóng (Launch Pads) cũng được tiêh hành. Đó là các bước từ hầm cô' định trên hoặc dưới lòng đất đên bệ phóng di động như SS-24 đặt trên xe chạy đường ray hay SS-25 đặt trên xe tự hành bánh lốp, từ căn cứ trên mặt đất qua việc đặt trên tàu chiên nổi cũng như ngầm. Liên Xô có tên lửa phóng từ tàu ngầm (submarine launched ballistic missiles - SLBM) năm 1955, Mỹ có năm 1960. * * * Như vậy, bên cạnh các nguyên nhân khách quan của cuộc chạy đua hạt nhân trong Chiến tranh lạnh, nguyên nhân chủ quan là rõ ràng và đóng vai trò rất quan trọng. Nhận thức về sức mạnh tàn phá khủng khiếp của vũ khí hạt nhân khiến cho các quốc gia có tham vọng sở hữu loại vũ khí này. Đó là điểm bắt đầu của cuộc chạy đua hạt nhân trong Chiến tranh lạnh vói đối tượng chủ yếu là bom nguyên tử. ÍJhận thức về vai trò của vũ khí hạt nhân đối với quyền lực ưong nền chánh tri quốc tế càng khiến cho vũ khí hạt nhân được coi là phương tiện bảo vệ lợi ích quốc gia và công cụ thực hiện quyền lực quốc tế. Từ đó, 434 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử cuộc chạy đua hạt nhân đã được phát triển theo chiêu sâu vói bom khinh khí và mở rộng sang chạy đua vê' các hệ thông mang chở. Cuối cùng, lôgích nhận thức của chiên lược hạt nhân là động cơ thúc đẩy mạnh mẽ cuộc chạy đua hạt nhân trên hệ thống mang chở cả về chất lẫn lượng. Chiến tranh lạnh đã qua đi nhưng nguy cơ hạt nhân vẫn còn đó. Nguy cơ này tổn tại bởi nhiều lý do. Các nhận thức trên vẫn tồn tại khiến cho vũ khí hạt nhân vẫn được tiếp tục duy trì. Quá trình cắt giảm hạt nhân đã bắt đầu nhưng số lượng vẫn còn quá lớn. Sô' quốc gia sờ hữu vũ khí hạt nhân vẫn có nguy cơ tăng khiến việc kiểm soát trở nên khó khăn. Xung đột - một ngòi nổ của chiên tranh hạt nhân, một nguồn kích thích ham muốn sở hữu vũ khí hạt nhân - vẫn ngự trị trong quan hệ quốc tế. Chuỗi nhận thức lợi ích quốc gia - quyền lực quốc tế - vũ khí hạt nhân theo kiểu chủ nghĩa hiện thực vẫn tổn tại... Khi tình thế đã thay đổi, cơ hội chấm dứt chạy đua vũ trang hạt nhân đã đến, sự nghiệp giải trừ vũ khí hạt nhân cần phải được bắt đầu từ những nhận thức này. 435 KOSOVO - sự CHẤT CHỨA CỦA LỊCH sử Kê từ khi chiên sự chain dirt ờ Nam Tư, vân đề Kosovo dường như có sự lắng lại trên các phương tiện thông tín đại chúng. Dường như người ta đã bị ân tượng về cuộc biểu dương sức mạnh quân sự kỹ thuật cao và những thay đôi chiên lược cơ bàn của NATO nhiều hơn sô' phận đau khô của một quốc gia và các sắc tộc sinh sống trên mành đất này. Có điều người ta sẽ còn phải nói nhiều đên sự kiện này như một biên cố lớn cùa thời kỳ hậu Chiến ưanh lạnh. Đã xuất hiện những tranh luận khoa học về ý nghĩa phân kỳ lịch sử của sự kiện nàv: nó là sự kết thúc thời kỳ quá độ từ Chiên tranh lạnh sang hậu Chiến tranh lạnh hay là sự tiếp tục ờ mức cao của những quá trình đã được bắt đầu kê từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Nhưng ít nhất, cuộc chiến ờ Kosovo ngay lập tức đã dẫn đến nhiều nghi ngờ trong nhận thức về quan hệ quốc tế. Liệu đó có phài là sự quay trờ lại thông trị cua chủ nghĩa hiện thực trong quan hệ quốc tê? Vai trò của Hội đồng Bào an Liên hợp quốc, NATO, G-7 và mối tương quan giữa chúng trong nền an ninh quốc tê? Chủ nghĩa 436 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử can thiệp mới với những lý do mói đã hình thành? Tương tác của nó vói quan niệm truyền thông về chủ quyển và các giá trị quôc gia - dân tộc? Cân bằng quyền lực hay bá quyền là cơ sở duy trì an ninh và hòa bình trong then kỳ mới?... Trên một bình diện hẹp hơn, cùng vói Chiên tranh vùng Vinh, cuộc can thiệp vào Xômali và chiên dịch "Con cáo sa mạc", cuộc chiên ở Kosovo đã đem lại những đặc trưng mói của xung đột trong quan hệ quôc tế thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Xung đột luôn là vấn đề cơ bản của con người. Nghiên cứu xung đột luôn là mục đích hàng đầu của nhiều khoa học khác nhau, trong đó có lịch sừ thế giới, chính trị quốc tế và quan hệ quốc tế. Bài viết này không có tham vọng đi vào giải quyết tất cả các vẩn đê này mà chỉ tập trung vào khía canh lịch sử của cuộc xung đột này. Nếu góc độ quan hệ quốc tế giúp chúng ta đánh giá được những nguyên nhân trực tiếp, bối cảnh chi phối, diễn biến sự việc, tác động ảnh hường và chiều hướng vận động tiếp tục... thì góc độ lịch sử sẽ giúp lý giải nguồn gốc sâu xa, tính quá trình của vận động... Trong nghiên cứu xung đột, sự kết hợp đúng đắn giữa lý thuyết quan hệ quô'c tế hiện đại với lịch sử sẽ giúp chúng ta có được một cái nhìn toàn diện hơn, biện chứng hơn. Một sự kết hợp như vậy là có lý đối vói trường hợp này. Sự kiện Kosovo không đơn thuần là một vâh để quan hệ quốc tế với đầy rẫy các hiện tượng địa-chính trị, an ninh quốc tế, ngoại giao cường quyền, xung đột sắc tộc và tôn giáo... Lịch sử luôn chi phối hiện tại và đè nặng lên Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 437 tương lai. Kosovo cũng là noi tập trung nhiều mâu thuân lịch sử. Nó chịu nhiều chi phối giằng kéo của lịch sử. Nguyên nhân, diễn biên, tác động ảnh hưởng và kể cả ý nghĩa của nó đều mang đậm màu sắc lịch sử. Hơn nữa, các quá trình lịch sừ ở đây vẫn chưa chấm dứt mà sẽ còn tiếp tục vận động trong tương lai. Khu vực này vẫn tiếp tục phải đối mặt với các vẩn đề cùa quá khứ. Bởi thế, một cái nhìn từ góc độ lịch sử sẽ đóng góp thêm cho việc tìm hiểu các sự kiện quan hệ quốc tế ở khu vực này. Trước khi đi vào xem xét diễn trình lịch sử của sự kiện, chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm một vấn đề có tính phương pháp luận. Vâh đề Kosovo cũng như nhiều vâh đề quốc tế khác không thê được xem xét một cách biệt lập. Nó phải được đặt trong bôi cảnh của Nam Tư cũ và rộng hơn là của khu vực Balkan. Cơ sở thực tiễn của điều này chính là nền tảng lịch sừ của vấn đề và quá trình phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng. Sự phụ thuộc này cần được hiếu theo hai nghĩa: phụ thuộc lẫn nhau giữa các vừng lãnh thổ - dân cư và phụ thuộc lẫn nhau giữa các mặt của đời sông xã hội. Cơ sở lý luận cùa nó là khoa học địa-chính trị, địa-văn hóa và lý thuyết hệ thống vốn đã có địa vị chi phối trong nghiên cứu quôc tế. Trong cuộc hội thảo về chính sách quân sự của NATO ngày 7-2-1999 tại Munich, Ngoại trường Đức J. Fischer đã đề nghị tô chức hội nghị hòa bình cho toàn bộ phần phía Nam bán đảo Balkan chứ không phải chi riêng vấn đề Kosovo chính bởi vì lý do như vậy. 438 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Các diễn trình lịch sử được xem xét ở đây bao gồm: cơ sở văn hóa - lịch sử của xung đột, sự tranh cháp lịch sử giữa các nước lớn, quá trình quốc gia - dân tộc cua Liên bang Nam Tư cũ. 1. Cơ sở văn hóa - lịch sử của các xung đột Từ thời CỔ đại, khu vực Balkan đã là nơi tập trung hoặc chiu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều nển văn minh v à văn hóa lớn. Không kê những nền văn minh bản địa v à những nền văn minh lớn tồn tại ở ngay chính khu vực này, như văn minh Gulmenitsa (Rumani), văn minh Đồng Đen (Nam Tư), văn minh Hy Lạp, văn mirth La Mã, đây còn là điểm giao nhau và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nhiều nền văn minh và văn hóa lớn khác như văn minh Sumer, văn minh Ai Cập, văn minh Minoan (Cret), văn hóa Arập, văn hóa Do thái, văn hóa Slavo, văn hóa Giécmanh... Cho đến ngày nay, sự hiện diện cua các nền văn minh và văn hóa này vẫn còn tổn tại. Một tính chất phô biến của các nền văn hóa là sự giao lưu. Sự giao lưu này chủ yếu diễn ra trên hai quá trình tiếp nhận và đấu tranh. Nếu sự tiếp nhận tạo nên tính phong phú, đa dạng về văn hóa thì sự đấu tranh (hay còn được gọi là "đụng độ") thường để lại tính phức tạp cũng như các bất đồng văn hóa. Balkan nói chung, Nam Tư cũ nói riêng là một khu vực điên hình của cả hai quá trình văn hóa này. Trong đó, tính phức hệ và những bất đồng văn hóa được phán ánh rát rõ Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 439 trong các mâu thuẫn dẫn đến sự tan rã của Liên bang Nam Tư và cuộc chiến ở Kosovo. Ngôn ngữ là một biểu hiện cao của văn hóa. Tình trạng đa ngôn ngữ ở Nam Tư cũ là một ví dụ phản ánh phần nào tính phức tạp văn hóa ở đây. Người Xécbi nói tiếng Xécbi. Người Xlôvenia nói một ngôn ngữ khác với chữ cái theo hệ Latinh. Người Crôatia cũng nói tiếng Xécbi nhưng chữ cái cũng theo hệ Latinh như tiếng Sloven. Người Maxêđônia nói tiếng Maxêđônia là một ngôn ngữ riêng hòa trộn giữa tiếng Xécbi và tiếng Bungari... Trong khi đó, tất cả các khu vực thuộc Nam Tư cũ đều đa sắc tộc, mỗi sắc tộc đều duy trì ngôn ngữ của mình. Điều này đã hạn chế rất nhiều quá trình xác định bản sắc chung và cô' kết quốc gia của Nam Tư cũ. Hơn nữa, đa ngôn ngữ trong khi không có một ngôn ngữ nào nổi trội cũng là một điều kiện cho chủ nghĩa ly khai chính trị phát triển. Chủ nghĩa Đại Xécbia đã từng thành công về mặt chính trị nhưng chưa bao giờ thành công về mặt văn hóa. Sự tập trung nhiều tôn giáo lớn ở Balkan cũng đế lại những vấn để tương tự. Đây là một trung tâm tranh chấp và chia rẽ tôn giáo mạnh mẽ. Mặc dù đây không phài là nơi phát xuât của các tôn giáo lớn nhưng lại nằm trong địa bàn bành trướng quan trọng của chúng. Đó là Kitô giáo và Hổi giáo. Những xung đột và tranh chấp Kitô giáo - Hồi giáo kê từ thời các cuộc Thập tự chinh, qua cuộc đấu tranh châu Âu vói Đ ế quốc Ottoman,... vẫn còn ảnh hường đến 440 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử tận ngày nay. Những xung đột tôn giáo ở Balkan lại càng phức tạp hơn khi diễn ra sự phân chia Kitô giáo thành Thiên chúa giáo và Chính thống giáo. Cả hai nhánh này không chi cùng mâu thuẫn vói Hổi giáo mà còn mâu thuẫn với nhau, dù mức độ kém gay gắt hơn. Tình trạng đa tôn giáo không nhất thiết dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, các mâu thuẫn và xung đột tôn giáo ờ Balkan đã trở nên đặc biệt gay gắt hơn do một số nguyên nhân có tính lịch sử sau. Thứ nhất, Balkan gần như là tiền tuyến thường xuyên của các mâu thuẫn và chiêh trường duy nhất ờ châu Âu của sự xung đột tay ba giữa nhũng tôn giáo này. So vói các xung đột hay chiến tranh tôn giáo như Ki tô giáo - Hồi giáo ở Tây Ban Nha hay Ki tô giáo Tin lành ở Tây Âu thì xung đột tôn giáo ở Balkan lâu dài và ác liệt hơn nhiều. Thứ hai, các tôn giáo này theo đ ế quốc (ví dụ: Hổi giáo với Đ ế quốc Ottoman), hoặc bị đ ế quốc lợi dụng (ví dụ: Chính thống giáo với đ ế quốc Nga) cho các ý đổ của mình nên đã có một sức mạnh chi phổỉ rất lớn. Do vậy, mâu thuẫn giữa chúng cũng ác liệt hơn nhiểu bởi mâu thuẫn tôn giáo - tôn giáo đã được lồng vào mâu thuẫn đ ế quốc - đế quốc và mâu thuẫn dân tộc - dân tộc. Sự kết hợp thần quyển và vương quyền có tính đ ế quốc luôn mang lại những hậu quả tiêu cực cho các dân tộc bị trị nhỏ bé. Ngoài ra, sự thâm nhập của tôn giáo thường đi theo sự phân bố sắc tộc. Điều này không chi tạo điểu kiện cho sự lợi dụng lẫn nhau giữa tôn giáo và chủ nghĩa dán tộc/chủ nghĩa sắc tộc mà còn làm tăng nguy cơ chia rẽ và Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 441 sự tiềm tàng của xung đột. Do khu vực này không có một nhà nước riêng đủ lớn và một tôn giáo bàn địa đủ mạnh khả dĩ hạn chế các giằng kéo tôn giáo xuyên thế kỷ, nên tình trạng chia rẽ tôn giáo trong các cộng đồng dân cư cùng những phức tạp của nó còn tổn tại đến tận ngày nay cũng là điều dễ hiểu. Người Xécbi theo Chính thống giáo. Người Xlôvenia và Crôatia theo Thiên chúa giáo. Ở Maxêđônia và Môntênêgrô là tình trạng đa tôn giáo, trong đó Chính thông giáo chiếm ưu thế. Tình hình tôn giáo ở BôxniaHécdegôvina phức tạp hơn cả. 43,7% người theo Hổi giáo, 31,4% người Xécbi theo Chính thống giáo, 17,3% người Crôatia theo Thiên chúa giáo1. Cuộc chiến tranh ở BôxniaHécdegôvina 1992-1995 là cuộc chiêh tranh mang đậm màu sắc tôn giáo. Tôn giáo là tiêu chí lớn nhất phân biệt ba phe đánh lẫn nhau chứ chưa hẳn là sắc tộc bởi nhiều người Hổi giáo lại có nguồn gổc Xécbi. Cho đến nay, khi hòa bình đã được lập lại ở Bôxnia-Hécdegôvma, sự chia rẽ vẫn còn tiếp tục và không phải là không chứa đựng nguy cơ xung đột trong tương lai. Ở Kosovo, tình hình tôn giáo cũng không khá hơn. Người Hổi giáo chiếm đa số gổm 82,2% người Anbani và 2,9% người sắc tộc khác, trong khi người Xécbi theo Chính thông giáo chỉ chiếm 10%2. Vấn đề là ở chỗ, người Hồi giáo chiếm đa số ở Kosovo nhưng \, 2. Maridôn Tuarenơ, Sự đảo lộn cùa thê'giới đia chính trị thế kỳ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 123. 442 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lích sử lại là thiêu sô' trong Xécbia và nằm ngay trên thánh địa cua Chính thống giáo. Mặc dù tôn giáo không phải là động lực cơ bản gây nên mâu thuẫn và xung đột trong khu vực, nhưng tình trạng chia rẽ tôn giáo như vậy lại là một điều kiện cho chúng nảy nở và tổn tại. Các tôn giáo ở đây tương đối gắn liền với các đặc thù dân tộc, bởi thế sự chia rẽ vê tôn giáo đã góp phần vào sự chia rẽ dân tộc. Ngược lại, những phức tạp trong quan hệ giữa các tôn giáo đã được chù nghĩa đ ế quốc và chủ nghĩa dân tộc ích kỷ lợi dụng v à do đó càng làm sâu thêm hố ngăn cách sắc tộc. Trong cuộc chiến giành Vukovar cuối năm 1991 giữa người Crôatia v à người Xécbi, quân đội hai bên đã đem các biểu tượng tôn giáo và dân tộc truyền thống khi ra trận1 để kích động thêm lòng căm thù. Những khác biệt về văn hóa đều có thể được giải quyết thông qua hội nhập, tiếp biến văn hóa và không nhất thiết dân đến mâu thuẫn đôi kháng. Chiên tranh văn hóa vô'n là hiện tượng hiếm có của lịch sử. Các mâu thuẫn văn hóa, nhất là tôn giáo ở Balkan dù có một cơ sờ láu dài và phức tạp như vậy, cũng không thế là một ngoại lệ. Tuy nhiên, tình hình đã trầQì trọng thêm nhiểu bơi sự can thiệp thường xuyên của chủ nghĩa đ ế quốc cũ và mới. c. 1. Wayne M cW illiam s & Harry Piotrowski, The W orld since 1945, H.Lvnne Rienner, London, 1993, tr. 493. Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 443 2. Những tranh chấp lịch sử của các nước lớn ở Balkan Balkan là một khu vực có vị trí địa-chính trị quan trọng bậc nhất châu Âu. Nó là khu vực nằm giữa ba châu lục, gần trung tâm châu Âu, bên bờ Địa Trung Hải. Kiêm soát được Balkan có nghĩa là không chế được các hải lộ và thương lộ ờ giữa ba châu lục và Địa Trung Hải. Với vị trí như vậy, cùng với lịch sử phát triển quy mô chiến lược từ khu vực ra thế giới, Balkan đã trở thành nơi tập trung nhiều lợi ích chiến lược của mọi đ ế quốc khu vực cũng như của các đ ế quốc toàn cầu sau này. Một vị trí như vậy mới là điều kiện cần cho sự can thiệp của chủ nghĩa đ ế quốc. Balkan là một khu vực toàn nước nhỏ vói tính chia rẽ cao và sự cô' kết yếu, tức là ít có khả năng đề kháng đôi với can thiệp bên ngoài. Hơn thế nữa, nó lại nằm ở giữa nhiều đ ế quốc và vì thế cũng là điếm giao nhau của nhiều hướng bành trướng. Điều này càng làm tăng tính xung yếu và độ nhạy cảm chiến lược của khu vực. 'Kiểm soát được Balkan cũng có nghĩa là giành được một ưu thế chiến lược đối với các cường quốc khác, tức là có được cơ sở đê bành trướng và kiểm chế các cường quốc khác. Balkan trở thành sân khấu tranh giành quyền lực mà những diên viên chính là các đế quốc chứ không phai là các dân tộc trong vùng. Trong chừrrg mực nào đó và trong nhiều thời kỳ lịch sử, Balkan là biểu đồ phàn ánh tương quan quyền lực của châu Âu và Địa Trung Hải. 444 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Sự tranh châp này có cơ sở lịch sử lâu dài. Vào thời kỳ trước Công nguyên, Balkan đã bị rơi vào vòng kiếm soát của đ ế quốc châu Âu đầu tiên là Hy Lạp - một đ ế quốc phần nào có thể coi là bản địa. Tuy nhiên, nó đã nhanh chóng bị chi phối bởi các cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp với bên ngoài. Cũng trong thòi gian này, ở đây đã diên ra những cuộc đụng độ lớn Âu - Á đầu tiên qua các cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Cho đến khi đê quôc La Mã nổi lên, Balkan lại trở thành chiến trường và là đối tượng tranh chấp giữa hai đế quốc Hy Lạp và La Mã cho đến khoảng năm 147-146 trước Công nguyên, khi Hy Lạp bị nhập vào bản đổ La Mã. Như vậy, ngay từ rất sớm, Balkan đã rơi vào vòng can thiệp và tranh chấp giữa các đ ế quốc. Dưới thời Đ ế quo'c Byzantine, Balkan tiếp tục bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh như với người Arập (674678), với người Thổ Seljuk (thế kỷ XI) hay các cuộc chiêh tranh trong đếqu ôc (1341-1354). Vào năm 1359, Đ ế quốc Ottoman bắt đầu cuộc chinh phục Balkan. Năm 1389, tại Kosovopolje thuộc Kosovo, đã diễn ra một trận đánh lớn giữa quân đội Ottoman của vua Mourad và người Xécbi do hoàng thân Lazar đứng đầu với sự đại bại của người Xécbi. 600 năm sau, năm 1989, một cuộc mít tinh lớn với sự tham gia của Slobodan Milosevic và gần 1 triệu người' Xécbi kỷ niệm trận đánh này đã được tô chức tại Kosovopolje. Đây là một sự kiện được coi là kích động thêm sự hận thù giữa người Xécbi và người Hổi giáo/Anbani ơ Kosovo. Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 445 Sau khi Đê quốc Byzantine bị tiêu diệt (1453), Balkan bị Đê quốc Ottoman thông trị cho đên gần cuôi thê kỷ XIX. Dưới thòi kỳ Đ ế quốc Ottoman, ở đây cũng diễn ra nhiều cuộc chiên tranh giành quyền lực với các đ ế quốc Kito giáo châu Âu. Sự độc chiếm khu vực chiên lược này, sự kiểm soát Địa Trung Hài và các hài lộ của nó, những âm mưu bành trướng lên châu Âu, sự thống trị của Hổi giáo và sự đàn áp của nó đối với người Kito giáo đã khiên các đế quốc Kito giáo châu Âu liên minh với nhau chống Đ ế quốc Ottoman. Mãi cho đêh cuộc chiên tranh giành độc lập của Hy Lạp 1812-1829, quyền lực châu Âu mới bắt đầu được khẳng định ở vùng này sau việc liên quân Anh Pháp - Nga đánh tan hạm đội của Ottoman trong trận Navarino nổi tiếng. Tuy nhiên, phải đêh sau chiến ưarửì Nga - Thô 1877-1878, Balkan mới thoát được khỏi ách nô dịch của Đ ế quốc Ottoman. Với cuộc chiên tranh này, quyền lực của đ ế quốc Nga ở khu vực này cũng được bắt đầu. Kê từ đây, sự tranh chấp giữa các đ ế quốc càng trở nên phức tạp và thường xuyên hơn. Sự suy yếu và rút lui của Ottoman chi làm tăng tham vọng của cường quốc châu Âu đối vói Balkan. Sự tranh châp ngày càng mang tính đa phương trong khi không một đ ế quốc nào chiếm ưu thế nổi trội càng làm cho các dân tộc Balkan chìm vào hỗn loạn, kê cả khi họ giành được độc lập. Tình trạng hỗn loạn này diễn ra không chi giữa các đế quốc như các tranh chấp Nga và Xécbia với Áo - Hung 446 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử 1903-1909, Italia - Ottoman 1911-1912... mà còn giũa chính các quổc gia Balkan với nhau, vói ví dụ điển hình là hai cuộc chiến tranh Balkan 1912-1913. Trong mọi tranh châ'p và xung đột ở đây, hầu hết các đ ế quổc lớn ở châu Ảu đêu tham gia tích cực với những mưu đổ riêng v à các toan tính ích kỷ của mình. Dần dần, một tập hợp hai phe đã hình thành xung quanh tranh chấp ở đây. Nga - Anh - Pháp một bên và Đức - Áo - Hung - Bungari - Ottoman bên kia. Kết quả là một đốm lửa của vụ mưu sát hoàng từ Ferdinand đã làm Balkan bốc cháy và nhanh chóng lan ra cả châu Âu. Chiến tranh thế giói thứ nhâ't bùng nô. Chiên tranh thế giói thứ nhất kết thúc không làm những vận động bành trướng giành ảnh hưởng của các nước lớn ở Balkan chấm dứt. Tình hình Balkan tiếp tục mất ổn định. Có thê kê ra nhiều ví dụ như các cố gắng thiết lập sự không chế của Anh ở đây, sự tranh giành ảnh hưởng Anh - Pháp, cuộc tranh chấp cảng Fuime giữa Nam Tư và Italia, căng thăng và xung đột kéo dài giữa Nam Tư và Bungari, tranh châp Nam Tư và Anbani với những nỗ lực chiếm Anbani của Italia, cuộc tâh công Nam Tư của Đức năm 1941 chỉ 10 ngàv sau cuộc đảo chính của vua Pierre lật đổ các phần tử thân Đức, ý đổ của Anh mở mặt ưậrt thứ hai ở Balkan trong thòi gian Chiên tranh thế giói thứ hai bất chấp sự phản đối của Xtalin, các xung đột ở Hy Lạp sau năm 1945 đã tạo lý do cho Học ửìuyết Truman ra đời và mở đầu cho Chiến tranh lanh... Không một noi nào trên thế giới lại có lịch sừ tranh chá'p giữa các nước lớn lâu dài, liên tục và phức tạp như ờ Balkan. Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 447 Balkan là một trong những điểm nhạy cảm nhất của xung đột giữa các nước lớn. Nó được mệnh danh là "thùng thuốc súng của châu Âu" là vì vậy. Đây là điểm bắt đầu của Chiến tranh thê' giói thứ nhất, chiến trường của Chiến tranh thế giói thứ hai, điểm tranh giành phức tạp của Chiến tranh lạnh và bây giờ là điểm nóng của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Sự can thiệp của các nước lớn ở Balkan không chỉ làm méo mó quá trình quốc gia - dân tộc ở đây, mà còn để lại nhiều vấn đề gây tranh chấp nội bộ như lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo... Quá khứ bị nô dịch bởi các đ ế quốc khác nhau cũng tạo ra những vấn đề cho sự cố kết quốc gia sau này. Xlôvenia và Croatia thuộc Áo - Hung được thừa hưởng những tiên bộ của văn mirth phương Tây nên đã có nền kinh tế phát triển hơn và những sắc thái văn hóa khác. Trong khi đó, Xécbia, Maxêđônia bị Ottoman thống trị trong một thòi gian dài nên kinh tế lạc hậu hơn nhiều. Đây là những cơ sở lịch sử quan trọng giúp lý giải các diễn biến phức tạp ở Nam Tư sau này. Xlôvenia và Crôatia luôn phản đối sự thống trị của người Xécbi trong lịch sử lẫn hiện tại. Kể cả dưới thời Tito, người Croatia đã từng nổi dậy năm 1971. Sau này, đây cũng là hai nước chủ trương ly khai đầu tiên. Gần đây, như chúng ta đã thấy, tình hình phức tạp và cuộc chiến tranh ác liệt ở Bôxnia Hécdegôvina còn bởi vùng này đã trải qua rất nhiều sự kiếm soát khác nhau từ Ottoman, qua Áo - Hung, Đức, rồi đến Liên bang Nam Tư. Tương tự như vậy là Kosovo. 448 Một số ván đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lịch sử Xung đột ở Kosovo còn chịu sự chi phối của những tranh chấp và tác động lịch sử của thòi Ottoman, của sự banh trướng Italia, sự chia đi cắt lại Kosovo của các đ ế quốc, của tranh chấp Xécbia-Anbani... Đến thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, sự can thiệp từ bên ngoài vào các quá trình ly khai ở Nam Tư cũ đã quay trở lại. Nếu sự can thiệp ở Crôatia và Bôxnia còn dưới danh nghĩa Liên hợp quốc - một tổ chức có nhiệm vụ gìn giữ hòa bình thì ở Kosovo lại là NATO - một tổ chức quân sự - chính trị thuần tuý. Nêíi sự can thiệp ở Crôatia và Bôxrtia chi có nhiệm vụ cách ly các bên tham chiến thì ở Kosovo lại là một cuộc tấn công chống một bên trong xung đột. Nếu cuộc không kích ở Bôxnia chi là những cuộc tấn công hạn chế thì cuộc tấn công của NATO ở Kosovo là một cuộc chiên tranh quy mô thật sự cả về chất lẫn lượng. Điều này thực sự có ý nghĩa nếu chúng ta nhớ lại rằng, bất đồng cơ bản và gần như duy nhât còn lại giữa Nam Tư và NATO trước ngày 23-4-1999 chi là việc Nam Tư không cho phép quân đội NATO triển khai ở Kosovo. Thêm vào đó là sự thay đổi chiến lược lớn nhất của NATO từ mục đích phòng thù tập thể sang mục đích phòng thủ - tấn công. Trong Hội nghị Thượng đinh Washington tháng 4-1999, NATO đã quyết định khả năng can thiệp quân sự bên ngoài khu vực trách nhiệm mà không cấn có sự đổng ý của Liên hợp quôc. Sự can thiệp có tính lịch sử của các nước lớn ớ Balkan đã góp phẩn quan trọng làm méo mó quá trình quõc gia dân tộc ở Nam Tư cũ. Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 449 3. Quá trình quốc gia - dân tộc ở Nam Tư cũ Trên lãnh thổ thuộc Nam Tư cũ đã phân bô' một tình trạng dân cư khá phức tạp. Đó là cơ sở quan trọng tạo nên những bất lợi nhâ't định cho quá trình quốc gia - dân tộc ở đây. Đã không có sự hài hòa nhâ't định giữa quá trình quốc gia và quá trình dân tộc. Sự phức tạp vể mặt dân tộc ở đây có thể thấy được qua một sô' điểm sau: Thứ nhất, các dân tộc chủ yếu ở đây như Xécbia, Xlôvenia, Croatia, Môntênêgrô, các cư dân sinh sông ở Maxêđônia và Bôxnia-Hécdegôvina đều phần lớn là gốc Slavơ nhung có quá trình lịch sử khác nhau và chịu ảnh hưởng của những nền văn hóa khác nhau. Một sô' dân tộc như Xécbia đã có quốc gia riêng từ lâu đời nhưng một số khác lại không, như người Hồi giáo ở Bôxnia, người Anbani ở Kosovo. Một số dân tộc cũng có địa bàn cư trú lịch sử như người Xécbi sống chủ yếu ở đồng bằng đông bắc và lưu vực Vadar Morava, người Xlôvenia ở vùng đổi núi phía bắc, người Crôatia ở cao nguyên .miền Trung, người Maxêđônia ở nam lưu vực Vadar Morava... trong khi người Anbani ở Kosovo không hoàn toàn như vậy. Người Xlôvenia và Croatia chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Giécmanh, người Xécbi chịu ảnh hưởng của văn hóa Slavơ, người Maxêđônia lại chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp... Những khác biệt này đã làm cho quá trình dân tộc trong mỗi chứng mạnh hơn là sự cô kết quốc gia trong một khuôn khô lãnh thô thuộc Liên bang Nam Tư cũ. 450 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Thứ hai, không một vừng lãnh thô nào thuộc Nam Tu cũ lại không có tình trạng đa sắc tộc. Người Xécbi có mặt ở hầu khắp các quốc gia thuộc Liên bang Nam Tu cũ. Người Xlôvenia sông ở Xlôvenia và Xécbia. Người Croatia sinh sống ở Croatia, Xlôvenia và Bôxnia-Hécdegôvina... Ngay tại các tỉnh tự trị thuộc Liên bang Nam Tư cũ cũng có tình trạng tương tự. Ở Vojlvodina có người Hunggari, người Xécbi, người Xlôvenia, người Môntênêgrô. ơ Kosovo có người Anbani, người Xécbi, người Hổi giáo, người digan. Họ sống thành những cộng đổng riêng theo tôn giáo và văn hóa của mình. Hơn nữa, nhiêu sắc tộc là thiểu sô' trong một vùng nào đó thuộc quốc gia khác nhưng lại có một quô'c gia - dân tộc của mình bên cạnh nên xu hướng ly khai rất dễ xảy ra. Người Xécbi ỏ Bôxnia và người Anbani ở Kosovo là những ví dụ điên hình cho trường hợp này. Thứ ba, tình trạng xung đột và chiến tranh liên miên đã tạo ra những dòng di cư qua lại nhiều chiểu làm thay đổi thành phần dân tộc trong các vừng. Điều nàv đã tạo ra những căng thẳng mới giữa các dân tộc. Theo một ước tính không chính thức, chỉ những cuộc chiến ban đầu ở Nam Tư cũ đã tạo ra dòng người tị nạn lớn nhát cháu Ảu kê từ sau Chiến tranh thế giói thứ hai lên đêh 2,5 triệu người vào cu ôi năm 1992. Trong thòi gian diễn ra cuộc chiến ở Kosovo, Maxêđônia đã hai lẩn phải đóng cưa biên giới với lý do dòng người tị nạn gốc Anbani đang đe dọa Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 451 làm thay đổi cơ câu dân tộc tại nước này1. Năm 1995, những người tị nạn Xécbi từ Croatia và Bôxnia đến định cư ở Kosovo đã làm dây lên sự phản đôi mạnh mẽ của cộng đổng Anbani ở đây. Như vậy, những cuộc xung đột và tranh chấp giữa các quốc gia - dân tộc trong vùng lại càng khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa các cộng đồng cư dân trên từng vùng lãnh thổ. Thứ tư, những hiện tượng nói trên không phải là mới mà đã tổn tại từ lâu trong lịch sử. Trong ví dụ về Kosovo, người Xécbi đã sinh sống lâu đời ở đây nhưng cuộc xâm lược của Đ ế quốc Ottoman đã đẩy họ ngược lên phía bắc, đưa người Anbani vào, gây nên tình trạng thiểu sô' của người Xécbi cho đến tận ngày nay. Bản thân việc Kosovo lúc thuộc Xécbia, lúc thuộc Ottoman, lúc thuộc Anbani, lúc lại được trả về Xécbia đã làm tăng tình trạng mâu thuân trong quan hệ giữa hai cộng đổng dân cư này. Tất cả những phức tạp về mặt dân tộc này đã gây cản ữở nhiều cho quá trình quốc gia - dân tộc ở Nam Tư cũ. Cho đến trước cuộc chinh phục của Đ ế quốc Ottoman, ở Nam Tư cũ đã tồn tại các công quốc của người Xécbi, người Croatia, người Bungari... Nhưng các công quốc này 1. Theo thống kê của cuộc điều tra năm 1981, người Anbani sống ở M axêđônia đã chiếm tới 21% dân sô' chỉ khoảng 2 triệu người cùa nước này. [Dẩn theo Maridôn Tuarenơ, Sự đảo lộn của thê' giới địa chmh trị thế kỷ XXI, Sđd, tr. 123]. Trong khi đó, số người Anbani chạy sang M axêđônia trong thời gian chiến tranh lên đến hàng trăm nghìn người. 452 Một s ố vấn đ ê lý luận qu an h ệ q u ố c t ế dưới g ó c nhin lịch s ử đã không thê phát triển thành quốc gia độc lập bơi những cuộc xâm lăng và nô dịch nặng nể của các đé quốc bên ngoài, đặc biệt là Đ ế quốc Ottoman. Đ ế quốc này đã thi hành những chính sách cai trị râ't tàn bạo, như đàn áp hay bắt thiếu niên bản địa theo đạo Hổi từ khi còn nhò... Sau cuộc chiến tranh Nga - Ottoman 1877-1878, Hiệp ước Stefano ngày 3-3-1878 và Hội nghị Berlin đã đem lại nền độc lập cho Xécbia, Môntênêgrô, Rumani. Trong khi đó, Xlôvenia, Croatia, Bôxnia - Hécdegôvma vẫn thuộc Áo Hung, còn Maxêđônia thuộc về Ottoman. Tuy nhiên, những tham vọng chưa được thoả mãn của các đ ế quốc cũng như của các quốc gia mới độc lập đã dẫn đên hai cuộc chiến tranh Balkan năm 1912-1913. Sau cuộc chiến tranh Balkan lần thứ nhất, Hòa ước London ngày 30-5-1913 được ký kết nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục chổng chất trong vùng. Xécbia và Bungari cùng đòi Maxêđônia. Xécbia chiếm Anbani để tìm đường ra biển Adriatic nhưng đã bị các nước lớn thu hồi lại bằng Quy chế tô chức nước Anbani ngày 29-7-1913. Nước Anbani được thành lập. Do các mâu thuẫn này, cuộc chiên tranh Balkan lần thứ hai lại nô ra gần như ngay sau đó. Kết quả là Hiệp ước Bucaret tháng 8-1913 đã chia Maxêđônia cho Xécbia và Hy Lạp. Còn Hiệp ước London 1915 đã sưa đổi lại biên giới Anbani. Phần bắc nhập vào Xécbia, phán nam nhập vào Hy Lạp, phần giữa là nước Anbani. Các cuộc chiến tranh này đã chứng tỏ tình hình ỏ đây đã sớm phức tạp, mức độ mâu thuẫn là gay gắt và những Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 453 tranh châp đâ't đai là nặng nề. Các kết quả đạt được phản ánh sự thoả hiệp tạm thòi của các nước lớn hơn là vì lợi ích của các quốc gia trong vừng. Vì thê' các quôc gia ở đây đã nhanh chóng bị đẩy về hai phe và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã bùng nổ bắt đầu tà Balkan. Những sắp đặt có tính khiên cưỡng của các nước lớn đã không phản ánh đúng nguyện vọng dân tộc và các quá trình quốc gia ở đây nên đã để lại nhiều di chứng lịch sử đến tận ngày nay. Và cuộc xưng đột ở Kosovo cũng như những mâu thuẫn giữa Xécbia và Anbani không phải là không có liên quan tới những tranh chấp trong quá khứ này. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, những sắp đặt của các đế quốc thắng trận đã đem lại những xáo trộn mới cho quá trình quốc gia - dân tộc ở Nam Tư. Với các Hòa ước Saint-Germain-Laye 19-7-1919 và Hòa ước Trianon 2-6-1920, một quốc gia Nam Tư mói được thành lập. Quốc gia này bao gồm Xécbia, Croatia, Xlôvenia. Quốc gia này còn được Áo nhượng thêm Bôxnia-Hécdegôvina và một số vùng có cư dân Xlôvenia sinh sống. Hòa ước Neuilly ngày 27-11-1919 đã phân cho Nam Tư thêm một số đất đai Maxêđônia thuộc Bungari. Phần đất này cùng với phần Maxêđônia thuộc Xécbia cũ đã làm nên nước Maxêđônia ngày nay. Sau đó, Nam Tư đã gồm thêm Môntênêgrô do Quốc hội nước này biếu quyết sáp nhập. Nam Tư trở thành một nước lớn ở Balkan. Trước kia, các nước đế quốc không bao giờ muốn có một nước Slavơ lớn ờ Balkan vì điều này có thê hạn chê 454 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử khả năng không chế cùa họ cũng như có thê lam tăng anh hưởng của Nga. Điều này bây giờ lại được chảp nhận bcri sự thất bại của phe Liên minh và sự rút lui cua nuóc Nga Xôviết. Anh, Pháp độc chiếm ảnh hưởng ờ đây nén duy trì một nước Slavơ lớn hơn là có lợi cho sự kiếm soát của họ. Sau này, đến thòi kỳ hậu Chiến tranh lạnh, những toan tính chia rẽ đã trở lại thông qua can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp đối với quá trình tan rã của Nam Tư. Quốc gia Nam Tư mới là một sự lắp ghép nhân tạo, có tính áp đặt và không phản ánh thực chất các quá trình quốc gia - dân tộc ở đây. Điều này không hể giúp làm giảm các mâu thuẫn tiềm ẩn, mà còn tạo nguy co gây sâu sắc thêm. Vì thế, chủ nghĩa dân tộc và phong trào ly khai đã nhanh chóng nôi lên. Sau cuộc tranh châp Nam Tư Italia và Hiệp ước Rapallo ngày 12-11-1920 vể Fiume. Xlôvenia không chịu thuần phục Nam Tư do bát binh vì việc Nam Tư đã để mâ't khu vực này mà Xlôvenia vẫn coi là thuộc nó. Ở Croatia, cuộc đấu tranh của Đang Nông dân Croatia chống lại chế độ trung ương Xécbia cua nhiếp chính Alexandre theo chủ nghĩa dân tộc Xécbi cững đã nổ ra. Người Bungari ở Maxêđônia di tản ổ ạt sau Hiệp ước Neuilly. Đổng thời, cuộc đấu tranh vũ trang cua tỏ chức ORIM củng diên ra đẫm máu ờ Maxêđônia cung với những căng thẳng kéo dài giữa Nam Tư và Bungari. Ngoài ra, sự tranh giành ảnh hưởng ờ Anbani giữa Italia và Nam Tư cũng bắt đầu nhen nhóm trờ lại và ngav cang phức tạp... Kosovo - sự chất chứa của lịch sử 455 Một lần nữa, cuộc Chiên tranh thế giới thứ hai đã chổng châ't thêm gánh nặng lịch sử cho những xung đột ở Nam Tư ngày nay. Quốc gia Nam Tư một lần nữa lại bị xé lẻ gần như nát vụn. Ngày 6-4-1941, Đức tâh công Nam Tư. Ngày 10-4-1941, Ante Pvelitch là người thân Đức đã nhanh chóng tuyên bô' nước Crôatia độc lập, bao gồm cả BôxniaHécdegôvina. Xlôvenia bị chia cắt: phần bắc nhập vào Đức, phần nam nhập vào Italia. Xécbia được coi là "độc lập" nhưng đất đai bị thu hẹp lại. Môntênêgrô cũng bị thu hẹp biên giói và chịu phụ thuộc vào Italia. Maxêđônia bị Bungari lấy lại phần lớn. Kosovo và một phần nhỏ ở Maxêđônia được chuyên cho Anbani đang thuộc Italia. Không những thê' những mâu thuẫn quôc gia - dân tộc trước đó đã trở nên sâu sắc hơn. Cuộc nội chiên đẫm máu duy nhất ở châu Âu trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai đã xảy ra tại đây giữa Chính phủ Crôatia thân phátxít và những người Xécbi chống phátxít. Rõ ràng, quá trình quốc gia của Nam Tư vốn đã nhân tạo, ngắn ngùi, thiếu vững chắc lại bị đứt đoạn nên không thê có sự cô' kết lịch sừ. Dù sự đứt đoạn này chi diên ra trong vòng bốn năm nhưng đây là thời kỳ đâm máu và chứa đầy hận thù. Tito đã có sự thành công nhất định trong việc duy trì quá trình quốc gia - dân tộc yếu ớt này. Với quan điếm ưu tiên chủ nghĩa quốc gia hơn chù nghĩa dân tộc, với chính quyền trung ương mạnh và một quân đội chung, với chính sách đối nội khôn khéo và chánh sách đối ngoại độc lập, Tito đã duy trì được một quốc gia Nam Tư gồm sáu bang 456 Một số vấn đề lý luận quan hê quốc tế dưới góc nhìn lịch sù và hai tình tự trị. Nhung đây chi là một quá trinh quốc gia dân tộc được tổ chức từ trên xuống chứ không hội đu điêu kiện đê xây dựng từ dưới lên. Các mâu thuẫn tuv được kiểm soát nhưng vẫn tiếp tục âm ỉ. Sau khi Tito chết vào năm 1980, chủ nghĩa Đại Xécbia lại trỗi dậy. Hệ quà của nó là những quá trình quốc gia - dân tộc riêng rẽ dưới hình thức chủ nghĩa ly khai đã được khởi động trở lại. Như vậy, quá trình quốc gia - dân tộc ở đâv được bắt đầu từ những quốc gia hiện nay chứ không phải từ một cơ cấu của Liên bang Nam Tư cũ. Điều này đã góp phần giải thích vì sao Liên bang Nam Tư chỉ tổn tại chưa đầy 50 năm và đã nhanh chóng bị tan rã sau Chiến tranh lạnh. Những tác động to lớn của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, sự sụp đổ của hệ thông xã hội chủ nghĩa ỏ Đông Âu và các quá ưình ly khai ở đây, đặc biệt là ờ Liên Xô đã tạo điều kiện cho sự tan rã của Liên bang Nam Tư. Trong nước, những sự kiện châm ngòi đầu tiên cho làn sóng ly khai lại xuất phát chính từ Kosovo. Đó là quyết đinh bãi bò quy chế tự trị của hai tinh Kosovo và Vojlvodina năm 1989 củng với sự kiện ở Kosovopolje đã nói ở trên. Bạo lực đã nô ra ờ Kosovo. Sang năm sau, các nghị sĩ góc Anbani ở Kosovo đã tuyên bố độc lập. Nam Tư giải tán Quốc hội của người Anbani. Biêu tình và đình công lại xay ra. Đó là sự băt đầu một quá trình tan rã đầy bạo lực cua Liên bang Nam Tư, sự bắt đầu một thời kỳ đau thương cua những sắc tộc sinh sống nơi đâv. Kosovo là nơi bắt đấu nhưng sẽ chưa phai là nơi kết thúc. Kosovo - sd chat chi!a cua lich sCf 457 Nam 1990, cuoc bau cir da dang dau tien 6 Nam Tu da tao co hoi cho sir loi dung chu nghla dan toe vao cac loi ich chinh tri. Cimg voi co so lich su lau doi cua chu nghla ly khai, cac tac dong tu ben ngoai, cac su kien thuc day 6 ben trong, su tan ra cua Lien bang Nam Tu da dien ra nhanh chong. Mot Ian nua, lich sir lai chi phoi rat ro qua trinh nay. Dau tien la Xlovenia doc lap thang 6-1991. Xlovenia co su co ket lich su yeu nhat voi Nam Tu nen qua trinh doc lap 6 day dien ra tuong doi nhanh chong va it xung dot hon. Tiep lien la Croatia. Thang 7-1991, quan doi Nam Tu tien vao Croatia. Chien tranh bung no. Ac liet nhat la cuoc gianh giat Vukovar ma ket qua la nguoi Croatia da bi day ra khoi thanh pho nay. Cuoc chien 6 Vukovar nam 1991 da bi chi phoi phan nao boi cac mau thuan lich sir va duoc lien tuong nhieu toi cuoc noi chien dam mau giua nguoi Xecbi va Croatia trong Chien tranh the gioi thu hai. Mot lan nua, lich sir can thiep cua cac nuoc Ion lai duoc tai hien. Due la quoc gia dau tien cong nhan Xlovenia va Croatia, sau do la cac nuoc EC va My. Lien hop quoc bat dau can thiep 6 Croatia. Dau nam 1992, 14.400 birth linh cua luc luong gin giu hoa binh Lien hop quoc lan dau tien duoc trien khai 6 chau Au (tai Croatia). Thang 11-1991, den luot Maxedonia tuyen bo doc lap nhung EC chua cong nhan do Hy Lap phan do'i. Thang 3-1992, ? sau mot cuoc bau cir da dang 6 Boxnia-Hecdegovina, nuoc nay tuyen bo doc lap. Chien tranh dam mau da no ra giua 458 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ê q u ố c tế dưới g ó c nhìn lịch sử người Hổi giáo, người Xécbi và người Croatia kéo dài đến năm 1995 khi Hiệp định Dayton được ký kết tháng 11-1995. Liên hợp quốc một lần nữa lại can thiệp và các vụ không kích của máy bay NATO đã lần đầu tiên diễn ra ơ Bôxnia trong thời gian này. Sự hận thù lịch sử sống lại đã dân đến nhiều vụ đàn áp những người dân thường và các cuộc "thanh lọc sắc tộc". Liên bang Nam Tư cũ chính thức tan rã. Tóm lại, lịch sử đã cung cấp thêm một góc độ mới đê đánh giá hiện tượng tan rã của một liên bang và lý giải tình hình xung đột ác liệt ở Nam Tư cũ cũng như ờ Kosovo. Chúng ta có thể tìm thấy những cơ sò văn hóa lịch sử, nguyên nhân can thiệp từ bên ngoài, các diễn biến phức tạp trong quá trình quốc gia - dân tộc là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các tình hình trên. Rõ ràng, quá trình quốc gia - dân tộc của Liên bang Nam Tư là một quá trình không bình thường vì chịu nhiều chi phôi của lịch sử cũng như những bóp méo từ bên ngoài và các lệch lạc ở bên trong. Việc nghiên cứu thêm vê' chúng sẽ rất có ích trước những thay đổi cua tình hình mói hiện nay. 459 MỘT số YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỨI NHẬN THỬC AN NINH ở ĐỐNG Á MỞ ĐẦU Vârt đề an ninh tổn tại do nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Rất nhiều trong sô' chúng được quy định bởi hoàn cảnh khách quan và những điều kiện vật châít như môi trường vô chính phủ, thế giói chia rẽ thành nhiều quốc gia, quy luật phát triển không đều, đặc tính đa dạng của con người, xu hướng tranh giành quyền lực, xung đột lợi ích vật chất,... Bên cạnh các nguyên nhân khách quan và điều kiện vật chât, nhận thức đóng vai ưò không hề nhỏ trong việc tổn tại các vấn đề an ninh. Nhận thức có thể là nguyên nhân sinh ra vấn đề an ninh, có thể là điều kiện duy trì sự căng thẳng an ninh và có thể là yếu tố tác động làm phức tạp thêm vấn đề an ninh. Đây là điều có đầy rẫy trong lịch sử quan hệ quốc tê thế giói củng như trong lịch sử Đông Á. Nhận thức an ninh được hình thành và vận động bời hoàn cành khách quan và các điểu kiện vật chất, nhung củng chịu tác động không nhỏ cùa các yếu tố tinh thần. 460 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c tế dưới g ó c nhìn lịch sử Các yếu tố này đóng vai trò như một thứ mói truờng tinh thần bao quanh nhận thức an ninh. Chúng góp phấn làm nên phương diện chủ quan trong nhận thức an ninh. Thực ra, nhận thức an ninh ở đâu cũng đẽu ít nhiêu chịu tác động của các yếu tô' tình thần. Tuy nhiên, yếu tố này ở các nơi thường không giống nhau, tác động lên nhận thức an ninh cũng không như nhau. vấn đê' an ninh ở Đông Á không chỉ đa dạng và phức tạp mà còn dễ biến đổi, khó lường và khó giải quyết. Những đặc điêm này có trong cả sự nhìn nhận các vâín đề an ninh lẫn cách thức giải quyết chúng. Theo chúng tôi, tính dễ biến đổi, khó lường và khó giải quyết trong vấn đề an ninh ờ Đông Á được quy định không ít bởi các yêu tô' tinh thần trong nhận thức an ninh của các nước trong khu vực. Và cũng chính các yếu tố này đã góp phần làm nên tính đặc thù trong vấn đề an ninh ở Đông Á. Xuất phát từ quan điểm trên, bài viết này không nhằm làm rõ nhận thức an ninh của các nước trong khu vực hiện nay như thế nào, mà chỉ cố gắng chi ra một số yếu tố tinh thần đang tác động không có lợi tới nhận thức an ninh ỏ Đông Á. Bài viết củng giới hạn trong việc tập trung vào các yếu tố có tính tinh thần và xem xét chúng dưới góc độ lịch sừ. Việc xem xét chúng chủ yếu được tiến hanh qua lăng kính kinh nghiệm nên chi có tính cách bưóc đấu. Chúng tôi hy vọng có thê đóng góp thêm một khía canh nhò trong nghiên cứu vẩn để an ninh ờ Đông Á, góp phấn Một s ố y ế u tố tác độn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 461 cho việc cải thiện bức tranh an ninh ở đây theo hướng ổn định và hòa bình. Các yếu tô' tinh thẩn tác động đến nhận thức an ninh ở Đông Á được đề cập trong bài viết này bao gồm: chủ nghĩa quốc gia, nhận thức lịch sử, tư tưởng triết học - chính trị và một sô' yếu tô' khác trong tính cách người Á Đông. 1. Chủ nghĩa quốc gia Nếu xét trên ba tiêu chí cơ bản của quốc gia là cư dân, lãnh thổ và nhà nước, các quốc gia ở khu vực Đông Á xuâ't hiện khá sớm. Quá trình quốc gia của nhiều nước Đông Á là một dòng chảy tương đối liên tục dù có những di dịch về địa lý và những đứt đoạn về lịch sử. Đa phần các nước Đông Á ngày nay đều là sự phát triển tự thân từ những quôc gia cổ trung đại mà ít chịu sự sắp đặt hay can thiệp từ bên ngoài. Với một quá trình quốc gia như vậy, chủ nghĩa quốc gia ở Đông Á cũng được hình thành từ lâu và được củng cố qua lịch sử. Bên cạnh đó, sự phát triển tương đối biệt lập cũng khiên chủ nghĩa quốc gia ở đây được xác định rõ ràng hon và có tính khép kín nhiều hơn. Đổng thời, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm cũng góp phần tạo nên sức sống mạnh mẽ và tính hướng nội cao cho chủ nghĩa quốc gia ở Đông Á. Một quá trình diễn ra lâu dài với những đặc thù như vậy đã khiên chủ nghĩa quốc gia ở Đông Á có một nền tảng lịch sừ khá vững chắc đến tận ngày nay. Không thể 462 Một s ố vấn đ ê lý luận qu an h ệ q u ố c tế ơưởi g ó c nhìn Ịịch_sƯ p h ủ nhận vai trò to lớn của chủ nghĩa q u ố c gia đ ô i VƠI công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của các quốc gia Đông Á. Tuy nhiên, do lịch sử không đơn giản là sự tiếp tục của cái đã có, do tình hình hiện nay đã không còn như trước, chủ nghĩa quốc gia này đang góp phần tạo nên những tác động nhất đinh đối với nhận thức vể an ninh khu vực. Sự mạnh mẽ và tính hướng nội cao của chủ nghĩa quốc gia ở Đông Á thường dẫn đến quan niệm tập trung cao độ vào quốc gia và tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia. Chủ nghĩa này đề cao chủ quyền quốc gia như những giá trị thiêng liêng. Đôi với nhiều người, chủ quyển quốc gia là một khái niệm bâ't di bâ't dịch, các giá trị và lợi ích quốc gia là không thể thỏa hiệp. Vì thê' chủ nghĩa quốc gia đã tác động tới tính không khoan nhượng trong nhận thức về an ninh, đặc biệt đối với các vấn đề liên quan đên chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Việc giải quyết các vâh đề an ninh như tranh chấp lãnh thổ thường khó tìm thấy lối thoát chính bởi lý do này. Chủ nghĩa quốc gia mạnh mẽ và hướng nội cao đã ít nhiều coi nhẹ khả năng dung hòa với lợi ích nước khác và thậm chí là cả lợi ích khu vực. Lợi ích khu vực chi được coi là thứ nguyên hoặc đơn thuần là sự tiếp tục của lọi ích quổc gia chứ không có tính độc lập nhất định. Sự ích kỷ vẫn ngự trị trong chính sách đối ngoại của nhiều nước Sư nhân nhượng trong các vâh đề an ninh liên quan đến chủ Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 463 quyển nhiều khi được coi là sự mâ't mát hơn là đổi chác. Hiện nay, cách tiếp cận khu vực là nhỏ bé và cách tiếp cận quõc gia vẫn là bao trùm trong chính sách an ninh ở Đông Á. Đây là một lý do làm cho các nước Đông Á không chi khó khăn trong việc tìm tiếng nói chung, khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề tổn tại, mà nhiều khi còn làm nảy sinh những vâh đề mới trong quan hệ. Nhiều sáng kiến hợp tác đa phương đã thất bại, nhiều thê chế khu vực không hiệu quả cũng chính bởi lý do này. Chủ nghĩa quốc gia được cô' kết trong lịch sử nên hướng nhiều về quá khứ và dễ nhạy cảm đối với các vâh đề có liên quan đêrt quá khứ. Sự tổn thương của chủ nghĩa quốc gia trong lịch sử luôn là điều khó quên. Chủ nghĩa này được thừ thách và chứng tỏ trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm nên càng dễ "dị ứng" với những vârt đề và nguy cơ từ bên ngoài. Mặt khác ở Đông Á, do tinh thần quốc gia mạnh mẽ nên chủ nghĩa quốc gia nhiều khi cũng được sừ dụng đế huy động sự ung hộ trong nước trong việc giải quyết các mâu thuẫn đối ngoại. Cả hai điều này đều làm tăng nguy cơ đối đầu hơn là hòa giài trong việc giải quyêt các vâh đề an ninh,- Ngoài ra, sự tiếp tục các giá trị lịch sừ của chủ nghĩa quốc gia cũng ảnh hường ít nhiều tới tính bảo thu trong đánh giá tình hình, hoạch định chính sách, nhận định đôi thủ,... Chu nghĩa quốc gia ờ Đông Á phổ biên cả trong giới hoạch định chính sách lẫn trong công chúng. Sự ăn sâu 464 Một s ố vấn đ ê lý luận quan h ê q u ó c t ế dưởi g ó c nhìn lịch sử trong nhận thức khiên nó khó linh hoạt và luôn tạo ra một áp lực mạnh mẽ lên chính sách đối ngoại, lẽn việc nhận diện và giải quyết các vâri đề an ninh1. 2. Nhận thức lịch sử Cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á có cả hòa bình lẫn chiên tranh, cả họp tác và xung đột, cả hữu nghị lẫn hận thù. Tuy nhiên, lịch sử chiên tranh, xung đột và hận thù dường như tác động đến nhận thức an ninh hiện tại nhiều hơn là lịch sử hòa bình, hợp tác, hữu nghị. Ở Đông Á, chiến tranh và xung đột giữa các quốc gia trong lịch sử thường dai dẳng. Nhiều cuộc chiên tranh và xung đột kéo dài từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Việc kết thúc chiên tranh thường giải quyết theo công thức "tổng SỐ bằng 0", tức là cái được của bên này là cái mát của bên kia. Xưng đột này châm dứt, xung đột khác lại xuất hiện. Chiến tranh có thế châm dứt về hình thức song nguyên nhân của nó vẫn không được giải quyết. Chính lịch sử chiến tranh kéo dài và lặp đi lặp lại như vậy đã góp phần tạo ra cách nhìn tiến trình lịch sử vận động có tính chu kỳ hết cuộc xung đột này đến cuộc xung đột khác. Cách nhìn lịch sử như vậy vẫn đang tổn tại phổ biến ỏ Đông Á. 1. Về vấn đê này, xin tham kháo thêm Hoàng Khắc Nam , "Hợp tác Đông A - Những trỏ ngại của lịch sử", Tạp chí Nghiên círu Nhât Bàn và Đông Bắc Á, số 5 (47), 2003, tr. 68-74. Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 465 Với cách nghĩ như vậy, xung đột dễ được coi là không tránh khỏi và chiến tranh hoàn toàn có thế lặp lại trong tương lai. Từ đó, các biện pháp chính sách dễ được hướng tới việc chấp nhận và sẵn sàng đương đầu với các vâh đề an ninh hơn là tìm cách ngăn chặn chúng trước. Không những thế, chiến tranh ở Đông Á nhiều khi cũng khá bạo tàn vói những thôn tính lãnh thổ, tàn phá đất nước và giết hại dân thường. Chiến tranh ở đây là không có chuẩn mực nên dễ bị cuốn theo những tình cảm tiêu cực của con người. Lịch sử xung đột như vậy thường đê lại lòng hận thù. Được chủ nghĩa quôc gia tiếp sức, sự hận thù của chiến tranh dễ dàng được phô biến và tổn tậi xuyên thời gian, đê lại những "vết hằn tâm lý dân tộc" và những "định kiến lịch sử". Lịch sử xung đột càng tàn bạo, sự ác cảm càng lớn, sự nghi kỵ càng kéo dài. Tâm lý ác cảm giữa cộng đồng này vói cộng đổng kia là hiện tượng khá phô biến ở Đông Á như giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giữa Hàn Quốc với Nhật Bản,... Tâm lý ác cảm của cộng đổng tạo áp lực không có lợi cho chính sách hướng tới tương lai vì hợp tác và hội nhập ở Đông Á. Hầu hết các cuộc chiên tranh và xung đột trong lịch sừ Đông Á là song phương, chủ yếu xảy ra giữa các nước có chung biên giới với đối tượng cụ thể nào đó. Sự tập trung của lịch sừ xung đột, sự kéo dài của chiến tranh, tính bạo tàn của vũ lực, cộng với lòng tự hào dân tộc cao khiên cho "kẻ thù lịch sử" thường là cụ thể với nhiều vấn đề an ninh cụ thê do lịch sừ đê lại như tranh châp lãnh thổ và sự nghi 466 Một số vấn đề lý luân quan hê quốc tế dưới góc nhìn lịch sử kỵ lẫn nhau. Một khi "kẻ thù lịch sử" là cụ thế, vân đẽ lịch sử đê lại cũng cụ thể, người ta càng khó quên đi. Giữa các nước này, khả năng "xung đột tinh thần quốc gia" giữa chúng là khá cao và vì thế mâu thuẫn dường như khó mất đi kể cả trong thời bình. Các vấn để ал ninh vừa nhiều, vừa giải quyết khó khăn đặc biệt giữa những nước nàv. Lịch sử đã làm tăng thêm tính phức tạp của vârt đề an ninh hiện nay ở Đông Á. Một thói quen trong tâm tính người Đông Á là hướng nhiều về quá khứ nên lịch sừ chiến tranh và xung đột như vậy củng ảnh hưởng tới tình cảm và nhận thức an ninh ở đây. Tất cả những điểu này đang được lồng ghép vào các vâh đê an ninh hiện nay và làm cho chúng dễ bị trầm trọng hơn và khó giải quyết hơn. Bề dày lịch sử xung đột càng lớn, "vết hằn tâm lý dân tộc" càng sâu. Ám ảnh của quá khứ xung đột nuôi dưỡng sự nghi ngờ. Sự nghi ngờ hạn chế sự hiếu biết và sự tin cậy lẫn nhau. Hiện nay, sự nghi ngờ vẫn ngự trị ờ Đông Á, kế cả trong công chúng lẫn giới tinh hoa xã hội. Sự nghi ngờ đáng kể nhât là giữa những "kẻ thù lịch sử". Trên thực tê' chiến tranh và xung đột không phải là hình thức quan hệ duy nhất ở Đông Á, nhưng dâu ал của chúng trong tâm lý hiện tại là rõ ràng. Nền hòa binh giữa các quôc gia Đông A chủ yếu là hòa bình phi quan hệ. Đó là trạng thái hòa binh nhưng không hợp tác và ít quan hệ. Điều này không giúp gì nhiều trong việc giảm tác động của lịch sử chiến tranh tới nhận thức an ninh ngay nay trong khu vực. Nhìn chung, ở Đông Á, thiêu nẽn tàng Một s ố y ế u tố tác đôn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 467 quan hệ tạo nên sự kém hiểu biết lân nhau, sự đè nặng của quá khứ xung đột tạo nên sự thiếu tin cậy lân nhau1. 3. Tư tưởng triết học - chính trị Trong nhận thức về vân đề an ninh, tư tưởng triết học chính trị là yếu tố chi phối nhiều hành vi đối ngoại của quốc gia. Nó tạo nên nhân sinh quan và thế giới quan trong việc giải quyết các vấn đề an ninh. Sự tương đổng hay khác biệt về tư tưởng triết học - chính trị có khả năng tác động đến sự chia rẽ hay hợp tác giữa các quốc gia. Nhưng trong lịch sử Đông Á, đã không tổn tại một nền triết học - chính trị chưng cổ vũ cho sự hợp tác xuyên quốc gia. Trong khu vực có hai nền triết học lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Hầu hết các nước còn lại không có nền triết học - chính trị của riêng mình. Mặc dù giữa hai nền triết học Trung Ọuôc và An Độ có sự tiếp thu lẫn nhau nhưng sự khác biệt giữa chúng vẫn là lớn, cả về nhận thức luận lẫn bản thể luận, cả về phong cách tư duy và hình thức tư duy2. Bản thân mỗi nền triết học lại bao gồm nhiều trường phái khác nhau. Chính sự khác biệt về tư tường và đa dạng về trường phái đã ngăn cản việc hình thành nên 1. Về vân đề này, xin tham khảo thêm Hoàng Khắc Nam, "Hợp tác Đông Á - Nhũng trờ ngại của lịch sử", Tạp chí N ghiâi cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, sô' 5 (47), 2003, tr. 68-74. 2. Dần theo GS. Hà Văn Tấn "M ây suy nghĩ vê lịch sư Việt Nam và tu tường Việt Nam ", Giáo sư sử học Hà Văn Tấn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997, tr.95-108. 468 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ê q u ố c tế dưới g ó c nhìn lịch sử tính chung trong tư tưởng triết học - chính trị cho khu vực Đông Á, trong đó có nhận thức và quan niệm vẽ an rành. Từ cuối thế kỷ XIX, nền triết học - chính trị ơ Đông Á còn chịu ảnh hưởng của hàng loạt trường phái tư tương tù' bên ngoài. Hầu hết các nước lớn đều có mặt tại khu vực này và đem vào đây các tư tưởng chính trị vốn đã rất phong phú của mình. Các tư tưởng này được du nhập và cải biến trong những điều kiện lịch sử khác nhau, bời các lực lượng khác nhau nên càng đa dạng. Giới tinh hoa (elite) và giới trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, trong những nền văn hóa khác nhau, được tiếp thu các luồng tư tưởng khác nhau nên bức tranh tư tưởng chính trị Đông Á thêm phần phức tạp. Có lẽ không khu vực nào phải chịu ảnh hưởng cua nhiều luồng tư tường đa dạng và khác nhau đên như vậy. Nền văn hóa chính trị khu vực tiếp tục duy trì sự đa diện đa sắc, tạo nên tính phức tạp và đa chiều trong việc nhìn nhận, giài quyết vân để an ninh trong khu vực. Không chi có sự khác biệt, trong các tư tướng lớn của Đông Á củng chứa đựng những yếu tô' có tính chia rẽ quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia. Ví dụ như trường hợp Nho giáo - vốn hay được nhắc đêh như một yêu tố chung tạo nên "sự thần kỳ châu Á" trong những nám 1980. Nhưng cũng chính Nho giáo lại khuyến khích các giá trị thiếu dân chủ trong quan hệ xã hội, tư tưởng banh trướng trong quan hệ giữa các dân tộc, hạ thấp vai trò cua thương mại vốn có khả năng thúc đẩy hợp tác,... Là một học thuyết Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an nính ở Đ ông Á 469 chính trị - xã hội nhiều hơn là tư tưởng tôn giáo, Nho giáo khuyến khích chủ nghĩa quốc gia và trong chừng mực nào đó, đã đặt chủ nghĩa quô'c gia đối lập với chủ nghĩa quôc tế, chủ nghĩa khu vực. Đó là những quan niệm không có lợi cho việc giải quyết các vấn đề an ninh. Đến thời hiện đại, do giao lưu phát triển, tính chung trong nhận thức về an ninh đã tăng lên ở Đông Á. Tuy nhiên, một trong những tính chung này lại là sự phô biến cách nghĩ theo quan niệm của chủ nghĩa hiện thực (realism). Đây là lý thuyết vốn đề cao an ninh quốc gia, coi xung đột là bản chất của quan hệ quốc tế và từ đó khuyến khích mưu tìm quyền lực hơn là sự hợp tác để giải quyết vấn đề an ninh quôc gia. Sự chi phối của tư tưởng chủ nghĩa hiện thực đã được cửng cố thêm bởi chủ nghĩa quốc gia mạnh mẽ và lịch sử chiến tranh kéo dài trong khu vực. Mặc dù các cố gắng giải quyết an ninh theo tinh thần của chủ nghĩa tự do mới (neoliberalism) và chủ nghĩa kiến tạo (constructivism) như xây dựng thể chế và bản sắc cộng đồng, thúc đẩy giao lưu kinh tế và văn hóa - xã hội,... đã được thúc đẩy nhưng xem chừng chưa đem lại nhiều hiệu quả và chưa lấn át được sự chi phối của cách nghĩ theo chủ nghĩa hiện thực. Như vậy, trong lịch sử Đông Á, đã không tồn tại một nền triết học - chính trị với những giá trị chung được cả khu vực chia sẻ. Trong khi đó, tính chung trong triết lý về an ninh vừa ít, vừa muộn, lại chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực. Sự hợp tác an ninh - chính trị giữa các 470 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c té dưới g o c nhĩn hch SŨ nước Đông Á yêu ớt trong lịch sử, khó khăn trong hiện tại có phần bời yếu tố này1. 4. Một số yếu tố khác trong tính cách người Á Đông Đây không hoàn toàn là những giá trị phô biên nhung vẫn là thực tế không nhỏ ở Đông Á. Chúng không bộc lộ thường xuyên do nhiều khi bị lý trí kiềm chế nhưng vân tổn tại trong không ít trường hợp. Chúng không hoàn toàn là tiêu cực nhưng vẫn có thê có tác động đến nhận thức, làm cho các vâh đề an ninh ở Đông Á thêm phức tạp, khó lường và khó giải quyết. Thứ nhất, đó là chủ nghĩa kinh nghiệm trong hoạch định chính sách an ninh. Sự ảnh hưởng đáng kê của chủ nghĩa kinh nghiệm trong vấn đề này ở Đông Á được quy định bởi tư duy vốn trọng kinh nghiệm của nền văn minh nông nghiệp kéo dài, bởi quá trình công nghiệp hóa và khoa học chưa lâu và nhất là bởi một lịch sử quan hệ quốc tế hoàn toàn dựa trên sự ứng xử bằng kinh nghiệm. Kinh nghiệm thường đa dạng và không có giá trị phổ quát.í Kinh nghiệm cũng thường có tính tình huống hơn là phù hợp với chiến lược lâu dài. Nặng vể kinh nghiệm cũng dễ dẫn đến xu hướng quan tâm đến lợi ích tương đối hơn là lợi ích tuyệt đối. Theo các nhà chủ nghĩa hiện thực, thiên 1. Về vấn đê' này, xin tham khảo thêm Hoàng Khắc Nam "Vấn để văn hóa trong chù nghĩa khu vực Đông Á", Tạp dú Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1 (55), 2005, tr. 34-39. Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 471 về lợi ích tương đôi khiến cho hợp tác khó kéo dài và dễ chuyển sang xung đột. Đó là chưa kê kinh nghiệm đối ngoại đúc rút ở Đông Á thường thiên nhiều về đối phó đơn phương vói xưng đột an ninh hơn là hợp tác ngăn chặn hay giải quyết chúng. Cho nên, một khi kinh nghiệm còn là cơ sở hoặc ít nhât còn hiện diện nhiều trong quá trình hoạch định chính sách, sự khác nhau và tính dễ thay đổi trong nhận thức an ninh cũng như cách giải quyết là điều dễ thây. Thứ hai, đó là tính chủ quan trong nhận thức an ninh. Ở Đông Á, đa số các xã hội thiếu cơ chế phản biện chính sách đối ngoại theo kiểu phương Tây. Vì thê' các quyết định chính sách an rãnh thường được hoạch định trong một nhóm nhỏ cầm quyền. Điều này khiến cho chính sách an ninh dễ chịu tác động từ trình độ, quan niệm, tâm lý, tính cách, kinh nghiệm và sở thích,... của những người trong nhóm đó, tức là dễ mang tính chủ quan. Tính chủ quan lại càng dễ trở nên lớn hơn trong bối cảnh ngoại giao bí mật và hoạch định chính sách an ninh ít công khai vốn đang phô biến ở Đông Á. Khi tính chủ quan lớn, lại cộng thêm chủ nghĩa kinh nghiệm, vấn đề an ninh lại càng trở nên khó lường. Đến lượt mình, tính khó lường đều được các bên biết ca nên dễ gây cảm giác bất an, và từ đó là sự phức tạp và căng thăng hơn trong các vấn đề an ninh. Thứ ba, đó là sự chú trọng tới thân phận địa vị. Sự chú trọng này ờ Đông A là khá cao, nhất là trong những xã hội chịu ành hưỏng nhiều của Nho giáo và có lịch sử đế chế. 472 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sù Sự chú trọng tói thân phận địa vị hay sinh ra quan diêm thứ bậc, bất bình đẳng, thiếu tôn trọng lẫn nhau, đặc biệt là của nước lớn đối vói nước nhỏ. Thân phận địa vị khi được chú trọng quá mức thì trở thành một thứ lợi ích lớn. Đôi khi, người ta sẵn sàng châp nhận xung đột hay sự "ăn miếng, trả miếng" để thỏa mãn lòng tự tôn và giữ thê diện. Tính cách này vì thế mà trở thành một tác nhân làm tăng hoặc gây kéo dài xung đột. Thậm chí, đôi khi sự cảm thây thân phận địa vị bị tổn thương lại trở thành nguyên nhân gây ra mâu thuẫn. Thể diện quá cao đôi khi cũng làm ảnh hưởng đến sự thỏa hiệp, nhân nhượng trong việc giải quyết các vấn đề an ninh. Điều này được thể hiện rõ nhất ưong quan hệ nước lớn - nước nhỏ khi các nước lớn thường cảm thây khó nhân nhượng hơn trong các tranh châ'p vói các nước nhỏ. Thứ tư, đó là tính dễ tự ái. Người Đông Á có ý chí nhưng tâm lý thường không vững cho nên dễ tự ái. Ở Đông Á, cảm giác bị xúc phạm và bị coi thường đều dễ dẫn đến tự ái. Tự ái hay dẫn đến nóng giận. Sự tự ái và nóng giận đôi khi khiên người ta bất chấp các tính toán lý trí lợi hại và sự nhường nhịn đê bỏ qua các cơ hội hòa giải. Tự ái còn dễ sinh ra sự chấp vặt, khiến những váb đê nhỏ có thể trở thành to. Thậm chí tự ái còn chứa đựng khả năng tung hê và bỏ cuộc trong hợp tác giải quvết các vấn đề an ninh. Khi tự ái cao và không kiểm soát được, nó dễ làm xô lệch lý trí. Tự ái chính là một trong những tác nhân làm cho vâín đề an ninh ưong khu vực đôi khi trơ nén dễ Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 473 thay đổi và khó lường. Tự ái cũng làm giảm khả năng thỏa hiệp, nhân nhượng. Ngoài ra, tính dễ tự ái cao đều được các bên biết cả cũng đôi khi làm giảm sự lựa chọn và khiến việc giải quyết mâu thuẫn an ninh thêm phức tạp, kéo dài. Nhìn chung, sự tự ái một khi đã xảy ra sẽ làm vâh đề an ninh ưở nên khó giải quyết hơn. Thứ năm, đó là tính thù dai. Ở Đông Á, do sự chi phôi của lịch sử và tâm tính hướng về quá khứ, người ta thường khó quên những điều đau khổ, tủi nhục, thù hằn do người khác đem lại trong quá khứ hơn là những điều vui, điều tốt. Điều này còn được nuôi dưỡng trong thời hiện tại khi giáo dục lịch sử thường hướng tới xung đột hơn là hợp tác, theo tinh thần ta đúng còn người khác sai. Tính thù dai dễ tạo ra định kiến và cả sự nghi ngờ đôi với kẻ thù cũ. Đến lượt mình, định kiến và cả sự nghi ngờ thường đem lại ám ảnh trong nhận thức về xung đột hơn là hợp tác, tâm lý coi đối tượng là đối thủ hơn đôi tác. Tính thù dai là yếu tố kích thích xung đột và dễ làm giảm ý chí hợp tác. Nói cách khác, tính thù dai là đường dẫn quá khứ xung đột vào trong nhận thức an ninh của hiện tại. Vói một lịch sử chiến tranh và xung đột của Đông Á như trên đã đề cập, tính thù dai là một yếu tố gây khó khăn cho việc khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. KẾT LUẬN Như vậy, ờ Đông A, nhận thức an ninh của các nước trong khu vực còn chịu tác động của nhiều yếu tô từ môi 4 74 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới goc nhìn lỊCh SƯ trường tinh thần. Các yếu tố này có nhiếu, nhưng trong khuôn khô của bài viết mói chi bước đầu đé cập một sô yếu tố. Đó là chủ nghĩa quốc gia mạnh mẽ, nhận thúc lịch sử sâu sắc, đa dạng tư tưởng triết học - chính trị và một sô điểm trong tính cách của người Á Đông. Ở Đông Á, những hiện tượng này không phai là nhiêu nhưng cũng không phải ít. Chúng đang tồn tại và vân đủ sức nặng để tác động đáng kể lên nhận thức an ninh trong khu vực từ lợi ích đến cách giải quyết. Các yếu tố này có tính hai mặt, nhưng những mặt trái của chúng đang ảnh hưởng không có lợi cho nhận thức an ninh ờ khu vực. Nhận thức an ninh chịu ảnh hưởng của các yếu tố như vậy đang góp phần làm tăng tình trạng phức tạp, tính khó lường và khó giải quyết hơn trong các vâri đề an ninh. Khi khó thay đổi nhanh chóng hoàn cảnh khách quan, khi việc thay đổi nhận thức cũng không thể một sớm một chiều, việc nhận biết các yếu tô' tính thần tác động tiêu cực tới nhận thức an ninh có lẽ cũng cần thiết như một phương cách giải quyết vẩn đề an ninh trong khu vực. Bởi lẽ, khi các yếu tố này được giảm bớt, nhận thức an ninh sẽ được cài thiện theo hướng tích cực hơn, vâh để an ninh theo đó sẽ bớt căng thẳng hơn và việc giải quvết vì thế cũng sẽ đỡ khó khăn hơn. Các yếu tô' này cũng góp phần tạo ra những nét riêng cho vẩn để an ninh ờ Đông Á. Việc khắc phục chúng phài là một quá trình. Vì thê' việc giải quyết các váh đẽ an ninh ở Đông Á vẫn phai tính đến chúng. Một s ố y ế u tố tác đ ộn g tới nhận thức an ninh ở Đ ông Á 4 75 Tât cả những yếu tô'đề cập trên đây đều thuộc về tinh thần chủ quan, tức là hoàn toàn có thê thay đổi. Có nhiều cách thức đế có thê’ thay đổi hoặc làm giảm bớt chúng. Đó là phát triển hợp tác để tạo ra nhiều giá trị chung khu vực, điều chỉnh giáo dục và hợp tác giáo dục cho thế hệ trẻ để giúp thay đổi nhận thức, tăng cường giao lưu giữa giới trí thức đê nhận thức tích cực lan truyền trong xã hội và lên tới giới hoạch định chính sách, thúc đẩy hơn nữa các biện pháp xây dựng lòng tin, tăng cường giao lưu văn hóa - xã hội để tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy nhận thức liên chủ thế trong khu vực về vấn đề an rãnh,... Khi đó, chúng ta có thê hy vọng nhiều hơn về một nền an ninh thực sự cho Đông Á. 476 MỘT số YẾU TỐ ĐỊA-CHiNH TRỊ CỦA VIỆT NAM: NHẬN THỬC VÀ THỰC TIỄN Từ xưa, người ta đã nhận thấy có mối liên hệ giữa hoàn cảnh vật chất, đặc biệt là điều kiện địa lý vói hành vi chính trị của con người. Bởi thế, việc nghiên cứu về mối liên hệ này được bắt đầu từ rất sớm và dần dần dẫn đên sự ra đời của địa-chính trị học (geopolitics) tù nừa cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc nhận thức và áp dụng lý thuyết cũng như cách tiếp cận địa-chính trị là khá muộn, chủ yếu là từ những năm đầu thế kỷ XXI. Cho đên nay, việc nhận thức vê' địa-chính trị vẫn còn chưa thực sự rõ ràng. Các nghiên cứu liên quan đến địa-chính trị hiện nay chủ yếu theo hai hướng: hướng thứ nhất cho rằng tất cả những hoạt động và động thái chính trị trên một không gian địa lý nào đó đểu có thể được coi là địa-chính trị. Hướng này có xu hướng cho tất cả các vâr» đẽ chính tri quốc tế vào địa-chính trị. Dù không có tuyên bó' rõ ràng song đa phần các nghiên cứu liên quan đên địa-chính trị ở Việt Nam là đi theo hướng này. Các nghiên cứu theo Một s ố y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam.. 471 hướng này cũng chủ yếu là vận dụng các quan điểm vê địa-chính trị mà không có khung lý thuyết rõ ràng nào. Trong khi đó, hướng thứ hai thì có xu hướng hẹp hơn khi tập trung chủ yếu vào tác động qua lại giữa địa lý với chính trị. Tuy nhiên, so với hướng trên, hướng này có ít nghiên cứu hơn nhiều. Có khá ít công trình chuyên biệt về đối tượng này mà thường là những luận điếm về vân đề cụ thể nào đó được lổng ghép trong một nghiên cứu rộng hơn cả về đôi tượng lẫn phạm vi. Nghiên cứu địa-chính trị ở đây cũng tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chính trị quốc tế hơn là chính trị đôi nội. Các công trình nghiên cứu về lý thuyết lại còn ít hơn nhiều. Các lý thuyết nếu có thì cũng là những lý thuyết của phương Tây có từ thời cận đại ưở về trước. Với tình hình nghiên cứu địa-chính trị như vậy, nhận thức về địa-chính trị ở Việt Nam còn nghèo nàn là điều không tránh khỏi. Việc vận dụng các luận điểm địa-chính trị vào nghiên cứu hay hoạch định chính sách vừa thiếu, vừa cảm tính cũng là điều dê hiểu. Bài viết này không có tham vọng khắc phục các vẩn để trên. Đó là một công việc đòi hỏi công sức của nhiều người với một quá trình lâu dài. Chúng tôi chi hy vọng bước đầu làm rõ hơn vai ưò của một số yếu tố địa lý đối với chính trị quốc tế và áp dụng phần nào đó vào trường hợp cua Việt Nam. Các yếu tố địa lý thì có nhiều, nhưng do khuôn khô có hạn của bài viết, chúng tôi xin phép chi đề cập ba yếu tố trong số đó. Đó là vị trí địa lý, diện tích đất đai và địa mạo. 478 Một s ố vấn đ ê lý luận quan h ệ q u ố c tế dưới g ó c nhìn lịch s ủ 1. Vị trí địa lý Trong sô' các yếu tố địa lý, vị trí được coi là yếu tô quan trọng nhất bời có khả năng đem lại những ưu thê khá lớn cho vị thế quốc gia. Trên bình diện quốc tế, vị trí địa lý còn mang thêm ý nghĩa chiến lược nếu vị trí này ảnh hưởng lớn đến lọi ích nước khác và được nhiểu nước cần đến. Vị trí địa lý liên quan đến sức mạnh quốc gia trên cả hai phương diện quân sự và kinh tế. v ề quân sự, đó là vị trí thuận lợi để tiếp cận, tiến công đối thủ hoặc phòng thủ hiệu quả để có thể ngăn chặn hoặc hạn chế sự târi công của kẻ địch. Vị trí như vậy giúp nâng cao năng lực quân sự của quốc gia trong quan hệ an ninh vói các quốc gia khác. Vào thế kỷ XVIII-XIX, khi hải quân chưa phát triển, chi với eb biến Mangse rộng khoảng 20 dặm cũng đủ giúp Anh tránh được nhiều cuộc chiến tranh lớn ở lục địa châu Âu, đặc biệt là cuộc tấn công của Pháp dưới thời Napoleon. Nhờ đó, Anh đã vượt lên các cường quốc châu Âu và trở thành cường quôc số 1. Tương tự như vậy, vị trí đảo quôc của Nhật Bản cũng giúp nước này không bị Trung Quốc đô hộ trực tiếp trong suốt chiều dài lịch sừ. Đến thời cận đại, Nhật Bản mạnh lên và quay sang xâm lược Trung Quốc. Trường hợp khác là nước Mỹ đã thoát khòi việc trờ thành chiên trường và là cường quốc duy nhất không bị tàn phá trong cả hai cuộc chiên tranh thế giói nhờ khá nhiều vào việc có hai đại dương ngán cách Mỹ giữ được nguvên sức mạnh nhiểu mặt sau chiéh tranh và nhờ đó trờ thành siêu cường sau năm 1945. Một s ố y ế u tó địa-chính trị củ a Việt Nam. 479 Về kinh tê' vị trí có ý nghĩa đối với sức mạnh quôc gia khi nó đem lại cơ hội thu lời và phát triển kinh tế như các địa điểm gần trung tâm sản xuất hàng hóa lớn, nằm trên các tuyến vận tải quốc tế, tiếp cận tài nguyên dễ dàng,... Vị trí địa lý như vậy đem lại giá trị kinh tế và giúp quốc gia nâng cao năng lực kinh tế. Xingapo là một nước nhỏ nhưng là điển hình của việc lợi dụng tốt vị trí địa lý cho sự phát triển và cả an ninh của mình. Gần như không có tài nguyên nhưng Xingapo đã trở nên giàu có nhờ nhiều vào việc khai thác được vị trí địa lý chiến lược của eo Malacca và nằm trên hải lộ thông thương quan trọng của thế giới. Không những thê' sự an ninh của eo Malacca râ't quan trọng đối với các cường quốc có nhiều hàng hóa và dầu mỏ qua lại nơi đây nên an ninh của Xingapo cũng được đảm bảo theo. Gần giông như vậy, Ai Cập đã thu lợi kinh tế khá nhiều và vị thế quốc tế cũng được gia tăng có phần nhờ việc quốc hữu hóa kênh đào Suez từ năm 1956. Cũng với cách nghĩ như vậy, năm 2006, Panama đã chủ trương mở rộng kênh đào Panama nhằm tăng lưu lượng vận tải hàng hóa qua đây - một kế hoạch mà thành công sẽ đem thêm thu nhập và khả năng nâng cao vị thế của nước này... Ngoài ra, vị trí địa lý còn được thê hiện trong khoáng cách và điều này cũng ảnh hưởng đến quyền lực và chính sách đối ngoại. Ở gần các nước lớn dễ rơi vào tình trạng thât thế, trong khi xung quanh là các nước nhỏ hơn thì lại dễ kích thích xu hướng bá quyền. 480 Một số vấn đ ề lý luận quan hệ q u ố c té duch g ó c nhin lích su Bởi vai trò như vậy, việc kiêm soát được các vị trí chiến lược đem lại khả năng có được quyến lực quôc tê và lợi thê cho quốc gia trong chính trị quốc tế. Việc không kiểm soát được các vị trí đó sẽ ảnh hưởng đáng kê đến vai trò và khả năng thực thi lợi ích đối ngoại của quốc gia. Vì thế, tranh chấp quyền kiêm soát các vị trí này thường xuyên xảy ra trong quan hệ quôc tế, đặc biệt trong quan hệ giữa các cường quốc. Sự tranh chấp vê chê độ eo biến quốc tế đi ra Địa Trung Hải giữa đ ế quốc Nga với các cường quốc phương Tây trong thòi cận đại là một ví dụ điển hình. Kể từ thời Pie Đại Đế, nước Nga luôn tìm cách tiến ra Địa Trung Hải. Đồng thời, Anh, Pháp và Ottoman cũng luôn tìm cách ngăn cản điều đó. Lịch sừ đã cho thấy, vị trí địa lý luôn được coi trọng trong việc duy trì và khuếch trương vị thếquổc gia. Tuy nhiên, tầm quan trọng của vị trí địa lý hoàn toàn có thể thay đổi do điều kiện địa-chính trị và địa-kinh tế thay đổi. Trong mối liên quan giữa vị trí địa lv và vị thế quốc gia, có ba điếm đáng chú ý. Thứ nhất, vị trí địa lý có sự liên quan đáng kể với lợi ích và nhận thức cua các nước lớn. Ví dụ, vai trò trước kia của khu vực Địa Trung Hải giảm đi có liên quan nhiều đến sự suy vong cua Đ ế quốc Hy Lạp, Đ ế quốc La Mã và Đ ế quốc Ottoman. Trong khi đó, tầm quan trọng tăng lên cua khu vực cháu Á - Thái Bình Dương trong thế kỳ XX có sự gắn bó nhất đinh với sự nổi lên cua các cường quốc khu vực như Nhật Ban va Trung Quốc củng như lợi ích tăng lên của Mỹ va Lién Xó Một s ố y ế u tố địa-chính trị c ủ a Việt Nam... ________________ 481 ở khu vực này. Thứ hai, tầm quan trọng của vị trí địa lý cũng chịu tác động của các nguyên nhân kinh tế và khoa học - kỹ thuật. Nếu dầu mỏ làm gia tăng vị th ế của vùng Vịnh thì sự phát triển kinh tế của các nước Đông Bắc Á đã làm cho bán đảo Triều Tiên trở nên quan trọng. Đối với khoa học kỹ thuật như vũ khí hay giao thông liên lạc, sự phát triển của vũ khí hiện đại như tên lửa vượt đại châu (ICBM) mang đầu đạn hạt nhân đã làm cho khoảng cách đại dương không còn nhiều ý nghĩa phòng thủ như trước kia. Trong khi đó, sự phát triển các phương tiện hàng hải hiện đại lại giúp làm tăng tầm quan trọng của các eo biển quốc tế.. Thứ ba, vị trí thuận lợi có thể đem lại cơ hội và năng lực cho quốc gia, nhưng cững có thể ưở thành địa bàn tranh chấp giữa các thế lực quốc tế, và từ đó là sự suy yếu về quyền lực. Trung Đông có tầm quan trọng chiến lược nên đã trở thành địa bàn tranh chấp của nhiều cường quốc. Anh, Pháp đã gây chiến vói Ai Cập năm 1956 để cứu vớt sự hiện diện của họ tại đây. Liên Xô cũng đã từng mong muốn có tiếng nói ở đây qua việc ủng hộ các nước Arập chống Ixraen trong Chiến tranh lạnh. Còn Mỹ thì suốt từ năm 1945 đến nay luôn tìm cách can thiệp vào khu vực đê gia tăng ảnh hưởng và đảm bảo các lợi ích của mình. Trong Chiên tranh lạnh, không chỉ cạnh tranh với Liên Xô, Mỹ còn sẵn sàng hất các đồng minh của mình là Anh, Pháp ra khỏi khu vực này. Kết quả là các quốc gia trong vừng luôn phải đôi mặt với tình trạng căng thẳng và xung đột kéo dài cho đến ngày nay. 482 Một số vấn đ ê lý luận quan hệ quõc tế dườt góc nhin lích SƯ Việt Nam có vị trí địa lý tương đối quan trọng do năm trên điểm nối giữa Đông Bắc Á và Đông Nam A, do năm trải dài trên bờ biển Đông có nhiều tài nguvên và tuyên vận tải quan trọng, do có tiềm năng kinh tế đu sức hâp dẫn các nước khác đến kinh doanh. Nhưng có một điêm nữa làm nên vị trí địa lý nhạy cảm của Việt Nam - đó là nằm kề Trung Quốc. Chính việc tìm đường vào Trung Quốc từ phía nam là một nguyên nhân quan trọng dân đến việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 - mở đầu thời kỳ thực dân đô hộ kéo dài gần 100 năm. Cũng chính nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của phe xã hội chủ nghĩa và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau khi thống nhất năm 1949 mà từ năm 1950, Mỹ đã tìm cách nhảy vào Việt Nam với hậu quả là một cuộc chiến tranh đẫm máu, ác liệt và kéo dài nhất thế giới kê từ sau năm 1945 mà nhân dân Việt Nam phải hứng chịu. Lịch sừ Việt Nam đã nhiều lần bị "biến dạng" bởi sự can thiệp của các nước lớn mà vị trí địa-chính trị là một nguyên nhân. Tuy nhiên, có thể thấy tầm quan trọng cua vị trí địa lý của Việt Nam cũng có sự thay đổi theo thòi kỳ. Trong Chiến tranh lạnh, Việt Nam có vị trí khá quan trọng khi là nơi tranh chấp quyết liệt ảnh hường giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa ba cường quốc Mỹ - Xô - Trung. Vị trí này có phần giảm đi kế từ khi Mỹ rút giảm sự hiện diện ở đây từ nửa đầu thập niên 1970 và sau đó là Liên Xô từ nửa cuối thập niên 1980. Tuy nhiên trong vài năm gần đây, vị trí này lại có sự táng lén nhát Một s ổ y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam.. 483 định do kinh tế Việt Nam và khu vực phát triển cũng như tiềm năng dầu mỏ ở biển Đông được ghi nhận. Đồng thời, do Việt Nam là hướng chính trong sự phát triển thếlực khu vực của Trung Quôc trong khi Mỹ đang tìm cách ngăn chặn và kiềm chê Trung Quốc tại đây, nên Việt Nam lại đang có nguy cơ trở thành tâm điếm của tranh chấp địa chính trị Mỹ - Trưng. Và một lần nữa, điều này đang tạo nên mối đe dọa lớn cho an ninh của Việt Nam. Trong bôi cảnh hợp tác kinh tế quốc tế và hội nhập khu vực đang tăng lên, chúng ta có thể quan tâm nhiều hơn tới việc nâng cao vị trí địa-kinh tế của nước nhà. So với vị trí địa-chính trị là cái phụ thuộc nhiều hơn từ các nhân tô' bên ngoài, đặc biệt là các nước lớn, vị trí địa-kinh tế là yếu tô' mà chúng ta có thể chủ động tạo ra và nâng cao khi đưa Việt Nam trở thành một phân khúc quan trọng trong chuôi giá trị kinh tế khu vực và toàn cầu. Nhiều khi lợi ích kinh tế đem lại đủ lớn sẽ giúp làm tăng vai trò địachính trị. Mặc dù vai trò của vị trí địa lý có thế thay đổi song ý nghĩa nói chung của nó đối vói chính trị quốc tế vẫn được duy trì trong thời hiện đại. Khi lợi ích quốc gia ngày càng được mở rộng ra bên ngoài biên giới, vị trí địa lý càng trở thành vấn đề quan trọng trong quan hệ quốc tế. Đây,là điểm khiến cho vị trí địa lý vẫn giữ được vai trò của nó đối với chính trị quốc tế nói chung, đối với quyển lực quốc gia nói riêng. 484 Một s ố vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c t ế dưới g ó c nhìn lịch sử 2. Diện tích đất dai Diện tích đât đai rộng là một yêu tố làm nên thuật ngữ "nước lớn". Tuy không tất yếu dẫn đêh nước mạnh (cường quốc) nhưng diện tích lớn đem lại cho quốc gia khả năng tăng trưởng quyền lực để trở thành cường quốc, hoặc ít nhâ't các nước khác sẽ khó khăn hơn nhiều khi muốn áp đặt ý chí của mình lên quốc gia rộng lớn đó. Vê mặt quân sự, diện tích rộng thường là miếng mồi quá lớn và khó nuổt. Diện tích rộng đem lại khả năng khó bị đánh bại hoàn toàn bằng giải pháp quân sự qua một cuộc chiến tranh. Trong thế kỷ XVIII-XIX, Trung Quôc vẫn giữ được độc lập nhất định trước làn sóng thực dân phương Tây có phần bởi không một đ ế quô'c thực dân nào đủ sức độc chiếm quốc gia rộng lớn này. Nước Nga đã không bị thất bại trước các thế lực bá chủ châu Âu là nước Pháp của Napoleon (1812) và nước Đức của Hitler (1941-1945) củng nhờ có diện tích rộng lớn trải dài trên hai lục địa Á, Âu. Cả hai quân đội Pháp và Đức đều không đủ manh để kiếm soát lãnh thổ rộng lớn này. Có thế nói hơi cường điệu rằng diện tích rộng lớn của nước Nga đã góp phần "nuốt chưng" hai đạo quân mạnh nhất thế giói khi đó. Về mặt kinh tê' diện tích lớn đem lại kha năng mỏ rộng địa bàn canh tác nông nghiệp và không gian phát triển công nghiệp. Ngoài ra, diện tích lớn cũng có thế đem lại nhiều tiềm năng tài nguyên. Trù trường hợp Nhật Bản các cường quốc hiện nay đểu có nguồn tài nguvén đáng kế Một s ố y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam. 485 Những quôc gia rộng lớn hiện nay đều có nhiều tài nguyên như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Canada, Ôx trây lia,... Những điều này đều cần thiết cho sự phát triển năng lực kinh tế của quốc gia. Bên cạnh đó, diện tích rộng cũng tạo thuận lợi cho các thành tố quyền lực khác. Diện tích rộng, chiều dài bờ biển lớn, tiếp giáp vói nhiều nước, khả năng tiếp cận các huyết mạch giao thông và các địa điếm chiến lược đã đem lại vị trí địa lý thuận lợi cho quốc gia. Diện tích rộng tạo điều kiện cho dân số đông, đem lại khả năng có được nguồn nhân lực lớn. Lịch sử cho thấy, các cường quốc có quyền lực quốc tế lớn hầu như đều có diện tích đáng kể. Các đế quô'c lớn trong lịch sử đều chiếm hữu diện tích rộng và đều tìm cách mở rộng thêm bờ cõi. Đ ế quốc Ai Cập dưới thời Pharaoh Ahmose đã từng mở rộng phía nam xuống Xuđăng, phía đông tới Canaan ở Ixraen. Đế quốc Mesopotamia phát triến từ thời vua Sargon kéo dài từ Xyri đến vịnh Persic. Đ ế quốc Ba Tư đã từng có lãnh thổ trải dài từ Bắc Phi, qua Thô Nhĩ Kỳ và Nam Á tới tận Bắc Ấn Độ. Đ ế quốc Hy Lạp dưới thời Alexander Đại Đế đã chinh phục nhiều vùng quanh Địa Trung Hải và tiến sang châu Á tới tận Ấn Độ. Đ ế quốc La Mã tổn tại khoảng năm thế kỷ với lãnh thô bao gổm khoảng một nửa châu Ảu và nhiều vùng rộng lớn ở Bắc Phi, Trung Đông và sang cà Lưỡng Hà. Đ ế quốc Mông Cổ từ thế kỷ XIII đã trờ thành đế quốc lớn nhất trong lịch sử khi hiện diện từ bờ Thái 486 Một s ố vấn d ề lý luận qu an h ệ q u ố c tế ơơớt g ó c nhìn lịch su Bình Dương ở phía đông sang Trung Âu ơ phia tây, phía bắc chiếm Nga và phía nam tiến xuống Ấn Độ. Đê quôc Trung Quốc từ thời nhà Minh qua nhà Thanh cũng mờ rộng bờ cõi ra nhiều vùng rộng lớn ở phía tây và phía băc, đưa Trung Quốc trở thành một nước lớn như hiện nay. Đê quốc Ottoman nổi lên từ cuối thế kỷ XIII đã từng có lãnh thổ trải dài từ vùng Balkan ở châu Âu sang vùng Lưỡng Hà ở châu Á và xuôrtg đến Ai Cập ở Bắc Phi...1. Đến thcri cận đại, diện tích lớn như một thành tô' quan trọng của quyền lực có phần còn được để cao hơn. Thậm chí, cuối thế kỷ XIX, còn xuất hiện một lý thuyết có đề cập mối tương quan giữa quyền lực và diện tích đât đai. Năm 1897, nhà địa-chính trị học người Đức là Friedrich Ratzel (1844-1904) xuất bản cuốn Politische Geographie (Địa lý chính trị). Trong đó, diện tích đất đai được Ratzel coi là biểu hiện rõ nhất quyền lực của một quốc gia. Ratzel cho rằng quốc gia giống như thực thể hữu co và có sự phát triển. Vì thế, quốc gia phải chiến đâu không ngừng để mở rộng đất sống. Đây là lý do cho sự bành trướng cua quốc gia. Qua cuộc đấu tranh nay cũng như sự đao thải tự nhiên, các quốc gia nhỏ sẽ bị thôn tính và chi con lại một 1. Trong lịch sử, có một vài trường hợp dường như la ngoai lê Bổ Đào Nha và Hà Lan là những quốc gia có diện tích nho nhung vẫn trò thành đếquõc. Không cạnh tranh được ơ cháu Áu hai nước nàv đều tìm cách bố sung sự hạn chế vẽ lãnh thó báng cóng cuóc xâm chiếm thuộc địa. Trên thực tế, hai quốc gia nàv ch] la nhũng "đ ế quốc thuộc địa" mà thôi chứ không hăn là cường quoc o cháu Áu Một số yếu tó địa-chính trị của Việt Nam.. 487 SỐ quốc gia manh. Các cường quốc này sẽ lại lao vào cuộc đâu tranh đê giành ngôi bá chú hoàn cầu1. Như vậy, trong cuộc đấu tranh giành đất đai, biên giới chi có ý nghĩa tạm thời. Bành trướng lãnh thô được coi là cần thiết đê mo rộng "không gian sinh tổn", đáp ứng yêu câu ngày một phát triến của quốc gia2. Cách nhìn nhận quốc gia và lãnh thô theo kiểu chủ nghĩa Darwin xã hội (Social Darwinism) kê’ trên khá phô biến ờ các nước châu Âu và Mỹ thời bấy giờ và cũng chi phối khá đáng kê chính sách đối ngoại cua những nước này. Và đương nhiên đây cũng là thời kỳ chúng ta được chứng kiến nhiều nhất các cuộc chiên tranh, xâm chiếm thuộc địa, mở rộng bờ cõi ra khắp thế giới của các cường quốc phương Tây. Trong thòi hiện đại, vai trò này cùa diện tích đất đai với tư cách lãnh thô quôc gia không còn như trước mà thay vào đó, ý nghĩa của diện tích đất đai như khu vực ảnh hưởng, thị trường và nguồn tài nguyên lại tăng lên. Kết quả là cố gắng thôn tính đâ't đai giảm đi cùng với sự tăng lên của cố gắng tiếp cận thị trường và mơ rộng khu vực ảnh hưởng. Tuy nhiên, do nhu cầu tài nguyên và thương mại biên tăng lên nên tranh chấp lãnh thô biến cửng gia tăng với tình trạng tranh châp vừng đặc quvền kinh tế và thềm lục địa khá phô biến ở nhiều nơi trên thế giới. 1. Lewis M. Alexander, Mô thức chính trị th ế giới, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam dịch và xuất ban, Sài Gòn, 1963, tr. 7-8. 2. Lý luận về tính hữu co cua quôc gia sau nàv củng đưọc Đuc Quốc xã sử dụng đê biện minh cho sự gâv chiến cua mình là đê mo rộng không gian sinh tổn theo quy luật tụ nhiên. 488 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc té dư<x góc nhin lỊCh sử Cho dù vai trò của diện tích rộng đối vói quyền lực quôc gia không còn như trước nhưng ý nghĩa cua nó vân còn chỗ đứng. Thực tế hiện nay vẫn cho tháv, các cường quốc hàng đầu thế giói vẫn là những quốc gia có diện tích đáng kê. Trong một số phương án cải tô Hội đống Bào an Liên hợp quốc sau Chiến tranh lạnh, các nước như An Độ ở châu Á, Braxin ở châu Mỹ, Nigiêria hay Nam Phi ở châu Phi đã có tên như đại diện cho các châíi lục vói sự ủng hộ khá đáng kể. Đây là những nước có năng lực kinh tế và quân sự vừa phải nhưng đều có diện tích rộng. Điều này cho thấy diện tích rộng vẫn là một trong những yếu tố làm nên địa vị nước lớn. Rõ ràng, diện tích đất đai rộng là một điểu kiện thuận lợi cho quyển lực quốc gia, nhưng đó không phải là điều kiện quyết định. Vô số trường hợp cho thây diện tích lớn không tự động biến quôc gia thành cường quốc như Xuđăng, Cadắcxtan, Mông Cổ... Không những thế, diện tích lớn nhưng sô' dân ít lại là điếm yêu trong vấn đề kiểm soát đất nước như trường hợp Canada, Óxtrâylia,... Và có nhiều quốc gia, lãnh thổ diện tích nhò nhưng vẫn có thể nâng cao vị thế của minh trên bản đổ quyền lực thế giới nhờ những thành tố khác. Các con rống cháu Á (Hàn Quốc, Xingapo, Đài Loan và Hống Cóng (Trung Quốc)) là những ví dụ cua sự nồi lên bằng thanh tó' kinh tê'hay khoa học. Ixraen ở Trung Đông là một ví dụ vể việc khăng định vị thế khu vực bằng năng lực quán sự kinh tế và khoa học. Một s ố y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam.. 489 Diện tích Việt Nam thuộc loại trung bình, đứng hàng thứ 66 trên thế giới. Việt Nam có diện tích khoảng 331.2101 km2, bao gồm khoảng 310.0702 km2 diện tích mặt đất v à khoảng 21.1403 km2 diện tích mặt nước với hơn 2.800 hòn đảo v à bãi đá ngầm. Thềm lục địa của Việt Nam khoảng trên 1 triệu km2, gần gấp ba lần diện tích đất liền. Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, biên giới đâ't liền dài 4.6394 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1.650 km, từ điếm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhât là 600 km (Bắc Bộ), 400 km (Nam Bộ), noi hẹp nhất là 50 km (Quảng Bình). Với một diện tích như vậy, không quá lạc quan về sự đóng góp của diện tích cho vị thế của Việt Nam, nhưng cũng không quá bi quan về những bât lợi của một nước có diện tích trung bình. Chúng ta hoàn toàn có thê khắc phục những bất lợi này bằng việc nâng cao các năng lực khác như kinh tế và khoa học - công nghệ, cũng như mở rộng hợp tác toàn diện với các nước khác, nhất là các nước trong khu vực. Bản thân những hạn chế về diện tích còn có thể khắc phục bằng việc quy hoạch khoa học và có tẩm nhìn, chính sách sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quà. Tuy nhiên, trong vân đề diện tích đất đai và lãnh thổ, Việt Nam đang phải đối mặt với một số vâh đề. Ví dụ, trên diện tích như vậy nhưng số dân khá lớn dẫn đến mật độ \, 2, 3, 4. Hoàng Phong Hà (Chủ biên): Các nước và một sõlãn h thô’trêìi thếgiới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sụ thật, Hà Nội, 2013, tr. 477. 490 Một số vấn đê /ý luận quan hệ quốc té dưới góc nhin lịch SƯ dân sô Việt Nam thuộc loại cao khi lên tói 265 nguài/km2 vào năm 201V, đứng hàng thứ ba ỏ khu vyc Đông Nam A (chỉ sau Xingapo và Philíppin) và lại phân bó không đêu. Mật độ dân số như vậy sẽ gây ra nhiều vâh đê cả vê kinh tế, xã hội lẫn chính trị. Một vâh đề lớn khác là tình trạng tranh chấp lãnh thô với các quốc gia xung quanh, trong đó đáng kế nhât là vân để biển Đông - một vârt để đang ảnh hưởng nhiều đến không chỉ chính trị đối nội và đối ngoại của Việt Nam, mà còn đến cả nền chính trị quốc tế trong khu vực và trong quan hệ giữa các cường quốc. 3. Đ ịa h ìn h , địa m ạo Ý nghĩa của địa hình, địa mạo đôi vói quốc gia đã được đề cập từ thời cô đại. Aristotle đã từng cho rằng địa hình, địa mạo là yếu tố quy định nên đơn vị chính trị. Xuất phát từ thực tế chính trị và địa lý của Hv Lạp cổ đại, ông cho rằng trong vùng có nhiều địa hình khác nhau thì thường có nhiều khu vực chính trị hơn là một khu vực địa lý. Ông cho rằng một quốc gia cần sông trong vừng đồi núi bao quanh để có biên giới tự nhiên tránh bị tári công và có cửa bê đê phát triển thương mại2. Đến thời cận đại, ý tường vê' sự liên quan giữa địa hình, địa mạo đối với quyền lực quốc tế vẫn được tiếp tục 1. Hoàng Phong Hà (Chu biên): Các nước và mót sõ ìã n h thô’trên thê'giới, Sđd, tr. 477. 2. Lewis M. Alexander, Mô thức chính tri thếgicn, Sđd, tr. 6. Một s ố y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam.. 491 và phát triển. Ví dụ, trong những thế kỷ XVIII-XX, quan điểm về mồỉ liên quan giữa đại dương và quyền lực quôc tế đã trở nên phổ biến. Nước Nga dưới thời Pie Đại Đ ế đã trở thành cường quổc châu Âu khi tiến ra được biên Baltic và Hắc Hải. Nước Mỹ trên con đường trờ thành cường quốc đã vận dụng luận thuyết của Alfred Thayer Mahan (1840-1914) nhấn mạnh vai trò quan trọng của chiều dài bờ biển và địa hình các cửa biên đối với sự tăng trưởng quyền lực quốc gia. Xuất phát từ thực tế nước Anh mạnh lên nhờ hàng hải, Mahan đã đưa ra nhiều khuyến nghị quan trọng cho nước Mỹ như phát triến hàng hải và kiếm soát được mặt biển thì mới có được quyền lực quốc tế, chiếm đảo Hawaii, đào kênh ở Trung Mỹ đê đi lại dễ dàng giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương... Chính nhận thức về tầm quan trọng của biển đã dẫn đến cuộc chạy đua hải quân và cạnh tranh quyền kiểm soát biển cả trong thời cận đại và cả hiện đại. Ngoài ra, yếu tố địa hình cũng đã ít nhiều được đưa vào thuyết Miền đất trái tim (Heart Land) của học giả người Anh Halford Mackinder (18611947). Theo thuyết này, trái tim của thế giới là vùng chạy từ biển Baltic và Hắc Hải ở phía tây sang sông Ienhisey ờ Siberia thuộc Nga ở phía đông, phía bắc từ Bắc Băng Dương xuống những rặng núi chạy ngang từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Mông CỔ. Mackinder cho rằng ai thống trị được Miền đất trái tim thì sẽ thống trị được cả thế giới1. 1. Lewis M. Alexander, Mô thức chính trị thê'giới, Sđd, tr. 11-12. 492 Một số vấn đ ề l ý luận quan h ệ q u ó c tế dưởi g ó c nhin l Ị C h sử Địa hình, địa mạo tác động tới vị thê và quyến lực quô'c gia theo nhiều cách khác nhau. Nó đem lại ưu thê hoặc hạn chế hơn cho quốc gia trong việc nãng cao sức mạnh của mình. Tác dụng của nó cũng khác nhau tuy theo hoàn cảnh chính trị và kinh tế. Quốc gia có nhiêu đổng bằng sẽ thuận lợi hơn trong việc phát triển lánh tế, đặc biệt trong nền văn minh nông nghiệp. Nhưng địa hình bằng phẳng không đem lại lợi thế thiên nhiên trong việc phòng thủ quốc gia. Quốc gia có địa hình núi non hiếm trở có thể dễ dàng trong việc phòng thủ và chông ngoại xâm, nhưng điều đó cũng hạn chế khả năng tập trung nguồn lực, phát triển kinh tế và mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Quốc gia có chiều dài ven biển lớn cũng thuận lợi hơn trong việc nâng cao năng lực của mình qua thương mại và quan hệ đối ngoại, nhâ't là từ thời cận đại. Đó là các trường hợp cùa Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha hay Hà Lan. Trong khi quốc gia có ưu th ếv ể chiểu dài ven biên nhung địa hình hiểm trờ thì đó không còn là thuận lợi, như trường hợp Nauy chẳng hạn. Ngược lại, bờ biên dài và thuận lợi thì lại dễ bộc lộ nhiều điểm có thế bị táh công. Cuộc đổ bộ của Mỹ và liên quân tại bãi biển Inchon tháng 9-1950 trong cuộc chiên tranh Triều Tiên là một ví dụ. Vào thòi điếm này, quân đội Cộng hòa Dán chu Xhán dân Triều Tiên đã kiêm soát được trên 90% lãnh thó bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, ba mặt là biên củng với đưong bò biên quá dài đã làm giam khả năng phòng thu. Cuộc đổ bộ nàv đã cắt ngang hông quân đội Cộng hoa Dám chù Một s ố y ế u tố địa-chính trị củ a Việt Nam. 493 Nhân dân Triều Tiên và góp phần xoay chuyển cục diện chiến tranh gần như ngay tức thì. Địa hình, địa mạo cũng tác động nhất định đến khả năng quân sự, ít nhât là trong quá khứ. Ví dụ, địa hình thảo nguyên và 101 sông du mục đã giúp Mông Cổ có lực lượng kỵ binh manh và nhờ đó đã trở thành đ ế quôc từ thê' kỷ XIII. Địa hình đảo quốc vói chiểu dài ven biển nhiều đã giúp Anh phát triển hàng hải, hải quân. Nhờ sự phát triển của thương mại xuyên đại dương và lực lượng hải quân mạnh, Anh đã trở thành cường quốc thế giới trong thời cận đại. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đ ế quốc Mỹ (1945-1975), người Việt Nam đã biết cách biến địa hình thành một ưu thế quân sự của mình. Cho đến ngày nay, địa hình, địa mạo vẫn là yếu tố quan trọng đôi vói chiến tranh thông thường khi người ta vẫn phải lựa chọn vũ khí, chiến thuật và kỹ thuật tác chiến cho phù hợp với những điều kiện địa hình cụ thể. Địa hình, địa mạo cũng tác động nhất đinh đến sự phát triển quan hệ quốc tế và từ đó là khả năng tiếp thu các thành tựu từ bên ngoài cho phát triển cũng như khả năng phát huy ảnh hưởng ra bên ngoài. Các cường quốc châu Âu đã làm được điều này từ xa xưa có phần nhờ địa hình trên lục địa tương đôi thuận lợi cho việc đi lại xuyên quô'c gia. Trong khi đó, tình hình tương tự không diễn ra ở Đông Nam Á do địa hình cách trở của khu vực này. Nhưng củng giống như các yếu tố địa lý trên, địa hình, địa mạo không có tính quyết định đôi với quyên lực 494 Một s ố vấn đ ề lý luận quan h ệ q u ố c tế dưới g ó c nhìn lịch sử quốc gia, mà thường chi đóng vai trò như điếu kiện. Nó có thê đưa đến thuận lợi hoặc hạn chê đối với quóc gia trong việc nâng cao các năng lực của mình. Cho dù ván còn ý nghĩa nhất định nhưng tác động của địa hình đối vói quyền lực quốc gia đã giảm đi nhiều trong thoi hiện đại bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Sự phát triên của các phương tiện giao thông trên mọi địa hình, các máy móc thông tín trong mọi điều kiện, các vũ khí thông minh và có sức công phá lớn,... đã hạn chế vai trò của địa hình, địa mạo. Tuy nhiên, vai trò địa-kinh tế của địa hình lại có xu hướng tăng lên. Trong thòi buổi làm ăn kinh tế, địa hình, địa mạo thuận lợi vẫn là yếu tố có giá trị gia tăng khi giúp làm giảm giá thành hay thu hút đầu tư,... Và khi vai trò kinh tế của địa lý tăng lên, nó lại tác động sang lĩnh vực chính trị bởi thực tế kinh tế và chính trị ngày càng có sự tương tác chặt chẽ vởi nhau. Địa hình, địa mạo của Việt Nam đem đến cả thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển sức mạnh tổng hợp cùa đất nước. Về đại thể, thuận lợi nhiều hon khó khăn. Chiêu dài bờ biển khoảng 3.260 km, địa hình không quá phức tạp, cứ khoảng 20 km lại có cửa sông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đê phòng thu đất nước thì đòi hòi phải phát triển sức mạnh hài quán hơn nữa. Địa hình đất nước với 3A diện tích là đổi núi cũng đem lại những thuận lợi nhất định cho việc phòng thu đâ't nước nhưng lại không thích hợp cho việc phát trién kinh tế của những vùng này. Đổng bằng tuy chi chiếm 1/4, Một s ó y ế u tó địa-chính trị c ủ a Việt Nam.. 495 nhưng với vùng đổng bằng sông Hông khoảng 15.000 km2 và đổng bằng sông Cửu Long trên 40.000 km2 cũng đủ sức đảm bảo phát triên nông nghiệp cho cả nước. Việt Nam có những vùng địa hình khác nhau nhưng lại là quốc gia thông nhât nên không có sự khác biệt đáng kê về quan niệm chính trị giữa các vùng miền. Tuy nhiên, dưới tác động của địa văn hóa và địa nhân văn, với chủ nghĩa địa phương và tâm lý vùng miền khá rõ rệt và do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, hoàn toàn có thế có những khác biệt ưong hành vi chính trị và ứng xử chính trị giữa các vùng miền. Cho dù những khác biệt này chi thường là trong những vấn đề cụ thê và không lớn, nhưng cũng là điều cần được tính đên đê đảm bảo "nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một". KẾT LUẬN Như vậy, điều kiện địa lý có thể đem lại những thuận lợi hoặc hạn chế khác nhau cho quốc gia trong việc xây dựng quyền lực của mình. Điều kiện địa lý vân có thê bô sung thêm lợi thế cho quốc gia trong việc củng cô' sức mạnh và nâng cao vị thế quốc tế. Quốc gia vẫn tiếp tục phài tính đên các yếu tố địa lý trong quan hệ quốc tế. Bời thế, điều kiện địa lý vẫn tiếp tục đóng vai trò là thành tố của quyền lực và có ý nghĩa đáng kế trong việc nâng cao vị thế quốc gia. Tuy nhiên, các yếu tố địa lý này chi có tính chất hỗ trợ chứ không mang rinh quvết định. Hơn nữa, nhũng phát triễn của thế giới hiện đại cửng làm giảm 496 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sù đáng kê tác động của điều kiện địa lý tới chính trị quốc gia và quổc tế. Thực tiễn cũng chứng tỏ điểu nàv, không có quyền lực của một quốc gia hay khu vực địa lý nào là bât biến, không một tác động địa lý nào không thế không điểu chỉnh được. Tuy nhiên, do sự tương tác ngày càng chặt chẽ lân nhau giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất là do sự nổi lên của kinh tế và tác động ngày càng tăng của nó tới chính trị, việc nghiên cún và đánh giá tác động địa-chính trị cần được đặt trong cách tiếp cận liên ngành và đa ngành, trong đó cần đặc biệt chú ý tới sự tương tác giữa địa-kinh tế với địa-chính trị. Cách tiếp cận như vậy giúp đem lại cái nhìn đầy đủ hơn vê' vai trò của địa lý đối vói chính trị trong thời hiện đại. Đôi với Việt Nam, các yếu tô' địa lý này vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đáng kê đên các vâh đề chính trị, kinh tế, xã hội và đôi ngoại của đất nước. Vì thế, dù không thê là duy nhất nhưng cách tiếp cận địa-chính trị trong nghiên cứu và hoạch định chính sách vẫn cần được quan tâm hơn và cần phải được đặt trong cái nhìn đa ngành và liên ngành. Đổng thời, việc tham khảo các lý thuyết đã có củng là cần thiết. Tuy nhiên, do các lý thuyết này phần lớn là của phương Tây, chủ yếu ra đời trong thòi cận đại nên việc áp dụng vào thực tiễn Việt Nam cũng cần có sự cân nhắc và chọn lọc. 497 MỘT số VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỄ QUẢN TRỊ TOÀN CẦU Sau Chiến tranh lạnh, thuật ngữ "quản trị toàn cầu" (global governance) bắt đầu xuất hiện trong kho từ vựng của ngành chính trị quốc tế. Và rất nhanh chóng, chủ đề này đã thu hút được sự quan tâm lớn. Sự nổi lên của vấn đề này xuất phát từ thực tiễn thay đổi sau Chiến tranh lạnh khi thế giới đang ngày càng được "quôc nội hóa" và chuyển mình sang thời kỳ hậu "vô chính phủ" như lời của Wendt (1999)1. Cơ sở lý luận của nó dựa nhiều vào chủ nghĩa tự do mới (neo-liberalism) và phần nào là chính trị xanh {green politics) như về chủ thể phi quô'c gia, thê chế hóa, vai trò của thương mại, hợp tác và hội nhập quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau, toàn cầu hóa, khả năng khắc phục được tình trạng vô chính phủ, sự nổi lên của các vân đề toàn cầu, chẳng hạn như vấn đề môi trường,... Không đơn giản là một thuật ngữ, quản trị toàn cầu đã 1. Dần theo M argaret p. Karns & Karen A. Mingst, Bài giang "Betw een Theory and Practice: International Relations in the Beginning of the 21st Century", Khoa Quốc tế học - Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hạ Long, tháng 4-2007. 498 Một số vấn đ ề lý luận qu an h ệ q u ố c tế dưới g ó c nhìn lích sử đưa ra một mô hình tương lai cho thế giới, hoặc ít nhât như một xu hướng thay đổi quan trọng của nẽn chinh trị thế giới. Đổng thời, lý luận vể quản trị toàn cấu củng đặt ra những thách thức cho các lý thuyết chính trị quốc tê hiện hành. Cho đến nay, sự bàn luận về chủ đề này vẫn diên ra khá sôi nổi. Nhiều khái niệm được đưa ra, nhiếu ấn phẩm được xuất bản, nhiều ý kiến được tranh luận. Thế nhưng, sự khác nhau vẫn phổ biến. Sự khác nhau này có trong hầu hết các phương diện liên quan đến quản trị toàn cầu. Cho dù có sự khác nhau thế nào, quản trị toàn cầu vẫn đang là một thực tiễn trong lịch sử thế giói đương đại. Và sự vận động của nó đang góp phần đưa lịch sử thế giới (world history) gồm những quốc gia riêng rẽ thành lịch sử toàn cầu (global history) với sự tương tác và những điểm chung ngày càng tăng. Quản trị toàn cầu cũng đang được kỳ vọng như một cách thức thiết lập trật tự thế giói mới và đem lại những thay đổi quan trọng trong chính trị quốc tế. Và cũng rất có thể, nhận thức vê' quản trị toàn cầu sẽ cung cấp thêm một cách tiếp cận để đánh giá các vấn đê quốc tê hiện đại cũng như giúp dự báo nhiểu vâri đề của tương lai. Bài viết này CỐ gắng khái lược các quan điếm khác nhau về quản trị toàn cầu đê rồi từ đó đưa ra đánh giá bước đầu của mình. Nội dung tranh luận thì có nhiều nhưng do khuôn khô có hạn, bài viết chi để cập một số Một s ố vấn đ ề lý luận về quản trị toàn cầu 499 vâri đề được coi là cơ bản liên quan đến cái gọi là "quản trị toàn cầu". Bên canh đó, bài viết cũng chỉ ra những tác động chung nhâ't có thể của quản trị toàn cầu đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. 1. Khái niệm quản trị toàn cẩu Có nhiều khái niệm quản trị toàn cầu được đưa ra. Tuy nhiên, khi đi vào cụ thể, nội hàm của các khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất. Sự khác nhau chủ yếu ở đây liên quan đến thuật ngữ "quản trị". Quan điểm thứ nhất đề cao tính quyền hành khi cho rằng quản trị toàn cầu là quyền hành ra quyết định và hành động của một số chủ thế trên quy mô toàn cầu mà ít nhiều vượt ra khỏi sự kiểm soát của chính phủ quốc gia1. Quan điểm thứ hai nhâh mạnh các quy định hay chuẩn mực chung. Ví dụ, John N. Clarke và Geoffrey R. Edward cho rằng "quản trị toàn cầu là một loạt các quá trình và chuẩn mực xã hội, luật pháp và thể chế,... có típh quy chuẩn mà định hình, thậm chí trong một số trường hợp là điều tiết và kiểm soát sự tương tác lẫn nhau có tính biện chứng giữa toàn cầu hóa và sự tách rời"2. Tương tự như vậy, James Rosenau coi 1. Bjorn Hettne & Bertil Oden, Global Governance in the 21st Century: Alternative Perspectives on World Order, EGDI, Stockholm, 2002, tr. 6-7. 2. John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance in the Twenty-first Century, Palgrace Macmillan, Great Britain, 2004, tr. 6. 500 Mot so van de ly luan quart he quoc te dud>goc nhin lich stj quan tri toan cau la cac quy dinh cua nhung quan he doc lap trong boi canh thieu v&ng quyen hanh chinh tri ben tren quoc gia1. Quan diem thu ba lai coi ban chat cua quan tri toan cau la su tuong tac giua cac chu the trong viec giai quyet cac van de chung co tinh toan cau. Hoac do la su tuong tac chinh tri giua cac chu the xuyen quoc gia nham giai quyet cac van de chung hay "tong hop nhieu cach thuc ma ca nhan va to chuc, cong cung nhu tu, quan ly cac van de chung"2. Quan diem thu tu duoc nhieu nguoi ung ho quan tarn toi tinh the che cua quan tri toan cau. Nhung nguoi theo quan diem nay cho rang quan tri toan cau la mot hinh thuc the che quoc te nao do co kha nang quan ly hanh vi cua quoc gia trong truong hop hay van de nhat dinh. Vi du, do la "nhung qua trinh va the che, ca chinh thuc va khong chinh thuc, giup chi dan va kiem che cac hoat dong tap the cua mot nhom nao do"3. Thuc ra, cac khai niem tren khong hoan toan phu nhan nhau ma chi la su nhan manh khac nhau vao khia canh nay hay khia canh kia trong ban chat cua quan tri toan cau. 1. James Rosenau, ’Toward on Ontology for Global Governance", trong Martin Hewson & Timothy Sinclair, Approaches to Global Governance Theory, State University of New York, 1999. 2. Commission on Global Governance, Our Global Neighbourhood, Oxford University Press, 1995. 3. Joseph S. Nye, Jr & John D. Donahue, Governance m Globalizing World, Brooking Press, 2000, tr. 202. Một số vấn đề lý luận vê quản trị toàn cầu 501 Giữa chúng vẫn có những điểm chung nhâ't định. Quyền hành, quy định hay chuẩn mực, tương tác xuyên quốc gia và thê chế đểu là những phản ánh khác nhau của năng lực chung trong quan hệ quôc tế. Năng lực này được hình thành do các quốc gia đem một phần quyền hạn của mình trao cho thế chế chung nào đó. Trong mọi khái niệm, mục đích của quản trị toàn cầu đều nhằm giải quyết các vấn đề chung mà chủ yếu ở đây là các vân đề toàn cầu. Vì liên quan đến quyền lực quốc gia trong quan hệ quốc tê' khái niệm quản trị toàn cầu có thê được xếp vào phạm trù chính trị quốc tế. Vì vậy, theo chúng tôi, quản trị toàn cầu là hình thức thể chế quốc tế nào đó có năng lực chung ít nhiều vượt khỏi khuôn khổ quốc gia, được hình thành nhằm thúc đẩy sự phối hợp đế đối phó với các vấn để toàn cầu. Có lẽ sự phân biệt giữa chính phủ và quản trị toàn cầu sẽ giúp làm rõ hơn khái niệm này. Theo Rosenau, giữa chúng có sự giông nhau khi cà hai đều đưa ra những hành vi có tính mục đích, những hoạt động có tính hướng đích và các hệ thống luật lệ,... Nhưng sự khác nhau là ờ chỗ, các hoạt động do chính phủ đưa ra được hỗ trợ bằng quyền hành chính thức, quyền lực cảnh sát đê bào đàm cho sự thực thi chính sách, trong khi các hoạt động do quản trị đưa ra được hỗ trợ bởi những mục đích chung. Các mục đích chung này có thế có, có thê không xuất phát từ trách nhiệm pháp lý và sự ra lệnh chính thức. Quan trị 502 Một số vấn đê lý luận quan h ệ quốc tế dưới goc nhìn lỊCh sủ là hiện tượng có phạpi vi rộng hơn chính phu. Nó bao gồm cả các cơ quan chính phủ lẫn co chê phi chinh phu, không chính thức1. 2. Quá trình hình thành ý tưởng quản trị toàn cẩu Với cách hiếu như vậy, ý tưởng quản trị toàn cấu Kuât hiện từ bao giờ trong lịch sử? Một lần nữa, quan niệm lại khác nhau. Có người cho rằng ý tưởng này xuât hiện khá sớm cùng với thế giới quan hạn hẹp và thường đi liền với mong muốn đạt được sự thông trị thế giói. Quan điểm và cách thức thực hiện ý tưởng này cũng rất đa dạng. Đó có thể là những người chinh phục thế giới bằng chủ nghĩa đế quôc vốn được cho rằng xuâ't hiện từ Đ ế quốc Hv Lạp của Alexandre Đại Đ ế hay Đ ế quốc La Mã hoặc các triểu đại Trung Hoa cô đại cũng như Đ ếquôc Mông Cô cua Thành Cát Tư Hãn,... Đó có thêTà các cô'gắng truyền giáo ra khắp thế giói, cố gắng kết hợp thần quyền với vương quvển cùa một vài tôn giáo thế giói như Kito giáo nhằm thiết lập một hình thức quản trị toàn cầu vể giá trị và niềm tin tuyệt đối... Tuy nhiên, sự thông trị thế giới trong các quan điểm trên không phai là quản trị toàn cầu. Đó chi là cố gắng áp đặt sự cai trị cùa một quốc gia hay lực lượng nào đó lên 1. Dan theo Margaret p. Karns & Karen A. Mingst, Bai giang "Between Theory and Practice: International Relations in the Beginning of the 21st Century", Khoa Quốc tế học - Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hạ Long, tháng 4-2007. Một số vấn đề lý luận vê quản trị toàn cầu 503 toàn thế giói. Các C Ố gắng này đ ã không thành công trong quá khứ và cũng không dễ có được trong tương lai. Đêh thời cận hiện đại cho đến trước khi kết thúc Chiến tranh lạnh, các ý tưởng này càng trở nên đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, từ cách tiếp cận, hệ quy chiếu tới lý thuyết và hệ tư tưởng. Đó là quan niệm của những người theo chủ nghĩa thế giói đại đổng mơ về thế giới chung vói những cơ chê'vận hành chưng. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin vói chủ trương xây dựng một thế giói chung của giai cấp vô sản không có bóc lột giai cấp và không còn nhà nước. Đó là chủ nghĩa liên bang với quan niệm xây dựng chính phủ thế giới chung nhằm chấm dứt tình trạng vô chính phủ. Đó là chủ nghĩa lý tưởng với cố gắng thành lập Hội quốc liên như một thể chế quản trị toàn cầu nhằm hạn chế chiên tranh và thúc đẩy hợp tác toàn cầu. Đó là những quan điểm của chủ nghĩa tự do về quyền tự do của con người sẽ là động lực hình thành nên những thê chế chung có tính siêu quốc gia. Đó là quan điếm chế độ quốc tế về một khuôn khổ các luật lệ, mong muốn và sự ràng buộc đối với quốc gia... Thực ra, những quan niệm trên đây chi là những tiền đề ý tường cho quản trị toàn cầu. Quản trị toàn cầu có những điểm chung với các mô hình đó qua việc thê chế hóa quan hệ quốc tế và các giá trị chung toàn cầu. Nhưng quản trị toàn cầu không phải là mô hình cuối cùng cua các quan niệm trên. Quàn trị toàn cẩu cũng không phai là giai đoạn quá độ hay sự chuyển tiếp đê đạt được các mô hình 504 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhin lỊCh sù đó. Các mô hình trên đều bộc lộ những hạn chẻ hoặc thiếu khả thi nên quản trị toàn cầu đã xuất hiện nhu mô hmh mói có khả năng thay thế. Nếu các ý tướng trên đêu nghĩ vê việc xóa bỏ quốc gia thì quản trị toàn cấu ván chủ trương tổn tại quốc gia. Đây là điểm khác nhau cơ bàn giữa chúng. Không những thế, mục tiêu và con đường thực hiện, chủ thể và lực lượng tham gia, cơ chế và cơ câu, nguyên tắc hoạt động và biện pháp thực hiện cua quàn trị toàn cầu có những điểm riêng, khác hẳn với những quan niệm trên. 3. Cơ sở và quá trình hình thành của quản trị toàn cẩu Từ tiền đề ý tưởng trên, cơ sở và quá trình hình thành quản trị toàn cầu xuất hiện từ bao giờ? Trọng vấn đề này, có ít nhất ba quan điếm khác nhau. Quan điểm thứ nhât cho rằng quản trị toàn cầu bắt đầu từ thời kỳ công nghiệp hóa và được thúc đẩy bởi nhận thức và điều kiện mói khi đó. Sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng cua th ế giói đã làm nảy sinh các vấn đề toàn cẩu. Các vãn để đó ngày càng tăng và tạo ra thách thức chung cho nhân loại ma các quốc gia riêng lẻ không thể giải quyêt được. Điẽu kiện đê thực hiện quàn trị toàn cầu lúc này chính là sự phát triển của quan hệ quốc tế. Sự mở rộng quan hệ quốc tế ra khắp thế giói cùng với sự gia tăng hợp tác đa phương, luật pháp quốc tê' các tô chức quốc tế và sự phát triến hệ thóng quốc tế đã đem lại điểu kiện cho sự xây dựng quan tri toàn cẩu. Một số vấn đê lý luận về quản trị toàn cầu 505 Cũng dựa vào cơ sở như trên nhưng cho rằng nhận thức khi đó chưa rõ ràng, điều kiện cũng chưa chín muồi và nhâ't là tính toàn cầu chưa đạt tới, quan điếm thứ hai cho rằng quàn trị toàn cầu chi thực sự bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan điếm thứ hai có tính thực tiễn hơn khi dựa nhiều vào tính toàn cầu của nhận thức và điểu kiện. Quan điếm này cho rằng không có tính toàn cầu, không thê có quàn trị toàn cầu. Thế nhưng theo họ, nhận thức chung về các vấn đề toàn cầu chỉ mới xuất hiện trong những năm 1960-1970. Điều kiện chín muổi cho quản trị toàn cầu cũng chi xuất hiện sau năm 1945 với việc ra đời, phát triển và vai trò "quản trị" ngày càng tăng của các thê chế có tính toàn cầu như hệ thống Bretton Woods, Liên hợp quốc, WB, IMF và nhiều thế chế khác. Vì thế, quản trị toàn cầu là hiện tượng của thòi kỳ sau năm 1945. Trong khi đó, quan điếm thứ ba cho rằng quàn trị toàn cầu là sản phẩm cua thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, tức là mới xuất hiện gần đâv. Không phu nhận các cơ sờ nêu ra trong hai quan điếm trên, nhưng quan điêm thứ ba cho rằng chúng chi là nhũng bước phôi thai cho sự nổi lên cua quàn trị toàn cầu hiện nav. Theo quan điêm nàv, chi khi nhận thức về các vâh đề toàn cầu trơ thành sâu rộng, họp tác và hội nhập quốc tế trờ thành trào lưu chung, sự phụ thuộc lẫn nhau tro nên sâu sắc, vai trò cua các chu thể phi quốc gia tăng lên, và đặc biệt chi khi toàn cầu hóa anh 506 Mot so van de ly luan quart he quoc te dud* goc nhin lich sjJ huong manh me, quan tri toan cau moi xay ra va co tinh kha thi. Ca nam co so tren deu chi noi len sau Chien tranh lanh va dang duoc thuc tien hien nay chiing to. Vi the, quan tri toan cau cung chi moi duoc ban den sau Chien tranh lanh. Tuy co su khac nhau ve qua trinh hinh thanh, song ca ba quan diem deu co diem chung nhat dinh trong co so hinh thanh. Ca ba deu cho rang su phat trien nhan thuc quan tri toan cau xuat phat tir thuc tien ngay cang nay sinh nhieu van de chung buoc quoc gia va con nguoi tren the gioi phai lien ket de doi pho. Ve nhan thifc, ca ba quan diem deu phan anh su thay doi trong nhan thuc ve vai tro cua quoc gia. Neu truoc kia quoc gia duoc coi la cach thifc hop ly de dem lai tu do, an ninh va le cong bang cho con nguoi thi nay lai bi coi la dang tao ra nhung han che cho quyen tu do va su thinh vuong cua con nguoi1. Tir do, nhan thuc quan tri toan cau ra doi nhu su khac phuc cac khiem khuyet tren cua quoc gia trong bol canh moi. Neu xet theo khai niem va co so thuc tien, quan diem thu ba hop) ly hon ca. Mac dii vay, cung can nhin nhan quan tri toan cau nhu mot qua trinh. Do la qua trinh da duoc manh nha trong qua khir, tiem tien trong hien tai va co the hinh thanh ro net hon trong tuong lai. 1. John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance in the Twenty-first Century, Sdd, tr. 6. Mot so van de !y luan ve q u in tri toan cau 507 4. Bieu hien cua quan tri toan cau Voi mot qua trinh nhu vay, bieu hien cua quan tri toan cau la gi? Xuat phat tir quan niem khac nhau ve ban chat va qua trinh, trang thai cuo'i cung cua quan tri toan cau cung duoc hinh dung kha da dang. Y kien dau tien kha pho bien cho rang quan tri toan cau se co hinh thuc la to chuc quoc te. Tham chi co hoc gia con cho rang do se la mot he thong cac co quan sieu quo'c gia1. Y kien thu hai quan tarn toi khia canh van hanh cua quan tri toan cau khi cho rang do co the la co cau, co che hay su sap xep nao do. Y kien thu ba coi quan tri toan cau la he thong cac luat le dieu chinh hanh vi quoc gia mot cach co hieu luc tren pham vi toan cau. Do co the la he thong luat phap quoc te, hay he thong cac hiep dinh quoc te, hoac tham chi la nhung tac dong co tinh quy dinh tir he thong quoc te nhu quan diem cua Rosenau... Y kien thu tu lai thien ve su hinh thanh cac chu the toan cau khi cho rang su ton tai cac luc luong co tinh toan cau hoac xuyen quoc gia hay mang luoi cua chung la bieu hien cua quan tri toan cau. Y kien thu nam nhah manh ban chat tuong tac cua quan tri toan cau nhung hinh dung ve trang thai cuoi cung kha khac nhau, tir don gian nhu su phoi hop quoc te nham giai quyet van de chung tod phuc tap nhu su hoi nhap toan cau. Y kien thu sau quan tam den loi ich khi cho rang do 1. John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Goverriance in the Twenty-first Century, Sdd, tr. 5. 508 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc tế dưởi góc nhìn lịch sù là sự hòa hợp các lợi ích vốn xung đột và đa dạng cũng như sự thực hiện các hành động hợp tác1. Ỷ kiên thứ bay thì lại coi quản trị toàn cầu chính là sự tồn tại những chính sách toàn cầu của các quốc gia trong lĩnh vực hav vâh đê nào đó. Và cuối cùng, có không ít ý kiến cho rằng quan trị toàn cầu bao gồm nhiều hoặc thậm chí tất cả các hinh thức nêu trên. Thực chất mọi phương án trên đều là những hình thức thể chế khác nhau với những mức độ liên kết khác nhau, cách thức tô chức khác nhau và khả năng vận hành khác nhau. Chúng đều được lập ra đê tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vâr» đề chung nào đó như tài chính, thương mại, an ninh, thông tin liên lạc, môi trường, đói nghèo, dân sô', năng lượng, tội phạm quốc tế,... Thế chế là cần thiết đế thu hút sự tham gia, hướng dẫn hành vi quốc gia và điều chinh sự tương tác, đề ra luật lệ và quy định chung, tổ chức phối hợp quốc tế và thúc đẩy liên kê't, cũng như hoạch đinh chính sách toàn cầu,... tức là đế thực thi sự quản trị. Không có thể chế thì không có sự quản trị toàn cầu. Vì thế, hoàn toàn có thê coi quàn trị toàn cẩu bao gồm tâ't cà các hình thức thê chế nêu trên. Như vậy, có thê hiểu quàn trị toàn cầu có hinh thức biểu hiện là sự phối hợp quốc tế rộng rãi dưới hình thức 1. Commission on Global Governance, Our Global Neighbourhood, Oxford University Press, 1995. Một số vấn đề lý luận về quản trị toàn cáu 509 thê chế nào đó nhằm giải quyết những vâh đề chung. Tuy nhiên, có lẽ trong nghiên cứu, cần phân biệt quản trị toàn cầu với những hình thức thể chế còn lỏng lẻo, yếu ớt vói mức độ ảnh hưởng chưa cao. Đó chỉ là những tiền đề thê chế cho quản trị toàn cầu, tức là những thể chế sơ khai đang tiệm cận tới quản trị toàn cầu. 5. Thẩm quyền trong quản trị toàn cẩu Với quá trình và trạng thái cuổi cùng như vậy, quản trị toàn cầu sẽ có thẩm quyền như thế nào? Quản trị toàn cầu được coi là một thê chế có hiệu lực, có thẩm quyền riêng và có hiệu lực ràng buộc. Không có thẩm quyền, không thê thực thi được sự quản trị, tức là không có quản trị toàn cầu. Thẩm quyền này được lấy từ một phần chủ quyền quốc gia trên cơ sở thỏa thuận và tự nguyện. Tuy nhiên, trong vấn đề này, quan niệm về những quyền nào được trao, mức độ thế nào, khả năng nhượng quyền của quốc gia đến đâu, cơ chế thi hành ra sao,... còn khá khác nhau. Chúng tôi tạm chia các ý kiến này làm ba loại. Loại ý kiến thứ nhất muốn trao cho quàn trị toàn cầu thẩm quyền lớn vượt trên quốc gia. Các thẩm quyền này có từ hoạch định chính sách đến kiêm soát việc thực thi, từ hiệu lực bắt buộc và chế tài đến kha nàng can thiệp vào nội tình quốc gia. Trong số này, khả năng can thiệp là sự phàn ánh mạnh mẽ nhất nên chúng tôi tạm gọi là "thẩm quyền can thiệp". Loại thẩm quyền này sẽ đem lại cho quàn trị toàn cầu tư cách siêu quốc gia ở chừng mực nào đó. 510 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử Tuy nhiên, đó không phải là chính phủ thế giói cư xử vói quốc gia như nhà nước đối với công dân của mình. Trong trường hợp này, quốc gia vẫn có sự tự trị đáng kế, hay nói cách khác là vân có chủ quyền đáng kê. Loại ý kiến thứ hai mà chúng tôi tạm gọi là "thẩm quyền quy định", trong đó nhiệm vụ chủ yếu của thê chế quản trị toàn cầu là đề ra những quy định chung trong vấn đề nào đó. Trong loại này, quản trị toàn cầu có các thẩm quyền hoạch định chánh sách chung, để ra luật lệ điều chỉnh hành vi ứng xử của quôc gia. Các quy định này thiên về ngăn chặn trước hơn là xử lý vi phạm. Chúng cũng có hiệu lực bắt buộc nhung mức độ chế tài yếu hơn. Các biện pháp chủ yếu là vận động và gây áp lực hơn là trừng phạt và can thiệp. Việc thực thi được giám sát hơn là kiểm soát. So vói "thẩm quyền can thiệp", "thảm quyền quy định" cũng làm xói mòn chủ quyền quốc gia nhưng ít hơn nhiều. Loại ý kiến thứ ba có thế được gọi là "thẩm quvền tư vân". Ở đây, quản trị toàn cầu được hình thành nhằm tạo ra cơ chế tham khảo, phối hợp giữa các quốc gia nhằm đối phó vói vâh đề nào đó. Cơ chế này có thẩm quvển đê' ra những hướng dân chính sách và các quy định cho việc thực thi của quốc gia. Tuy nhiên, các quyết định này chi có tính chất tư vâh mà không có hiệu lực bắt buộc. Việc thực thi các quyết định chủ yếu dựa trên sự tự nguvện thực hiện cam kết quốc tế (pacta sunservanda) như trong cóng pháp quốc tế. Trong trường hợp này, quản trị toàn cãu là Một số vấn đê Ịý luận vê quản trị toàn cáu 511 một tập hợp lỏng lẻo và chủ quyền quốc gia bị xói mòn không nhiều. Chúng tôi cho rằng thẩm quyển của quản trị toàn cầu hiện nay chỉ đang dừng ở mức tư vâín và xu hướng có thê sẽ là tiên tới thẩm quyền quy định. Quản trị toàn cầu cần phải có những thẩm quyền lớn hon các thể chế hiện hành. Có như thế, thể chế này mới có thể thực thi "sự quản trị" đúng nghĩa của nó. Có như thế, quản trị toàn cầu mói có khả năng thống nhất nỗ lực đối phó vói môì đe dọa đang ngày càng tăng tò các vâh đề toàn cầu. Tuy nhiên, để đạt được thẩm quyền quy định, đó sẽ là một quá trình lâu dài, khó khăn và chắc cũng chỉ trong một số lĩnh vực mà thôi. Đó là những lĩnh vực ít nhạy cảm và ít động chạm đến chủ quyền quốc gia. Còn thẩm quyền can thiệp thì sẽ rất khó đạt được bởi vấn đề xâm phạm chủ quyền và chính nó sẽ tạo ra sự chống đối quản trị toàn cầu. Thẩm quyền can thiệp dễ bị biến thành sự can thiệp của các quốc gia chi phối đối với các nước yếu thế hơn cho nên các nước này sẽ tìm cách chống lại. 6. Quy mô hoạt động của quản trị toàn cẩu Với thẩm quyền có thể như vậy, quản t r ị toàn cầu sẽ có quy mô hoạt động như thế nào? Quy mô ở đây có hai phương diện: quy mô mục tiêu và quy mô chủ thế. v ề quy mô mục tiêu, hầu như không có sự khác biệt khi các ý kiến đều cho rằng mục tiêu cùa quản trị toàn cầu là nhằm giải quyết các vâh đề có tính toàn cầu. Trong khi đó, có sự 512 Mot so van de ly luan quan he quoc te dudi goc nhin lich sit khac nhau ve quy mo chu the. Trong var» de nay, co quan niem cho rang quan tri toan cau la de chi nhung the che hoat dong tren quy mo toan cau hoac trong khong gian dang duoc toan cau hoa1. Quan niem thu hai rong hon khi bao gom ca cac the che toan cau va the che khu vuc hay dia phuong neu chung co tham gia vao viec giai quyet cac van de toan cau hay co su phoi hop voi nhung the che tuong tu 6 cac noi khac tren the gioi. Co so cua y kien thu nhat dua tren lap luan rang phai co hoat dong tren quy mo toan cau thi moi co the goi do la quan tri "toan cau". Tinh toan cau 6 day duoc phan anh o ca muc tieu, luc luong tham gia, tam hoat dong va kha nang gay anh hudng tren quy mo the gioi. Quan diem nay cung gioi han duoc doi tuong nghien cuu khong tro nen qua rong. Tuy nhien, y kien thu nhat thien ve trang thai cuoi cung cua quan tri toan cau ma khong tinh den qua trinh cua no. Y kien thu hai phan anh duoc ca trang thai cuoi cung cung nhu qua trinh tiem can toi quy mo toan cau. Quan tri toan cau duoc hinh thanh va cung co bang ca hai qua trinh tir duoi len va tir tren xuong. Do la qua trinh di tu dia phuong len toan cau va nguoc lai. Ben canh do, quan diem nay con phan anh duoc day du hon luc luong tham gia quan tri toan cau. Luc luong 6 day khong phai chi co 1. Bjom Hettne & Bertil Oden, Global Governance in the 21” Century Alternative Perspectives on World Order, Sdd, tr. 7. Một số vấn đề lý luận về quản tri toàn cầu 513 những lực lượng toàn cầu mà bao gồm cả lực lượng địa phương. Đây có lẽ vẫn là lực lượng chính trong việc giải quyết các vâh đề toàn cầu khi thế giói vẫn phân chia thành quoic gia có chủ quyền. Không những thê' quan điểm này còn cho thây cơ câu của quản trị toàn cầu là đa câp độ (multi-level). Sự quản trị toàn cầu không chỉ diễn ra trên quy mô toàn thế giới mà còn được thực hiện ở cấp độ khu vực, liên quốc gia, quốc gia và các địa phương bên trong quổc gia. Các cơ cấu bên dưới này cũng tham gia điều tiết quản trị toàn cầu. Và như vậy, đôi tượng điều chỉnh của quản trị toàn cầu bao gồm cả quan hệ siêu quốc gia, liên quốc gia và bên trong quốc gia1. Mặc dù ý kiến này sẽ dẫn đến đối tượng nghiên cứu quá rộng nhưng lại phản ánh đúng thực tiễn hơn. Vì thế, chúng tôi nghiêng về ý kiến này nhiều hơn ý kiến đầu. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều thể chế có mục tiêu toàn cầu nhưng quy mô, lực lượng, ảnh hưởng chỉ ở tầm địa phương. Chúng sẽ trở thành bộ phận của quản trị toàn cầu khi có sự phối hợp chặt chẽ và liên kết thành mạng lưới hay hệ thống chứ không phải chỉ mỗi bản thân chúng. 7. Lĩnh vực hoạt động của quản trị toàn cẩu Vậy với thẩm quyền và quy mô hoạt động như vậy, quản trị toàn cầu sẽ diễn ra trong những lĩnh vực nào của 1. John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance in the Twenty-first Century, Sdd, tr. 6. đời sống? Do các vâh đê toàn cầu hiện diện trong mọi mặt cua đòi sống thế giới nên sự kỳ vọng đối vòi quan trị toàn cầu là đa lĩnh vực. Thực tế cho thấy các hình thu с thê chê quản trị toàn cầu đang tổn tại cả trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... Chúng đều được hình thành đê nhăm đối phó với những vâh đề cụ thê của nhân loại. Tuy nhiên, sự khác nhau là ở chỗ lĩnh vực nào có khả năng hơn. Trên thực tế, các vân đề an ninh chính trị rất được quan tâm, thậm chí là khá sớm qua c ố gắng xâv dựng Hội quốc liên sau Chiến tranh thế giới thứ nhâ't và Liên họp quô'c sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thậm chí, an ninh chính trị còn được coi như mục tiêu cơ bàn nằm sau quản trị toàn cầu. Thế nhưng, có câu hỏi lớn là liệu xây dựng được quản trị toàn cầu trong lĩnh vực chính trị hay không khi vẫn gặp sự phản kháng từ chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa dân tộc? Liệu có xây dựng được quản trị toàn cầu trong lĩnh vực văn hóa hay không khi sự đa dạng văn hóa là rất lớn, nhu cầu giữ gìn bản sắc là Tất mạnh? Xét vế mặt lý thuyết, hai lĩnh vực này có thế có được sự quan trị toàn cầu, nhưng bời những lý do trên, đó là cái đích con Tất xa và mức độ khả thi cũng còn hạn chế. Theo chúng tôi, quản trị toàn cầu có thê sẽ diễn ra chủ yê'u trong lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội hơn la chính trị và văn hóa. Thực tế hiện nay cho thây, quan trị toan cầu đang diên ra trong các lĩnh vực này là chu yếu với nhũng mức độ phối hợp và thê chế hóa khác nhau. ít nhát, xáy dựng quan trị toàn cầu trong những lĩnh vực đó dễ kha thi Một số vấn đê !ý luân vê quản trị toàn câu 515 hơn do có nhiêu lợi ích chung và ít động chạm hơn đên chủ quyển quô'c gia cũng như bản sắc dân tộc. John N. Clarke và Geoffrey R. Edward đã đưa ra một sô' vấn đề cụ thế có thê diễn ra quản trị toàn cầu là "hội nhập kinh tế, các nỗ lực kiểm soát sự xuông cấp môi trường, các nguyên tắc đạo đức và luật pháp được vận hành trong hệ thống quổc tế, các thách thức văn hóa - xã hội, sự tiến triển về công nghệ thông tin, các mối đe dọa về an ninh, đặc biệt là các chế độ pháp lý điều tiết hành vi của các quốc gia mà đôi khi cạnh tranh với nhau"1. John N. Clarke và Geoffrey R. Edward có đề cập cả các vâh đề thuộc lĩnh vực chính trị như an ninh và chế độ pháp lý. Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, quản trị toàn cầu dễ đạt được trong các vân đề an ninh phi truyền thống hơn là an ninh truyền thống, trong các chế độ pháp lý liên quan đến kinh tế - xã hội hơn là chính trị. Vì thế, theo chúng tôi, quản trị toàn cầu dễ xảy ra hơn trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Mặc dù hoạt động trong các lĩnh vực như vậy nhưng tính chính trị của quản tri toàn cầu vẫn rõ nét. Sự vận động của quản trị toàn cầu tương tác chặt chẽ vói quyền chính trị của quốc gia, ảnh hưởng nặng nề đên quan hệ chính trị giữa các quốc gia và tác động mạnh mẽ tói khu vực chính trị cao (high politics), là nơi diễn ra quan hệ quyền lực của các quốc gia. Vì thế, quản trị toàn cầu củng 1. John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance in the Twenty-first Century, Sdd, tr. 5. 516 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc tế dưới góc nhin lịch SƯ như các vâh đề toàn cầu có thê’ được xếp vào khu vực chính trị thấp (low politics), là nơi thuộc lĩnh vực khác nhưng tương tác nhiều vói quan hệ quyển lực cua các quôc gia. 8. Chủ thể tham gia quản trị toàn cẩu Về chủ thể tham gia, đa phần ý kiến tán thành tính rộng rãi của các chủ thê tham gia hợp tác trong quản trị toàn cầu. Đó là quốc gia, tổ chức quốc tế cả liên chính phủ lẫn phi chính phủ, các phong trào xã hội, cá nhân,... tức là râ't đa dạng. Thực tế củng cho thấy điều này khi các thê chế quản trị toàn cầu hiện hành đều có tính mở với sự tham gia của nhiều loại hình chủ thể khác nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau ở đây chủ yếu ở chỗ ai là lực lượng chính và đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy quản trị toàn cầu? Chủ thể quốc gia hay phi quốc gia? Quan niệm nhân mạnh vai trò chủ thể quốc gia dựa trên sức mạnh tổng hợp hơn hẳn, vai trò chi phối quan hệ quốc tế trong quá khứ cũng như hiện tại, khả năng làm luật và khả năng quyết định thành bại của quản trị toàn cầu. Trong khi đó, ý kiên sau đề cao vai trò của các chu thê phi quốc gia khi cho rằng chính sự nổi lên của chúng là một trong năm cơ sở giúp quản trị toàn cầu nôi lên sau Chiên tranh lạnh, và rằng đây mới chính là lực lượng lam nên quản trị toàn cầu của tương lai. Chủ thê phi quốc gia khóng có những vướng mắc về chủ quyền quốc gia va lợi ích quốc gia nên dễ đạt được quàn trị toàn cẩu. Chúng đang Một số vấn dê lý luân vế quản trị toàn cáu 517 ngày càng tăng và tham gia ngày càng sâu vào quản trị toàn cầu. Chúng đang là lực lượng kết nôi lợi ích riêng của quốc gia với mục tiêu chung đế giải quyết các vấn đề toàn cầu. Chúng đang làm xói mòn chủ quyền quôc gia vổn được coi là trở lực chính cho quản trị toàn cầu. Chúng đang làm thay đổi hệ thông quốc tế hiện hành vôn dựa trên sự tương tác giữa các quổc gia có chủ quyền sang hệ thống quôc tế đa chủ thế, đa tầng nâc. Chúng tôi cho rằng, cả hai loại hình chủ thê’ này đều có ý nghĩa quan trọng và có giá trị bổ sung cho nhau trong quá trình thúc đẩy quản trị toàn cầu. Tuy nhiên, do ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt, quốc gia vẫn đang có vai trò lớn hơn ít nhiều so với chủ thể phi quốc gia. Trong khi thừa nhận vai trò của quốc gia đôi vói quản trị toàn cầu, còn có một câu hỏi khác. Các cường quốc, đa SC) các quốc gia hay hầu hết các quốc gia mới tạo ra được hiệu lực thực thi quản trị toàn cầu? Xét về lý thuyết, quản trị toàn cầu được xây dựng trên quy mô toàn cầu để đối phó với các vấn đề toàn cầu nên đòi hòi có sự tham gia của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đây lại là điều tương đối khó thực hiện vì nhiều lý do, như lợi ích và nhận thức không đổng đều và thậm chí là xung đột, sự lo ngại chủ quyền quốc gia bị vi phạm, sự e ngại bị các nước lớn chi phối,... Vì thê' nhiều ý kiến cho rằng có thế thực thi quàn trị toàn cầu dựa trên đa số. Việc đa SỐ phối hợp nhau cùng giải quyết vâh đề chung nào đó sẽ đem lại "sự quản trị không cẩn chính phủ" 518 Một số vấn đê lý luận quan hệ quốc tế dưới góc nhìn lịch sử {governance ivithout government) như tựa để một cuốn sách của Rosenau. Đa sô' này có thể hình thành chinh sách chung toàn cầu, có khả năng đem lại tính hiệu lực cho quyết định chung và có thể gây áp lực hay lôi kéo nhũng nước chưa tham gia. Tuy nhiên, cũng với những lý do trên, có ý kiến cho rằng để đạt được sự đổng thuận của đa số cũng Tất khó và làm công việc gì vói sự tham gia của nhiều người thì cũng cần có sự lãnh đạo. Vì thế, vai trò của các cường quốc là râ't quan trọng. Là những quốc gia có quyền lực quôc tế lớn, họ có thể ép buộc hoặc thuyết phục phần còn lại của thế giói thực thi quản trị toàn cầu. Tuy nhiên, việc dựa vào các cường quô'c lại tạo ra sự lo ngại rằng quản trị toàn cầu sẽ đi theo lợi ích của các nước lớn, bất chấp lợi ích của các nước đang phát triển vốn đang là sô' đông. Và rằng Tất có thê’ quản trị toàn cầu sẽ trở thành sự quản trị của nước lớn đôi với nước nhỏ. Chúng tôi cho rằng vai trò của các cường quốc là cần thiết, nhưng sự tham gia của đa sô' quốc gia cũng không thê thiếu. Thiếu cái đầu, quản trị khó có hiệu lực và thiếu cái sau, sự quản trị này khó đạt được quy mô toàn cầu. 9. Tính khả thi và triển vọng của quản trị toàn cáu Với tất cả các nội dung trên của quản trị toàn cấu, vậy tính khả thi và triển vọng của nó sẽ như thế náo? Trong 'vấn đề này, sự khác nhau là bình thường do quan niệm vé quàn trị toàn câu không đổng nhát vói nhau. Tuv nhién ngay trong những người có sự gẩn nhau tương đói vé Một số vấn đê lý luân vê quản trị toàn cầu 519 quản trị toàn cầu như hình thức thể chế quốc tế nào đó có năng lực chung ít nhiều vượt khỏi khuôn khổ quổc gia, ý kiên cũng không giông nhau. Những người ủng hộ cho tính khả thi của quản trị toàn cầu dựa vào năm cơ sở đã nêu ở trên (toàn cầu hóa, các vâh đề toàn cầu, hợp tác và hội nhập, sự phụ thuộc lẫn nhau, và chủ thê phi quốc gia). Cả năm cơ sở này được cho là những xu thê' đang tăng và tác động ngày càng mạnh mẽ đến toàn thế giới. Cả năm cơ sở này đều dẫn đên yêu cầu "quản trị chung" và đem lại tính toàn cầu cho sự quản trị đó. Cả năm cơ sở này vừa là điều kiện khách quan cho sự phối hợp của quản trị toàn cầu, vừa làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức chủ quan về quốc gia, tương tác liên quốc gia và hệ thống quổc tế. Và bởi vì đó là những xu thế, họ tin rằng quản trị toàn cầu sẽ phát triển và thậm chí có thể là một mô hình của trật tự thế giới mói. Trong đó, các hình thức thể chế khác nhau của quản trị toàn cầu như một hệ thống quốc tế sẽ chi phối nhiều mặt của đời sống quốc gia trong nhiều lĩnh vực. Ngược lại, sự hoài nghi về tính khả thi của quàn trị toàn cầu là không nhỏ, nhất là từ chủ nghĩa hiện thực. Quan điểm này cho rằng tính khả thi của nó là rất kém bời sự ngăn trờ của chủ quyền và lợi ích quốc gia. Môi trường vô chính phủ vẫn tiếp tục, chù quyền quôc gia vẫn vững bền lợi ích quốc gia vẫn đa dạng và đầy tính tư lợi. Vì thê' rất khó tạo được sự ràng buộc toàn cầu đôi với quốc gia. Và củng vì thê' khả năng thực thi các quyết định chung 520 Một số vấn đề lý luận quan hệ quốc tế ơưẽH góc nhin lích su vẫn tiếp tục yếu ớt trong quan hệ quốc tế và còn khó khăn hơn khi động chạm đến nội bộ quốc gia. Điểu nàv đã được chứng tỏ hàng trăm năm nay và vẫn sẽ tiếp tục trong tương lai. Do đó, triển vọng của quản trị toàn câu vân tiếp tục tình trạng lỏng lẻo và phối hợp khó khăn như hiện nay. Thậm chí, còn có sự nghi ngò cao hơn như s. Strange coi đó là nguồn quyền hành xung đột với nhau1, tức là sẽ có sự xung đột giữa thẩm quyền chung và quyển quốc gia, giữa quyền hành của các quôc gia với nhau. Hay Hedley Bull cho rằng có thể dẫn đến một hình thức trật tự chính trị toàn cầu theo kiểu trung cổ mói (neo-medieval) cùa sự chia sẻ quyền hành giữa các thực thê 2... Điều đó có nghĩa là cai trị toàn cầu chứ không phải quản trị toàn cầu. Chúng tôi thừa nhận những cơ sở hợp lý nhất định của hai ý kiến trên. Đó là những điều kiện khả thi trong ý kiến đầu và những trở ngại trong ý kiến thứ hai. Từ đó, chúng tôi tán thành ý kiến thứ ba có tính trung dung. Theo đó, sẽ hình thành mạng lưới quản trị toàn cầu với mức độ và quyền hạn cao hơn các thể chế hiện hành. Quản trị toàn cầu cũng chỉ diễn ra đậm nét trong một vài lĩnh vực và vẩn để nhât định. Trong đó, các quốc gia phối 1. S. Strange, The Retreat o f the State, Cambridge, CUP, 1997, tr. 199. Dẩn theo John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance in the Twenty-first Century, Sđd, tr. 5. 2. H. Bull, The Anarchical Society, McMillan, London, 1977, tr. 25 Dan theo John N. Clarke & Geoffrey R. Edward, Global Governance m the Twenty-first Century, Sdd, tr. 5. Một số vấn đê lý luân về quẩn tri toàn cầu 521 hợp với nhau tuy có sâu sắc hon hiện nay nhưng cũng chỉ ờ mức độ vừa phải. Và để đạt được những điều trên, đó sẽ là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn. 10. Tác động của quản trị toàn cẩu tới các nước dang phát triển Dù còn những quan niệm và ý kiến khác nhau, chúng tôi vân cho rằng quản trị toàn cầu là một quá trình đang diên ra và sẽ tiếp tục ưong tương lai. Vậy quá trình quản trị toàn cầu tác động đến các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam như thế nào? Tác động này đến từ hai phương diện. Một là, tác động của sự quản trị toàn cầu từ bên ngoài, tức là từ sự thay đổi của môi trường và hệ thống quổc tế do quản trị toàn cầu đem lại. Hai là, tác động từ trong nước đối với quá trình tham gia quàn trị toàn cầu. Các tác động này không giống nhau giữa các quốc gia bời những điều kiện đặc thù của từng nước. Nhưng về đại thê đối với các nước đang phát triển, tác động cùa quá trình quản trị toàn cầu có cả hai mặt: tích cực và tiêu cực. Dưới đây là một số tác động cơ ban đó: Trong tác động tích cực cùa quá trình quàn trị toàn cầu đối với các nước đang phát triển, điếm thứ nhất dễ nhận thấy nhât chính là sự bổ sung nguồn lực. Các vấn đê' toàn cầu cũng là vẩn đề cua những nước này khi đang trơ nên trầm trọng và đe dọa sự phát triển kinh tế - xã hội cua đất nước. Quan trị toàn cầu là sự phối hợp quôc tế nhằm giãi quyết các vấn đề đó. Hay nói cách khác, những mục tiêu của quản trị toàn cầu cũng phù hợp với lợi ích cua các nước đang phát triển. Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế và phải phân tán vào nhiều nhiệm vụ khác, thông qua sự phối hợp của quản trị toàn cầu, các nước đang phát triển có thêm sự bổ sung về công nghệ, tài chính, quản lý và những hỗ trợ khác từ bên ngoài vào để giải quyết các vâíì đề của mình. Thứ hai, đó là tác động đối với hợp tác và hội nhập quốc tê' cả về nhận thức lẫn thực tiễn. Tham gia quản trị toàn cầu giúp nâng cao nhận thức quốc tế vốn là điểm còn yếu ở các nước đang phát triển. Hợp tác và hội nhập quốc tế như một cách thức đế phát triển đât nước đã được khẳng định, nhưng chủ yếu chi được nhận thức ở bên trên, còn bên dưới nhận thức này vẫn hạn chế. Tình trạng đó đang gây ra nhiều khó khăn cho sự phát triển đất nước nói chung, trong quan hệ đối ngoại nói riêng. Tham gia quản trị toàn cầu sẽ đưa các nước đang phát triển gắn nhiều hơn vào môi trường quốc tế, góp phần thúc đẩy quan hệ quốc tế của đất nước. Đổng thòi, hợp tác trong quản trị còn giúp đưa hợp tác quốc tế xuống bên dưới, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia hợp tác quốc tế để giải quyết các vâh đề của mình. Thứ ba, quàn trị toàn cầu tạo ra môi trường có lợi cho sự Ổn định và phát triển của các nước đang phát tri én. Quản trị toàn cẩu nếu phát triển sẽ không chi thúc đáy hợp tác vì phát triển. Nó còn tạo ra những co chế giai quyết tranh chấp và ngăn ngừa xung đột quốc tế. Quan tri Một số vấn đê lý luân vê quản trị toàn cầu 523 toàn cầu cũng tạo ra cơ chế gắn kết với nhau qua lợi ích chung, sự ràng buộc lẫn nhau đối với thể chế chung và ý thức trách nhiệm đôĩ với nước khác. ít nhất, nó cũng đem lại sự ổn định hơn trong tương tác giữa các quốc gia. Không những thế, cho dù quản trị toàn cầu nếu chi diễn ra trong một vài lĩnh vực và vâh đề nhât định thì cũng có lợi cho Sự phát triển chung của các nước đang phát triến bởi sự phối hợp trong lĩnh vực này sẽ góp phần thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực khác. Thứ tư, tham gia quản trị toàn cầu, các nước đang phát triển có thế nâng cao vị thế của mình trong quan hệ quốc tế. Một mặt, cơ chế hợp tác của quản trị toàn cầu là nguồn đem lại sự ủng hộ quốc tế đối vói các nước này trong những vâh đề liên quan. Mặt khác, đó cũng chính là những diễn đàn quốc tế để các nước đang phát triển tập hợp lực lượng, đâu tranh với sự bât bình đẳng Bắc - Nam trong quan hệ quốc tế. Bên canh những thuận lợi, quản trị toàn cầu cũng đem lại những túc động tiêu cực cho các nước đang phát triến, trong đó có Việt Nam. Thứ nhất, quản trị toàn cầu đem lại nguy cơ về sự phân tầng trong chính các thể chế của quản trị toàn cầu. Do trình độ phát triển và vị thế quốc tế khác nhau nên cơ chế của quản trị toàn cầu khó có sự bình đẳng cho mọi quốc gia tham gia. Tiếng nói, quyền quyết định, quyền lập pháp và khà năng chi phối quản trị toàn cầu nhiều khả năng nằm trong tay các nước lớn. Không loại trừ khả năng 524 Một số vấn đề lý luận quan hệ quóc té dưới góc nhin ỊịCh SƯ quản trị toàn cầu sẽ bị biến đổi thành một cóng cụ nô dịch mới trong quan hệ giữa nưóc lớn và nưóc nho. Là những nước còn hạn chế về trình độ và vị thế, các nước đang phát triển dễ bị rơi vào tầng dưới của quan trị toàn cầu. Khi đó, đương nhiên các nước này dễ phai chịu những bất lợi từ sự phân tầng được thể chế hóa bằng quản trị toàn cầu. Thứ hai, đó là nguy cơ bị can thiệp từ bên ngoài. Quản trị toàn cầu có yêu cầu đem lại sự điều phối chung và sự kiểm soát hay giám sát tò bên ngoài. Chính những điều này dẫn đến khả năng can thiệp vào nội tình quốc gia. Như trên đã đề cập, trong sự phân tầng, sự kiêm soát và can thiệp này chắc chắn đến từ phía nước lớn đối với các nước nhỏ chứ không hẳn là ngược lại. Và không thế loại trừ sự kiểm soát và can thiệp của quản trị toàn cầu bị lợi dụng vì những mục tiêu khác. Là những nước vốn phải trải qua sự áp bức lâu dài của chủ nghĩa đ ế quốc, chủ nghĩa thực dân, các nước đang phát triển rất dễ nhạy cảm với nguy cơ này. Thứ ba, tham gia quản trị có thể tạo ra nguv co phân tán nguồn lực vốn còn khá hạn chế của các nưóc đang phát triển. Vì lo ngại hai tác động bâ't thuận trên, có nhiêu khả năng ban đầu các nước đang phát triển chi tham gia vào sự quan trị toàn cầu trong một số lĩnh vực và ván để ít động chạm đến chù quyển và lọi ích quốc gia hơn như môi trường chẳng hạn. Tuy nhiên, khi tham gia vao quan trị toàn cầu trong những lĩnh vực này, các nước đang phát Một số vấn đê lý luận về'quản trị toàn cầu 525 triền sẽ phải thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của mình, trong khi điều này hoàn toàn có thể khiến các nước đó gặp khó khăn khi phải phân bô nguồn lực còn hạn chế cua mình cho những mục tiêu ít ưu tiên hơn. Ví dụ, thực tê cho thây hầu hết các nước này đều không sẵn sàng hy sinh mục tiêu tăng trường cho mục tiêu môi trường. ít nhât trong tương lai gần, nếu quản trị toàn cầu có xu hướng tăng lên thì nó vẫn phải tính đến chủ quyển và lợi ích quốc gia vốn râ't đa dạng. Vì thế, rất khó đạt được sớm những chính sách chung có hiệu lực và hành động chung như trong một quốc gia. Hay nói cách khác, quàn trị toàn cầu vẫn phụ thuộc rất nhiều vào hành động địa phương, tức là phụ thuộc vào ý thức, sự tự giác, ý chí tuân thủ, năng lực và hành động của các quốc gia. Và dù thế nào, Việt Nam vẫn nên tham gia vào quá trình này nhưng cần phải có chọn lọc lĩnh vực, lộ trình cụ thế và những bước đi thích hợp. Đổng thời, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phô biến kiến thức đê nâng cao nhận thức về quản trị toàn cầu. Đó là sự chuẫn bị cần thiết cho tương lai. 526 MỤC LỤC Trang Lời Nhà xuất bản 7 - Chính trị xanh - Một cách tiếp cận trong quan hệ quốc tế 9 - Thuyết phụ thuộc dưới góc độ quan hệquốc tế 39 - Cơ sở của chủ nghĩa hiện thực và sự phê phán 67 - Phân đinh khu vực trong nghiên 90 cứu quốc tế - Nhận thức về chủ nghĩa khu vực 114 - Chủ nghĩa khu vực trong lịch sử 136 - T ổ chức quốc tế và chủ thế phi quôc gia 166 - Công ty xuyên quốc gia - chủ thể quan hệ quốc tế 194 - Quá trình phát triến cách tiếp cận quyển lực trong nghiên cứu quan hệ quốc tế vàlịch sừ 219 - Một sô' vân đề lý luận vê khái niệm quyền lực trong quan hệ quốc tế - Các yếu tố tinh thần trong quyển lực của quốc gia 245 268 Một số vấn đê lý luận về quản trị toàn cầu 527 - Nhận thức về hệ thông quổc tế 297 - Hệ thông quôc tế trong lịch sử: quá trình và loại hình - Nguyên nhân chiến tranh - các cấp độ phân tích 329 362 - Cơ sở nhận thức của cuộc chạy đua hạt nhân trong Chiến tranh lạnh - Kosovo - sự châ't chứa của lịch sử 413 435 - Một s ố yếu tô”tác động tới nhận thức an ninh ở Đông Á 459 - Một số yếu tố địa - chính trị của Việt Nam: Nhận thức và thực tiễn - Một SỐ vâh đề lý luận về quản trị toàn cầu 476 497