Cái lý do cơ bản nhất khiến bạn si mê người bạn đời của mình, theo tôi, không phải vì người ấy trẻ đẹp, có sự nghiệp gây ấn tượng, có “điểm giá trị” tương đương với bạn, hay có tâm tính tốt. Nguyên tác: Getting The Love You Want Tác giả: Harville Hendrix, Ph.D. Dịch giả: Phan Linh Lan và Phan Lưu Ly nxb: – – – – – – Mục lục: 00. Lời mở đầu PHẦN MỘT: HÔN NHÂN VÔ THỨC Chương 1. Dò tìm những đáy sâu của Vô Thức : đọc ở đây Chương 2. Những thương tổn tuổi thơ : đọc ở đây Chương 3. Hình mẫu của bạn: đọc ở đây Chương 4. Tình yêu lãng mạn: đọc ở đây Chương 5. Tranh chấp: đọc ở đây PHẦN HAI: HÔN NHÂN Ý THỨC Chương 6. Trở nên ý thức: đọc ở đây Chương 7. Đóng những cửa thoát: đọc ở đây Chương 8. Tạo ra một vùng an toàn: đọc ở đây Chương 9. Hiểu biết hơn về bản thân và về người bạn đời: đọc ở đây Chương 10. Xác dịnh quy trình: đọc ở đây Chương 11. Kiềm chế cơn giận: đọc ở đây: Chương 11a - Chương 11b Chương 12. Chân dung hai cuộc hôn nhân: đọc ở đây PHẦN BA: CÁC BÀI TẬP Chương 13. Mười bước để tiến tới một cuộc hôn nhân ý thức: đọc ở đây Chương 14: Đọc ở đây LỜI MỞ ĐẦU Xã hội ngày nay khuyến khích chúng ta coi hôn nhân như một chiếc hộp đen. Trước tiên bạn chọn một người bạn đời. Rồi bạn bước vào cái hộp đó. Khi đã ổn định chỗ ngồi đâu đấy, bạn mới lần đầu tiên thật sự nhìn kỹ người chia sẻ cái hộp đó với bạn. Nếu bạn hài lòng với những gì bạn khám phá, bạn sẽ ở lại. Nếu không, bạn lại chui ra khỏi cái hộp đó và đi tìm một kẻ khác để cặp đôi. Nói cách khác, hôn nhân được coi là một tình trạng không thay đổi, và nó tốt hay xấu là do bạn có khả năng hấp dẫn được một người bạn đời sáng giá hay không. Giải pháp chung cho một cuộc hôn nhân bất hạnh, mà hơn 50% các cặp vợ chồng lựa chọn, là ly dị và bắt đầu lại từ đầu với một người mới với hy vọng sẽ tốt hơn người cũ. Vấn đề lớn nhất của giải pháp này là sự đau đớn khi phải thay đổi ngôi đổi chủ. Sự xót xa khi phải chia những đứa trẻ, những món đồ, và gạt bỏ những giấc mơ quý giá. Và còn sự miễn cưỡng khi phải mạo hiểm trong một mối quan hệ thân thiết mới, lo sợ rằng rồi nó cũng sẽ đổ vỡ… Và còn cả những tình cảm bị hủy hoại của những cư dân khác trong chiếc hộp đó – những đứa trẻ lớn lên với cảm giác có lỗi trong vụ ly dị và nỗi nghi ngờ về sự tồn tại của một tình yêu bền vững. Đáng buồn thay, sự lựa chọn thứ hai và cũng là cuối cùng của những người sắp sửa ly dị là ở lại, cài chặt nắp hộp, và gồng mình chịu đựng mối quan hệ đầy thất vọng đó cho đến cuối đời. Họ tìm cách lấp đầy cuộc hôn nhân trống rỗng bằng thức ăn, rượu, ma túy, các hoạt động khác, công việc, ti-vi, và những tưởng tượng lãng mạn, cam chịu với niềm tin là ước mong một tình yêu sâu sắc sẽ không bao giờ thành hiện thực. Trong cuốn sách này, tôi xin đề nghị một quan điểm nhiều hy vọng hơn, và tôi tin là cũng xác đáng hơn, về những quan hệ tình cảm. Hôn nhân không phải là một trạng thái tĩnh lặng giữa hai con người không thay đổi. Hôn nhân là một hành trình tinh thần và tâm lý bắt đầu từ trạng thái ngây ngất của sự hấp dẫn, quanh co theo những con đường đầy đá sỏi của sự khám phá bản thân, và lên đến đỉnh cao trong sự sáng tạo ra một quan hệ hợp nhất, thân thiết và suốt đời. Việc bạn có nhận thức được hay không tiềm năng của quan điểm này không phụ thuộc vào khả năng thu hút một người bạn đời sáng giá, mà phục thuộc vào sự sẵn sàng tự nhận thức những phần ẩn giấu của bạn thân bạn. ĐÔI DÒNG TỰ THUẬT Khi tôi bắt đầu nghề bác sĩ tâm lý, tôi đã tư vấn cho cả các cá nhân lẫn các cặp vợ chồng. Tôi thích tiếp những bệnh nhân chỉ đi một mình hơn. Tôi được đào tạo theo hướng điều trị từng cá nhân, và khi tiếp những bệnh nhân đến một mình, tôi cảm thấy công việc trôi chảy và hiệu quả. Nhưng khi một cặp vợ chồng bước vào văn phòng của tôi thì không được như vậy. Mối quan hệ hôn nhân đưa ra hàng loạt những biến dạng phức tạp mà tôi không được đào tạo để đối phó. Rốt cuộc, tôi cũng hành động như đa số các bác sĩ tâm lý khác: chủ yếu là tư vấn về mâu thuẫn tính cách và các vấn đề cụ thể. Khi cách đó không tác dụng, tôi tách hai người ra và đưa họ vào các nhóm khác nhau, hoặc tư vấn cho riêng từng người. Năm 1967, sự bối rối của tôi trước vấn đề tâm lý hôn nhân càng tăng lên khi tôi bắt đầu gặp rắc rối trong hôn nhân của chính mình. Tôi và vợ tôi đã từng có quan hệ rất sâu đậm và có hai đứa con, vì vậy chúng tôi đã xem xét cẩn thận cuộc hôn nhân trong 8 năm, đến gặp nhiều nhà tâm lý trị liệu. Tất cả đều vô ích, và đến năm 1975, chúng tôi quyết định ly hôn. Khi ngồi trong tòa án chờ đến lượt mình gặp quan tòa, tôi cảm thấy thất bại của tôi nhân lên gấp đôi: thất bại của người chồng, và thất bại của một nhà tâm lý trị liệu. Ngay chiều hôm đó, tôi có kế hoạch giảng bài về đề tài hôn nhân và gia đình, và ngày hôm sau tôi sẽ phải tư vấn cho vài cặp vợ chồng như thường lệ. Bấp chất những năm được rèn luyện, lúc đó tôi cũng cảm thấy thất bại và chán nản như những người đàn ông và đàn bà ngồi bên cạnh tôi chờ được gọi tên. Nhiều năm sau cuộc ly hôn, mỗi sáng tôi thức dậy với cảm giác mất mát chua xót. Khi vào giường đi ngủ mỗi buổi tối, tôi nằm nhìn chòng chọc lên trần nhà, cố gắng tìm lời giải thích cho cuộc hôn nhân thất bại. Hẳn nhiên là tôi và vợ tôi đều có hàng chục lý do để ly dị nhau. Hẳn nhiên là tôi và vợ tôi đều có hàng chục lý do để ly dị nhau, tôi không thích điều này ở cô ấy, cô ấy không thích điều kia ở tôi, chúng tôi có những mối quan tâm và mục đích khác hẳn nhau. Nhưng bên dưới bản trường ca than phiền đó, tôi cảm thấy còn có một nỗi thất vọng căn bản, là nguyên nhân sâu xa của đổ vỡ bất hạnh mà sau tám năm cố gắng hàn gắn, chúng tôi đã không tìm ra. Thời gian qua đi, và nỗi thất vọng của tôi biến thành một khao khát, thôi thúc tôi làm cho các kinh nghiệm đắng cay trở nên có ý nghĩa. Tôi sẽ không đứng lên từ đống đổ nát của cuộc hôn nhân đó mà không thấu suốt mọi sự từ bên trong. Tôi bắt đầu tập trung nỗ lực vào việc học hỏi những lý thuyết điều trị tâm lý hôn nhân. Khi nghiên cứu những cuốn sách và tạp chí chuyên ngành, tôi kinh ngạc nhận thấy rằng có rất ít chuyên đề về hôn nhân, và những tư kiệu mà tôi thu nhặt được luôn luôn bị lệch về phía tâm lý cá nhân và gia đình. Dường như không có một lý thuyết toàn diện nào về những rắc rối phức tạp của quan hệ nam nữ. Không có lời giải thích thỏa đáng cho những cảm xúc mạnh mẽ có thể hủy hoại một cuộc hôn nhân. Và không có gì giải thích trọn vẹn cảm giác mất mát cay đắng trong cuộc hôn nhân đầu tiên của tôi. Để hoàn tất những lỗ hổng tư liệu, tôi đã làm việc với hàng trăm cặp vợ chồng tại văn phòng của tôi và hàng ngàn cặp khác trong các bệnh viện và các hội thảo. Từ những quan sát trong quá trình điều trị và những nghiên cứu cá nhân, tôi đã dần dần phát triển được một lý thuyết về điều trị tâm lý trong hôn nhân gọi là Liệu pháp Quan hệ Hình mẫu. Đường lối của tôi là sự chiết trung. Tôi đã kết hợp tâm lý chiều sâu, các khoa học về hành vi ứng xử, truyền thống tinh thần phương Tây và một vài yếu tố của trường phái Phân tích hành vi tâm lý dây chuyền, trường phái Gestalt, lý thuyết hệ thống và liệu pháp tâm lý ý thức. Theo quan điểm của tôi, mỗi trường phái tâm lý học trên đều đóng góp một phần quan trọng không thể thay thế cho môn tâm lý học cá nhân, nhưng chỉ khi tất cả những trường phái đó được hòa trộn trong một lý thuyết tổng hợp mới thì bí ẩn của quan hệ tìn yêu mới được phản ánh. Khi tôi bắt đầu thực hành lý thuyết này, công việc tư vấn hôn nhân cho các cặp vợ chồng của tôi đã được đền bù vô giá. Tỷ lệ ly hôn của các thân chủ của tôi giảm đột ngột và các cặp chắp nối lại quan hệ cho biết họ tìm thấy sự thỏa mãn sâu sắc hơn nhiều trong cuộc hôn nhân của mình. Khi các ý tưởng đã cụ thể và mạch lạc hơn, tôi bắt đầu các bài thuyết trình với các khách hàng độc thân cũng như các cặp vợ chồng. Năm 1981, tôi bắt đầu mở các khóa huấn luyện cho những người có chuyên môn về khoa tâm lý. Ngày nay, hơn ba mươi ngàn người đã tiếp xúc với các ý tưởng của tôi qua các cuộc tư vấn hôn nhân, các đợt điều trị tâm lý và các cuộc hội thảo. VỀ CUỐN SÁCH NÀY Hai mục đích của tôi khi viết cuốn sách này là chia sẻ với mọi người sự hiểu biết của tôi về tâm lý tình yêu, và giúp người đọc biến quan hệ tình cảm của mình thành một suối nguồn vô tận của tình yêu và tình bạn. Nói ngắn gọn, đây là cuốn sách về lý thuyết và thực hành để trở thành những người bạn đời lý tưởng. Cuốn sách được chia làm ba phần. Trong Phần Một, tôi ghi chép lại những điều tất yếu của đa số các quan hệ tình cảm: sự hấp dẫn, tình yêu lãng mạn, và cuộc tranh chấp quyền lực. Khi tôi mô tả những chi tiết quen thuộc của một đời sống hôn nhân, tôi mong muốn độc giả hãy coi đó như một tấn kịch tâm lý nổi cộm nhất. Tôi gọi đó là “Hôn nhân Vô thức”, có nghĩa là một cuộc hôn nhân bao gồm những mong ước ẩn giấu và những hành vi ứng xử tự phát có nguồn gốc từ thời thơ ấu và dẫn các cặp vợ chồng đến sự xung đột không thể tránh khỏi. Trong Phần Hai, tôi khai phá một loại hôn nhân hoàn toàn khác, “Hôn nhân Ý thức”, một cuộc hôn nhân giúp bạn thỏa mãn những nhu cầu thiếu thốn từ thời thơ ấu bằng những cung cách tích cực. Trước hết, tôi sẽ giải thích một kỹ thuật nhen nhóm lại tình yêu lãng mạn. Quá trình này làm hồi phục tinh thần hợp tác và đem lại cho bạn động cơ để giải quyết những vấn đề còn tồn tại lẩn khuất. Sau đó, tôi sẽ giúp bạn cách thay thế sự đối đầu và thói quen chỉ trích đựơc tiếp thu từ thưở nhỏ bằng một quá trình xoa dịu để tương trợ và cùng phát triển. Cuối cùng, tôi sẽ mô tả cách biến nỗi thất vọng bị dồn nén thành sự thông cảm và hiểu biết. Phần Ba sẽ thâu tóm tất cả những ý tưởng trên, gói gọn trong một khóa điều trị tâm lý độc đáo trong mười tuần lễ. Qua một hệ thống bài tập đã được thử nghiệm thành công có thể tự thực hiện ở nhà, bạn đọc sẽ không chỉ thấy suốt những vấn đề trong cuộc hôn nhân của mình mà còn có thể giải quyết được chúng – có lẽ không cần đến việc tư vấn hôn nhân của các chuyên gia tâm lý. Cuốn sách này giúp bạn xây đắp một quan hệ tình yêu sâu sắc và chính trong cuộc hôn nhân được phục sinh đó, bạn sẽ tìm thấy bình an và hạnh phúc. ––––– Chương 1: DÒ TÌM NHỮNG ĐÁY SÂU CỦA VÔ THỨC Để biết sự chọn lọc ở mức độ cao này có ý nghĩa gì, chúng ta phải hiểu được vai trò của vô thức trong việc lựa chọn bạn đời. Trong thời kỳ hậu-Freud, đa số mọi người đã trở nên lão luyện trong việc lục lọi vô thức để tìm những lời giải thích cho các sự kiện hàng ngày. Chúng ta bàn luận một cách hiểu biết về những “nhầm lẫn được giải thích theo Freud”, phân tích những giấc mơ, và tìm kiếm những cung cách mà vô thức tác động lên hành vi ứng xử hàng ngày của chúng ta. Tuy vậy, đa số chúng ta còn đánh giá rất thấp tầm ảnh hưởng của vô thức. Một phép so sánh sau đây có thể giúp bạn đánh giá đúng ảnh hưởng rộng lớn của vô thức. Ban ngày chúng ta không thể thấy được những ngôi sao, chúng ta nói như thể chúng chỉ “mọc ra” vào ban đêm, nhưng thực ra chúng vẫn luôn ở đó, trên bầu trời. Chúng ta cũng ước lượng quá thấp con số chính xác các ngôi sao. Chúng ta nhìn lên bầu trời, thấy những đám sao lác đác mờ tỏ, và cứ tưởng rằng đó là tất cả. Khi đã đi xa khỏi ánh đèn thành phố, chúng ta nhìn thấy bầu trời khảm đầy sao, và chúng ta bị ngập chìm trong sự rực rỡ của thiên hà. Nhưng chỉ khi nghiên cứu thiên văn học, chúng ta mới biết hết sự thật: hàng trăm ngàn ngôi sao chúng ta thấy trong một đêm không trăng và trời trong chỉ là một phần rất nhỏ của số sao trong vũ trụ, và rất nhiều những đốm sáng mà chúng ta tưởng là một ngôi sao thực ra là cả một thiên hà. Với vô thức cũng vậy, những suy nghĩ có luận lý và trật tự của tư duy ý thức chỉ là một tấm màn mỏng phủ lên vô thức là khu vực vẫn hoạt động mãnh liệt và có hiệu lực trong mọi lúc mọi nơi. Hãy nhìn sơ qua cấu trúc của bộ não, cơ quan bí ấn và phức tạp với rất nhiều thành phần. Để đơn giản hóa, tôi sử dụng mô hình của nhà thần kinh học Paul Mc Lean và chia bộ não làm ba lớp đồng tâm. Lõi của não bộ, lớp trong cùng và thô sơ nhất, là phần quản lý việc sinh sản, tự bảo toàn và các chức năng sống còn khác như tuần hoàn, hô hấp, giấc ngủ, và sự co cơ đáp ứng lại những kích thích từ bên ngoài. Nằm ở đáy sọ, phần não bộ này đôi khi được gọi bằng cái tên “não bò sát”, vì mọi loài có xương sống từ bò sát đến loài có vú đều có chung phần não bộ này. Để phục vụ mục đích khảo sát, chúng ta hãy coi lõi của não bộ này là nguồn gốc của các hoạt động thể chất. Vươn ra như một chạc xương đòn trên lõi não bộ là phần não gọi là hệ thần kinh vành, chức năng chủ yếu là phát sinh những xúc cảm mãnh liệt. Các nhà khoa học có thể kích thích hệ thần kinh vành ở các động vật thí nghiệm bằng phương pháp phẫu thuật và tạo ra những cơn sợ hãi và gây hấn tự phát. Trong cuốn sách này tôi dùng từ “tâm thức cũ” để chỉ tâm thức xuất phát từ vùng não bộ bao gồm lõi não và hệ thần kinh vành. Ta hãy ghi nhớ rằng “tâm thức cũ” quyết định phần lớn những phản ứng tự động của chúng ta. Vùng cuối cùng của não bộ là vỏ não, một đám mô não lớn xoắn quanh hai lớp não trong và chính nó cũng được chia làm bốn vùng nhỏ (còn gọi là thùy não). Vùng não này, được phát triển cao nhất ở Homo sapiens (Người hiện đại), là nơi cư trú của phần lớn các chức năng nhận thức. Tôi sẽ gọi phần tâm thức xuất phát từ vỏ não là “tâm thức mới”, bởi vì nó xuất hiện muộn nhất trong lịch sử tiến hóa của động vật. Tâm thức mới là tâm trí có ý thức, tỉnh táo, và tiếp xúc với môi trường xung quanh hàng ngày. Nó là tâm thức mà chúng ta dùng để suy nghĩ, ra quyết định, quan sát, lập kế hoạch, suy đoán, trả lời, sắp xếp thông tin, và tạo ra những ý tưởng. Tâm thức mới có đặc điểm cố hữu là có trật tự luận lý, nó luôn tìm tòi nguyên nhân của mọi kết quả và hậu quả của mội nguyên nhân. Ở mức độ nào đó, nó có thể điều hòa một số phản ứng bản năng của tâm thức cũ. Rộng lớn và luôn kề cận, tâm trí biết phân tích, điều tra, hay thắc mắc này chính là những gì mà chúng ta tưởng là “cái tôi” của mình. Luận lý của tâm thức cũ Hoàn toàn trái ngược với tâm thức mới, ta hầu như không biết gì về các chức năng của tâm thức cũ. Những nỗ lực để hiểu được phần thực thể này của chúng ta là một nhiệm vụ làm điên đầu, vì bạn sẽ phải lật ngược tâm trí có ý thức của mình để nhìn vào đáy sâu bên dưới nó. Những nhà khoa học đã quy phục được tâm thức cũ đã cho ta biết rằng mối quan tâm chủ yếu của tâm thức cũ là tự bảo toàn. Luôn cảnh giác cao độ, tâm thức cũ liên tục đặt ra câu hỏi hàng đầu: “Có an toàn không?” Khi thực hiện công việc của mình là đảm bảo sự an toàn, tâm thức cũ hoạt động theo một phong cách cơ bản khác biệt với tâm thức mới. Một trong những điểm khác biệt chủ yếu là tâm thức cũ dường như chỉ có một nhận thức rất lờ mờ về thế giới bên ngoài. Không giống như tâm thức mới, dựa vào tri giác trực tiếp từ các hiện tượng bên ngoài, tâm thức cũ rút tỉa dữ liệu từ các hình ảnh, biểu tượng, và suy nghĩ mà tư duy mới tạo ra. Điều đó làm giảm mật độ dữ liệu nhập của nó vào những phạm trù rất rộng. Ví dụ, trong khi tâm thức mới có thể phân biệt dễ dàng các cá nhân, tâm thức cũ gộp tất cả mọi người thành 6 loại cơ bản. Điều duy nhất mà nó quan tâm là một nhân vật cụ thể nào đó thuộc về lọai nào trong loại sau: 1. nuôi dưỡng, 2. được nuôi dưỡng, 3. có quan hệ tình dục, 4. phải tránh xa, 5. chịu phục tùng, 6. tấn công. Các khái niệm phân biệt như “hàng xóm”, “anh em họ”, “mẹ tôi” hay “vợ tôi” bị gạt sang một bên. Tâm thức cũ và tâm thức mới, khác nhau ở nhiều điểm như vậy, liên tục trao đổi và diễn giải các thông tin. Điều này xảy ra như sau. Giả sử bạn đang ngồi trong nhà một mình, đột ngột nhân vật A là một bà dì của bạn bước vào cửa. Tâm thức mới lập tức tạo ra một hình ảnh của nhân vật này và gửi đến tâm thức cũ để nghiên cứu. Tâm thức cũ nhận được hình ành và so sánh nó với các hình ảnh khác được lưu trữ. Ngay lập tức có nhận xét đầu tiên: “Người này không phải người lạ”. Rõ ràng những cuộc gặp gỡ với nhân vật này đã được ghi nhận từ trước. Một phần triệu giây sau đã có nhận xét thứ hai: “Không có tình tiết nguy hiểm nào liên hệ với hình ảnh này”. Trong vô số giao tiếp đã xảy ra giữa bạn và người khách bí ẩn, không có lần nào đe dọa đến sự sống của bạn. Sau đó, rất nhanh là nhận xét thứ ba: “Có rất nhiều tình tiết dễ chịu liên quan đến hình ảnh này”. Trong thực tế, các dữ liệu lưu trữ đã cho rằng A là một người nuôi dưỡng. Đi đến kết luận này, hệ thần kinh vành gửi một tín hiệu đèn xanh đến “não bò sát”, và bạn sẽ thấy mình bước về phía kẻ mới xâm nhập với đôi tay mở rộng. Vận dụng tâm thức mới, bạn nói: “Kìa dì, thật vui khi dì đến chơi!” Tất cả những điều đó xảy ra ngoài nhận thức của bạn trong một phần ngàn giây đồng hồ. Trong tâm trí có ý thức của bạn, những gì xảy ra là bà dì yêu quý của bạn vừa bước vào cửa. Trong khi đó, trong cuộc thăm hỏi của bà dì, quá trình thu thập dữ liệu vẫn tiếp tục. Lần gặp gỡ sau cùng này tạo ra thêm những suy nghĩ, cảm xúc và hình ảnh, những tài liệu ấy được gửi tới hệ thần kinh vành để lưu trữ trong ngăn não bộ dành cho bà dì. Những thông tin mới đó sẽ được tâm thức cũ truy cập lại khi bà dì đến thăm bạn lần sau. Hãy thử xem xét một hoàn cảnh khác. Giả sủ người bước vào cửa không phải là bà dì thân yêu ấy mà là bà chị của bà, bà dì thứ hai, và thay vì đón khách với đôi tay mở rộng, bạn thấy mình bực bội vì bị gián đoạn công việc. Tại sao một phản ứng rất khác biệt như vậy lại xảy ra với hai chị em? Hãy giả sử là hồi 18 tháng tuổi, bạn đã phải ở một tuần với bà dì thứ hai vì mẹ bạn đang nằm bệnh viện để sinh một đứa em khác. Cha mẹ bạn, cố gắng chuẩn bị trước cho sự kiện này, đã giải thích với bạn rằng “Mẹ sẽ tạm xa con để đi đến bệnh viện mang về một em bé mới.” Những từ như “bệnh viện”, “em bé” không có nghĩa gì đối với bạn, nhưng những từ như “mẹ” và “đi xa” chắc chắn là có. Mỗi khi họ nhắc đến hai từ này liền nhau là bạn lại cảm thấy lo lắng và mút ngón tay. Vài tuần sau, khi mẹ bạn bắt đầu ở cữ, bạn được nhấc khỏi nôi trong giấc ngủ say và mang đến nhà bà dì thứ hai. Bạn tỉnh dậy một mình trong căn nhà lạ, và người chạy đến với bạn khi bạn khóc không phải là cha hay mẹ bạn mà là bà dì thứ hai này. Bạn sống trong lo âu suốt mấy ngày sau đó. Mặc dù bà dì thứ hai rất trìu mến và tốt bụng, bạn vẫn cảm thấy bị bỏ rơi. Nỗi sợ ban đầu này được liên hệ với bà dì thứ hai, và nhiều năm liền, hình ảnh của bà, hay mùi nước hoa của bà, khiến bạn bỏ chạy khỏi phòng. Trong những năm sau đó, có thể bạn đã trải qua nhiều kỷ niệm thú vị với bà dì thứ hai, tuy vậy, 30 năm sau khi bà bước vào phòng, bạn vẫn cảm thấy thôi thúc bỏ chạy. Chỉ nhờ một kỷ luật ứng xử nghiêm khắc mà bạn đứng lên chào bà. Không có thời nào là thời Hiện tại Câu chuyện này còn minh họa cho một nguyên tắc quan trọng khác của tâm thức cũ: nó không có khái niệm về tuyến thời gian. Ngày hôm nay, ngày mai, và hôm qua không tồn tại; những gì đã từng có vẫn còn đó. Hiểu được sự thật cơ bản này về bản chất của vô thức, có thể giải thích tại sao trong cuộc hôn nhân của mình, đôi khi bạn nhận thấy những cảm xúc hoàn toàn không tương xứng với những sự kiện tạo ra chúng. Ví dụ hãy tưởng tượng rằng bạn là một phụ nữ 35 tuổi, là một luật sự trong một công ty có uy tín. Một ngày kia, bạn ngồi trong văn phòng và nảy ra những suy nghĩ trìu mến ấm áp về chồng mình, và bạn quyết định gọi điện thoại cho anh ta. Bạn quay số, và thư ký báo cho bạn biết rằng anh ta đã đi khỏi sở làm và không thể gọi được. Đột ngột, mọi suy nghĩ trìu mến của bạn biến mất, và bạn cảm thấy một đợt sóng lo âu ập đến: “Anh ấy ở đâu?”. Lý trí bảo cho bạn biết rằng anh ấy có thể đang nói chuyện với khách hàng hoặc đang ăn bữa trưa muộn, nhưng một phần của con người bạn – hãy trung thực – cảm thấy bị bỏ rơi. Bạn ở đó, một phụ nữ khôn ngoan và có năng lực, nhưng chỉ vì chồng bạn không có sẵn ở đầu dây điện thoại, bạn lập tức cảm thấy dễ tổn thương như cái ngày mà mẹ bạn đã bỏ bạn lại với cô trông trẻ hoàn toàn xa lạ. Tâm thức cũ của bạn bị giam giữ trong một viễn cảnh xa xưa. Hoặc giả sử bạn là một người đàn ông trung niên, một nhà quản lý bậc trung trong một công ty lớn. Sau một ngày say sưa với công việc, bạn đã xoa dịu được những khách hàng quan trọng, và hoàn tất động tác cuối cùng trên một tài khoản nhiều triệu đô-la, bạn về nhà, háo hức được chia sẻ thành công với vợ. Khi bước vào cửa, bạn thấy một tờ giấy của vợ nhắn rằng cô sẽ đi làm về muộn. Bạn đứng chết lặng tại chỗ. Bạn đã tin tưởng rằng cô ấy sẽ chờ bạn ở đó! Bạn có vượt ra được khỏi nỗi thất vọng và tự giải trí trong thời gian ấy không? Bạn có dùng nó vào việc kiểm tra lại lần cuối chương trình làm việc? Có. Nhưng đó là sau khi bạn đã đi thẳng đến tủ lạnh và ngốn sạch hai chén kem sữa to tướng, chất liệu thay thế gần nhất với sữa mẹ mà bạn có thể tìm thấy. Quá khứ và hiện tại sống bên nhau trong tâm trí bạn. Bây giờ đã suy nghĩ ít nhiều về bản chất của vô thức, ta hãy trở lại với cuộc luận bàn trước đây về việc chọn lựa bạn đời. Những thông tin về tư duy cũ đó sẽ giúp gì cho ta trong việc hiểu được sự hấp dẫn lãng mạn? Hiện tượng kỳ lạ mà tôi đã ghi nhận trước đây trong khi khảo sát là chúng ta dường như có xu hướng chọn lọc cao trong việc tìm bạn đời. Thực ra, chúng ta chỉ tìm một người “có một không hai” với một tập hợp những nét cá tính bao gồm cả tích cực lẫn tiêu cực. Những điều chúng ta làm, theo như tôi đã khám phá sau nhiều năm ròng nghiên cứu lý thuyết và quan sát thực hành, là tìm kiếm một người có những nét cá tính nổi trội của người đã nuôi dưỡng chúng ta. Tâm thức cũ, bị giam giữ trong cái hiện tại vĩnh cửu và chỉ có một nhận thức lờ mờ về thế giới bên ngoài, đang cố gắng dựng lại môi trường thời thơ ấu. Và lý do mà tâm thức cũ cố phục sinh lại quá khứ không phải là vấn đề thói quen hay sự cưỡng bức mù quáng mà là một nhu cầu khẩn thiết để hàn gắn lại những vết thương thời thơ ấu. Cái lý do cơ bản nhất khiến bạn si mê người bạn đời của mình, theo tôi, không phải vì người ấy trẻ đẹp, có sự nghiệp gây ấn tượng, có “điểm giá trị” tương đương với bạn, hay có tâm tính tốt. Bạn yêu người ấy bởi vì tâm thức cũ của bạn đã lẫn lộn người ấy với người đã nuôi dưỡng bạn! Tâm thức cũ tin rằng cuối cùng nó đã tìm được ứng viên lý tưởng để đền bù cho những chấn thương tâm lý và tình cảm mà bạn đã trải qua trong thời thơ ấu. Chương 2: NHỮNG THƯƠNG TỔN TUỔI THƠ Tuổi già không có gì hơn tuổi trẻ để đảm nhận chức năng dẫn đường, vì những gì mà tuổi già đem lại không nhiều bằng những gì nó lấy đi. - HENRY DAVID THOREAU Khi nghe nói đến “những thương tổn tâm lý và tình cảm tuổi thơ”, chắc bạn nghĩ ngay đến những chấn thương tâm lý nghiêm trọng như lạm dụng tình dục, bị ngược đãi hành hạ hay những thương tổn tinh thần do cha mẹ ly dị, chết hoặc nghiện rượu. Đối với một số người thì đây đúng là những thương tổn mà họ phải chịu từ thời thơ ấu. Tuy nhiên, cho dù bạn có may mắn được lớn lên trong một môi trường an toàn và tràn ngập tình thương, bạn vẫn phải chịu đựng những nỗi đau khổ không thấy được từ thời thơ ấu, bởi vì ngay từ giây phút cất tiếng khóc chào đời, bạn đã là một tạo vật phức tạp và phụ thuộc, với những nhu cầu, đòi hỏi không bao giờ ngưng. Nhà phân tâm học Freud đã định nghĩa rất chính xác loài người là “những sinh vật không biết thỏa mãn”. Và không một bậc sinh thành nào, dù họ có tuyệt vời, xuất sắc đến đâu đi nữa, có thể đáp ứng tất cả những nhu cầu luôn thay đổi này. Trước khi chúng ta tìm hiểu một số cách thức khó nhận thấy đã làm bạn tổn thương từ nhỏ và vẫn còn tác động đến cuộc hôn nhân của bạn, hãy xem cái sinh vật, chính là bạn, khi vừa mở mắt chào đời như thế nào. Bởi vì lúc đó, bạn là một “tổng thể nguyên vẹn” và từ đây bạn có thể lần theo những dấu vết quan trọng để khám phá ra những ước muốn sâu kính mà bạn hy vọng cuộc hôn nhân sẽ làm thỏa mãn. Tổng thể nguyên vẹn Không có một đứa bé sơ sinh nào có cái khả năng kỳ diệu kể lại cho chúng ta nghe về cuộc sống khi còn trong bụng mẹ, nhưng chúng ta vẫn biết được một vài điều về đời sống sinh lý của một bào thai. Chúng ta biết rằng nhu cầu sinh lý của một bào thai là được chăm sóc bằng cách trao đổi dưỡng chất giữa nó và người mẹ. Ta biết rằng bào thai không có nhu cầu ăn, thở hay tự bảo vệ khỏi những nguy hiểm, và nó được xoa dịu bởi nhịp tim của người mẹ. Từ những hiểu biết này và nhờ quan sát các đứa trẻ sơ sinh, chúng ta có thể phỏng đoán rằng bào thai sống một cuộc sống bình lặng và không phải nổ lực gì khi còn trong bụng mẹ. Nó không có ý thức về giới hạn, về bản thân, cũng chẳng có ý niệm gì về việc nó đang nằm trong một cái bọc trong cơ thể mẹ nó. Nhiều người tin rằng khi một đứa bé còn ở trong tử cung của người mẹ, nó có cảm giác về sự hợp nhất, một cảm giác thiên đường, hoàn toàn không vương vấn chút ham muốn trần thế nào. Martin Buber một giáo sư thần học người Israel đã mô tả như sau: “Khi còn là bào thai, chúng ta được nối kết với toàn thể vũ trụ”. Nhưng cuộc sống bình lặng của bào thai bị cắt ngang đột ngột khi tử cung của người mẹ co thắt để đẩy đứa bé ra. Tuy vậy, trong vài tháng đầu, được gọi là “giai đoạn ảo tưởng”, đứa bé vẫn không phân biệt được nó với thế giới xung quanh. Gần đây, tôi có thêm một cháu bé, và tôi còn nhớ thời kỳ đứa con gái của tôi đang ở giai đoạn này. Khi những nhu cầu vật chất của nó được thỏa mãn, nó rúc đầu vào vòng tay chúng tôi và nhìn ra xung quanh với vẻ hài lòng hoàn toàn. Cũng như những đứa trẻ khác, nó không hề ý thức được rằng mình là một thực thể riêng biệt và cũng không có khả năng phân biệt rõ ràng các ý nghĩ, tình cảm và hành động. Trong mắt tôi, nó đang trải qua tình trạng tinh thần sơ khai, một thế giới duy nhất, không hề có ranh giới phân chia. Mặc dù nó còn chưa trưởng thành và hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, nó vẫn là một con người hoàn chỉnh, đầy sức sống – và về một phương diện nào đó, nó còn hoàn chỉnh hơn so với toàn bộ phần còn lại của cuộc đời nó. Khi đã trưởng thành, chúng ta thường chỉ giữ được những kỷ niệm rất mơ hồ về giai đoạn phát triển này, như một giấc mơ rất khó nắm bắt. Chúng ta chỉ nhớ lại được quãng thời gian khi chúng ta đã trở nên độc lập hơn và có liên hệ nhiều hơn với thế giới xung quanh. Vì thế, cảm giác toàn vẹn ở thời kỳ này đã được mô tả trong những huyền thoại của tất cả các dân tộc, như thể cảm giác đó sẽ vay mượn được một chút hiện thực từ câu chữ. Nhưng nó chỉ là một câu chuyện vườn Địa Đàng, và nó lôi cuốn chúng ta bằng hấp lực mạnh mẽ của hoài niệm. Nhưng điều này có liên quan gì tới hôn nhân? Vì lý do nào đó, chúng ta mong đợi người bạn đời của chúng ta mang lại cho chúng ta cảm giác toàn vẹn ấy như một phép mầu. Điều này giống như thể người bạn đời của chúng ta có trong tay chiếc chìa khóa huyền diệu dẫn về vương quốc xa xưa và tất cả những gì chúng ta làm chỉ là chờ đợi người bạn đời mở cho ta cánh cửa ấy. Việc họ không thực hiện được điều này cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho cuộc hôn nhân, đối với chúng ta, không thật sự hạnh phúc. Bạn và tôi, chúng ta là một Cảm giác hợp nhất mà một đứa trẻ có được từ khi ở trong bụng mẹ và mấy tháng sau khi chào đời sẽ dần dần nhạt phai, mở đường cho ý thức rằng mình là một thực thể tách biệt với thế giới xung quanh. Cảm giác về sự hợp nhất vẫn còn đó, những một ý niệm mơ hồ về thế giới bên ngoài dần dần hiện rõ. Chính trong giai đoạn này mà đứa trẻ có một khám phá vĩ đại rằng mẹ nó, sinh vật khổng lồ và dịu dàng vẫn thường bế nó và cho nó ăn, không phải luôn luôn hiện diện cạnh nó. Đứa bé vẫn có cảm giác nối kết với mẹ nó, nhưng đã nhận thức khởi đầu về bản ngã của mình. Khi đứa bé còn ở trong giai đọan sống cộng sinh này, những nhà tâm lý học cho rằng nó khao khát được liên kết với những người nuôi dưỡng nó. Đây là bước khởi đầu dẫn đến tình cảm quyến luyến, gắn bó sau này giữa cha mẹ và con cái. Toàn bộ năng lượng sống của đứa bé hướng tới mẹ nó, trong nỗ lực tìm lại cảm giác về một sự hợp nhất trên cả hai phương diện tinh thần và vật chất mà nó đã có trước đây. Danh từ để chỉ nỗi khao khát này là “eros”, một từ Hy Lạp mà sau này chúng ta thường đánh đồng với tình cảm luyến ái nam nữ. Nhưng thực chất, từ này nguyên thủy có một nghĩa rộng hơn nhiều, đó là “sinh lực” hay “năng lượng sống”. Việc đứa bé cảm thấy vừa tách biệt lại vừa liên kết với mẹ nó có một tác động sâu sắc đến tất cả mọi mối quan hệ của nó sau này. Khi đứa trẻ lớn lên, “eros” sẽ không chỉ hướng tới mẹ nó, mà còn hướng tới cha nó, anh chị em nó và cả thế giới xung quanh nữa. Tôi còn nhớ lúc con gái Leah của tôi được ba tuổi, muốn khám phá mọi vật xung quanh. Nó tràn đầy sức sống đến nỗi nó có thể chạy nhảy suốt ngày mà không biết mệt. “Chạy với con đi ba!”. Nó quay tròn đến khi chóng mặt ngã xuống đất và cười như nắc nẻ. Nó đuổi theo chuồn chuồn, nói chuyện với lá cây, đu bám vào những cành cây thấp và chơi với mọi con chó nó gặp. Cũng như Adam ngày xưa, nó cũng thích gọi tên sự vật và rất háo hức nghe người khác nói chuyện. Khi tôi nhìn Leah, tôi thấy nguồn sinh lực phun trào trong con người nó. Tôi ghen tị với nó và khao hát có lại được những gì mình đã đánh mất. Helen, vợ tôi và tôi cố gắng giữ cho nguồn năng lượng này sống động mãi trong Leah, cho ánh long lanh còn mãi trong đôi mắt nó, và cho tiếng cười của nó mãi hồn nhiên. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn không đáp ứng được mọi nhu cầu của nó. Đôi khi, dường như chính cuộc sống đang đòi lại năng lượng của mình. Một lần, nó hoảng sợ vì một con chó to và từ đó, nó đã biết cảnh giác trước những con vật lạ. Một lần khác, nó bị ngã vào hồ nước và nó bắt đầu sợ nước. Đôi khi chính chúng tôi phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra. Ngoài Leah, chúng tôi còn có năm đứa con khác, và có những lúc chúng tôi đã bỏ quên Leah vì phải lo cho năm đứa kia. Có những ngày, khi đi làm về, chúng tôi đã quá mệt mỏi không lắng nghe những gì nó nói, quá bận trí không hiểu được nó muốn gì. Chúng tôi làm thương tổn nó mà không biết, vì chúng tôi cũng từng bị thương tổn như vậy trong thời thơ ấu; đó là di sản cảm xúc mà thế hệ này lại truyền lại cho thế hệ sau. Chúng tôi cố gắng bù đắp cho nó những gì chúng tôi không nhận được từ cha mẹ mình nhưng đồng thời có những lúc cũng gây cho nó những thương tổn tương tự ngoài ý muốn. Cho dù vì lý do gì đi nữa, khi mong muốn của Leah không được thỏa mãn, một nét ngỡ ngàng thoáng qua trên mặt nó; nó khóc; nó sợ hãi. Nó không còn nói chuyện với lá cây và cũng không còn để ý tới những con chuồn chuồn đang lượn lờ quanh bụi cây. “Eros” đã bị bào mòn và mất dần trong con người nó. Cuộc hành hương nguy hiểm Những gì xảy ra cho Leah cũng là những gì đã xảy ra cho tôi và cho cả bạn. Tất cả chúng ta đều khởi đầu cuộc sống với cảm giác toàn vẹn và đầy sức sống, háo hức tìm tới những cuộc phiêu lưu để khám phá thế giới. Nhưng tất cả chúng ta đều phải trải qua một thời thơ ấu đầy nguy hiểm. Trên thực tế, có khi chúng ta đã phải chịu thương tổn ngay từ những tháng đầu của cuộc đời. Những đòi hỏi của một đứa bé là không ngừng. Khi nó thức dậy, nó khóc đòi ăn. Rồi tã lót ướt và nó khóc để mẹ nó tới thay tã cho nó. Và rồi nó muốn mẹ nó bế nó, một khao khát thể chất cũng mãnh liệt nhu cầu được cho ăn. Thế rồi nó lại đói, và lại khóc đòi ăn. Nó bị đầy hơi, và nó khóc vì đau đớn. Nó thông báo cho mẹ nó biết những nhu cầu của nó, nó sẽ được cho ăn, thay tã, bế ẵm hoặc ru ngủ và sẽ có được sự thỏa mãn nhất thời. Nhưng nếu mẹ nó không nhận ra nó muốn gì, hoặc cố ý không thỏa mãn nhu cầu của nó vì sợ làm hư nó, đứa bé sẽ trải qua mối lo sợ đầu tiên trong đời: Nó nhận thấy thế giới không phải là một nơi an toàn. Vì nó không thể tự chăm sóc cho bản thân và cũng không ý thức được rằng nhu cầu của nó sẽ được thỏa mãn nhưng không phải ngay lập tức, nó cho rằng để thế giới bên ngoài kia đáp lại những nhu cầu của nó là một vấn đề sống còn. Mặc dù tôi và bạn đều không còn nhớ gì về những tháng đầu của cuộc đời, tâm thức cũ của chúng ta vẫn giữ lại những suy luận của tuổi thơ. Dù bây giờ chúng ta đã lớn, đã có thể giữ cho bản thân được no ấm và khô ráo, một phần sâu kín trong con người chúng ta vẫn mong đợi thế giới xung quanh phải quan tâm săn sóc mình. Khi người bạn đời của ta tỏ ra không thân thiện, hay đơn giản là không giúp đỡ ta, một hồi chuông báo động lặng lẽ vang lên sâu trong tâm trí và làm ta hoảng sợ trước cái chết, như ngày còn thơ ấu. Như bạn sẽ thấy, hệ thống báo động này đóng một vai trò chủ chốt trong hôn nhân. Khi đứa trẻ đã vượt qua thời thơ ấu, những nhu cầu mới lại xuất hiện, và mỗi nhu cầu là một khả năng tạo ra tổn thương nếu nó không được thỏa mãn. Thí dụ như khi đứa trẻ đã được mười tám tháng tuổi, nó nhận thức rõ ràng hơn về ranh giới phân chia giữa nó và những người xung quanh. Đây là giai đoạn phát triển được mô tả là giai đoạn “tự trị và độc lập”. Trong giai đoạn này, đứa trẻ có một ham muốn ngày càng mãnh liệt được khám phá thế giới, xa hơn ngoài vòng tay cha mẹ. Nếu một đứa bé chập chững biết đi có thể nói lưu loát, nó sẽ nói rằng: “Con muốn ra ngoài kia chơi một lúc. Con đã có thể rời vòng tay mẹ và đi một mình. Con cảm thấy vẫn an toàn khi rời khỏi lòng mẹ, nhưng con sẽ quay trở lại ngay để được đảm bảo là mẹ không biến mất”. Nhưng vì đứa bé chỉ biết bập bõm vài từ, nó sẽ chỉ trèo xuống khỏi lòng mẹ nó, và lẫm chẫm đi ra khỏi phòng. Nếu người mẹ hiểu con thì bà sẽ mỉm cười và nói: “Chào con yêu! Đi chơi vui nhé! Mẹ sẽ ở ngay đây bất cứ khi nào con cần mẹ”. Đó là những phản ứng lý tưởng. Và khi đứa bé quay lại vào phút sau, chợt nhận ra mình hãy còn phụ thuộc vào mẹ như thế nào, người mẹ sẽ nói: “Chào con! Con đi chơi có vui không? Hãy tới để mẹ bế con một lúc nào”. Người mẹ đã để cho đứa bé hiểu rằng nó có thể rời khỏi bà và đi thám hiểm thế giới xung quanh một mình, nhưng bà vẫn luôn ở đó khi nó cần tới. Đứa bé học được một điều rằng thế giới là một nơi an toàn và thú vị để nó khám phá. Cầu chì và Sứ cách điện Rất nhiều đứa trẻ đã phải thất vọng ngay từ giai đoạn quyết định này của quá trình phát triển. Một số đứa bé bị cha mẹ ngăn trở khi muốn được độc lập. Chính cha mẹ nó mới là người cảm thấy không an toàn khi nó ra khỏi tầm mắt họ. Vì lý do nào đó – có lẽ đã thừa hưởng từ khi còn nhỏ – cha mẹ nó muốn nó phải lệ thuộc vào mình. Khi đứa bé đi ra khỏi phòng, người mẹ cảm thấy bất an và có thể sẽ nói với nó: “Đừng đi sang phòng bên, không khéo lại ngã đau bây giờ”. Đứa bé vâng lời quay lại với mẹ nó. Nhưng dưới vẻ ngoài vâng lời ấy, nó đang cảm thấy sợ hãi. Mong muốn được tự quản của nó không được chấp nhận. Nó sợ rằng nếu nó cứ luôn luôn chạy trở lại với mẹ nó, nó sẽ bị nhận chìm trong sự hiện hữu của mẹ nó; nó có thể bị trở thành một sinh vật cộng sinh với mẹ nó mãi mãi. Nỗi sợ bị hòa tan, nhận chìm này trở thành tính cách chủ yếu của đứa bé mà nó không ý thức được. Và vài năm sau, nó sẽ trở thành kiểu người mà tôi gọi là “sứ cách điện”, một dạng người luôn đẩy những người khác ra xa một cách vô thức. Nó giữ những người khác cách xa nó vì nó cần một khoảng không rộng rãi quanh mình, nó muốn được tự do đến và đi theo ý thích, nó không muốn bị ghim chặt trong một mối quan hệ nào đó. Và tất cả những gì ẩn giấu phía dưới lớp vỏ xa cách ấy là một đứa trẻ không được thỏa mãn nhu cầu tự nhiên đòi được độc lập. Khi đứa trẻ lớn lên và lập gia đình, nó sẽ đặt nhu cầu được là một “cá thể” tách biệt lên hàng đầu. Một số đứa trẻ khác lại có những bậc cha mẹ trái ngược hoàn toàn với mẫu cha mẹ nói trên: những người luôn xua đuổi con mình ra xa khi chúng tìm đến với họ để được an ủi: “Đi chỗ khác chơi, mẹ đang bận”, “Ra chơi với đống đồ chơi của con đi”, hoặc “Đừng có bám nhằng nhẵng theo mẹ như thế!”. Những người như vậy không biết thỏa mãn nhu cầu của con mình mà chỉ biết thỏa mãn nhu cầu của chính mình. Những đứa con của họ sẽ lớn lên với cảm giác bị bỏ rơi về mặt tình cảm. Cuối cùng, chúng sẽ trở thành kiểu người mà tôi gọi là “cầu chì”, những người luôn có nhu cầu vô tận được gần gũi người khác. Những “cầu chì” luôn muốn “nối kết mọi vật lại với nhau”. Nếu người khác lỡ hẹn với họ, họ sẽ có cảm giác bị bỏ rơi. Ý nghĩ ly dị khiến họ kinh hoàng. Họ khao khát tình thương và sự đảm bảo, và họ thường có nhu cầu luôn luôn giữ mối liên hệ thường trực với bạn bè. Và phía dưới thái độ phụ thuộc này là một đứa trẻ muốn được cha mẹ ôm ấp nhiều hơn nữa. Vì những lý do tôi sẽ nói trong những chương sau, những người dạng “cầu chì” và dạng “sứ cách điện” lại có khuynh hướng lấy nhau, và vì thế mở đầu cho một trò chơi đuổi bắt giằng co mà cả hai bên không ai hài lòng cả. Trong quá trình đi qua tuổi thơ, bạn đã trải qua nhiều giai đoạn này kế tiếp nhau, và thái độ cha mẹ bạn đáp ứng lại những nhu cầu luôn thay đổi của bạn sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tình cảm sau này của bạn. Thông thường, họ đáp ứng những nhu cầu của bạn trong giai đoạn này tốt hơn những giai đoạn khác. Họ có thể chăm sóc bạn một cách tuyệt vời khi bạn còn là một đứa bé, nhưng lại lúng túng khi phải đối phó với phản ứng bất bình đầu tiên trong đời bạn. Hoặc họ có thể thấy vui thích vì tính hiếu kỳ tự nhiên của bạn khi bạn chập chững biết đi nhưng lại hoảng sợ vì tình trạng bị cuốn hút đối với cha hoặc mẹ khi bạn năm nay sáu tuổi. Cha mẹ bạn có thể đáp ứng hầu hết những nhu cầu của bạn, hay chỉ đáp ứng một vài điều, nhưng, cũng như những đứa trẻ khác, sớm muộn gì bạn cũng phải trải qua những đau khổ khi nhu cầu của bạn không được đáp ứng. Những nhu cầu này sẽ theo đuổi bạn mãi về sau và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc hôn nhân của bạn. Bản ngã bị mất Tới đây, chúng ta đã tìm hiểu một đặc điểm quan trọng của cái thế giới bí ẩn mà tôi gọi là “hôn nhân vô thức”, đó là nơi lưu trữ những nhu cầu không được thỏa mãn của tuổi thơ, những đòi hỏi được chăm sóc bảo vệ và được trưởng thành, nhưng đã không được đáp ứng. Bây giờ, chúng ta sẽ nghiên cứu một loại thương tổn tuổi thơ khác, loại thương tổn tâm lý còn khó nhận thấy hơn với tên gọi “sự xã hội hóa”. Đó là tất cả những thông điệp mà ta nhận được từ cha mẹ và từ xã hội, cho ta biết ta là ai và ta phải xử sự như thế nào. Những thương tổn này cũng đóng một vài trò quan trọng trong cuộc hôn nhân sau này. Lúc đầu, có thể bạn thấy lạ khi tôi đặt sự xã hội hóa ngang với những thương tổn tâm lý. Để giải thích tại sao, tôi muốn kể lại câu chuyện của một trong những thân chủ của tôi. Sarah là một phụ nữ hấp dẫn và duyên dáng ở độ tuổi trên ba mươi. Mối bận tâm chính của cô là sự bất lực không thể suy nghĩ một cách rõ ràng và hợp lý. Cô nhắc đi nhắc lại với tôi: “Tôi không suy nghĩ được. Tôi không sao suy nghĩ được”. Cô là một quản lý cấp thấp của một công ty máy tính, nơi cô đã làm việc cần cù suốt mười lăm năm qua. Nếu có có khả năng giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, có lẽ cô đã tiến xa. Nhưng mỗi khi đối diện với một khó khăn nào đó, cô lại hoảng sợ và chạy tới cầu cứu cấp trên. Họ cho cô những lời khuyên khôn ngoan và điều đó càng củng cố thêm niềm tin của Sarah rằng cô chẳng có chút khả năng tự quyết định nào. Tôi không mất nhiều công sức khám phá ra lý do của tình trạng này. Ngay từ khi còn thơ dại, mẹ Sarah đã tuyên bố thẳng thừng với cô là cô chẳng thông minh gì cho lắm. Mẹ cô thường nói: “Con chẳng được thông minh sáng láng như anh con đâu” và “Con nên lấy một anh chàng thông minh, vì con phải nhờ vả anh ta rất nhiều. Nhưng mẹ không biết liệu một đứa thông minh có chịu lấy con không”. Những nhận xét này chẳng phải do mẹ cô nhận thấy cô thực sự không thông minh mà chỉ thể hiện một quan điểm thông thường của thập niên 50: rằng các cô gái thì phải dịu dàng, xinh đẹp, biết phục tùng và không được phép thông minh đặc biệt. Những cô gái cùng học với Sarah mơ ước trở thành những người vợ, những y tá, giáo viên, chứ không phải là những bác sĩ, phi hành gia hay nhà doanh nghiệp. Một tác động khác ảnh hưởng đến Sarah là việc chính mẹ cô cũng thiếu tự tin vào khả năng phán đoán hợp lý của mình. Bà trông nom nhà cửa và chăm sóc con cái, nhưng luôn dành cho chồng quyền quyết định trong mọi vấn đề quan trọng. Lối xử sự thụ động và lệ thuộc này đã tạo nên “nữ tính” của Sarah. Khi Sarah mười lăm tuổi, cô may mắn gặp được một giáo viên đã nhận ra khả năng tự nhiên của cô và động viên cô chăm chỉ học tập. Lần đầu tiên trong đời, Sarah trở về nhà với một bài kiểm tra có số điểm gần như tuyệt đối. Và cô đã không bao giờ quên được thái độ của mẹ mình khi đón nhận tin này: “Làm sao lại như vậy được? Mẹ đánh cuộc là con sẽ chẳng thể đạt được điều này lần nữa”. Và quả thật Sarah đã không làm được, bởi vì rốt cuộc cô đã đầu hàng và để cho khả năng suy nghĩ bình tĩnh và hợp lý ngủ quên trong đầu. Nhưng bi kịch không chỉ là Sarah mất khả năng suy nghĩ hợp lý mà còn là cô có một niềm tin vô thức rằng suy nghĩ là một việc nguy hiểm. Tại sao lại như vậy? Vì mẹ Sarah đã phủ nhận hoàn toàn khả năng suy nghĩ của cô nên cô tin rằng nếu cô cứ tiếp tục suy nghĩ hợp lý, cô sẽ thách thức mẹ mình, sẽ chối bỏ những nhận xét của mẹ về mình. Cô không thể liều lĩnh làm cho mẹ giận ghét được, bởi vì cô vẫn còn lệ thuộc vào bà để sống. Do đó, đối với Sarah, biết được rằng mình cũng có trí thông minh là một điều nguy hiểm. Nhưng cô vẫn không thể chối bỏ hoàn toàn trí thông minh của mình. Cô ghen tị với những người có thể suy nghĩ, và khi kết hôn, cô đã chọn một người thông minh đặc biệt. Đó là một việc làm vô thức để bù đắp cho những thương tổn tâm lý của tuổi thơ. Cũng như Sarah, chúng ta đều có những phần trong con người mà chúng ta giấu kín trong vô thức. Tôi gọi những yếu tố lẩn khuất này là “bản ngã bị mất”. Bất cứ khi nào ta than phiền rằng “không thể suy nghĩ” hay ta “không cảm thấy gì” hay “không thể khiêu vũ” hoặc “không có khả năng sáng tạo”, chúng ta đang xác định những khả năng tự nhiên, những ý nghĩ hoặc những cảm xúc mà ta đã bị tước đoạt khỏi nhận thức. Tất cả những khả năng, ý nghĩ hay cảm xúc đó không bị biến mất; ta vẫn còn sở hữu chúng. Chúng chỉ bị chìm xuống phần vô thức và đối với ta, chúng dường như không còn tồn tại. Như trong trường hợp của Sarah, phần bản ngã bị mất của chúng ta đã xảy ra từ khi chúng ta còn nhỏ – thông thường đó là do những người nuôi dưỡng ta đã cố gắng có chủ ý dạy cho ta cách hòa hợp với những người khác. Mỗi xã hội đều có những luật lệ, xác tín và những thang giá trị mà đứa trẻ cần phải nắm được, và cha mẹ chính là đường dẫn truyền những quy tắc luật lệ đó tới đứa trẻ. Quá trình truyền thục này xảy ra trong mọi gia đình, mọi xã hội. Dường như, toàn thể xã hội cho rằng nếu một cá nhân nào đó không bị những quy tắc luật lệ trói buộc thì cá nhân đó sẽ trở nên nguy hiểm cho cộng đồng. Nhà phân tâm học Freud đã viết, “Mong muốn có một cái tôi tự do và đầy quyền lực đối với chúng ta là điều dễ hiểu, nhưng trong thời đại mà ta sống, đó lại là cảm thức sâu kín nhất đối kháng với văn minh”. Nhưng cho dù cha mẹ chúng ta luôn muốn những điều tốt nhất cho chúng ta, những thông điệp truyền đến chúng ta đều là những thông điệp làm giảm nhiệt tình. Có những ý nghĩ và cảm xúc mà ta không được phép có, những hành vi cư xử tự nhiên mà chúng ta phải từ bỏ, những năng khiếu mà ta phải dập tắt. Với hàng ngàn phương cách, cả ám chỉ lẫn công khai, cha mẹ chúng ta khiến cho chúng ta hiểu rằng chỉ một phần nào đó trong con người chúng ta là được chấp nhận. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta được bảo cho biết rằng chúng ta không thể sống với toàn bộ bản ngã mà tồn tại được trong xã hội. Những cấm kỵ thân xác Một trong những vùng chúng ta bị cấm đoán nhiều nhất là thân thể của chúng ta. Ngay từ khi còn rất nhỏ, chúng ta đã được dạy phải che phủ cơ thể và không được nói tới hay chạm vào bộ phận sinh dục. Những cấm đoán này phổ biến đến nỗi chúng ta chỉ nhận ra chúng khi có ai đó vi phạm. Một người bạn của tôi đã kể cho tôi nghe một câu chuyện cho thấy việc cha mẹ không truyền đạt lại cho con cái những cấm kỵ bất thành văn này sẽ gây sốc như thế nào. Người bạn gái của bạn tôi tên là Chris cùng đứa con trai mười một tháng tuổi, một hôm ghé lại thăm cô bạn tôi. Cô bạn tôi, Chris và đứa bé ngồi ở sân thượng phía sau nhà và uống trà. Vì nắng tháng Năm rất ấm, Chris cởi bỏ quần áo của đứa bé để cho nó phơi nắng. Hai người phụ nữ ngồi tán gẫu với nhau trong khi đứa bé bò quanh sân, sung sướng chọc ngón tay vào đất xốp trong chậu cây. Khoảng nửa tiếng sau, đứa bé thấy đói bụng, và Chris bế nó lên để cho bú. Khi đứa bé bú, dương vật của nó có tình trạng cương cứng nhẹ. Rõ ràng, bú mẹ làm nó cảm thấy vui sướng khắp toàn thân. Theo bản năng, đứa bé đưa tay xuống sờ vào dương vật. Không như những bà mẹ khác, Chris không kéo tay con ra. Con cô được phép cảm nhận ánh nắng mặt trời ấm áp bằng toàn bộ bề mặt da của cơ thể, được phép bú sữa từ bầu vú mẹ, được phép có sự cương cứng dương vật và cộng thêm vào tất cả những sự thích thú đó, nó được phép tuân theo bản năng và chạm vào dương vật. Đối với một đứa bé thì mong muốn được hưởng những cảm giác thú vị này là điều bình thường và tự nhiên. Nhưng chúng ta không mấy khi để điều đó xảy ra. Mẹ của đứa bé đó, khi cho phép con mình hưởng những cảm giác thú vị ấy, đã phá vỡ khá nhiều quy tắc xã hội. Quy tắc đầu tiên mà cô đã phá vỡ là nếu muốn cho con bú, người phụ nữ phải làm việc đó ở nơi kín đáo để người khác không nhìn thấy được bộ ngực trần của người mẹ. Điều thứ hai, trẻ con lúc nào cũng phải mặc quần áo, ít ra thì cũng đựơc quấn tã, cho dù chúng đang chơi ngoài trời dưới ánh nắng ấp áp. Điều thứ ba, những cậu bé và cô bé không được phép có bất kỳ hình thức nào của khoái lạc nhục dục, nhưng nếu vì lý do nào đó chúng có tình trạng đó, thì chúng cũng không được phép hưởng thụ. Bằng việc cho phép con cảm nhận tất cả những thích thú đó, Chris đã vi phạm vào ba điều cấm kỵ của xã hội. Ở đây, tôi không có ý định đả kích những cấm đoán thân xác của xã hội. Việc đó phải cả một cuốn sách mới nói hết. Nhưng để hiểu được những ước vọng sâu kính ảnh hưởng tới cuộc hôn nhân của bạn, bạn cần phải biết điều này: Khi còn nhỏ, có rất nhiều lần bạn đã bị ngăn cấm khi muốn hưởng thụ điều gì đó. Cũng như phần lớn những đứa trẻ khác, bạn có thể đã bị những tác động khiến cho bạn cảm thấy ngượng ngùng hoặc có tội khi bạn có một thân thể có khả năng cảm nhận những khoái lạc tinh tế. Để trở thành một cô bé hoặc cậu bé “ngoan”, bạn phải phủ nhận hoặc chối bỏ phần con người này của bạn. Những cảm xúc bị cấm đoán Cảm xúc của bạn cũng là một trong những nguyên liệu thô cần xử lý qua quá trình xã hội hóa. Đương nhiên, một số cảm xúc khác không chỉ được phép có mà còn được khuyến khích. Cha mẹ bạn đã cố gắng biết bao để bạn nở nụ cười khi bạn còn là một đứa trẻ! Và một vài tuần sau, khi bạn đã biết cười to, cả nhà thật là vui. Nhưng giận dỗi lại là chuyện khác. Những cơn phẫn nộ đều gây ồn ào khó chịu và các bậc cha mẹ đều cố hết sức dập tắt chúng. Họ làm điều này bằng nhiều cách. Một số người trêu chọc con họ: “Con trông mới đáng yêu làm sao lúc con nổi khùng lên như thế này. Mẹ thấy con sắp cười rồi kìa. Cười đi, cười lên đi nào”. Những người khác lại la mắng con: “Con có im ngay đi không! Đi vào phòng ngay. Mẹ không muốn nói lại chuyện này nữa đâu”. Còn những người mềm yếu lại vội nhượng bộ: “Thôi được rồi. Con cứ làm theo ý con đi. Nhưng lần sau, đừng có làm những chuyện như vậy nữa”. Hiếm có bậc cha mẹ nào cho phép con mình giận dữ. Hãy thử tưởng tượng xem một cô bé đang giận dỗi sẽ trả lời như thế nào nếu cha cô bé nói như sau: “Bố biết là con rất giận. Con không muốn làm những điều bố yêu cầu. Nhưng bố là bố của con, do đó con phải nghe lời bố”. Biết rằng cha mẹ thừa nhận cơn giận dữ của mình, đứa trẻ sẽ vững tin hơn vào bản ngã của nó. Nó sẽ tự nhủ: “Ta tồn tại. Cha mẹ ta đã biết đến cảm xúc của ta. Có thể không phải lúc nào ta cũng đạt được ý muốn nhưng ít ra ta cũng được cha mẹ lắng nghe và tôn trọng”. Nó được phép giận dữ và được phép giữ lại một phần quan trọng con người nó. Nhưng đó không phải là trường hợp của phần lớn những đứa trẻ khác. Có lần tôi đang ở trong một cửa hàng bách hóa và đã tình cờ chứng kiến cảnh cơn giận của một đứa trẻ bị dập tắt nhanh chóng đến thế nào – đặc biệt là khi cơn giận đó lại hướng tới người sinh ra nó. Một phụ nữ đang mua sắm quần áo trong khi đứa con trai khoảng bốn tuổi của cô ta lẽo đẽo theo sau. Cô ta đang mải mê lựa chọn quần áo, không để ý gì đến đứa bé, còn cậu bé thì cứ tiếp tục độc thoại để cố lôi kéo sự chú ý của mẹ. Nó nói: “Con không thể đọc được những chữ này, mẹ ơi”, đồng thời chỉ tay vào tấm biển đề “M.A.D.E”. Mẹ nó không có phản ứng gì. “Mẹ có còn thử thêm nhiều quần áo nữa không mẹ?”. Vẫn không có câu trả lời. Trong suốt thời gian tôi quan sát họ, người phụ nữ chỉ chú ý đến con mình trong một vài giây và khi đó, cô ta tỏ vẻ khó chịu và bực bội. Cuối cùng tôi nghe thấy đứa bé nói to và rõ ràng với người bán hàng: “Mẹ cháu bị tai nạn ô tô. Bà ấy chết rồi”. Câu tuyên bố này lập tức thu hút được chú ý của mẹ nó. Cô ta túm lấy hai vai thằng bé lắc mạnh, tát nó một cái và giận dữ giúi nó ngồi xuống một chiếc ghế. “Con nói cái quỷ gì thế? Mẹ không bị tai nạn. Bỏ cái kiểu ăn nói láo lếu ấy đi. Ra đằng kia ngồi yên ở đấy và câm miệng lại. Mẹ không muốn nghe thấy con nói gì nữa”. Mặt thằng bé trắng bệch ra. Nó ngoan ngoãn ngồi xuống không nói thêm câu nào cho tới khi mẹ nó mua sắm xong. Trong đầu thằng bé, cơn giận dữ của nó với mẹ nó đã chuyển thành một câu chuyện tưởng tượng nhầm báo thù mẹ nó. Trong câu chuyện đó, mẹ nó đã bị chết trong một tai nạn xe cộ. Nó không thể làm gì mẹ nó được. Mới bốn tuổi, nó đã được dạy phải chối bỏ mọi ý nghĩ và tình cảm giận dữ. Thay vào đó, nó đã tưởng tượng rằng mẹ nó đã va phải một chiếc xe hơi và chết. Khi bạn còn trẻ, chắc cũng có nhiều lần bạn giận dữ với cha mẹ bạn. Đó là thứ cảm xúc ít được chấp nhận nhất. Sự giận dữ, khoái lạc nhục dục và rất nhiều những ý nghĩ hay tình cảm mang tính “phản xã hội” khác bị đẩy xuống dưới sâu trong con người bạn và bạn không bao giờ được để lộ ra. Một số bậc cha mẹ đã đầy việc phủ nhận bản ngã của con mình đến cực điểm. Họ không chỉ phủ nhận tình cảm và cách cư xử của con, mà còn phủ nhận chính sự tồn tại của đứa trẻ. “Mày không là cái thá gì trong gia đình này. Mọi nhu cầu, tình cảm hay ước muốn của mày đối với chúng tao đều chẳng có giá trị gì”. Tôi đã từng chữa trị cho một phụ nữ trẻ tên là Carla. Cha mẹ cô đã phủ nhận sự tồn tại của cô đến mức họ làm cô có cảm giác mình vô hình. Mẹ cô là một người nội trợ không chê vào đâu được và bà luôn nhắc nhở con gái phải “dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ sau khi đã dùng xong để không ai có thể nói là con đang ở đây”. Carla chỉ được phép bước lên những tấm plastic đặt trên thảm. Trong nhà có một khoảng sân được trang trí rất đẹp nhưng không có chỗ để chạy xe, hay tập thể dục. Carla hãy còn nhớ như in, có làn cô đã ngồi trong bếp suốt cả ngày, cảm thấy chán nản và chỉ muốn chết. Lúc đó, cô khoảng mười tuổi. Cha mẹ cô đi lại trong bếp nhiều lần mà thậm chí không hề biết đến sự có mặt của Carla. Từ đó, Carla bắt đầu có cảm giác mình không có cả một cơ thể hữu hình. Không có gì đáng ngạc nhiên là khi cô mười ba tuổi, cô trở nên biếng ăn, nói một cách khác, cô có ý tuyệt thực để không phải tồn tại nữa. Những công cụ đàn áp Trong cố gắng muốn đè nén những ý nghĩ tình cảm hay hành vi nào đó, cha mẹ thường sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Có khi họ đưa ra những mệnh lệnh rõ ràng: “Con không được nghĩ như thế”. “Con trai lớn rồi ai lại khóc”. “Bố không muốn nghe con nói như vậy nữa đâu!”, “Trong nhà nhày không ai được phép cư xử như vậy!”. Hoặc giống như bà mẹ mà tôi thấy trong cửa hàng, họ rầy la, dọa dẫm hoặc đánh đứa trẻ. Thông thường thì họ uốn nắn đứa trẻ bằng nhiều cách khác tinh vi hơn, đơn giản là họ cố ý không nhận thấy hoặc không tán thành những hành động mà họ không thích. Ví dụ như, nếu cha mẹ đứa trẻ không coi trọng lắm các giá trị tinh thần như kiến thức hoặc sự phát triển trí tuệ chẳng hạn, thì họ sẽ chỉ đưa cho đứa trẻ những thứ đồ chơi hay dụng cụ thể thao thay vì sách vở hay đồ dùng học tập. Nếu họ tin rằng con cái phải nhu mì nữ tính, còn con trai thì phải mạnh mẽ và quyết đoán, họ sẽ chỉ tỏ ra tán thành con khi nó có những hành động đúng theo ý họ muốn. Ví dụ, nếu đứa con trai nhỏ của họ mang một món đồ chơi nặng vào phòng, họ sẽ nói: “Con trai tôi mới khỏe làm sao!”. Nhưng nếu đó lại là đứa con gái mang món đồ chơi ấy thì họ lại nhắc nhở: “Coi chừng con làm rách cái áo đẹp bây giờ”. Tuy nhiên, cha mẹ ảnh hưởng tới con cái nhiều nhất bằng cách nêu gương cho đứa trẻ. Trẻ con, theo bản năng, luôn quan sát cách cha mẹ chúng hành xử. Cha mẹ chọn lựa điều gì, nghỉ ngơi và giải trí ra sao, phát huy những khả năng nào và tuân theo những quy tắc nào, tất cả những điều ấy, trẻ con đều để ý và đều có những ảnh hưởng sâu sắc đối với chúng. Chúng sẽ tâm niệm rằng: “Đây là cung cách mà ta phải theo”. Cho dù trẻ con chấp nhận hay phản đối lối sống của cha mẹ chúng, những ảnh hưởng của lối sống ấy vẫn tác động đến quá trình chọn lựa bạn đời của chúng sau này và như chúng ta sẽ thấy, đó cũng là nguyên nhân sâu kính gây ra những điều rắc rối trong hôn nhân. Phản ứng của một đứa trẻ trước những quy tắc xã hội thường là theo một số giai đoạn có thể đoán trước được. Thông thường, những phản ứng đầu tiên của đứa trẻ sẽ là che giấu cha mẹ những hành vi bị cấm đoán. Nếu nó có giận dữ cha mẹ, nó cũng không để lộ điều đó ra. Nó khám phá thân thể mình trong phòng riêng, nơi nó có thể làm tất cả những gì nó muốn. Nó trêu chọc em nó khi cha mẹ vắng nhà. Cuối cùng, đứa trẻ kết luận rằng có một số ý nghĩ và tình cảm không thể chấp nhận được, do đó cần phải loại bỏ. Vì thế, nó sẽ tự tạo nên một vị quan tòa tưởng tượng trong đầu để xét đoán những hành vi và ý nghĩ của nó. Những nhà tâm lý học gọi vị quan toàn tưởng tượng này là “siêu ngã”. Bây giờ, mỗi khi đứa trẻ có một ý nghĩ sai trái hay có những hành động “không thể chấp nhận được”, nó sẽ cảm thấy vô cùng lo lắng vì nó tự cảm thấy có lỗi. Điều này đối với nó khó chịu đến nỗi nó quyết định để những phần bản ngã bị cấm đoán này vào góc sâu kính nhất trong con người nó và lãng quên chúng đi – theo như thuật ngữ của Freud, nó đã dồn nén chúng. Cái giá phải trả cho sự vâng lời này là đứa trẻ đã bị mất tính toàn vẹn. Bản ngã giả tạo Để lấp vào chỗ trống do những phần bản ngã bị mất, đứa trẻ tạo ra một “bản ngã giả”, một hệ thống những tính cách phục vụ cho hai mục đích: ngụy trang phần bản ngã bị mất và tránh cho nó khỏi bị thương tổn thêm nữa. Ví dụ như một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi người mẹ lạnh nhạt và bị ức chế về mặt tình dục, khi lớn lên, nó sẽ trở thành một “anh chàng lãnh đạm”. Anh ta tự nhủ: “Mình chẳng quan tâm đến chuyện mẹ mình sống có tình cảm không. Mình chẳng thiết những thái độ sướt mướt ủy mị vớ vẩn. Mình có thể sống mà chẳng cần đến ai. Hơn nữa, chuyện tình dục thật dơ bẩn!”. Cuối cùng, anh ta áp dụng kiểu suy nghĩ này cho mọi trường hợp. Bất kỳ ai muốn lại gần anh ta, anh ta đều dựng lên một bức tường ngăn cách. Sau này, khi đã gạt bỏ được ác ảm đối với tình yêu và chọn được cho mình một cô bạn, anh ta có khuynh hướng kết tội cô vì cô luôn mong muốn có sự thân mật giữa hai người: “Tại sao cô lại nhiễu sự đến thế, lúc nào cũng muốn cận kề nhau, gần gũi nhau. Điều này thật không bình thường!” Nhưng đứa trẻ ấy cũng có thể phát triển tính cách theo chiều hướng khác. Nó phóng đại những nỗi khổ nó phải chịu, hy vọng rằng sẽ có ai đó đến với nó để cứu giúp nó: “Tôi thật đáng thương! Tôi khổ sở quá! Tôi bị tổn thương sâu sắc. Tôi cần có ai đó quan tâm chăm sóc tôi”. Đứa khác lại có thể trở thành một kẻ tích trữ tình thương, cố gắng cóp nhặt từng chút tình cảm của người như thể bao nhiêu tình cảm trên thế gian dành cho nó cũng vẫn không đủ. Nhưng dù bản ngã giả tạo có như thế nào đi nữa, mục đích của nó vẫn là giảm thiểu sự mất mát của phần bản ngã bị dồn nén đã làm mất đi tính toàn vẹn nguyên thủy. Bản ngã bị chối bỏ Tuy nhiên, tới một lúc nào đó, những phương cách tự vệ khéo léo này sẽ trở thành lý do để đứa trẻ bị buộc tội là có những tính xấu. Những người khác lên án nó vì no lạnh nhạt quá hoặc ủy mị quá hoặc ích kỷ hoặc keo kiệt. Những người đó không thấy được rằng nó đang cố tự bảo vệ để tránh bị tổn thương và họ cũng không nhận ra sự khôn ngoan trong phản ứng tự vệ của nó: Tất cả những gì họ thấy chỉ là khía cạnh dễ bị kích động trong tính cách đứa trẻ. Người ta cho rằng nó là đứa trẻ không tốt, không ngoan. Bây giờ đứa trẻ bị kẹt giữa hai làn đạn. Nó cần những tính cách mới này vì chúng phục vụ cho những mục đích có ích, nhưng nó cũng không muốn bị xã hội tẩy chay. Giải pháp duy nhất là phủ nhận hoặc lật ngược lại những lời buộc tội: “Tôi không phải là người lạnh lùng xa cách”. Nó tự bào chữa cho mình: “Thực ra, tôi là người mạnh mẽ và độc lập”. Hoặc: “Tôi không phải là người mếm yếu và dựa dẫm, mà là người nhạy cảm”. Hoặc “Tôi không phải là kẻ tham lam và ích kỷ, mà là người tiết kiệm và thận trọng”. Nói cách khác nữa là: “Tôi không phải người như vậy. Các người chỉ biết nhìn tôi với con mắt thành kiến và ác cảm”. Trên phương diện nào đó thì nó đúng. Những tính cách đó không có sẵn trong con người nó. Chúng đã hình thành từ những đau khổ nó đã trải qua và trở thành một phần nhân cách, trở thành vũ khí giúp nó tồn tài trong thế giới phức tạp và đầy thù địch này. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nó không có những tính cách đó. Có rất nhiều người có thể làm chứng rằng, nó quả là có những tính xấu đó. Nhưng để bảo vệ hình ảnh tốt đẹp của bản thân và tạo cơ hội sống còn, nó buộc phải phủ nhận chúng. Những tính xấu này trở thành phần “bản ngã bị chối bỏ”, những tính cách thuộc về bản ngã giả tạo mà nó không muốn biết tới. Ta hãy tạm dừng tại đây và sắp xếp lại sự hình thành của những phần bản ngã khác nhau. Hiện nay, chúng ta đã phân chia bản ngã của con người thành ba thực thể: 1. “Bản ngã bị mất”, phần bản ngã mà bạn phải trấn áp theo yêu cầu của xã hội. 2. “Bản ngã giả tạo”, vẻ bề ngoài bạn dựng lên để lấp chỗ trống tạo ra bởi bản ngã bị mất và bởi cung cách giáo dục sai lầm. 3. “Bản ngã bị chối bỏ”, những phần tiêu cực của bản ngã giả tạo không được xã hội chấp nhận và vì vậy bị chối bỏ. Phần duy nhất của bức tranh cắt dán này mà bạn ý thức được, hoàn toàn là những phần vẫn còn nguyên vẹn thuộc về bản chất nguyên thủy của bạn, và một vài khía cạnh thuộc về bản ngã giả tạo. Tất cả những gì tạo nên bức tranh cắt dán này cũng là những gì tạo nên “nhân cách” của bạn, hình ảnh mà bạn sẽ dùng để mô tả chính mình. Phần bản ngã bị mất hầu như hoàn toàn nằm ngoài khả năng ý thức của bạn, bạn đã cắt đứt mọi mối dây liên hệ với nó. Còn phần bản ngã bị chối bỏ, những mặt tiêu cực của bản ngã giả tạo thì lượn lờ ngay dưới bề mặt của ý thức và luôn nơm nớp lo sợ bị lôi ra ánh sáng. Để che giấu nó, bạn tìm mọi cách phủ nhận nó hoặc chụp nó lên đầu người khác. “Tôi không ích kỷ”, bạn sẽ giận dữ nói như vậy hoặc la lên: “Anh nói gì? Tôi lười nhác ấy à? Chính anh mới là kẻ lười nhác”. Chuyện ngụ ngôn của Plato Có một chuyện ngụ ngôn trong tác phẩm Bữa tiệc đêm của Plato đã đưa ra một lời giải thích hoang đường cho tình trạng phân ly của loài người. Câu chuyện kể rằng, từ xa xưa, con người là những tạo vật ghép có cả hai giới tính nam và nữ. Mỗi người đều có một đầu với hai khuôn mặt, bốn chân, bốn tay và hai bộ phận sinh dục, nam và nữ. Vì được hợp nhất toàn vẹn nên tổ tiên của loài người có một sức mạnh lớn lao. Trên thực tế, những sinh vật lưỡng tính này hùng mạnh đến độ họ dám cả gan tấn công các thần linh. Dĩ nhiên là các thần chẳng để yên, nhưng họ không biết phải trừng phạt con người như thế nào. Họ nói với nhau: “Nếu ta giết chúng, sẽ chẳng còn ai tôn thờ và tế lễ ta nữa”. Thần Zeus đã cân nhắc rất lâu trước khi đưa ra một giải pháp: “Con người sẽ vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng chúng sẽ bị tách đôi. Ta sẽ lấy đi bớt một phần sức mạnh của chúng và ta sẽ không phải lo sợ vì chúng nữa”. Sau đó, thần Zeus tách mỗi con người làm đôi và sai thần Aplollo làm kín miệng vết thương. Hai nữa người được bỏ ở hai nơi cách xa nhau và phải sử dụng phần đời còn lại để tìm kiếm điên cuồng nửa kia của mình, tìm kiếm sự hợp nhất với phần nửa sẽ đem tới cho mình sự toàn vẹn. Cũng như tạo vật hoang đường của Plato, con người chúng ta phải trải qua cuộc sống cũng bị cắt thành hai nửa. Chúng ta tìm mọi cách làm lành vết thương rướm máu, nhưng mặc cho những cố gắng vô vọng ấy, một nỗi cô đơn vẫn tràn ngập trong ta khiến ta phải lấp đầy bằng thức ăn, bằng ma túy và bằng hoạt động. Nhưng những gì chúng ta thật sự khao khát là trạng thái toàn vẹn nguyên thủy, là tất cả những cung bậc tình cảm, là tính hiếu kỳ bẩm sinh, là niềm vui thuần khiết mà ta được hưởng khi còn rất nhỏ. Nó trở thành một niềm khao khát tinh thần, và như trong truyện thần thọai của Plato, chúng ta có một niềm tin sâu thẳm rằng nếu tìm được đúng người – nửa kia còn thiếu – chúng ta sẽ đạt được sự đầy đủ toàn vẹn. Con người đặc biệt này không phải bất kỳ ai, không phải là người đàn ông hay đàn bà đầu tiên chúng ta thấy có một nụ cười quyến rũ hay có tính tình dễ chịu. Đó phải là con người làm cất lên trong ta một tiếng nói bí mật, bảo ta rằng: “Đây chính là người ta đã tìm kiếm bấy lâu! Đây chính là người sẽ hàn gắn vết thương từ trong quá khứ!”. Và vì những lý do tôi sẽ đưa ra trong chương kế tiếp, người đó luôn là người có cùng tính cách cả tốt lẫn xấu giống tính cách của cha mẹ chúng ta! Chương 3: HÌNH MẪU CỦA BẠN Trong văn học, cũng như trong tình yêu, sự lựa chọn của người khác thường làm ta phải ngạc nhiên. ANDRÉ MAUROIS Nhiều người không dễ dàng chấp nhận rằng bao lâu nay họ đã tìm kiếm người trong mộng có những đặc điểm, tính cách tương tự như người đã nuôi dưỡng mình. Trên phương diện ý thức, họ tìm kiếm người có những tính cách tích cực, những người tốt bụng, tình cảm, ưa nhìn, thông minh và sáng tạo. Trên thực tế, nếu họ có một tuổi thơ bất hạnh, họ sẽ tìm những người có tính cách hoàn toàn trái ngược với tính cách của người đã nuôi dưỡng mình. Họ tự nhủ: “Ta sẽ chẳng bao giờ lấy một gã bợm rượu như cha ta”, hoặc: “Đừng hòng ta lấy một người lắm điều như mẹ ta”. Nhưng dù ý thức của họ có vạch sẵn dự định, kế hoạch gì đi nữa, họ vẫn bị cuốn hút bởi những người có đủ những đặc điểm tính cách tích cực và tiêu cực ấy, và thường thì tích cách tiêu cực lại đóng vai trò quyết định. Tôi đã rút ra được kết luận bất ngờ này sau khi lắng nghe hàng trăm cặp vợ chồng nói về người bạn đời của họ. Trong quá trình điều trị, gần như mọi người đều có lúc nào đó chợt giận dữ quay sang nói với vợ hoặc chồng mình: “Cô đối xử với tôi y như mẹ tôi ngày xưa!” hoặc “Anh luôn làm tôi thấy thất vọng chẳng khác gì cha dượng tôi cả!”. Ý kiến này càng trở nên có giá trị khi tôi yêu cầu các thân chủ của tôi so sánh những đặc điểm tính cách của người nuôi dưỡng họ. Phần lớn các trường hợp, tính cách của người bạn đời và của người nuôi dưỡng rất giống nhau. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, nét tương đồng dễ thấy nhất lại là những tính cách tiêu cực (Tất cả bài tập đều có ở Phần Ba của cuốn sách này. Theo tôi, bạn nên đọc hết cuốn sách trước khi làm bài tập). Tại sao những đặc điểm tiêu cực lại có sức quyến rũ đến vậy? Nếu người ta chọn bạn đời trên cơ sở lôgic, người ta hẳn phải tìm kiếm những người có những phẩm chất bù đắp lại cho những thiếu sót của cha mẹ mình hơn là bản sao những tính xấu của họ. Nếu cha mẹ bạn làm bạn tổn thương vì tỏ ra không đáng tin cậy chẳng hạn, thì đúng lý ra bạn phải kết hôn với một người có thể che chở bạn, một người có thể giúp bạn khắc phục được nỗi sợ bị bỏ rơi. Ngược lại, nếu cha mẹ bạn can thiệp quá nhiều vào cuộc sống riêng tư của bạn thì bạn sẽ có khuynh hướng kết hôn với người cho phép bạn có nhiều tự do tinh thần để có thể vượt qua nỗi sợ bị hòa nhập. Nhưng phần tâm thức chỉ đạo việc tìm kiếm bạn đời không phải là tâm thức mới, hợp lý mà là tâm thức cũ hay lầm lẫn và không hợp thời. Và điều mà tâm thức cũ của bạn đang cố gắng thực hịên là tái tạo lại môi trường sống của bạn trong suốt quá trình phát triển để sửa đổi sai sót. Bạn đã được nuôi dưỡng tới khi có thể sống độc lập nhưng vẫn còn những khiếm khuyết về mặt tinh thần, do đó tâm thức cũ của bạn cố gắng quay lại những trường hợp gây tổn thương tinh thần cho bạn để bạn có thể hoàn tất công việc còn dở dang. Đi tìm bản ngã đã mất Còn về kẻ hướng đạo vô thức cũng như nhu cầu khôi phục lại phần bản ngã bị mất, những ý nghĩ, tình cảm và hành vi mà bạn đã phải dồn nén để thích nghi với gia đình và xã hội thì sao? Mẫu người nào sẽ giúp bạn tìm lại được sự toàn vẹn? Người đó có phải là người khuyến khích bạn tìm lại phần bản ngã bị mất? Liệu đó có phải là người có những nhược điểm như bạn và vì thế làm bạn thấy đỡ lạc lõng hơn? Hoặc ngược lại, người đó có tất cả những phẩm chất bạn còn thiếu? Để tìm ra câu trả lời, hãy xác định những gì bạn cho là nhược điểm của mình. Có thể bạn cho rằng mình thiếu óc thẩm mỹ, lạnh lùng hoặc thiếu khả năng suy nghĩ hợp lý và rõ ràng, như Sarah chẳng hạn. Nhiều năm về trước, khi những người xung quanh đều mạnh ở các mặt này, bạn càng nhận thức được sự yếu kém của mình rõ hơn. Nhưng nếu bạn làm thân với một trong những “thiên tài” ấy, bạn sẽ có những phản ứng khác hẳn. Thay vì cảm thấy hoảng sợ hoặc ghen tị, bạn sẽ thấy mình hoàn thiện hơn. Gắn bó tình cảm với người ấy sẽ biến những thuộc tính của họ thành một phần bản ngã của bạn. Việc đó giống như thể bạn hòa trộn mình với người khác và trở nên toàn vẹn. Hãy nhìn xung quanh, bạn sẽ thấy không ít người đã chọn bạn đời với những tính cách bổ khuyết cho tính cách của chính họ. Dan là người lém lỉnh và nhiều chuyện, trong khi Gretchen vợ anh ta lại cả nghĩ và sống có chiều sâu. Janice sống dựa trên trực giác rất nhiều, còn Patrick chồng cô thì lại rất duy lý. Rena là một vũ công, bạn trai của cô là Mathew lại rất vụng về lóng ngóng. Thực chất của chuyện này là con người cố gắng đòi lại phần bản ngã bị mất một cách tượng trưng. Hình mẫu Bạn dựa trên hình ảnh của một người khác phái do vô thức tạo ra trong suốt khoảng thời gian dài từ khi bạn mới ra đời, để tìm kiếm người bạn đời lý tưởng, người vừa có nét giống với người nuôi dưỡng bạn lại vừa bổ khuyết cho những phần bản ngã bị mất của bạn. Tôi đã gọi hình ảnh này là Hình mẫu (Imago). Hình mẫu – đó là hình ảnh tổng hợp những nét tính cách của những người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến bạn trong buổi bình minh của cuộc đời. Những người đó có thể là cha mẹ hay anh chị, hoặc người giữ trẻ hoặc một người họ hàng gần gũi. Là ai cũng vậy, một phần tâm thức bạn sẽ ghi lại mọi đặc điểm của người đó – giọng nói của họ, phản ứng của họ khi bạn khóc, màu da của họ lúc nổi giận, nụ cười của họ khi hạnh phúc, hình dáng của đôi vai, những cử động của cơ thể, tính khí, tài năng và sở thích của họ. Cùng với những dữ liệu này, bộ não của bạn còn ghi lại tất cả những tác động qua lại giữa bạn và họ. Não bộ không diễn giải những dữ liệu này mà chỉ cất nó vào một góc sâu trong ký ức. Bạn có thể không tin rằng những chi tiết nhỏ nhặt như vậy về những người nuôi dưỡng bạn lại có thể in sâu trong ký ức, trong khi bạn lại chỉ nhớ lờ mờ về những năm đầu của cuộc đời. Thực thế, nhiều người không thể nhớ được những gì xảy ra cho họ từ khi còn nhỏ tới năm lên năm hoặc sáu tuổi, kể cả những sự kiện quan trọng đáng lẽ đã để lại những ấn tượng sâu sắc. Nhưng các nhà khoa học nói rằng, chúng ta cất giữ một khối lượng thông tin ẩn giấu rất lớn trong não bộ. Những nhà giải phẫu thần kinh đã khám phá ra điều này khi họ giải phẫu não cho những bệnh nhân đã được gây mê cục bộ. Họ kích thích một phần não bằng xung điện, cường độ yếu, và bệnh nhân đó bỗng dưng có thể nhớ lại đến từng chi tiết nhỏ hàng trăm sự kiện bị quên lãng từ thời thơ ấu. Ký ức của chúng ta là một nhà kho khổng lồ chứa đầy những thông tin bị quên lãng. Có những người đã đề xuất ý kiến cho rằng tất cả những gì chúng ta đã trải qua đều trú ngụ ở đâu đó trong những ngóc ngách sâu thẳm và mịt mùng của bộ não. Không phải sự kiện nào cũng được ghi lại trong ký ức sâu đậm như nhau. Dường như những ấn tượng rõ ràng nhất chúng ta có được là từ những người nuội dưỡng ta thưở nhỏ. Và trong số những tác động qua lại giữa chúng ta và những người này, những sự kiện khắc sâu nhất trong ký ức là những sự kiện làm ta đau đớn nhiều nhất vì đó là những cuộc đọ sức có thể đe dọa đến sự sống còn của ta. Dần dần, hàng trăm hàng ngàn mẫu thông tin về người nuôi dưỡng hòa trộn với nhau tạo thành một hình ảnh duy nhất. Tâm thức cũ, vì không có khả năng phân biệt rõ ràng, đã ghi lại tất cả những dữ liệu này dưới cùng một tiêu đề: Những người quyết định sự sống còn. Bạn có thể coi Hình mẫu đó như một hình ảnh chỉ có một vài đặc điểm bề ngoài để nhận diện nhưng lại có những nét tính cách kết hợp từ tính cách của tất cả những người nuôi dưỡng bạn. Việc bạn có yêu một người nào đó hay không phụ thuộc vào mức độ giống nhau giữa người đó và Hình mẫu do vô thức đưa ra. Một phần sâu kín của tâm thức sẽ quan sát và lạnh lùng phân tích các đặc điểm của người đó, và rồi so sánh chúng với ngân hàng dữ liệu phong phú trong đầu. Nếu người đó có ít điểm tương đồng với Hình mẫu, bạn sẽ không thấy cảm xúc nào với người đó. Người đó là một trong hàng ngàn người tới rồi lại đi trong cuộc đời bạn mà không để lại ấn tượng sâu sắc nào. Nếu có nhiều nét tương đồng giữa người đó và Hình mẫu, bạn thấy người đó thật quyến rũ. Quá trình so sánh này khá giống với cách quân lính được huấn luyện để phân biệt các loại máy bay ở Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Người ta đưa cho họ một quyển sách có đầy những hình vẽ các loại máy bay của quân địch và của quân ta. Khi một chiếc máy bay chưa được nhận dạng bay vào tầm quan sát, họ sẽ vội vã so sánh đặc điểm của nó với đặc điểm của những hình vẽ trong sách. Nếu đó là một chiếc máy bay của “phe ta”, họ sẽ thở phào và trở về chỗ cũ. Còn nếu đó là một chiếc máy bay địch, họ sẽ lập tức vào vị trí chiến đấu. Một cách vô thức, bạn so sánh tất cả những người đàn ông, hoặc phụ nữ mà bạn gặp với Hình mẫu của bạn. Khi bạn tìm được một người khớp với Hình mẫu, bạn cảm thấy người đó có một hấp lực cuốn hút bạn mạnh mẽ. Cũng như đối với những hoạt động khác của vô thức, bạn không hề biết gì về cơ cấu phân loại phức tạp này. Bạn chỉ có thể thoáng thấy Hình mẫu của bạn trong giấc mơ. Nếu bạn có thể gợi nhớ lại giấc mơ của mình bạn sẽ nhận thấy một điều là tâm thức cũ của bạn trộn lẫn người này với người kia một cách tùy tiện. Trong giấc mơ, một người đang đóng vai trò này bỗng trở thành một người khác. Nguyên nhân là vì vô thức không phân bịêt giữa các cá nhân. Có thể bạn đã từng có một giấc mơ mà trong đó, bỗng dưng người bạn đời của bạn lại biến thành cha hoặc mẹ bạn, hoặc giấc mơ trong đó cha mẹ và người bạn đời của bạn đối xử với bạn theo cùng một cách đến nỗi hầu như bạn không phân biệt được ai với ai. Đây là con đường duy nhất để bạn có cơ hội so sánh những nét tính cách chủ yếu giữa người bạn đời và người nuôi dưỡng bạn, bạn sẽ thấy những điểm tương đồng giữa họ là không thể lầm lẫn được. Hình mẫu và Tình yêu Để minh họa cho ý kiến về sự tác động của Hình mẫu đối với tình yêu, tôi sẽ đưa ra một ví dụ. Đó là trường hợp của Lynn, một trong những thân chủ của tôi. Lynn đã bốn mươi tuổi và có ba con đang đi học. Cô sống trong một thành phố ở New England và làm việc ở cơ quan chính quyền thành phố. Peter, chồng cô là một nhà thiết kế đồ họa. Trong những buổi chữa trị đầu tiên với Lynn và Peter, tôi được biết cha của Lynn đã có ảnh hưởng sâu sắc tới cô. Ông quả là một người cha chu đáo, không bao giờ tiếc cô một khoản chi tiêu nào. Nhưng ông cũng là một người “không cảm xúc”. Những lúc ông như vậy, Lynn cảm thấy bực bội và sợ hãi. Cô kể cho tôi nghe, ông thường cù cô một cách không thương xót dù biết rằng cô ghét bị cù. Đến khi cô bật khóc thì ông lại chế giễu cô là “mít ướt”. Cô không thể quên có lần ông đã ném cô xuống sông để “dạy cho cô biết bơi”. Khi Lynn kể cho tôi chuyện này, cổ họng cô thắt lại, hai tay nắm chặt thành ghế. Cô luôn tự hỏi: “Làm sao ông ấy lại có thể làm như thế? Lúc đó tôi chỉ mới bốn tuổi đầu! Tôi còn nhớ lúc con tôi bốn tuổi, lúc nhìn nó, tôi cảm thấy kinh ngạc là làm sao ông ấy lại làm được như vậy. Bốn tuổi, đứa trẻ hãy còn đầy tin tưởng và dễ bị tổn thương”. Dù Lynn không nhận thức được điều này nhưng thực ra, có rất nhiều sự kiện liên quan đến cha cô ẩn giấu sâu trong vô thức của cô, những sự kiện đã tác động đến cô sâu sắc nhất. Chẳng hạn như, giả dụ cha cô không buồn hâm nóng chai sữa trước khi cho cô bú lúc cô còn nhỏ, cô sẽ hình thành dần chuỗi liên tưởng giữa việc nằm trong lòng cha với cảm giác khó chịu khi phải uống sữa lạnh. Hoặc, lúc cô được mấy tháng, cha cô tung cô lên cao, hiểu lầm tiếng khóc thét sợ hãi của cô là tiếng kêu thích thú. Cô không còn nhớ được những chuyện như thế, nhưng tất cả đều được ghi lại ở đâu đó trong ký ức. Mẹ của Lynn cũng có rất nhiều ảnh hưởng đối với cô. Mẹ cô bỏ nhiều thời gian quan tâm đến cô hơn và có kỷ luật nghiêm khắc. Không như cha cô, mẹ cô quan tâm đến tình cảm của con gái mình nhiều hơn. Khi đặt cô vào giường, mẹ cô bao giờ cũng hỏi cô ngày hôm đó như thế nào và lắng nghe cô kể về những cảm giác, những vui buồn của cô. Nhưng bà cũng rất hay phê phán. Không có điều gì Lynn nói hay làm mà bà hài lòng. Bà luôn sửa lỗi ngữ pháp cho cô, chải tóc cho cô và kiểm tra lại bài tập ở nhà của cô. Lynn cảm thấy bị xét nét khi cô ở bên bà. Một điều quan trọng nữa là mẹ Lynn không cảm thấy thoải mái với bản năng giới tính của mình. Lynn nhớ mẹ cô luôn mặc áo tay dài, cài nút đến cổ và khoác ngoài những chiếc áo len dài và rộng thùng thình. Bà không bao giờ để ai cùng ở trong phòng tắm, dù cả nhà chỉ có một phòng tắm. Khi Lynn đến tuổi dậy thì, bà không bao giờ nói với con gái về những vấn đề giới tính. Không lạ gì là Lynn sau này bị ức chế tình dục. Những người khác cũng có ảnh hưởng nhiều đến Lynn và một trong số đó là chị cô, Judith. Judith chỉ lớn hơn Lynn mười bốn tháng, nhưng cô xem chị mình là thần tượng. Cao lớn và thông minh, Judith dường như thành công trong bất cứ việc gì cô làm. Lynn ngưỡng mộ chị mình hết mức và tìm mọi cách được ở bên chị. Nhưng mỗi lần như vậy, cô đều cảm thấy mình thấp kém. Dần dần, các tính cách của những nhân vật chủ chốt trong thời thơ ấu của Lynn, mẹ cô, cha cô và chị cô, kết hợp lại trong vô thức của Lynn và tạo ra một hình ảnh duy nhất, Hình mẫu của cô. Đó là hình ảnh của một người trìu mến, nhiệt tình, không nhạy cảm, hay phê phán, trịch thượng và rộng lượng. Nhưng những điểm có tính quyết định lại là những tính xấu: hay phê phán, không nhạy cảm, và trịch thượng, bởi vì đây là những điều đã làm cô thương tổn. Trong cuộc đời, Lynn gặp Peter lần đầu tiên ở nhà một người bạn. Điều cô nhớ rõ nhất là khi cô được giới thiệu với Peter, cô có cảm giác đã quen biết anh từ lâu. Đó là một cảm giác thật lạ. Tuần lễ tiếp sau, cô tìm mọi cớ để đến nhà người bạn đó và cô thấy vui sướng nếu Peter cũng có mặt. Dần dần, cô nhận thấy mình bị cuốn hút đến bên Peter và thật sự hạnh phúc nếu được ở gần bên anh. Trong những lần gặp mặt đầu tiên này, Lynn không so sánh Peter với bất kỳ người nào cô biết, kể cả cha mẹ hay chị cô. Cô chỉ thấy Peter là người vô cùng quyến rũ và có vẻ dễ nói chuyện. Trong quá trình chữa trị cho Lynn và Peter, tôi đã thấy rõ ở Peter có những đặc điểm nào trùng hợp với Hình mẫu của Lynn. Anh là người vượt trội hơn cô và tự tin, những đặc điểm trùng với cha và chị cô. Anh cũng là người hay phê phán, giống mẹ cô. Anh luôn bảo cô cần phải giảm cân, phải nhiệt tình, vui vẻ hơn và phải quyết đoán trong công việc. Nhưng đặc điểm nổi bật nhất của Peter là anh cũng thiếu quan tâm đến tình cảm của Lynn như cha cô. Lynn thường có những cơn phiền muộn, và lời khuyên của Peter dành cho cô là: “Nói ít thôi và làm nhiều hơn. Anh mệt mỏi với những lời than vãn của em lắm rồi!”. Anh ta lúc nào cũng vậy, luôn luôn đối phó với những tình cảm tiêu cực của chính mình bằng cách lao đầu vào công việc. Một lý do nữa khiến Lynn bị lôi cuốn là Peter rất tự nhiên ngay từ trong bản chất. Khi tôi nhìn họ, tôi luôn nhớ lại lời của một trong những giáo sư đã dạy tôi: “Nếu muốn biết người đó kết hôn với mẫu người nào, hãy tưởng tượng mẫu người đối lập với chính người đó”. Lynn thường ngồi bắt chéo chân và tay, còn Peter thì duỗi dài người trong ghế với vẻ vô cùng thoải mái. Đôi khi anh bỏ giày ra, ngồi vắt chân chữ ngũ, hoặc vắt chân qua thành ghế. Lynn mặc bộ đồ may đo cài kín đến nút cuối cùng hoặc một bộ đồ đi làm với một khăn quàng lụa quấn quanh cổ. Còn Peter thì mặc quần nhung kẻ rộng thùng thình, áo sơ mi hở cổ và đi giày thể thao mà không mang tất. Bây giờ ta đã biết tại sao Lynn bị lôi cuốn bởi Peter. Còn Peter thì sao? Một trong những lý do đó là tính dễ xúc động của Lynn. Cha mẹ Peter chấp nhận anh, nhưng bác bỏ cảm xúc của anh. Khi anh ở bên Lynn, anh cảm thấy mình tới gần những xúc cảm bị dồn nén của chính anh hơn; cô giúp anh lấy lại được mối liên hệ với phần bản ngã bị mất. Ngoài ra, cô có rất nhiều đặc điểm giống cha mẹ anh. Óc khôi hài của cô làm anh nhớ tới mẹ anh và bản tính phụ thuộc, khiêm tốn của cô nhắc anh nhớ tới cha mình. Vì Lynn có nhiều điểm tương đồng với Hình mẫu của Peter và anh cũng có nhiều điểm tương đồng với Hình mẫu của cô và vì cả hai có khá nhiều tính cách bổ khuyết, Peter và Lynn đã “yêu nhau”. Câu hỏi mà tôi thường đặt ra khi nói tới những yếu tố vô thức trong quá trình chọn bạn đời là: Tại sao người ta lại có thể nhận biết nhau nhanh chóng đến thế? Mặc dù một số tính cách của con người khá nổi bật, như tính phóng túng của Peter hoặc khiếu hài hước của Lynn chẳng hạn, nhưng có những tính cách khác không dễ nhận thấy đến như vậy. Lý do khiến ta có thể nhận biết tính cách của người khác ngay lập tức như vậy là do ta dựa trên cái mà Freud gọi là “tri giác vô thức”. Chúng ta hiểu về người khác bằng trực giác nhiều hơn ta tưởng. Khi ta gặp một người lạ, ta lập tức ghi nhận cách họ cử động, cách họ tìm kiếm hay tránh ánh mắt của ta, quần áo họ mặc, những biểu hiện đặc thù, kiểu chải tóc, mức độ thoải mái khi cười, khả năng lắng nghe, tốc độ nói, khoảng thời gian từ sau khi được hỏi đến lúc trả lời. Chúng ta ghi lại tất cả những đặc điểm này và hàng trăm điều khác chỉ trong vài phút. Chỉ bằng cách nhìn vào người khác, chúng ta đã có thể thu nhập được khối lượng thông tin khổng lồ về người đó. Khi tôi đi bộ trên đường đến chỗ làm mỗi buổi sáng, tôi thường đánh giá người qua kẻ lại trên vỉa hè một cách máy móc. Nhận xét của tôi về người nào đó xuất hiện ngay lập tức: Người này tôi ước ao được làm quen, còn người kia, tôi không thấy có gì thú vị. Tôi cảm thấy mình bị lôi cuốn hoặc bị dội ra chỉ qua một cái nhìn sơ. Khi tôi bước vào một bữa tiệc chỉ cần đảo mắt một vòng là tôi tìm thấy ngay người khiến tôi để ý. Những người khác cũng nói như vậy về khả năng đánh giá bằng trực giác của họ. Một tài xế xe tải nói với tôi, anh ta có thể quyết định tức khắc việc có dừng lại đón một người vẫy xe xin đi nhờ hay không, dù anh ta đang phóng với vận tốc sáu mươi lăm dặm một giờ. Anh ta thêm: “Và tôi ít khi nhầm người”. Và khả năng quan sát của chúng ta càng nhạy bén hơn khi ta tìm kiếm nửa kia bị mất, vì lúc đó chính là ta tìm kiếm người có thể thõa mãn những đòi hỏi căn bản của vô thức. Chúng ta đặt mọi người dưới sự xem xét kỹ lưỡng: Liệu người này có bảo bọc ta và giúp ta tìm lại bản ngã bị mất? Khi ta gặp người có vẻ đáp ứng được những yêu cầu này, tâm thức cũ lập tức biểu lộ sự quan tâm. Trong những lần gặp mặt kế tiếp, vô thức đã được đánh động nên tìm kiếm những dấu hiệu chứng tỏ người này có thể là người bạn đời hoàn hảo. Nếu người đó giống với Hình mẫu trong vô thức, sự quan tâm ta dành cho người đó sẽ tăng lên. Nhưng nếu người đó chỉ có vẻ giống với Hình mẫu trong vô thức trên bề mặt, sự quan tâm của ta sẽ lụi tắt, và ta tìm cách giảm bớt tầm quan trọng của mối quan hệ. Tuy họ không biết nhưng đó là diễn biến tâm lý xảy ra với Lynn và Peter khi họ gặp nhau lần đầu tiên ở nhà người bạn, vì Peter có vẻ giống với Hình mẫu của Lynn, cô đã tìm mọi cách gặp lại anh. Ngược lại Lynn cũng có vẻ khá giống với Hình mẫu của Peter nên anh cũng quan tâm đến cô không kém. Tình yêu của họ không đơn phương. Sau vài tuần, Peter và Lynn đã tích lũy đủ dữ liệu về người kia để cuối cùng nhận ra rằng họ yêu nhau. Không phải ai cũng tìm được người phù hợp với Hình mẫu của mình. Đôi khi, chỉ có một hoặc hai điểm chủ chốt là tương đồng và sức hút khi gặp nhau lần đầu chỉ ở mức độ vừa phải. Những mối quan hệ như vậy kém đam mê nhưng cũng ít rắc rối hơn những mối quan hệ có sự tương đồng lớn giữa đối tượng với Hình mẫu. Nguyên nhân là vì tâm thức cũ vẫn tiếp tục cuộc tìm kiếm “đối tượng” lý tưởng nên ít đam mê hơn vì những đấu tranh nội tâm thời thơ ấu ít bị gợi lại nên ít rắc rối hơn. Khi hai người có ít sự tương đồng với Hình mẫu của nhau cắt đứt mối quan hệ, đó không phải vì họ gây đau đớn cho nhau quá nhiều, mà vì họ không thực sự quan tâm tới nhau. Họ nói: “Đó không phải là tất cả lý do” hoặc đơn giản là: “Tôi cảm thấy không yên. Tôi biết là còn có điều gì khác tốt hơn mà tôi cần tìm kiếm”. Tới giờ thì các bạn chắc đã hiểu rõ hơn về sự bí ẩn của tình yêu. Ngoài những lý thuyết sinh học, lý thuyết trao đổi và lý thuyết nhân dạng đã bàn đền ở Chương Một, chúng ta đã nghiên cứu thêm được yếu tố nữa trong quá trình hình thành tình yêu, đó là sự tương hợp giữa đối tượng và Hình mẫu của mỗi người. Động cơ bên trong khiến ta tìm kiếm một người giống như Hình mẫu của ta chính là mong muốn mãnh liệt được hàn gắn các thương tổn tuổi thơ. Đó cũng là nguyên nhân gây nên những bất hòa trong hôn nhân: Nếu lý do khiến ta chọn ai đó làm bạn đời là vì họ giống người nuôi dưỡng của ta thì chuyện họ khơi lại nững vết thương nhức nhối là điều không tránh khỏi. Nhưng trước khi bàn đến lĩnh vực này, ta hãy tìm hiểu trạng thái ngây ngất của tình yêu xảy ra trong những tháng hoặc những năm đầu mới yêu nhau, khi viễn cảnh hiện thực hóa ước mơ còn tràn ngập trong ta. Chương 4: TÌNH YÊU LÃNG MẠN Hai chúng OVID ta kết hợp lại tạo thành một đám đông. Từ kinh nghiệm của chính mình và từ lời kể của những người khác, tôi biết rằng những người đang yêu luôn tin chắc thời gian họ sống bên nhau là rất đặc bịêt và có một không hai. Đây là quãng thời gian họ thường gợi lại trong ký ức, nhấm nháp từng kỷ niệm một. Khi tôi yêu cầu họ kể về những ngày thần tiên này, họ mô tả một thế giới hoàn toàn mới. Mọi người đều thân thiện hơn, màu sắc tươi sáng hơn và thức ăn cũng ngon hơn. Mọi vật xung quanh họ đều tỏa sáng với một vẻ mới mẻ ban sơ, giống như khi họ còn trẻ. Nhưng sự thay đổi lớn nhất là cách họ nghĩ về chính bản thân họ. Bỗng dưng, họ nhìn cuộc sống với ánh mắt nhiệt tình và lành mạnh hơn. Họ thấy mình dí dỏm hơn, vui vẻ hơn và lạc quan hơn. Khi họ nhìn vào gương, họ có một tình yêu mới đối với con người đang nhìn lại họ, có lẽ họ xứng đáng với tình cảm người kia dành cho họ. Một số người thấy mình tốt đẹp hơn lên. Họ không còn phải ăn kẹo cao su, chích ma túy, uống rượu, hoặc trói mình trước màn hình TV để giải khuây. Làm việc ngoài giờ cũng mất đi sức lôi cuốn và những cuộc săn lùng tiền bạc hay quyền lực cũng trở nên lạc lõng. Cuộc sống có ý nghĩa và có giá trị, và cuộc sống ở ngay bên cạnh họ. Khi tình yêu của họ đạt tới đỉnh cao, họ hướng những tình cảm nồng nhiệt của mình tới những người xung quanh. Họ thấy yêu thương và chấp nhận người khác nhiều hơn một số người còn may mắn có được một sự nhận thức tinh thần cao độ, một cảm giác toàn vẹn và ý thức về sự nối kết với tự nhiên mà họ chưa từng đạt được kể từ thời thơ ấu. Trong một khoảng thời gian, họ nhìn thế giới không qua lăng kính rạn nứt của tình trạng không toàn vẹn mà qua lăng kính thuần nhất và nhẵn bóng của bản chất nguyên thủy của họ. Lynn và Peter, cặp vợ chồng tôi đã giới thiệu với các bạn ở cuối chương trước, kể với tôi rằng hồi mới yêu nhau, họ đã có lần dành cả một ngày để đi dạo chơi khắp thành phố New York. Sau khi ăn tối, họ cùng nhau leo lên đỉnh tòa nhà Empire State ngắm mặt trời lặn. Họ nắm tay nhau và cùng nhìn xuống hàng ngàn con người bé xíu ở dưới đang bận rộn đi lại, lòng cảm thấy thương hại. Tại sao những người này lại có thể không chia sẻ trạng thái ngây ngất của họ chứ? Tình yêu dưới góc độ hóa học Điều gì đã tạo ra cơn lốc những cảm xúc tốt đẹp mà người ta gọi là tình yêu? Những nhà nghiên cứu tâm thần – dược lý đã nhận thấy rằng những người yêu nhau có lượng chất kích thích cao – các loại hormon tự nhiên và chất hóa học làm toàn bộ cơ thể tràn ngập trong hạnh phúc. Trong suốt thời kỳ đầu của tình yêu, não bộ tiết ra các chất dopamin và norepinephrin, hai trong số rất nhiều các chất dẫn truyền thần kinh. Những chất này tạo ra cảm giác hưng phấn trong cuộc sống, tăng nhanh nhịp tim, cung cấp nguồn năng lượng dồi dào và tạo khả năng nhận thức cao. Trong thời gian này, khi những người yêu nhau muốn được ở bên nhau từng giây từng phút, não sản xuất ra nhiều endorphin và enkephalin hơn. Đó là những chất ma túy tự nhiên, tạo cảm giác an toàn và thoải mái. Bác sĩ Michael R.Liebowitz, giáo sư trợ giảng của khoa tâm thần lâm sàng Đại học Columbia, đã tiến xa hơn một bước và đưa ra ý kiến rằng cảm giác toàn vẹn bí ẩn của những người yêu nhau có thể gây ra bởi lượng chất dẫn truyền thần kinh setoronin tiết ra nhiều hơn. Nhưng dù việc nghiên cứu tình yêu dưới góc độ được lý học rất kích thích sự tò mò, các nhà khoa học vẫn không lý giải được nguyên nhân tại sao những chất hóa học đó lại giảm. Tất cả những gì họ có thể làm là ghi nhận rằng tình yêu là một hiện tượng tự nhiên được tạo ra bởi các thành phần sinh học rõ ràng. Để có thể hiểu thêm về vấn đề này, ta cần quay trở lại lĩnh vực tâm lý học và quay lại với quan điểm rằng tình yêu là sản phẩm của vô thức. Ngôn ngữ chung của tình yêu Trong chương trước, tôi đã đưa ra một lời giải thích về tình yêu. Tôi xin nhắc lại rằng, lý do chúng ta có những tình cảm tốt đẹp như vậy vào giai đoạn đầu của tình yêu là do một phần tâm thức tin rằng tình yêu sẽ đem lại cho ta sự an toàn và sự trọn vẹn nguyên thủy. Nếu chúng ta tìm đúng chỗ, chúng ta sẽ thấy rất nhiều chứng cứ rằng điều này là đúng. Một trong những nơi chúng ta nên để ý là ngôn ngữ chung của tình yêu. Khi lắng nghe những ca khúc phổ biến, đọc những bài thơ tình, những vở kich, những cuốn tiểu thuyết và lắng nghe hàng trăm cặp tình nhân mô tả tình yêu của họ, tôi đã đi đến kết luận rằng tất cả những lời trao đổi giữa hai người yêu nhau từ thưở khai thiên lập địa tới giờ gồm có bốn câu chính, còn những câu khác chỉ là phát triển từ bốn câu này. Và bốn câu nói chính này đã cho ta thấy lờ mờ yếu tố vô thức của tình yêu. Câu đầu tiên trong số bốn câu này được nói ra từ khi mới quen nhau, có lẽ ở lần gặp đầu tiên hoặc lần gặp thứ hai gì đó. Nó đại loại như sau: “Tôi biết chúng ta chỉ mới quen nhau, nhưng tôi có cảm giác như tôi đã biết cô từ trước rồi”. Đây không phải là những câu sáo ngữ. Vì lý do nào đó không giải thích được, họ cảm thấy dễ chịu khi ở bên nhau. Họ cảm nhận được một sự công hưởng dễ chịu, như thể họ đã quen nhau nhiều năm rồi. Tôi gọi đây là “hiện tượng nhận diện”. Không lâu sau, người ta bắt đầu chuyển sang câu thứ hai: “Điều này thật lạ, nhưng dù ta gặp nhau chưa bao lâu, anh không thể nhớ nổi quãng thời gian mình chưa quen nhau”. Dù họ chỉ mới gặp nhau vài ngày hay vài tuần trước, dường như họ đã luôn ở bên nhau, mối quan hệ giữa họ không có ranh giới về thời gian. Tôi gọi đây là “hiện tượng phi thời gian”. Khi mối quan hệ đã đến lúc chín muồi, người ta thường nhìn vào mắt nhau và tuyên bố câu thứ ba đầy ý nghĩa: “Khi anh ở bên em, anh không còn cảm thấy cô đơn nữa; anh cảm thấy mình đầy đủ và hoàn thiện”. Một trong những thân chủ của tôi, Patrick, đã diễn tả như thế này: “Trước khi tôi biết Diane, tôi có cảm giác mình suốt ngày chỉ quanh quẩn trong ngôi nhà rộng lớn với những căn phòng trống trải. Khi tôi gặp nàng, tôi có cảm tưởng mình mở cánh cửa ra và thấy có ai đó ở nhà”. Được ở bên người yêu, Patrick đã dừng cuộc tìm kiếm không ngơi nghỉ sự hoàn thiện. Anh cảm thấy đầy đủ thỏa mãn. Tôi gọi đây là “hiện tượng hợp nhất”. Cuối cùng, tới một lúc nào đó, những người yêu nhau tiến tới câu nói thứ tư và cũng là cuối cùng của tình yêu: “Anh yêu em rất nhiều. Anh không thể sống thiếu em”. Họ đã dấn sâu vào tình yêu đến mức không thể hình dung được chia ly. Tôi gọi đây là “hiện tượng tất yếu”. Cho dù người ta có thực sự nói ra lời hay chỉ có những tình cảm đó, họ đều là những minh chứng cho những gì tôi vừa nói về tình yêu và về bản chất vô thức của nó. Câu nói đầu tiên mà người ta diễn tả lại một cảm giác kỳ lạ như gặp lại người quen, đã mất đi sự bí ẩn của nó khi ta nhớ lại rằng lý do người ta “chọn” người yêu là vì người đó giống người nuôi dưỡng mình. Không lạ gì là họ có cảm giác thân thuộc với nhau. Trong vô thức, họ đã một lần nữa liên hệ lại với người nuôi dưỡng mình. Chỉ tới lúc này, họ mới tin rằng những khao khát sâu kín nhất, căn bản nhất và ấu trĩ nhất sắp được thỏa mãn. Có người chăm sóc, hô không còn cô đơn nữa. Câu thứ hai là một bằng chứng rằng tình yêu là một hiện tượng do tâm thức cũ tạo ra. Khi người ta yêu, tâm thức cũ sẽ nối kết hình ảnh của người yêu với hình ảnh của người nuôi dưỡng và thế là họ lạc vào vương quốc bất diệt. Đối với vô thức, được đắm chìm trong một tình cảm thân thiết rất giống với thời thơ ấu được ở trong vòng tay của mẹ. Người ta thấy cùng một ảo giác được an toàn, yên ổn, cùng một cảm xúc say mê. Trên thực tế, nếu chúng ta có thể quan sát một cặp tình nhân ở thời điểm này trong mối quan hệ của họ, ta sẽ thấy được một điều thú vị: Cả hai người đang cùng tham gia một tiến trình ràng buộc bản năng, giống hệt như các bà mẹ ràng buộc với những đứa bé sơ sinh. Họ thủ thỉ nói với nhau những chuyện linh tinh, vô nghĩa, gọi nhau bằng những cái tên âu yếm mà họ sẽ ngượng không dám gọi trước mặt người khác. Họ vuốt ve và khám phá cơ thể của nhau như cách bà mẹ yêu tha thiết con mình. Cùng lúc, họ lại có cảm giác họ là những người cha, người mẹ thứ hai của người yêu bằng câu nói: “Anh sẽ yêu em như chưa ai từng yêu đến thế”, câu nói vô thức sẽ được diễn dịch lại là “nhiều hơn cả cha và mẹ”. Chắc không cần nói thêm là tâm thức cũ rất mê thích thái độ ứng xử này. Những người đang yêu tin rằng họ sẽ hàn gắn được vết thương – không phải bằng cách làm việc cực nhọc hay sự tự nhận thức đau đớn – mà bởi một hành động đơn giản là hòa nhập với một người mà tâm thức cũ lẫn lộn với người nuôi dưỡng. Còn câu thứ ba, rằng người ta chìm ngập trong cảm giác về một sự toàn vẹn đầy đủ, thì sao? Khi nói câu này, họ biết rằng họ đã chọn (trong vô thức) người có những phần bản ngã họ bị mất khi còn thơ ấu; họ đã hồi phục lại bản ngã bị mất của mình. Một người thường dồn nén tình cảm sẽ chọn một người hay biểu lộ tình cảm, ham thích tình dục. Khi hai người với hai tính cách bổ khuyết yêu nhau, họ có cảm giác họ bất chợt được giải thoát khỏi sự dồn nén. Giống như những thực thể lưỡng tính bị cắt đôi của Plato, mỗi người bọn họ là một nửa của một người; bây giờ họ đã nối kết với nhau và trở nên toàn vẹn. Và câu nói cuối cùng, rằng họ sẽ chết nếu họ phải sống chia ly? Điều này có thể cho ta biết gì về bản chất của tình yêu lãng mạn? Đầu tiên, nó cung cấp tư liệu rằng những người yêu nhau đã chuyển giao trách nhiệm về sự sống còn của mình từ cha mẹ sang người yêu mà không nhận thức được. Cũng chính thực thể kỳ diệu đã thức tỉnh “eros” (năng lượng sống) trong họ, bây giờ sẽ bảo vệ họ khỏi nỗi sợ hãi muôn đời trước cái chết. Qua việc quan tâm đến những nhu cầu tuổi thơ không được đáp ứng, người yêu của họ đã trở thành đồng minh trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Nếu suy xét xa hơn thì câu nói này đã tiết lộ nỗi sợ hãi rằng, nếu bị chia lìa, họ sẽ mất đi trạng thái toàn vẹn vừa tìm lại được. Họ sẽ một lần nữa trở thành những tạo vật gẫy vỡ, không hoàn chỉnh, bị tách khỏi sự toàn vẹn của cuộc sống. Nỗi cô đơn và sự lo lắng sẽ tràn ngập lòng họ và họ không còn có cảm giác nối kết với thế giới xung quanh nữa. Cuối cùng, nếu để mất người kia, họ sẽ mất luôn ý thức mới về bản thân họ. Một chuyển đoạn ngắn Tuy nhiên, những nỗi sợ hãi này bị đẩy lùi trong một thời gian và đối với những người đang yêu, dường như tình yêu lãng mạn đang thực sự chữa lành vết thương cho họ và làm họ trở nên toàn vẹn, chỉ tình bạn thôi cũng đã là một niềm an ủi dịu êm. Bởi vì họ ở bên nhau phần lớn thời gian, họ không còn cảm thấy cô đơn, lẻ loi. Và càng tin tưởng nhau, họ càng thân thiết với nhau hơn. Thậm chí họ có thể kể hết cho nhau nghe những đau khổ, những nỗi buồn thời thơ ấu. Và nếu họ làm như vậy, họ sẽ nhận được phần thưởng cho sự cởi mở, đó là sự thông cảm chân thành của người họ yêu “Ôi, anh rất buồn vì em phải trải qua những chuyện như vậy.” hoặc “Thật khủng khiếp là anh phải chịu đựng nhiều đến thế!”. Họ cảm thấy không một ai, kể cả cha mẹ họ lại quan tâm đến thế giới nội tâm của họ như vậy. Vì họ chia sẻ sự thân thiết này, họ cũng có thể có thế giới của người kia. Trong những khoảnh khắc hiếm hoi đó, họ không phán xử nhau, hoặc suy diễn những điều người kia nói, hoặc so sánh với những kinh nghiệm họ đã trải qua. Họ còn làm nhiều hơn thế: Trong một thời gian ngắn, họ đã giải tỏa được nỗi đam mê suốt đời của họ và cùng chia sẻ sự xác thực của một con người khác. Nhưng tình yêu lãng mạn còn đem lại nhiều điều hơn là những lời nói ngọt ngào và những khoảnh khắc thông cảm để hàn gắn vết thương lòng. Với giác quan thứ sáu (thường thiếu một cách thảm hại ở những giai đoạn sau của mối quan hệ), những người đang yêu như đoán được chính xác người họ yêu thiếu điều gì. Nếu người yêu của họ cần được bảo bọc, họ sẽ vui lòng đóng vai một ông bố hay bà mẹ. Nếu người đó cần tự do, họ để người đó được riêng tư. Nếu người đó cần sự an toàn, họ sẽ bảo vệ người đó. Họ trút xuống người mình yêu những hành động chăm sóc tự phát, những hành động dường như xóa đi được những mất mát tổn thương trong thời thơ ấu. Yêu và được yêu không khác gì đột nhiên trở thành đứa con cưng trong gia đình lý tưởng. Ấp ủ một ảo giác Những người đang yêu bám lấy ảo giác của một tình yêu lãng mạn trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi rất nhiều hoạt động vô thức. Một trong những hành vi thuyết phục mà hầu hết chúng ta đều có là cố tỏ ra đa cảm hơn con người thực của mình. Chẳng hạn, nếu bạn tỏ ra ít có nhu cầu riêng, người yêu bạn có thể tưởng rằng mục đích trong đời bạn là bảo bọc người khác chứ không phải được bảo bọc và thực sự điều này làm bạn trở nên đáng thèm muốn trong mắt người yêu của bạn. Một phụ nữ tên Louise đã kể lại cho tôi nghe những nổ lực của cô để tỏ ra là một người bạn đời hoàn hảo cho người chồng tương lai là Steve. Một vài tuần sau khi họ gặp nhau, Luise mời Steve tới nhà cô ăn tối. Cô nói: “Tôi muốn chứng tỏ tài nội trợ của mình. Steve đã thấy tôi như một phụ nữ có nghề nghiệp và tôi muốn anh ấy thấy tôi còn có thể nấu ăn ngon nữa? Để làm cuộc sống của mình có vẻ đơn giản hết mức, cô gửi đứa con trai mười một tuổi của người chồng trước sang ngủ nhà bạn – không có lý do gì để tiết lộ tất cả những sự phức tạp này ngay từ đầu. Cô lau sạch bóng căn nhà, chọn thực đơn gồm hai món duy nhất cô nấu được khá ngon và bày hoa tươi trong tất cả các phòng. Khi Steve bước vào nhà, bữa tối đã sẵn sàng, mặt cô trang điểm nhẹ và máy quay đĩa đang chơi một bản nhạc giao hưởng. Đến lượt Steve, anh cũng đến với thái độ quyến rũ và sẵn sàng giúp đỡ. Khi bữa tối kết thúc, anh giúp Louise rửa chén bát và sửa ngọn đèn ngoài hành lang bị cháy. Họ bắt đầu yêu nhau từ đêm đó và trong suốt mấy tháng tiếp theo, họ cố gắp sắp xếp cuộc sống sao cho có ít nhu cầu riêng nhất. Thái độ quên mình này rất phổ biến. Hầu hết mọi người, ai cũng đụng phải rất nhiều rắc rối khi cố tỏ ra mình là người bạn đời lý tưởng. Lúc mới quen nhau trong một số trường hợp, thái độ này đã biến thành một sự lừa dối nghiệm trọng. Một thân chủ của tôi, Jessica, đã từng có quan hệ với một người đàn ông không thể tin cậy được. Cô đã trải qua hai cuộc hôn nhân đổ vỡ và rất nhiều mối quan hệ không đi đến đâu. Mối quan hệ đã làm Jessica rốt cuộc phải đi chữa trị tâm lý liên quan tới Brad, một người ban đầu tỏ ra hết lòng vì cô, khi anh ta đã chiếm được lòng tin của cô rồi, cô bèn kể hết cho anh ta nghe những trục trặc của cô khi quan hệ với người khác phái. Brad tỏ ra thông cảm và đoan chắc sẽ không bỏ rơi cô. Anh ta nói: “Nếu như có người nào ra đi, đó sẽ là em. Còn anh, anh sẽ mãi mãi bên em”. Anh ta tỏ ra là một người bạn đời kiên định và đáng tin cậy. Họ yêu nhau như vậy đã sáu tháng, và Jessica yên tâm sống trong sự an toàn của mối quan hệ. Thế rồi, một ngày kia, khi đi làm về, cô tìm thấy một lời nhắn của Brad đính ở cửa. Trong đó, anh ta giải thích rằng người ta đã mời anh làm việc ở một chỗ lương khá hậu ở một thành phố khác và anh ta không thể bỏ lỡ cơ hội. Anh ta muốn được đích thân báo cho cô biết, nhưng anh ta sợ cô sẽ quá đau khổ. Anh ta hy vọng cô hiểu cho anh ta. Khi Jessica vượt qua được cú sốc, cô gọi điện cho người bạn thân nhất của Brad và yêu cầu anh ta kể cho cô nghe tất cả những gì anh ta biết. Qua câu chuyện anh ta kể về Brad, một chân dung hoàn toàn khác hẳn về Brad bắt đầu lộ ra. Rõ ràng anh ta chưa bao giờ ở đâu lâu. Trong mười lăm năm qua anh ta đã chuyển chỗ ở sáu lần và kết hôn ba lần. Tất cả những chuyện này Jessica không hề hay biết. Cảm nhận được Jessica đang cần sự an toàn, Brad đã cố hết sức để trở thành một người tình đáng tin cậy. Đây là một tiến trình tâm lí được biết dưới tên gọi “sự đồng nhất xạ ảnh”. Anh ta đã đồng nhất mình với ảo ảnh về một người đàn ông lý tưởng hoàn toàn trong vô thức của Jessica. Tôi không nghi ngờ việc anh ta giả dối như vậy là có chủ tâm. Có lẽ anh ta làm quen Jessica không phải với mục đích chiếm được lòng tin và tình cảm của cô rồi sau đó sẽ bỏ rơi cô; mà có lẽ chỉ vì anh ta không thể đóng trọn vai trò người bảo vệ của mình thêm nữa. Khi Brad bỏ rơi cô, Jessica có đủ mọi lý do để nổi cơn thịnh nộ, nhưng thay vào đó, cô lại dựng lên ảo tưởng rằng anh ta sẽ gọi cô đến khi anh ta đã dành dụm đủ tiền. Cô ở lì bên máy điện thoại hàng giờ để chờ anh ta gọi điện về và lo lắng đợi thư của anh ta. Nhưng anh ta vẫn biệt vô âm tín. Rồi một ngày kia, cô kể với tôi: “Tôi mừng là đã không nhận được tin tức gì của anh ta, nếu không, chắc tôi sẽ lại đón anh ta quay trở lại, dù anh ta đã đối xử với tôi thế nào đi nữa. Tôi cần đến anh ta nhiều như vậy đấy”. Jessica là một thí dụ điển hình của những trường hợp từ chối chấp nhận sự thật. Cô không chấp nhận Brad trên thực tế là một người đàn ông chưa trưởng thành và không thể tin cậy được. Kỷ niệm về vai diễn sốt sắng mà anh ta đã đóng vẫn hiện thực đối với cô hơn là sự thật về hành vi anh ta. Sự từ chối Ở một mức độ nào đó, chúng ta ai cũng sử dụng sự từ chối như một công cụ che đỡ. Mỗi khi chúng ta phải đối mặt với một khó khăn hay một tình huống đau lòng, chúng ta đều có khuynh hướng tảng lờ sự thật và tạo ra một hình ảnh tưởng tượng dễ chấp nhận hơn. Nhưng không lúc nào trong đời, cơ cấu phủ nhận của ta lại vận hành tối đa như trong những giai đoạn đầu của tình yêu. John, một người đàn ông ở độ tuổi ba mươi là người đặc biệt giỏi trong lĩnh vực này. John tới tìm tôi để xin một lời khuyên. Anh ta là một lập trình viên máy tính, đã từng lập trình một phần mềm thành công đến mức anh ta đã dùng nó để khởi đầu sự nghiệp với công ty riêng của mình. Trong khoảng mười đến mười lăm phút đầu của mỗi buổi chữa trị, anh ta đều kể về công ty của mình và nói rằng nó hoạt động rất hiệu quả. Rồi cuộc đối thoại đi tới một đoạn dừng, anh ta sẽ đưa mắt đi chỗ khác và đi dần tới chủ đề của cuộc nói chuyện, đó là Cheryl, người anh ta yêu. Anh ta say cô như điếu đổ và sẽ cưới cô ngay lập tức nếu cô đồng ý. Nhưng Cheryl vẫn từ chối. Khi John gặp Cheryl, cô dường như có tất cả những gì anh cần ở một người đàn bà. Cô quyến rũ, thông minh và rất nhạy cảm. Nhưng sau vài tháng quen nhau, anh bắt đầu thấy những mặt xấu trong tính cách của cô. Ví dụ khi họ cùng đi ăn tối, anh để ý thấy thế nào cô cũng sẽ phàn nàn về chất lượng món ăn hay cung cách phục vụ, dù thực ra chúng hoàn hảo. Anh cũng để ý thấy cô thường than phiền không ngớt về công việc của mình nhưng lại không làm gì để cải thiện điều kiện làm việc cả. Để tránh bị thất vọng bởi những tính xấu này, John bắt đầu óc mình làm việc cật lực để cố tình không nhận thấy sự thật. Khi anh đi ăn tối với cô, anh tập nghĩ về khả năng phân biệt ngon dở của cô chứ không phải thái độ phàn nàn khó chịu. Khi cô nói huênh hoang và say sưa về công việc của mình, anh nghĩ cô đã phải cố gắng đến thế nào để trụ lại được trong điều kiện làm việc tồi đến như vậy. Anh ta tuyên bố với vẻ tự hào: “Nếu là người khác thì họ đã nghỉ việc lâu rồi!” Điều duy nhất khiến anh thực sự cảm thấy khó xử là thái độ của Cheryl. Lúc nào cô cũng có vẻ như xua đuổi anh. Tình thế trở nên tệ hại khi hai người đã quen nhau sáu tháng. Cheryl yêu cầu anh không gặp cô trong một tuần để cô có thể “thở hít khí trời một chút”. John miễn cưỡng đồng ý với đề nghị của cô dù anh biết rằng một trong những lý do cô muốn có thời gian thoát khỏi anh là để có thể hò hẹn với người khác. Cô cho anh thấy rõ là anh không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc để cô có nhiều thời gian tự do hơn. Để bù lại, John bắt đầu đến với một người phụ nữ tên là Patricia, một người khác hẳn với Cheryl. Tận tụy, phục tùng và kiên nhẫn, cô yêu anh đến phát điên. “Cô ấy sẽ cưới tôi ngay, cũng như tôi sẽ cưới Cheryl ngay lập tức. Nhưng tôi lại không quan tâm nhiều đến Patricia. Dù ở bên cô ấy, tôi thấy dễ chịu hơn, nhưng khi xa cô ấy, tôi không bao giờ nghĩ về cô. Cứ như thể cô ấy không tồn tại vậy. Đôi khi tôi có cảm giác mình đang lợi dụng cô ấy, nhưng tôi không muốn bị cô đơn. Cô ấy lấp đầy sự trống trải trong tôi”. Trong khi đó, Cheryl lại chiếm hết tâm trí của John dù cô hay phê phán và không chấp nhận anh. “Mỗi khi tôi không nghĩ về công việc thì tôi lại mơ về Cheryl”. Tại sao John lại không bị quyến rũ trước vẻ hấp dẫn của Patricia và lại sẵn sàng bỏ qua những khuyết điểm của Cheryl? Có lẽ điều này không làm ai ngạc nhiên, rằng mẹ John cũng có tính tình xa cách và hay phê phán rất giống Cheryl. Một thoáng lo lắng hiện lên trên nét mặt mẹ John và thế là bà quên đi sự hiện diện của John. Anh không biết những lúc đó bà nghĩ gì trong đầu. Cũng như những đứa trẻ khác, anh không biết và cũng không thấy thích thú muốn biết tâm trạng của mẹ mình. Tất cả những gì anh biết là bà thường có vẻ không phải để dành cho anh và điều này làm anh hết sức lo lắng. Khi anh thấy ánh mát lơ đãng của bà, anh sẽ giận dữ và tìm cách gây sự chú ý. Bà sẽ đẩy anh ra và bắt anh về phòng mình. Nếu anh tỏ ra tức giận, bà sẽ phát cho anh một cái và không nói với anh nữa trong hàng giờ. Cuối cùng, John đã học được cách chịu đựng trong im lặng. Anh nhớ rõ ngày anh phải học cách chấp nhận và giữ thái độ kiên cường. Mẹ anh la mắng anh và dùng bàn chải tóc đánh vào mông anh. Anh không nhớ cái gì đã làm bà giận dữ đến thế. Tất cả những gì anh nhớ là lúc đó anh cảm thấy mình bị phạt oan và chạy về phòng khóc nức nở. Khi về đến phòng mình, anh chạy vào buồng vệ sinh và đóng cửa lại. Ở đó, phía sau cánh cửa có gắn một tấm gương. Anh nhớ lúc đó mình bật đèn lên rồi nhìn chằm chằm vào gương mặt nhòe nhoẹt nước mắt trong gương. Anh tự nhủ: “Có ai buồn để ý đến chuyện mình đang khóc ở đây đâu, vậy khóc có ích gì? Sau một lúc, anh nín khóc và lau nước mắt. Từ đó anh không bao giờ khóc nữa. Đó chính là ngày anh đã học cách che đậy nỗi buồn và cơn giận với một cái mặt nạ không thay đổi. Những điều John đã trải qua trong thời thơ ấu giải thích vì sao anh lại bị cuốn hút bởi Cheryl. Khi Cheryl tảng lờ thái độ theo đuổi của anh để đi chơi với người đàn ông khác hoặc đề nghị anh đừng gọi điện cho cô trong vài ngày, anh thấy sự khao khát được gần gũi thuở nào lại tràn ngập trong anh, thứ tình cảm anh từng có với mẹ mình. Trên thực tế, có rất nhiều điều giống nhau giữa hai người đàn bà trên đến nỗi trong vô thức, anh không thể phân biệt người này với người kia. Sự lạnh lùng của Cheryl khơi lại trong anh niềm khao khát cháy bỏng anh đã có với mẹ mình. Và trong giới hạn nhận thức của tâm thức cũ, Cheryl là mẹ anh, và những nỗ lực để chiếm được tình yêu của cô là một hình thức khác thay thế cho việc khóc lóc và la hét của anh hồi nhỏ để thu hút sự chú ý của mẹ. Thuật ngữ tâm lý học chỉ sự lầm lẫn này là “sự chuyển di”, lấy những thuộc tính của người này gán ghép cho người khác. Người ta rất hay gán ghép những tình cảm của mình có với cha mẹ sang cho người bạn tình, bởi vì qua quá trình lựa chọn của vô thức, họ đã chọn một người giống với người nuôi dưỡng họ. Tất cả những gì họ phải làm là phóng đại sự giống nhau giữa hai người ấy và giảm bớt sự khác biệt. John còn có những nguyên nhân khác khiến anh yêu Cheryl ngoài việc cô giống mẹ anh. Một trong số đó là cô rất có tâm hồn nghệ sĩ. Vì anh là một “doanh nhân khô khan” (theo cách anh tự nhận xét), khiếu thẩm mỹ của cô đã mở ra một thế giới mới cho anh. Anh kể : “Chúng tôi đang lái xe và khi tôi bận bịu với những kế hoạch kinh doanh của mình, bất chợt Cheryl chỉ cho tôi thấy một kiến trúc đẹp hoặc một cái cây đẹp, và nó bỗng hiện ra trước mắt tôi. Dường như chính cô đã tạo ra nó. Một mình tôi, có lẽ tôi đã không để ý đến chúng. Không có cô, thế giới của tôi thật ảm đạm và khô cứng”. Một lý do nữa khiến anh bị cô hớp hồn, dù anh phản đối kịch liệt, đó là vì cô có tính hay châm chọc, hay phê phán. Mặt tiêu cực này trong tính cách của cô lôi cuốn anh vì hai lý do. Thứ nhất, như ta đã nói đến, nó nhắc anh nhớ lại mẹ anh, một người cục cằn và dễ xúc động. Lý do thứ hai, có lẽ quan trọng hơn, là thói xấu của Cheryl làm anh nối lại sự liên hệ với những tình cảm bị chối bỏ của chính anh. Mặc dù anh cũng thấy giận dữ không kém Cheryl, nhưng anh đã học cách che giấu thái độ thù địch dưới vẻ bề ngoài phục tùng và chấp nhận. Khi còn nhỏ, đây là một cách thích ứng hữu dụng, vì nó bảo vệ anh khỏi tính khí của mẹ anh. Nhưng giờ đây, khi anh đã trưởng thành, sự dồn nén này làm anh chỉ còn là một nửa của một con người. Không còn khả năng cảm nhận hay thể hiện những cảm xúc mạnh, anh cảm thấy trong lòng trống trải. Anh khám phá ra rằng khi ở bên Cheryl, anh có được cảm giác phấn chấn anh rất cần. Anh không phải giận dữ, điều làm thức tỉnh siêu ngã của anh. Thay vào đó anh vẫn có ảo tưởng được hoàn chỉnh, trở thành một con người toàn vẹn chỉ bằng việc kết hợp với Cheryl. Cuốn phim gia đình “Phép chiếu” hay “xạ ảnh”, là thuật ngữ mô tả cách John lấy phần cảm xúc bị che giấu của anh – sự giận dữ – để gắn nó với Cheryl. Anh nhìn thấy sự giân dữ bị dồn nén của mình được thể hiện qua cơn giận dữ của Cheryl. Cũng như John, chúng ta biểu lộ phần con người bị dồn nén của ta bằng cách gán một phần lên người khác. Chúng ta thực hiện phép chiếu này mọi lúc, chứ không phải chỉ trong những quan hệ yêu đương. Tôi nhớ có lần ở Dallas, tôi ở chung với một bác sĩ tâm thần tên là James. Chúng tôi còn dư một phòng và tìm thêm một người ở chung. James có một người bạn vừa tốt nghiệp trường y và đang định mở phòng mạch tư. Anh đề nghị mời người đó đến ở chung. Để tôi có thể gặp anh bạn này, James đồng ý mời anh ta tới chơi. Vài ngày sau, tôi mở cửa căn phòng của mình và tình cờ thấy một người đàn ông đang đi dọc hành lang. Anh ta đang đi xa dần nên tôi chỉ nhìn thấy lưng anh ta, nhưng dáng đi của anh ta có vẻ gì đó khiến tôi cảm thấy khó chịu. Anh ta lắc hông và đầu một cách oai vệ như thể anh ta sở hữu cả thế giới. Anh ta nện gót chứ không phải đi bình thường. “Đây có lẽ là người kiêu ngạo nhất thế giới”. Tôi tự nhủ. “Không biết anh ta là ai? Có lẽ là thân chủ của James”. Tôi quay lại phòng mình và quên bằng chuyện vừa xảy ra. Một lúc sau, có tiếng gõ cửa phòng. Đó là James, và đi cùng với anh ta chính là người đàn ông tôi thấy lúc trước. James nói : “Đây là Robert Jenkins. Anh ấy là người mà tôi đã nói với anh. Anh ấy muốn thuê chung với chúng ta căn phòng đó. Tôi nghĩ hai người có thể đi ăn trưa với nhau”. Tôi nhìn Robert và thấy một anh chàng với gương mặt tươi cười dễ mến! Anh ta có mái tóc cắt khéo, bộ râu muối tiêu chải chuốt, cặp kính gọng sừng và đôi mắt nâu to. Anh ta đưa tay ra và nói : “Chào anh, tôi đã nghe nhiều về anh. Nghe nói anh đang nghiên cứu những đề tài rất thú vị. Tôi rất muốn được nói chuyện với anh về đề tài đó.” Tôi nhủ thầm : “Thật là một câu nói dễ chịu và khiêm tốn. Làm sao người này lại có thể chính là người mình cảm thấy khó chịu khi nãy?” Robert và tôi cùng đi ăn trưa và chúng tôi đã có một cuộc nói chuyện thú vị. Chiều tối hôm ấy, tôi nói với James có lẽ Robert sẽ là một người thuê chung nhà tuyệt vời. Cuối cùng Robert đã thành một người bạn tốt và một đồng nghiệp đáng tin cây. Dù anh cũng có những lúc tỏ ra kiêu ngạo – cũng như tôi và tất cả những người tôi quen biết – thì vẻ kiêu ngạo làm tôi khó chịu lúc nhác thấy anh lần đầu tiên cũng có trong nét tính cách của tôi. Tôi đã lấy một trong những thói xấu của tôi, thói xấu không phù hợp với hình ảnh của một bác sĩ nhạy cảm và ân cần, để chụp lên Robert. Những người đang yêu là những chuyên gia trong hành động này. Một vài cặp vợ chồng sống bên nhau mà như những người lạ cùng ngồi trong bóng tối của rạp chiếu phim, người này ghép những hình ảnh không rõ ràng lên người kia. Họ thậm chí không tắt máy chiếu của mình đủ lâu để thấy người đóng vai màn ảnh của cuốn phim gia đình thật sự là ai. Cũng cùng một cách như vậy, John gán ghép cảm xúc giận dữ bị dồn nén của mình lên Cheryl. Mặc dù cô quả thực là một người hay nổi giận, anh cũng thấy phần bản tính của mình trong cô, phần thực thể làm hỏng cái tôi của anh, nghĩa là, không phù hợp với hình ảnh anh mong muốn. Tình yêu lãng mạn đã được xác định Nếu chúng ta diễn dịch tình yêu của John dành cho Cheryl bằng những thuật ngữ tâm lý học khô khan, thì đó là một sự hòa trộn giữa sự phủ nhận thực tế, sự chuển di và phép chiếu. John “yêu” Cheryl là bởi vì: 1. Anh đã chuyển những tình cảm của anh đối với mẹ mình sang cho cô. 2. Anh đã “chiếu” sự giận dữ bị che giấu của mình lên sự giận dữ mà cô bộc lộ ra. 3. Anh có khả năng phủ nhận những đau đớn cô gây ra cho anh. John nghĩ anh đang yêu một con người, trong khi trên thực tế anh đang yêu một hình ảnh mà anh gán ghép lên người đó. Đối với John, Cheryl không Phải là một con người thật với những nhu cầu và mơ ước của riêng cô ; cô chỉ là một nguồn thỏa mãn những khao khát vô thức của tuổi thơ của John. Anh yêu với ý nghĩ được thỏa nguyện và giống như Narcissus – với một phần bản ngã của chính anh được phản chiếu lại. Psyche và Eros Bản chất ảo tưởng của tình yêu được minh họa tuyệt vời trong truyện thần thoại về Psyche và Eros ; một truyền thuyết được ghi lại từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên. Theo như truyền thuyết này kể thì nữ thần Aphrodite ghen tị với một thiếu nữ phàm trần trẻ tuổi và xinh đẹp tên là Psyche và phật ý trước sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Psyche. Trong cơn giận dữ, Aphrodite đã ra lệnh đưa Psyche lên đỉnh một ngọn núi, nơi cô sẽ phải lấy một con quái vật kinh khủng (ở một vài dị bản của truyền thuyết này, con quái vật được gọi là Death – cái chết). Cha mẹ của Psyche và dân làng buồn bã đi theo cô lên đỉnh núi, xích cô vào tảng đá và phó mặc cô cho số phận định đoạt. Nhưng trước khi Psyche bị con quái vật bắt, gió Tây thương hại cô đã nhẹ nhàng đưa cô xuống núi tới một thung lũng tình cờ lại là nơi ở của con trai Aphrodite là Eros, vị thần tình yêu. Psyche và Eros yêu nhau ngay từ khi mới nhìn thấy nhau, nhưng Eros không muốn Psyche biết mình là một vị thần nên giữ kín bí mật của mình bằng cách chỉ đến với nàng trong đêm tối. Đầu tiên Psyche đồng ý điều kiện kỳ lạ này và hạnh phúc với tình yêu mới, trong một lâu đài tuyệt đẹp và một khung cảnh thơ mộng. Thế rồi, một ngày kia, hai chị gái của Psyche tới thăm nàng và ghen tị với số phận may mắn của Psyche, tò mò hỏi về Eros. Khi Psyche không trả lời được, họ reo rắc trong đầu nàng sự ngờ vực, rằng người tình của nàng có thể là một con quỷ xấu xa kiên nhẫn theo đuổi để ám hại nàng. Đêm đó trước khi Eros lại tới với Psyche, nàng đã giấu một ngọn đèn và một con dao dưới giường. Nếu người tình của nàng đúng là một con quỷ, Psyche quyết định sẽ giết chết hắn. Nàng đợi đến khi Eros đã ngủ say mới khẽ khàng thắp đèn lên. Nhưng khi nàng cúi người tới trước để nhìn kỹ hơn, một giọt sáp nóng tơi từ ngọn đèn xuống vai Eros. Chàng tỉnh dậy ngay lập tức và khi thấy ngọn đèn cùng con dao trong tay Psyche, chàng bay qua cửa số mở đi mất, thề sẽ trừng phạt Psyche vì nàng đã khám phá ra sự thật, bằng cách vĩnh viễn từ bỏ nàng. Đau khổ, Psyche chạy theo Eros, gọi tên chàng, nhưng nàng không bắt kịp chàng, nàng hụt chân ngã. Ngay khi đó, tòa lâu đài và khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp biến mất, và một lần nữa nàng lại bị xích và một tảng đá trên đỉnh núi cô quạnh và dốc đứng. Cũng như những truyện thần thoại khác, câu chuyện này bao hàm một phần sự thật. Tình yêu lãng mạn quả thực phát triển trên cơ sở “không biết” và trí tưởng tượng. Chừng nào những người đang yêu còn ôm ấp một hình ảnh lý tưởng và không đầy đủ về người mình yêu thì họ còn được hạnh phúc như ở vườn Địa Đàng, Nhưng huyền thoại này cũng có những chi tiết hư cấu. Khi Psyche thắp ngọn đèn lên và nhìn kỹ Eros lần đầu tiên, nàng phát hiện ra chàng là một vị thần đẹp tuyệt trần với đôi cánh bằng vàng. Còn khi bạn và tôi thắp đèn lên để lần đầu tiên quan sát kỹ người mình yêu một cách khách quan, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng họ chẳng phải thần thánh gì cả, họ cũng là những con người chưa hoàn thiện, đầy những khiếm khuyết, những ngược điểm, những tính xấu mà chúng ta nhất định không chịu thấy. Đến bao giờ thì tình yêu lãng mạn kết thúc và xung đột mở màn? TRANH CHẤP Anh không thể sống nổi dù ở bên em hay xa em. OVID. Đến bao giờ thì tình yêu lãng mạn kết thúc và xung đột mở màn? Dù người ta có tìm đủ cách dể hiểu được cơ cấu hành vi của con người, họ vẫn không thể xác định trước khi nào thì những chuyện này xảy ra. Nhưng đối với hầu hết các cặp tình nhân, mối quan hệ của họ có một sự thay đổi đáng chú ý vào lúc họ đưa ra một sự cam kết rõ ràng nào đó. Khi họ nói “Chúng ta hãy cưới nhau đi” hoặc “hãy đính hôn”, thì nghĩa là thời gian tìm hiểu thú vị và hấp dẫn đã đi đến một kết cục. Những người trong cuộc lúc đó không chỉ thỏa mãn với viễn cảnh đạt được, những ước muốn đã gây ra tình trạng hưng phấn của tình yêu lãng mạn, mà là sự thỏa mãn nhu cầu trên thực tế. Bất ngờ, người ta cảm thấy người bạn tình xưa mình dễ thương, thông minh, hấp dẫn và vui vẻ vẫn chưa đủ. Bây giờ người bạn tình phải thỏa mãn cả một hệ thống các ước vọng, có một vài điều có ý thức, nhưng phần lớn là vô thức. Những ước vọng này bao gồm những gì? Ngay khi người ta bắt đầu sống bên nhau, họ đã cho rằng người bạn đời của họ sẽ tuân theo một loạt những ứng xử rất đặc biệt nhưng hiếm khi được nói ra. Ví dụ, một người đàn ông có thể cho rằng cô dâu mới sẽ làm các công việc bếp núc, nấu ăn, đi chợ, giặt quần áo, sửa soạn cho các ngày nghỉ, chăm sóc con cái và quản lý những đồ gia dụng. Ngoài việc trông chờ người vợ thực hiện những trách nhiệm truyền thống này, anh ta còn có một danh sách dài những đòi hỏi tiêng biệt tùy theo cách anh ta được giáo dục từ nhỏ. Ví dụ, ngày Chủ nhật, anh ta muốn vợ mình nấu một bữa sáng đặc biệt trong khi anh ta đọc báo và sau đó họ cùng đi tản bộ trong công viên. Đây là cách cha mẹ anh ta nghỉ ngơi trong ngày Chủ nhật và anh ta sẽ cảm thấy ngày Chủ nhật đó “không ổn” nếu nó không giống như vậy. Trong khi đó vợ anh ta cũng có những mong muốn riêng của mình, có thể là trái ngược với anh ta. Ngoài việc mong đợi đức ông chồng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một người đàn ông trong gia đình, như sửa xe, trả tiền các hóa đơn, lo sữa chữa những hư hỏng trong ngôi nhà, cô còn muốn anh giúp cô trong công việc nội trợ, nấu ăn, đi mua sắm hay giặt quần áo. Và rồi, cô cũng có những mong đợi riêng tùy theo cách cô được giáo dục từ nhỏ, Một ngày Chủ nhật lý tưởng đối với cô có thể bao gồm đi Lễ nhà thờ, ăn trưa ở tiệm ăn, và đi thăm bạn bè, họ hàng suốt buổi chiều. Vì trước khi lấy nhau, cả hai bên đều không cho nhau biết những gì mình mong đợi ở người kia nên những trái ngược này có thể gây ra bầu không khí căng thẳng giữa hai vợ chồng. Nhưng quan trọng hơn nhiều so với những mong đợi có ý thức hay nửa ý thức này là những mong đợi vô thức của mỗi người đối với hôn nhân; trong đó mong đợi mãnh liệt nhất là người bạn đời của họ sẽ yêu họ theo cách mà cha mẹ họ chưa từng yêu họ. Người bạn đời của họ sẽ làm mọi điều, thỏa mãn những nhu cầu tuổi thơ không được đáp ứng, bổ khuyết những phần bản ngã bị mất, bảo bọc họ đầy yêu thương và chung thủy, và luôn luôn ở bên họ khi họ cần. Đây cũng là những mong đợi đã đốt lên ngọn lửa đầy kích thích của tình yêu lãng mạn, nhưng bây giờ không còn là một khao khát để đáp ứng lẫn nhau. Rốt cuộc thì người ta không lấy nhau để lo lắng, để thỏa mãn những nhu cầu của người mình yêu, mà lấy nhau để thúc đẩy sự tăng trưởng tâm lý và cảm xúc của riêng mình. Khi mối quan hệ có vẻ an toàn, một “công tắc” tâm lý nằm sâu trong tâm thức cũ sẽ được bật lên, kích thích sự bộc phát của tất cả những mong ước ấu thơ còn tiềm tàng. Dường như đứa trẻ bị tổn thường trong mỗi con người đã vùng lên nắm lại quyền bính. Đứa trẻ đó nói: “Ta đã cảm thấy chắc chắn rằng người này sẽ ở lại bên ta để giúp đỡ ta. Hãy xem ta được gì trong vụ này”. Và thế là cả người chồng và người vợ sẽ lùi ra xa nhau một bước lớn và chờ cho những lợi ích của sự kết hợp xuất hiện. Sự thay đổi có thể đột ngột hay từ từ, nhưng ở thời điểm nào đó, người vợ và người chồng bỗng thức dậy và nhận ra rằng mình đã chuyển tới sống ở một vùng khí hậu lạnh hơn. Bây giờ ít những vụ va chạm hơn, các thông điệp tình yêu cũng ngắn hơn và kín đáo hơn, ít hoạt động tình dục hơn. Hai người bạn đời sẽ ít kiếm cách ở bên nhau hơn và dùng nhiều thời gian để đọc sách báo, xem TV, giao tiếp với bạn bè hay chỉ đơn giản là ngồi mơ mộng. Tại sao lại có sự thay đổi đó? Nguyên nhân khiến tình yêu trở nên kém nồng nhiệt, một phần là do những khám phá không thú vị lắm về người mình yêu. Tới một lúc nào đó, người ta bỗng nhận ra rằng có những đặc điểm, những tính cách từng khiến họ mê thích nay lại làm họ khó chịu. Một người đàn ông bỗng nhận thấy tính bảo thủ của vợ mình, một trong những lý do khiến ông ta bị bà vợ cuốn hút trước đây, bây giờ lại làm bà có vẻ khô khan và kiểu cách. Một phụ nữ chợt phát hiện ra rằng thái độ kín đáo và lặng lẽ của chồng mình, thái độ mà hồi xưa bà cho là dấu hiệu của một trí tuệ khác thường, chỉ khiến bà cảm thấy cô độc. Một ông chồng nhận ra rằng tính bốc đồng và thích giao tiếp của bà vợ đã từng khiến ông vui vẻ thì nay chỉ làm ông cảm thấy phiền hà. Đâu là lý do cho sự thay đổi thái độ này? Nếu bạn nhớ lại rằng với khao khát được là một thực thể toàn vẹn về mặt tinh thần, để được hoàn thiện, chúng ta đã chọn người bạn đời có thể bù đắp cho phần bản ngã đã mất trong thời thơ ấu của chúng ta. Chúng ta tìm những người có thể đền bù cho sự thiếu sáng tạo, thiếu khả năng suy nghĩ hay cảm xúc của ta. Nhờ sự hợp nhất giữa ta và người bạn đời, ta có cảm giác liên hệ lại được với phần bản ngã bị che giấu. Vào thời gian đầu, sự dàn xếp này tỏ ra có hiệu quả. Nhưng cùng với thời gian, những tính cách bổ khuyết của người bạn đời bắt đầu đánh thức trong ta những cảm xúc và thuộc tính vẫn còn bị cấm đoán. Để tìm hiểu tại sao hiện tượng đầy kịch tính này lại xảy ra trong thực tế, ta hãy quay lại với câu chuyện của John, nhà doanh nghiệp thành công đã được nói tới ở chương trước, người tuy sống bên Patricia nhưng lại mong ước đến tuyệt vọng được ở bên Cheryl. Một ngày nọ, John tới chữa trị với tâm trạng sôi nổi. Lần này anh không nhắc tới công việc lập trình máy tính như thường lệ, mà đi vào chủ đề chính ngay lập tức và kể cho tôi nghe những tin tốt lành của anh. Cheryl, với ý định làm lành, đã quyết định đồng ý cho anh dọn tới ở chung trong sáu tháng để thử thách. Thế là giấc mơ của anh đã thành sự thật. Tâm trạng ngây ngất của John kéo dài được vài tháng. Trong thời gian đó John cho rằng anh không cần phải chữa trị tâm lý nữa (cũng như phần lớn những người khác, John cảm thấy không cần phải suy nghĩ để giải quyết trục trặc chừng nào anh ta còn cảm thấy hạnh phúc). Nhưng rồi một hôm, anh gọi điện tới tôi xin hẹn gặp. Khi tới nơi, anh kể lại rằng anh và Cheryl bắt đầu gặp rắc rối. Điều đầu tiên anh kể là tính bốc đồng của Cheryl bắt đầu làm anh khó chịu. Anh có thể chịu đựng được những xúc cảm thái quá của cô (như lời anh mô tả) khi chúng dành cho ngưòi khác – chẳng hạn như khi cô mắng mỏ viên thư ký hay sôi nổi nói chuyện với bạn gái – nhưng khi cô hướng những xúc xảm thái quá về phía anh thì anh cảm thấy vô cùng sợ hãi. “Tôi có cảm giác đầu tôi sắp nổ tung ra”. Lý do khiến John cảm thấy lo lắng đến thế khi ở bên Cheryl là cô bắt đầu khuấy động sự giận dữ bị dồn nén của anh. Ban đầu, ở bên cô, anh có ảo giác dễ chịu rằng anh đã chạm tới những cảm xúc sâu xa của mình. Nhưng sau một thời gian, tính bốc đồng của Cheryl kích thích những cảm xúc của chính anh tới mức chúng chỉ chực bùng nổ. Siêu ngã của John, phần tâm thức còn đè nặng bởi sự cấm đoán không được giận dữ của mẹ anh, đã gửi đi những thông điệp hoảng loạn báo động để anh giữ nguyên tình trạng dồn nén. John cố gắng giảm bớt sự lo lắng bằng cách làm nghẹt cơn xúc cảm của Cheryl: “Lạy Chúa, Cheryl! Em đừng quá xúc động như thế! Em cư xử như một mụ điên!” hoặc :”Bình tĩnh lại nào và nói cho anh biết. Anh chẳng hiểu em đang nói gì”. Chính tính cách đã có thời mê hoặc anh bây giờ lại trở nên một mối đe dọa cho sự tồn tại của anh (theo cung cách nhận thức của tâm thức cũ). Cũng tương tự như vậy, tới một lúc nào đó, bạn sẽ bắt đầu ao ước rằng người bạn đời của mình bớt thông minh, bớt dịu dàng, bớt xa cách, nghĩa là bớt toàn vẹn đi một chút. Bởi vì những phẩm chất này đang kêu gọi những phẩm chất tương tự còn bị dồn nén trong con người bạn, và bản ngã bị che giấu của bạn đang đe dọa sẽ xuất đầu lộ diện ngoài ý muốn của bạn. Khi đó, bạn cảm thấy vô cùng lo lắng. Đó là một kinh nghiệm chẳng thú vị gì và bạn tìm cách dồn nén người bạn đời như cha mẹ bạn đã dồn nén bạn khi xưa. Trong nỗ lực bảo vệ sự tồn tại của mình, bạn đã cố gắng thu giảm tính cách của người bạn đời. Cảm giác bất an càng lúc càng tăng đối với những tính cách bổ khuyết của người bạn đời chri là một phần trong cơn bão đang ập tới. Những tính cách tiêu cực của người bạn đời mà bạn kiên quyết phủ nhận bây giờ bắt đầu hiện ra rõ mồn một. Bất chợt, vẻ âu sầu phiền muộn, tật uống rượu, tính hà tiện hay thiếu trách nhiệm của người bạn đời đập vào mắt bạn. Điều này làm bạn thất vọng nhận ra rằng không những nhu cầu của bạn không được đáp ứng, mà số phận còn định sẵn rằng người bạn đời của bạn cũng sẽ làm thương tổn bạn như bạn đã từng bị thương tổn trong thời thơ ấu! Một cái nhìn lướt qua sự thật cay đắng Tôi đã có những khám phá cay đắng này chỉ ít lâu sau khi lấy người vợ đầu tiên, chính xác là trong ngày thứ hai của tuần trăng mật. Tôi và người vợ mới cưới của tôi tới hưởng tuần trăng mật trên một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Nam Georgia. Lúc đó chúng tôi đang đi dạo dọc bờ biển. Vợ tôi đi sát mép nước khoảng bảy, tám chục mét trước mặt tôi, đầu cúi xuống và mê mải tìm vỏ sò. Tôi tình cờ ngước mắt lên và thấy cô chìm trong những tia nắng đầu tiên của bình minh. Bây giờ tôi không còn nhớ chính xác lúc đó trông cô ấy như thế nào. Cô ấy đang quay lưng lại phía tôi. Trên người cô là bộ đồ mày đen và chiếc mũ đỏ. Mái tóc vàng dài chấm vai bay trong gió. Khi tôi nhìn cô ấy, tôi để ý thấy vai cô chùng xuống. Tôi bỗng cảm thấy lo lắng, ngay sau đó tôi nôn nao nhận ra rằng mình đã lấy nhầm người. Đó là một cảm giác rất mạnh mẽ – tôi phải kiềm chế sự thôi thúc muốn chạy ngay tới xe và bỏ đi thật xa. Khi tôi đang đứng sững ở đó thì vợ tôi quay lại phía tôi, vẫy tay và mỉm cười. Tôi có cảm giác như vừa bừng tỉnh khỏi một cơn ác mộng, tôi vẫy tay đáp lại và chạy tới gặp cô ấy. Dường như lúc đó một tấm màn đã được vén lên rồi lại thả xuống. Tôi phải mất mấy năm mới hiểu được chính xác chuyện gì đã xảy ra. Lúc đó tôi đang phải chữa trị tâm lý. Bác sĩ tâm lý hướng dẫn tôi làm một bài tập về sự dồn nén, bài tập đưa tôi trở lại với thời thơ ấu và với sự giúp đỡ của ông, tôi thấy lại hình ảnh chính mình đang chơi đùa trên sàn nhà bếp của mẹ tôi. Tôi mới một hay hai tuổi gì đó. Tôi hình dung ra mẹ tôi đang bận bịu bên bếp lò, quay lưng lại phía tôi. Có lẽ đây là cảnh thường diễn ra vì tôi là đứa con thứ chín của bà và mỗi ngày bà ở trong nhà bếp cõ lẽ tới bốn năm tiếng đồng hồ để nấu ăn và dọn dẹp. Tôi có thể trông thấy rõ lưng bà. Bà đang đứng cạnh bếp lò, mặc một bộ váy áo màu hồng, sợi dây tạp dề buộc quanh lưng. Bà đang mệt mỏi, buồn phiền và đôi vai bà trĩu xuống. Với con mắt quan sát của một người trưởng thành trước cảnh này, tôi chìm ngập trong nhận thức rằng mẹ tôi chẳng còn chút sức lực tinh thần cũng như thể chất nào dành cho tôi. Cha tôi đã mất trước đó vài tháng, để lại mẹ tôi một mình với nỗi đau buồn của bà, rất ít tiền bạc và cả chục đứa con phải chăm nom. Tôi có cảm giác mình là một đứa trẻ không được mong đợi. Không phải vì mẹ tôi không yêu tôi – bà là một người rất tình cảm và ân cần – mà vì tất cả sức lực và tinh thần của bà đều đã khô cạn. Bà bị vắt kiệt trong những lo toan tính toán và chỉ còn có thể chăm sóc tôi một cách máy móc. Đây là một khám phá mới đối với tôi. Cho tới lúc đó, tôi luôn cho rằng nguyên nhân làm tôi lo lắng là do cả cha lẫn mẹ tôi đều đã qua đời khi tôi mới sáu tuổi. Nhưng hôm đó tôi dã biết được rằng cảm giác bị bỏ rơi của tôi xuất hiện còn sớm hơn tôi tưởng nhiều. Ngược dòng thời gian, tôi gọi mẹ tôi, nhưng bà không trả lời. Tôi ngồi trong văn phòng của vị bác sĩ tâm lý và khhóc vì nỗi đau đớn vô hạn. Rồi tôi phát hiện ra điều thứ hai. Tôi bất chợt nhận ra điều gì đã xảy đến với tôi ngày hôm đó ở bờ biển. Khi tôi thấy vợ tôi ở xa tôi đến thế, mê mải trong thế giới riêng của cô ấy và với đôi vai cũng trĩu xuống như vậy, tôi có một linh cảm kỳ lạ rằng cuộc hôn nhân của tôi cũng sẽ là một bản sao của những tháng ngày tôi sống cùng người mẹ đáng thương của tôi. Nỗi cô đơn trống trải trong thời thơ ấu của tôi rồi sẽ lại tiếp tục. Tất cả những khám phá ấy dường như quá sức tôi, và tôi đã vội vã hạ tấm màn xuống. Tới một lúc nào đó trong cuộc hôn nhân, người ta sẽ khám phá ra rằng một điều gì đó trong con người của chồng hay vợ mình đã khơi dậy những tổn thương sâu sắc của tuổi thơ. Đôi khi sự khám phá đó của cả hai bên tương đương nhau rõ rệt. Một phụ nữ bị cha mẹ đánh đập khi còn nhỏ sẽ thấy chồng mình có tính vũ phu. Một người có cha mẹ nghiện rượu bỗng phát hiện mình đã lấy một kẻ nghiện ma túy hoặc một con sâu rượu. Nhưng những điểm tương tự giữa cha mẹ và người bạn đời thường rất khó thấy. Đây là trường hợp của Bernard và Kathryn, thân chủ của tôi. Họ đã lấy nhau được hai mươi tám năm. Bernard là giám đốc một cơ sở phục vụ công cộng; còn Kathryn đang đi học lại để lấy bằng luật sư. Họ có ba con và một đứa cháu. Một buổi tối khi họ bước vào văn phòng của tôi để tham vấn hàng tuần, cả hai đều có vẻ bị ức chế và thất vọng. Tôi đoán ngay là họ lại mới có một cuộc cãi vã, hay một kiểu chiến tranh lạnh, điều đã diễn ra giữa họ suốt hai mươi năm qua bằng nhiểu phương cách khó thấy. Phần lớn các cặp vợ chồng đều có những lúc “xô bát đĩa” như vậy, cuộc chiến lặp đi lặp lại nhiều lần đến nỗi họ biết rõ vai kịch của mình như thuộc lòng bàn tay. Họ kể với tôi là cuộc chiến xảy ra khi họ đang trang trí ngôi nhà cho Lễ Giáng Sinh. Bernard vẫn lặng lẽ như thường lệ, đắm chìm trong những suy nghĩ riêng. Còn Kathryn đang chỉ đạo các con thực hiện công việc. Cả ba đứa con của họ cùng vợ hoặc chồng chúng đã tới chơi trong kỳ nghỉ và Kathryn muốn mọi thứ phải hoàn hảo. Bernard làm mọi việc vợ yêu cầu và vẫn tiếp tục chìm trong những ý nghĩ riêng. Sau khoảng một giờ hay hơn thế, sự im lặng của Bernard khiến Kathryn thấy khó chịu. Bà cố lôi kéo sự chú ý của Bernard với câu chuyện về các con của họ. Bernard cũng chỉ ậm ừ đáp cho qua chuyện. Kathryn càng lúc càng khó chịu với ông hơn. Cuối cùng bà quay sang chỉ trích cách ông mắc đèn lên cây Noel: “Tại sao ông không chú ý vào việc ông đang làm? Tôi làm lấy có lẽ lại hơn!” Bernard để mặc bà nói xối xả, sau đó lẳng lặng quay đi và bước ra cửa sau. Kathryn tới cửa sổ nhà bếp. Khi nhìn theo cánh cửa nhà xe khép lại sau lưng Bernard, bà bỗng thấy vừa sợ hãi vừa tức giận lẫn lộn. Cơn giận vẫn mạnh hơn: lần này bà sẽ không để ông rút lui dễ dàng như vậy. Bà bước ra theo sau ông và đẩy bật cửa nhà xe ra. “Lạy Chúa! Tại sao ông không giúp tôi làm? Lúc nào ông cũng trốn ở đây. Chẳng lúc nào ông giúp tôi khi tôi cần. Ông bị làm sao thế?”. Trong con mắt của một bác sĩ tâm lý, việc Kathryn dùng từ được dùng ở khắp nơi như “luôn luôn” và “không bao giờ” là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy bà đang ở trong tình trạng bị dồn nén. Những đứa trẻ nhỏ khó phân biệt giữa quá khứ và thực tại; điều gì xảy ra vào lúc này cũng luôn luôn xảy ra trong quá khứ và sẽ luôn luôn xảy ra trong tương lai. Nhưng Bernard không phải là một nhà tâm lý. Ông là người bị bà bao vây công kích và ông chỉ vừa thoát khỏi một cơn lũ những lời phê phán, mong tìm một nơi yên ổn. Tâm thức cũ của ông phản ứng lại trước cuộc tấn công của bà, thực ra chỉ là tiếng khóc của một đứa trẻ trong con người trưởng thành. Ông trả miếng: “Có thể tôi đã giúp bà nhiều hơn nếu bà đừng có nanh nọc như vậy! Bà lúc nào cũng săn đuổi tôi. Bà không thể để tôi yên được năm phút à?”. Ông giận sôi lên, còn Kathryn thì òa khóc. Với tư cách là một người ngoài cuộc, tôi có thể dễ dàng thấy từng bước sự tiến triển của cuộc cãi vã. Nguyên nhân gây ra cãi cọ hầu như luôn luôn là thái độ lơ đễnh của Bernard. Kathryn sẽ mè nheo để cố bắt ông phải trả lời. Đến khi Bernard hết chịu nổi, ông sẽ bỏ sang phòng khác để được yên ổn. Lúc đó Kathryn sẽ nổi cơn thịnh nộ, còn Bernard cũng giận dữ không kém. Kết quả là Kathryn òa khóc. Khi họ kể lại lần cãi vã vừa rồi, tôi hỏi Kathryn chính xác bà thấy thế nào khi chuẩn bị cho ngày lễ bên cạnh một ông chồng lầm lì như đất. Bà ngồi im một lúc, cố nhớ lại cảm xúc của mình. Rồi ngẩng lên với vẻ bối rối, bà nói: “Tôi thấy sợ. Tôi sợ ông ấy sẽ không nói chuyện với tôi nữa”. Lần đầu tiên bà nhận ra rằng bà thực sự sợ sự im lặng của Bernard. Tôi hỏi bà: “Bà sợ cái gì kia, Kathryn?” Bà trả lời ngay: “Tôi sợ ông ấy sắp đánh tôi”. Bernard nhìn sang bà với đôi mắt mở to ngạc nhiên. Tôi nói: “Hãy xem Bernard nói gì về chuyện này. Bernard này, lúc đứng trong nhà bếp, ông có nghĩ đến chuyện đánh Kathryn không?” “Đánh bà ấy à?”. Ông ngạc nhiên. “Đánh bà ấy ư? Cả đời, tôi chưa bao giờ đụng đến bà ấy. Tôi chỉ mải mê với những ý nghĩ riêng của mình. Nếu tôi nhớ không lầm thì tôi đang lo rằng tới mùa xuân, chúng tôi sẽ phải lợp lại mái vì nó đã bị dột. Và vài điều rắc rối ở sở làm nữa”. “Thật thế ư?”-Kathryn hỏi – “Ông không giận tôi hôm đó à?”. “Chắc chắn là không rồi! Tôi thấy khó chịu vì bà cứ nhiếc móc tôi, nhưng tất cả những gì tôi muốn là tránh ra xa. Tôi chỉ nghĩ nếu được ra nhà xe để làm những việc riêng của tôi thay vì cứ bị mè nheo không ngớt như thế thì thật hay!”. “Thế mà tôi lại nghĩ rằng ông khó chịu với tôi, cuối cùng ông không kiên nhẫn được nữa và nổi khùng lên”. “Đồng ý là tôi có nổi khùng, nhưng phải sau khi đã bị bà mè nheo đến hai, ba tiếng đồng hồ. Ai mà chẳng nổi khùng kia chứ? Lúc đầu tôi đâu có khó chịu với bà?”. Thế là mọi việc rõ cả. Bernard xem ra không có vẻ là một người hung bạo. Tôi nói với Kathryn: “Kathryn này, bà cứ nhắm mắt lại một lúc và nghĩ xem điều gì làm bà sợ hãi khi Bernard không trả lời bà”. Một lúc sau bà đáp: “Tôi không biết. Chỉ là vì ông ấy im lặng thôi”. “Thôi được, bà cứ giữ nguyên ý nghĩ ấy và cố nhớ lại điều gì đó có liên quan đến sự im lặng khi bà còn nhỏ. Nhắm mắt lại đi”. Căn phòng im lặng. Thế rồi Kathryn mở mắt ra: “Đó là cha tôi! Tôi không nhận ra điều đó. Cha tôi thường chìm trong cơn phiền muộn và không nói gì trong nhiều tuần liền. Lúc nào ông như vậy thì tôi biết phải tránh xa ông, vì nếu tôi làm gì đó sai, ông sẽ đánh tôi. Khi thấy ông tỏ ra buồn rầu là tôi hoảng sợ. Tôi biết là thời gian tới sẽ khó khăn đấy”. Cha của Kathryn và chồng bà có chung một điểm quan trọng – cả hai đều có thói quen im lặng trong một thời gian dài – và không nghi ngờ gì, đấy chính là một trong những lý do Kathryn bị lôi cuốn về phía Bernard. Bà đã chọn một người cũng giống cha bà, để bà có thể giải quyết được nỗi sợ bị ngược đãi. Bà không kết hôn với một người cởi mở hay nói – bà tìm một người cũng có tính xấu như cha mình để có thể tái tạo lại môi trường tuổi thơ và tiếp tục đấu tranh giành tình yêu và sự ân cần. Nhưng Bernard chỉ giống cha bà ở bề ngoài. Ông im lặng vì ông là người sống nội tâm, không phải vì ông buồn phiền và sắp nổi cơn giận dữ. Chính thái độ mè nheo không ngừng của Kathryn đã chọc tức ông. Tôi đã thấy hiện tượng này trong rất nhiều thân chủ của tôi. Họ cư xử với người bạn đời như thể người bạn đời của họ là những bản sao của cha mẹ họ, dù không phải tất cả những tính cách của những người ấy đều giống nhau. Với nhu cầu mãnh liệt hoàn thành nốt công việc bỏ dở, họ chiếu rọi tính cách của cha mẹ mình lên người bạn đời. Và rồi họ đối xử với người bạn đời như thể người bạn đời có những tính cách đó thật. Một đồng nghiệp của tôi nói rằng người ta vừa “tìm những tính cách giống như Hình mẫu, vừa chiếu rọi chúng lên đối tượng, vừa kích thích chúng xuất hiện ở đối tượng”. Cuốn phim gia đình, phần II Cho tới giờ, ta đã bàn về hai yếu tố làm bùng lên những xung đột sâu sắc: 1. Người bạn đời của ta làm ta lo lắng vì đã khuấy động những phần bản ngã bị cấm đoán trong ta. 2. Người bạn đời của ta có (hay có vẻ có) những tính cách tiêu cực của cha mẹ ta, tạo cho ta những thương tổn mới bên cạnh những thương tổn cũ và vì thế, đánh thức dậy nỗi sợ của vô thức trước cái chết. Bây giờ là yếu tố thứ ba và cuối cùng gây nên bất hòa và đáng để ta chú ý tới. Ở chương trước, tôi đã nói rằng những cảm xúc vui vẻ (khi còn ở giai đoạn đầu của tình yêu) tới từ việc chiếu rọi những nét tích cực của Hình mẫu lên người bạn đời, nói cách khác, ta nhìn người bạn đời và thấy tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhưng bị dồn nén của chính ta. Khi có xung đột sâu sắc giữa hai người thì ta vẫn tiếp tục để máy chiếu quay, nhưng ta đổi cuộn phim và bây giờ ta chiếu rọi lên người bạn đời những tính cách tiêu cực bị chối bỏ! Trong chương hai, tôi đã gọi những mặt tiêu cực bị phủ nhận này là “phần bản ngã bị chối bỏ”. Nếu bạn nhớ lại thì sẽ thấy tôi đã nói rằng tất cả mọi người đều có những góc sâu kín trong tâm hồn mà họ không muốn biết tới. Phần lớn các trường hợp, chúng là những gì được tạo ra để thích ứng với những thương tổn tuổi thơ. Người ta cũng dựng lên những tính cách tiêu cực này qua sự quan sát cha mẹ họ. Dù họ có thể không thích điều gì đó ở cha mẹ họ, nhưng họ sẽ “nhập tâm” những tính cách đó qua một quá trình có tên là “sự nhận dạng”. Ví dụ, thói gia trưởng của người cha và sự coi thường mình của người mẹ đã truyền sang đứa con. Nhưng khi đứa trẻ có khả năng nhận thức nhiều hơn, nó nhận ra rằng đây chính là những tính cách nó không thích ở cha mẹ nó, và nó cố hết sức để phủ nhận chúng. Bây giờ mới xuất hiện điều thú vị. Đứa trẻ không chỉ thu nhận những mặt tiêu cực, dù nó chối bỏ và đẩy chúng ra khỏi tầm nhận thức, mà khi lớn lên, nó còn tìm những mặt tiêu cực này ở người khác, vì đó là một phần chủ yếu trong Hình mẫu của nó. Hình mẫu, do đó không chỉ là một hình ảnh của một người khác phái mà còn là sự mô tả bản ngã bị chối bỏ của con người. Một ví dụ sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn hiện tượng tâm lý phức tạp và gây tò mò này. Tôi đã làm việc chung nhiều năm với một phụ nữ tên là Lillian. Cha mẹ cô ly dị khi cô mới chín tuổi và mẹ cô giành được quyền nuôi Lillian và chị cô, June, mười hai tuổi. Một năm sau khi ly dị, mẹ cô lấy một người đàn ông khác. Ông ta không hợp với June. Ông ta la mắng cô bé không ngớt, trừng phạt June vì những lỗi lầm rất nhỏ. Vài lần mỗi tuần, ông ta lại nổi cơn thịnh nộ và lôi cô bé vào phòng, dùng dây lưng đánh vào mông nó. Lillian lúc đó thường đứng ngoài cửa, lắng nghe tiếng sợi dây lưng đập đen đét và run lên vì tức giận và sợ hãi. Cô căm thù người cha dượng. Thế nhưng khi cô ở một mình với June, thì cô lại đối xử với June cũng tàn tệ như vậy. Cô cũng gọi chị mình với những cái tên làm tổn thương June mà cô thường nghe cha dượng gọi. Việc cô có thể làm tổn thương June đối với Lillian quá đau đớn đến nỗi cô đè nén những kỷ niệm này. Phải mất một năm chữa trị cô mới gợi lại được những kỷ niệm ấy và rất lâu sau, cô mới bắt đầu tin tôi và kể cho tôi nghe về chúng. Khi đó, tôi có thể chỉ cho cô thấy rằng thu nhận những mặt tích cực và tiêu cực của người nuôi dưỡng là bản chất tự nhiên của con người. Cha dượng của Lillian là người có ảnh hưởng lớn nhất trong ngôi nhà và vô thức của cô đã ghi nhận rằng người nào thường giận dữ nhiều nhất là người có quyền lực lớn nhất. Do đó, giận dữ và chế nhạo là hai vũ khí có giá trị để sống còn. Dần dần, những tính cách này đã ăn sâu vào bản chất vốn tốt bụng của Lillan. Khi Lillian lớn lên và lập gia đình, việc cô yêu một người có một số tính cách giống cha dượng của cô là điều không tránh khỏi, đặc biệt là tính cáu bẳn, bởi vì đây là tính cách đã làm cô sợ hãi nhất. Thực ra, lý do khiến cô tìm đến bác sĩ tâm lý là vì chồng cô đã đánh đập cô. Sau hai năm trị liệu, cô đã có thể nhận ra rằng sự giận dữ đáng ghét của cha dượng cô lại là một yếu tố vô thức gây nên sự cuốn hút của chồng cô đối với cô, và điều này còn đáng báo động hơn, là một phần bị chối bỏ trong nhân cách của cô. Tôi thấy cùng một khuynh hướng tương tự trong tất cả các mối quan hệ yêu đương. Người ta cố gắng xua đuổi những tính cách tiêu cực bị chối bỏ bằng cách chiếu rọi chúng lên người bạn đời. Hoặc nói cách khác, họ xem xét người bạn đời của mình, chỉ trích tất cả những gì họ không thích và phủ nhận chúng trong chính con người họ. Lấy những tính cách tiêu cực đã được thu nhận, chiếu rọi chúng lên người bạn đời là một cách thức rõ ràng rất hiệu quả để che khuất những phần bản ngã không mong muốn trong ta. Bây giờ, ta đã xác định được ba nguyên nhân chính gây mâu thuẫn dẫn đến xung đột. Khi ảo tưởng của tình yêu lãng mạn mờ dần đi, các cặp vợ chồng bắt đầu: 1. Khuấy động những hành vi và tình cảm bị dồn nén của người bạn đời. 2. Khơi lại chấn thương tuổi thơ của người 3. Gán ghép những mặt tiêu cực của chính mình lên người bạn đời. kia. Tất cả những tác động qua lại này đều là vô thức. Tất cả những gì người ta nhận biết được chỉ là họ cảm thấy bối rối, giận dữ, lo lắng, buồn phiền và không được yêu thương. Và việc họ quy hết những đau khổ này là do người bạn đời gây ra là một hành động tự nhiên. Họ không thay đổi – họ vẫn như vậy thôi! Nhưng người bạn đời của họ mới là người thay đổi! Những vũ khí của tình yêu Tuyệt vọng, họ bắt đầu sử dụng những chiến thuật tiêu cực để bắt người bạn đời phải tỏ ra yêu thương họ nhiều hơn. Họ kiềm chế tình cảm và tỏ ra lạnh lùng. Họ trở nên bực bội và hay chỉ trích. Họ tấn công và buộc tội: “Tại sao anh không…” “Tại sao em lúc nào cũng…?” “Làm sao anh có thể…?” Họ ném những lời kết tội này vào người bạn đời trong một cố gắng tuyệt vọng nhằm làm người bạn đời trở nên ân cần, đáp ứng hoặc biểu lộ những tính cách tích cực trong Hình mẫu của họ. Họ tin rằng nếu họ bắt người bạn đời phải chịu đau khổ, người bạn đời sẽ trở lại thái độ yêu thương ban đầu. Điều gì khiến họ tin rằng làm tổn thương người bạn đời thì người đó sẽ cư xử tốt hơn? Tại sao người ta không đơn giản nói với nhau bằng ngôn ngữ thường ngày, rằng mình muốn người kia quan tâm yêu thương mình nhiều hơn hoặc để mình tự do hơn hoặc bất cứ thứ gì mình mong muốn? Tôi đã hỏi một cặp vợ chồng câu hỏi đó lúc đang tiến hành trị liệu. Đó chỉ là một câu hỏi không địa chỉ; và tôi không nhận được câu trả lời. Nhưng tình cờ vài phút trước đó, tôi vừa nói tới trẻ con và phản ứng bản năng bằng tiếng khóc của chúng khi gặp điều gì đó gây đau khổ. Bất chợt tôi có câu trả lời. Một lần nữa tâm thức cũ của chúng ta lại là nguyên nhân. Khi ta còn là trẻ con, ta không cười với mẹ mình để bà chăm sóc ta. Ta không biểu lộ sự không hài lòng của mình bằng lời nói. Chúng ta chỉ biết làm một việc là há miệng ra la hét. Và chúng ta cũng biết rất rõ là chúng ta càng hét to thì cha mẹ ta tới càng nhanh. Thành công của chiến thuật này đã trở thành một “vết hằn”, một phần của kho kinh nghiệm về cách làm cho thế giới xung quanh đáp lại nhu cầu của ta. “Khi ta bị thất vọng, hãy kích động người khác. Hãy tỏ ra khó chịu hết mức tới khi nào có ai đó tới giúp ta.” Cách bày tỏ sự đau khổ này đặc trưng cho những cặp vợ chồng đang có xung đột sâu sắc. Nhưng có một ví dụ chống lại quan điểm của tôi. Một vài năm trước, tôi chữa trị cho một cặp vợ chồng đã lấy nhau được hai mươi lăm năm. Người chồng đinh ninh rằng vợ mình là người không những rất ích kỷ mà còn hay hiềm thù. “Bà ấy chẳng bao giờ nghĩ đến tôi”, ông ta than phiền, kể ra vô số cách mà bà vợ thường dùng để bỏ mặc ông. Trong khi đó, bà vợ ngồi im lặng trong ghế và chỉ lắc đầu để tỏ ý phản đối. Ngay khi ông chồng vừa dứt lời, bà cúi mình về phía trước và nói với tôi bằng giọng nói mạnh mẽ và tha thiết: “Xin hãy tin tôi, tôi đã làm mọi thứ tôi có thể để làm vui lòng ông ấy. Tôi ở bên ông ấy nhiều hơn, hoặc ít hơn. Thậm chí mùa đông này tôi còn tập trượt tuyết nữa, chỉ hy vọng là sẽ làm ông ấy vui, trong khi tôi chúa ghét bị lạnh! Nhưng xem ra chẳng có ích gì”. Để giúp họ thoát khỏi thế bí, tôi đề nghị người chồng hãy nói ra xem vợ ông phải làm điều gì để làm ông thấy vui sướng hơn, một hành động thực tế, có thể làm được để giúp ông có cảm giác được yêu thương. Ông ta đằng hắng, ấp úng rồi càu nhàu: “Nếu cô ấy đã lấy tôi hai mươi lăm năm rồi mà vẫn không biết tôi muốn cái gì thì tức là cô ấy có để ý gì đến tôi đâu! Đơn giản là cô ấy không quan tâm đến tôi!” Người đàn ông này, cũng như tất cả chúng ta, đã đeo bám vào một quan điểm cổ xưa. Khi ông ta còn là một đứa trẻ nằm trong nôi, ông ta đã nhận biết mẹ mình là một tạo vật khổng lồ cúi xuống bên ông ta và cố hiểu bằng trực giác những nhu cầu của con mình. Ông ta là đứa trẻ được cho ăn, cho mặc, tắm táp và bảo bọc, dù nó không nói được rõ ràng nó muốn điều gì. Bài học chủ yếu từ trước khi biết nói của nó đã để lại một dấu vết không thể gột sạch trong tâm hồn: người khác có trách nhiệm phải nhận ra nó muốn cái gì và cho nó cái ấy mà nó không cần phải làm điều gì khác ngoài khóc. Dù phương pháp này đạt kết quả khá tốt khi còn bé, nhưng khi đứa trẻ đó lớn lên thì những nhu cầu của nó đã trở nên phức tạp. Hơn nữa, vợ ông ta không phải là người mẹ tận tụy cúi xuống bên nôi của đứa con. Bà cũng là một người bình đẳng với chồng, và có những nhu cầu và mong đợi riêng của bà, điều làm ông ta vô cùng ngạc nhiên. Và mặc dù bà rất muốn làm chồng hạnh phúc, bà không biết phải làm gì. Vì thiéu nguồn thông tin này, bà đành phải đối xử với chồng như với một đứa trẻ to xác: “Có phải đây là điều ông muốn không? Có phải không?”. Khi hai người đều không nói ra là mình muốn điều gì mà cứ chỉ trích nhau không ngớt rằng người kia ích kỷ thì không có gì đáng ngạc nhiên là tại sao tình yêu và sự hòa hợp lại bay đi mất. Thay vào chỗ đó là sự xung đột đầy ác nghiệt đang hiện rõ dần. Trong cuộc tranh chấp đó, người này cố buộc người kia phải đáp ứng nhu cầu của mình. Cho dù người kia có phản ứng lại bằng thái độ chiến tranh, họ vẫn không nản chí. Tại sao vậy? Bởi vì vùng vô thức của họ sợ rằng, nếu nhu cầu của họ không được đáp ứng, họ sẽ chết. Đây là một ví dụ cổ điển cho cái mà Freud gọi là “Sự cưỡng bách lặp đi lặp lại”, khuynh hướng lặp đi lặp lại những hành vi không có hiệu quả của con người. Một số cặp vợ chồng giữ nguyên tình trạng giận dữ thù địch này vĩnh viễn. Họ mài sắc khả năng đâm xuyên qua hàng rào bảo vệ của nhau và làm tổn thương tâm hồn nhau. Cơn giận bùng nổ thành bạo lực với mức độ thường xuyên đáng báo động. Các giai đoạn của cuộc xung đột Khi bạn bị mắc kẹt trong cuộc xung đột gia đình, cuộc sống đối với bạn xem ra thật lộn xộn. Bạn không biết đầu đuôi thế nào nữa. Bạn không có khái niệm gì về chuyện nó đã bắt đầu như thế nào và sẽ kết thúc như thế nào. Nhưng nếu đứng từ xa nhìn thì xung đột gia đình xảy ra theo một quá trình có thể đoán trước được, cùng lúc với những giai đoạn đau buồn vì một người bị chết hay mất đi. Nhưng người này không phải là người bằng xương bằng thịt, mà là một ảo ảnh của tình yêu lãng mạn. Tới đầu tiên là cú sốc, một khoảnh khắc kinh sợ của sự thật khi cánh cửa bỗng mở và những ý nghĩ méo mó xâm nhập vùng ý thức của bạn: “Đây không phải là người tôi đã lấy”. Vào lúc đó, bạn nghĩ rằng cuộc hôn nhân này sẽ lặp lại nỗi cô đơn và đau đớn của tuổi thơ, chứ không phải là sự hàn gắn như bạn đã hình dung trước đây. Sau cú sốc là sự chối bỏ. Sự thất vọng lớn lao đến nỗi bạn không cho phép mình thừa nhận sự thật. Bạn cố hết sức để rọi những tia sáng tích cục lên những tính cách tiêu cực của người bạn đời. Nhưng cuối cùng bạn cũng không duy trì được thái độ đó, và bạn cảm thấy mình bị phản bội. Hoặc người bạn đời của bạn đã thay đổi mạnh mẽ so với ngày hai người mới yêu nhau, hoặc từ hồi đó tới giờ, bạn luôn bị lừa dối về bản chất thật của người bạn đời. Bạn đau đớn, và mức độ đau đớn của bạn là mức độ khác biệt giữa ảo ảnh đẹp đẽ ban đầu và hình ảnh thực của người bạn đời. Nếu bạn chịu đựng được giai đoạn giận dữ của cuộc xung đột, một số nọc độc tiêu đi và bạn bước sang giai đoạn thứ tư, giai đoạn mặc cả. Trong giai đoạn này người ta thường có những hành động mặc cả như: “Nếu anh bỏ rượu thì tôi sẽ ở nhà nhiều hơn” hoặc “Nếu cô để cho tôi nhiều thời gian đi bơi thuyền hơn, tôi sẽ chăm sóc các con nhiều hơn”. Các bác sĩ tâm lý hôn nhân có thể kéo dài không cố ý giai đoạn này của cuộc xung đột nếu họ giúp đôi vợ chồng đạt được những thỏa thuận ứng xử mà vẫn chưa đi tới cốt lõi của vấn đề. Giai đoạn cuối cùng của cuộc xung đột là sự tuyệt vọng. Khi đôi lứa đã tới giai đoạn cuối cùng này, họ không còn hy vọng nào để tìm được hạnh phúc hay tình yêu trong mối quan hệ nữa; sự đau đớn đã đi quá xa. Ở thời điểm này, một nửa số các cặp vợ chồng đã từ bỏ tia hy vọng cuối cùng và đưa đơn ly dị. Những cặp vợ chồng nào vẫn không ly dị thì tạo nên cái gọi là hôn nhân “song song” và mỗi người cố tìm hạnh phúc cho riêng mình ngoài hôn nhân. Một số rất ít, có lẽ khoảng năm phần trăm con số các cặp vợ chồng tìm được lối thoát ra khỏi cuộc xung đột và tiếp tục xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Để dễ hiểu hơn, tôi trình bày vấn đề dưới hình thức đơn giản nhất. Đầu tiên, chúng ta chọn bạn đời vì hai nguyên nhân cơ bản: 1. Họ có cả những phẩm chất tích cực và tiêu cực của những người nuôi dưỡng ta. 2. Họ bù đắp những bản ngã tích cực của ta đã bị mất từ thời thơ ấu. Chúng ta bắt đầu một mối quan hệ mới với giả định của vô thức rằng người bạn đời của ta sẽ thay thế cha hoặc mẹ ta và bù đắp cho mọi mất mát trong thời thơ ấu của ta. Tất cả những gì ta phải làm để được hàn gắn vết thương là hình thành một mối quan hệ gần gũi và kéo dài. Sau một thời gian, ta nhận thấy chiến lược của ta không có hiệu quả. Ta “yêu” nhưng vẫn không đạt được trạng thái toàn vẹn. Ta cho rằng lý do khiến kế hoạch của ta không thực hiện được là vì người bạn đời của ta không thèm biết đến những nhu cầu của ta. Điều này khiến chúng ta nổi giận và lần đầu tiên, ta nhận thấy những tính cách tiêu cực của người bạn đời. Chúng ta bèn dàn xếp rắc rối bằng cách chiếu rọi những nét tiêu cực bị chối bỏ của chính chúng ta lên người bạn đời. Khi tình hình trở nên tồi tệ, chúng ta cho rằng cách tốt nhất để bắt người bạn đời thỏa mãn nhu cầu của ta là tỏ ra khó chịu và bực bội, như khi chúng ta còn là đứa trẻ nằm trong nôi. Nếu ta hét lên thật to và thật lâu, ta tin rằng người bạn đời sẽ tới cứu giúp ta. Và cuối cùng, điều đã khiến cho cuộc xung đột gia đình trở nên độc hại là niềm tin vô thức rằng nếu ta không thể dụ dỗ hay ép buộc người bạn đời chăm sóc đến ta, ta sẽ phải đối mặt với nỗi sợ lớn nhất trong tất cả các nỗi sợ – nỗi sợ cái chết. Điều có thể không rõ ràng ngay lập tức trong đoạn tóm tắt ngắn gọn này là: thực sự có rất ít khác biệt giữa tình yêu lãng mạn và xung đột gia đình. Ngoài bề mặt, hai giai đoạn đầu tiên này của một cuộc hôn nhân có vẻ khác nhau một trời một vực. Niềm vui sướng của người này đối với người kia đã trở thành thù hận và thiện chí của họ đã thoái hóa thành một cuộc chiến giữa những ước muốn, nhu cầu của hai bên. Nhưng điều quan trọng đáng lưu ý là dưới vẻ bề ngoài này, thực chất tình yêu và xung đột đều như nhau. Cả hai cá nhân đều đang tìm kiếm con đường đạt được sự toàn vẹn nguyên thủy, và họ vẫn giữ niềm tin rằng người bạn đời của họ có quyền lực làm họ trở nên khỏe mạnh và bạn đời của họ có quyền lực làm họ trở nên khỏe mạnh và toàn vẹn. Khác biệt chính là giờ đây người bạn đời được xem như người từ chối không trao tặng tình yêu. Điều này đòi hỏi phải thay đổi chiến thuật. Và thế là các ông chồng bà vợ bắt đầu làm tổn thương nhau, hoặc từ chối không tỏ ra vui vẻ và thân mật, với hy vọng người kia sẽ đáp lại bằng sự ân cần và tình yêu. Đâu là con đường để thoát ra khỏi cái mê cung rối ren này? Điều gì ẩn giấu phía bên kia xung đột gia đình? Trong chương tiếp theo, “Trở nên ý thức”, chúng ta sẽ bàn về một hình thức quan hệ mới: “Hôn nhân ý thức” và xem nó có tác dụng giúp người vợ và người chồng thỏa mãn những khao khát tuổi thơ của nhau như thế nào. PHẦN HAI: HÔN NHÂN Ý THỨC Chương 6: TRỞ NÊN Ý THỨC Hiếm khi hoặc không khi nào một cuộc hôn nhân phát triển êm thấm thành một quan hệ cá nhân mà không trải qua khủng hoảng. Ý thức ra đời cùng với nỗi đau khổ. CG. JUNG Lướt qua 5 chương đầu, bạn dễ có ấn tượng rằng: Tâm thức cũ là nguyên nhân hầu hết các trục trặc trong hôn nhân. Tâm thức cũ khiến chúng ta lựa chọn người bạn đời như thể chọn người nuôi dưỡng mình. Tâm thức cũ là nguồn gốc của tất cả những phòng bị phức tạp của chúng ta – những sắp đặt, thay đổi, dàn xếp – làm mờ tối thực tại của chính chúng ta và của người bạn đời. Tâm thức cũ cũng chịu trách nhiệm về phản ứng ấu trĩ của chúng ta cho nỗi thất vọng, phản ứng “khóc – hoặc – chỉ – trích” sẽ chỉ dẫn đến mối bất hoà sâu xa hơn. Nhưng đồng thời, tâm thức cũ cũng đóng một vai trò tích cực trong hôn nhân. Mặc dù một vài chiến thuật của tâm thức cũ có thể khiến nó tự huỷ hoại nhưng những nỗ lực chủ yếu của nó lại là thiết yếu cho hạnh phúc. Cố gắng vô thức nhằm chữa trị chấn thương cảm xúc của tuổi thơ cho phép chúng ta hiện thực hoá tiềm năng tinh thần của chúng ta như một con người, trở nên hoàn thiện và nhân ái, có khả năng giáo dưỡng kẻ khác. Và ngay cả những mưu toan, sắp đặt, dàn xếp có thể tạm thời làm chúng ta mù loà về người bạn đời, chúng cũng ràng buộc chúng ta, tạo ra những nền móng cho sự trưởng thành tương lai. Vấn đề với tâm thức cũ là nó không được hướng dẫn, giống như một con thú mù loà cố gắng kiếm tìm con đường đến nguồn nước. Để thực hiện những mục tiêu có giá trị và quan trọng của tâm thức cũ, chúng ta cần tranh thủ sự trợ giúp của tâm thức mới – phần con người trong chúng ta đang lựa chọn, sử dụng ý chí, hiểu rõ rằng người bạn đời không phải là các bậc cha mẹ, hôm nay không phải là mãi mãi và dĩ vãng không phải là hiện tại. Chúng ta cần đến những kỹ năng duy lý mà chúng ta sử dụng trong những khu vực khác của đời sống, đem chúng vào mối quan hệ yêu đương. Một khi chúng ta theo đuổi việc liên kết những dẫn dắt bản năng và đầy uy lực của tâm thức cũ với sực mạnh sáng suốt và hiểu biết của tâm thức mới, chúng ta có thể bắt đầu hiện thực hoá những mục tiêu vô thức. Qua cuộc kết hợp giữa bản năng thuộc tâm thức cũ và sự hiểu biết của tâm thức mới, chúng ta có thể dần dần từ bỏ nỗi thất vọng của cuộc tranh chấp quyền lực ở phía sau lưng. Kết hợp giữa tâm thức mới và tâm thức cũ Đời sống hôn nhân sẽ biến đổi ra sao khi tâm thức mới đóng vai trò tích cực hơn? Sau đây là một ví dụ điển hình về tác động qua lại giữ những người chồng và người vợ trong một cuộc hôn nhân không ý thức, một quan hệ yêu đương điển hình bị thống trị bởi tâm thức cũ và trong một cuộc hôn nhân có ý thức, một quan hệ mà tâm thức cũ bị kiềm chế bởi lý trí. Hãy tưởng tượng rằng bạn đang ăn bữa sáng ngon lành, đột nhiên chồng bạn chỉ trích bạn về món bánh bị cháy. Tâm thức cũ của bạn, người vệ sĩ thường trực cho bạn sự an toàn, tức khắc đẩy bạn vào cuộc cãi vã hay kéo bạn bỏ đi. Nó không để tâm rằng người vừa chỉ trích bạn chính là chồng bạn, tất cả mọi điều nó hướng tới chỉ là bạn đang bị tấn công. Trừ phi bạn can thiệp vào quá trình phản ứng của tâm thức cũ, thường thì bạn trả miếng tức khắc lời chỉ trích của chồng bạn: “Vâng, em làm cháy bánh, còn anh thì đổ nước ra bàn!”. Hoặc là bạn tìm cách tránh né cuộc đối đầu như bỏ ra ngoài hoặc cắm cúi đọc báo. Tuỳ thuộc vào cung cách của bạn, chồng bạn sẽ cảm thấy bị tấn công hay bị bỏ rơi và sẽ trả đũa. Một cỗ máy cảm xúc không dừng được đã vào số, và thế là bạn đi toi bữa ăn sáng lẽ ra thân mật, ngon lành và hạnh phúc. Đó là một ca khá chính xác mà tâm thức mới có thể can thiệp vào diễn tiến và tạo ra một phản ứng ít kích động hơn. Một cung cách (cung cách này chúng tôi sẽ đi vào chi tiết ở chương sau) là diễn đạt ý kiến của chồng bạn bằng một giọng “trung tính”, thừa nhận nỗi bực bội của chồng bạn, nhưng không dẫn đến thái độ tự vệ của chính bạn. Ví dụ bạn có thể nói: “anh thấy món bánh này em làm dở quá phải không?” Chồng bạn có thể trả lời: “Phải, anh nghĩ thế. Anh thấy mệt mỏi vì những bữa ăn chẳng ra sao. Lần sau em nên cẩn thận hơn.” Và, vẫn dựa và sự khôn khéo của tâm thức mới, bạn có thể trả lời với cung cách không đề kháng tương tự như sau: “Anh nói đúng. Món bánh này bị hỏng. Em sẽ sửa lại vỉ nướng và sẽ làm lại vào bữa chiều và anh sẽ thấy nó ngon hơn nhiều”. Chồng bạn bị tước vũ khí bởi giọng nói dịu dàng cũng như sáng kiến giải quyết sự việc của bạn, sẽ bình tĩnh trở lại và trở nên mềm mỏng hơn: “Hay đấy! Cảm ơn ý kiến của em. Anh cảm thấy sáng nay anh như có điều gì bực bội trong lòng. Anh bị công việc thúc bách mà không biết nên giải quyết ra sao”. Vậy là bạn đã nhanh chóng trở thành người trợ thủ tin cậy, không còn là một đối tượng cãi cọ nữa, chính vì bạn đã cố gắng đưa ra một đáp ứng sáng tạo đối với sự bực bội của người bạn đời. Một khi bạn đã có được kỹ năng trong cung cách không đề kháng đối với sự phê bình chỉ trích, bạn sẽ thấy một khám phá quan trọng: Trong hầu hết mỗi quan hệ tương hỗ giữa hai vợ chồng, bạn thực sự an toàn hơn khi giảm thiểu những phản ứng đề kháng của mình hơn là để chúng bùng nổ, bởi vì lúc ấy người bạn đời của bạn sẽ trở thành một đồng minh chứ không phải là một kẻ đối địch. Trong tâm thức mới của bạn, khác với tâm thức cũ, bạn hiểu rằng lời phê bình về món bánh bị cháy không phải là một cuộc tấn công thù hận và bạn sẽ học được cách kiểm soát phản ứng đối đầu có tính bản năng của mình. Điều nghịch lý là cung cách này tốt hơn ngay cả khi bạn định làm một điều gì đó để thoả mãn mục tiêu tiềm ẩn của sự đề kháng tự động. Trên đây chỉ là ví dụ về mức độ tin cậy của sự linh hoạt mềm dẻo và sức mạnh sáng suốt của một tư duy ý thức, cái có thể giúp bạn thực hiện những mục tiêu vô thức. Chúng ta nhìn toàn cảnh điều mà chúng ta định nghĩa là “một cuộc hôn nhân ý thức”, bắt đầu với sự xác định: một cuộc hôn nhân ý thức là một cuộc hôn nhân hàm dưỡng sự tăng trưởng tâm lý và tinh thần tối đa, là một cuộc hôn nhân được tác tạo bởi quả trình ý thức và kết hợp những dẫn dắt nền tảng của mong muốn vô thức: mong muốn được bình an, được chữa trị tổn thương và được toàn vẹn. 10 đặc trưng của một cuộc hôn nhân ý thức 1. Bạn nhận thức rằng quan hệ yêu đương của bạn có mục đích tiềm ẩn: Chữa trị những vết thương thơ ấu: Thay vì tập trung toàn diện cho các nhu cầu và ước muốn bề mặt, bạn học cách nhận thức những vấn đề của tuổi ấu thơ không được giải quyết, những gì tiềm ẩn dưới các nhu cầu và ước muốn ấy. Khi bạn nhìn thấu suốt cuộc hôn nhân như rọi X-quang, các mối quan hệ tương giao hàng ngày của bạn trở nên có ý nghĩa hơn. Những khía cạnh làm bối rối trong mối quan hệ bắt đầu sáng tỏ hơn và bạn có cảm giác kiểm soát được chúng. 2. Bạn tạo ra hình ảnh xác đáng hơn về người bạn đời: Ở những thời điểm say mê, bạn hợp nhất người bạn đời với người nuôi dưỡng nguyên thuỷ. Sau đó, bạn chiếu những nét “âm bản” của bạn lên người bạn đời. Sau nữa, bạn làm mờ đi những nét hiện thực căn bản của người bạn đời. Khi tiến đến hôn nhân ý thức, bạn loại trừ dần những ảo ảnh đó và bắt đầu nhìn người bạn đời chân thực hơn. Bạn không còn nhìn nhận người bạn đời như là một “cứu tinh” cho bạn nữa mà như một con người cũng bị tổn thương như bạn, cũng đang đấu tranh để được chữa trị những tổn thương ấy. 3. Bạn có trách nhiệm trong việc truyền đạt những nhu cầu và ước muốn của mình đến người bạn đời:Trong hôn nhân vô thức, bạn bám víu vào những niềm tin tuổi thơ, những điều mà người bạn đời trực cảm qua nhu cầu của bạn. Trong hôn nhân ý thức, bạn phải chấp nhận sự kiển là để hiểu người khác, bạn phải phát triển khả năng lắng nghe. 4. Bạn trở nên có chủ định hơn trong mối quan hệ tương giao: Trong hôn nhân vô thức, bạn có khuynh hướng phản ứng thiếu suy nghĩ. Bạn để cho những đáp ứng nguyên thuỷ của tâm thức cũ kiểm soát hành vi của bạn. Trong hôn nhân ý thức, bạn tự rèn luyện để ứng xử trong một cung cách khôn ngoan hơn. 5. Bạn học cách đánh giá những nhu cầu và ước muốn của người bạn đời cũng cao như khi đánh giá những điều đó ở chính mình: Trong hôn nhân vô thức, bạn coi vai trò của người bạn đời chỉ để săn sóc những nhu cầu “thần thánh” của bạn. Trong hôn nhân ý thức, bạn từ bỏ kiểu tự chiêm ngưỡng ấy và ngày càng hướng nỗ lực của mình đến điểm gặp gỡ với những nhu cầu của người bạn đời. 6. Bạn gìn giữ phần “bóng tối” trong nhân cách của mình: Trong hôn nhân ý thức, bạn dễ dàng thừa nhận một thực tế là, như bất kỳ ai, bạn có những nét “âm bản”. Khi bạn chấp nhận trách nhiệm với phần “bóng tối” tự nhiên này, bạn giảm thiểu khuynh hướng phóng rọi những nét “âm bản” của mình vào người bạn đời, điều đó sẽ tạo ra một môi trường bớt thù địch hơn. 7. Bạn học những kỹ thuật mới để thoả mãn các nhu cầu và ước muốn của mình: Khi tranh chấp, bạn ngọt ngào, thuyết phục và chỉ trích, trong một cố gắng để ép người bạn đời đáp ứng những nhu cầu của bạn. Khi bạn ra khỏi sân khấu nhà và nhìn lại, bạn mới hiểu rằng người bạn đời của mình có thể thực sự là một tài nguyên quý giá nếu như bạn từ bỏ những chiến thuật tự huỷ hoại kia. 8. Bạn tìm hiểu trong chính bản thân mình những sức mạnh và khả năng mà bạn thiếu: Một lý do khiến người bạn đời trở nên hấp dẫn đối với bạn là người ấy có sức mạnh và khả năng mà bạn thiếu. Bởi vậy, sống với người ấy, bạn có ảo tưởng rằng mình sẽ trở nên hoàn chỉnh. Trong hôn nhân ý thức, bạn học được rằng con đường duy nhất để bạn có thể thực sự giành lại sự toàn vẹn bản thân là phát triển những gì còn tiềm ẩn trong chính mình. 9. Bạn trở nên sáng suốt hơn trong nỗ lực yêu thương, nối kết và hợp nhất với thế gian: Ở phần con người tự nhiên của mình, bạn có khả năng yêu thương vô điều kiện và hợp nhất một cách hiểu biết với thế giới xung quanh. Điều kiện xã hội và nguồn gốc bất toàn làm bạn mất đi điểm nối kết với những phẩm chất đó. Trong hôn nhân ý thức, bạn bắt đầu khám phá lại con người tự nhiên nguyên thuỷ của mình. 10. Bạn chấp nhận khó khăn để sáng tạo một cuộc hôn nhân tốt đẹp: Trong hôn nhân vô thức, bạn tin tưởng rằng con đường dẫn đến một cuộc hôn nhân tốt đẹp chỉ là việc tìm kiếm một người phối ngẫu “trúng phóc”. Trong hôn nhân ý thức, bạn phải hiện thực hoá người phối ngẫu đó. Khi tìm được một quan điểm hiện thực hơn về quan hệ yêu đương, bạn hiểu rõ rằng một cuộc hôn nhân tốt đẹp đòi hỏi sự cam kết, sự tuân thủ và cả dũng khí để trưởng thành và thay đổi – Hôn nhân là một việc khó khăn! Chúng ta hãy xem lại 10 đặc trưng này và hãy chấp nhận những khó khăn trong việc sáng tạo một cuộc hôn nhân tốt đẹp, bởi vì không một ý tưởng nào trong số 9 ý tưởng trước đó có thể khai hoa kết quả nếu như đầu tiên, bạn không gieo trồng thiện ý của bạn để trưởng thành và thay đổi. Trở thành một người tình Tất cả chúng ta đều có một mong muốn là được sống một đời sống trẻ con. Chúng ta không muốn phải vất vả khó nhọc để nuôi một con bò cái rồi vắt sữa nó mà chỉ muốn thoải mái ngồi trước bàn, trong tay có sẵn một ly sữa lạnh. Chúng ta không muốn trồng nho rồi hái nho mà chỉ muốn tức khắc có đầy một vốc trong tay những trái nho chín mọng. Những ý tưởng đầy khao khát ấy tìm áp lực tối hậu của chúng trong hôn nhân. Chúng ta không muốn nhận trách nhiệm tìm điểm gặp gỡ cho những nhu cầu của mình mà chỉ muốn “rơi vào tình yêu” với một người bạn đời thật “siêu” và sau đó hưởng hạnh phúc. Thuật ngữ tâm lý học dành cho khuynh hướng này, khuynh hướng đặt nguồn gốc của những thất bại cũng như giải pháp cho những rắc rối của chúng ta ra bên ngoài chúng ta, là “sự ngoại diện” (externalization) và chính nó là nguyên nhân của rất nhiều nỗi bất hạnh trên thế gian. Một hôm, có một người khách (mà tôi sẽ gọi là Walter) bước vào văn phòng của tôi với một cái nhún vai và một vẻ mặt buồn bã. – Có chuyện gì vậy? – Tôi hỏi Walter – Hôm nay trông anh rầu rĩ quá. – Đúng vậy – Anh ta nói sau khi đã lún sâu vào chiếc ghế nệm – Tôi cảm thấy hết sức cô đơn. Tôi tỏ vẻ thông cảm: – Hẳn là anh rất buồn. Không có bạn bè quả là đáng sợ. – Phải. Dường như tôi không thể…Tôi không biết nữa. Đúng là trong đời tôi không có một người bạn nào. Tôi tìm kiếm hoài mà chẳng tìm được ai cả. Anh ta tiếp tục than phiền như vậy một lúc lâu và tôi phải chặn nỗi phiền muộn đang trào dâng với tình trạng thảm hại như con nít của anh ta lại. Anh ta tự giam mình vào một cảnh ngộ như thế này: đâu đó trên thế gian có những người mang trên trán dấu ấn “Bạn của Walter” và công việc của anh đơn giản chỉ là tìm cho bằng thấy những người đó. – Walter, – tôi nói, cố nén tiếng thở dài – anh có hiểu tại sao anh không có bạn bè không? Anh ta ngẩng đầu lên: – Không. anh hãy nói cho tôi hay. – Lý do anh không có bạn là chẳng có người bạn nào để anh tìm cả. Anh nhún vai. Tôi nói thẳng thừng: – Đúng như vậy. Chẳng có người bạn nào để anh tìm kiếm. Điều mà anh mong muốn không tồn tại. Tôi để anh ta chìm sâu và nỗi phiền muộn một lúc. Rồi tôi vươn mình khỏi ghế và nói: – Walter, hãy nghe tôi! Tất cả mọi người trên thế gian này đều là những kẻ xa lạ. Nếu anh muốn có một người bạn, anh phải ra khỏi tâm trạng của anh và chính anh phải trở thành một người bạn! Walter không chấp nhận ý tưởng: Để tạo ra một tình bạn bền vững, cần có thời gian và công sức. Ngay cả khi anh ta có trách nhiệm và khả năng để làm việc đó, anh ta vẫn duy trì ý tưởng con nít là tất cả những gì anh ta cần làm để tạo nên sự thân thuộc chỉ là tìm cho được đối tượng cần thiết. Bởi vì anh ta không hiểu rằng một tình bạn không chỉ thành tựu sau một thời gian dài mà còn đòi hỏi sự sáng suốt, nhạy cảm và kiên nhẫn. Rút cục là anh ta đành phải sống cô đơn. Cung cách ấy chẳng những được Walter áp dụng trong quan hệ bạn bè mà cả trong quan hệ yêu đương: dường như anh ta không thể tìm được người đàn bà lý tưởng cho mình. Hồi phục sau một lần ly dị đau khổ (trong vụ kiện cay đắng, vợ anh ta giành được quyền nuôi dưỡng đứa con trai của họ), anh ta đã cố gắng một cách tuyệt vọng tìm người tình mới. Điều đặc biệt tệ hại trong hôn nhân đối với Walter là anh ta bị mắc như gà mắc tóc trong một mớ những khái niệm và ý tưởng chứ không phải là những cảm xúc. Anh ta che giấu bản chất dễ bị tổn thương của mình sau vẻ trí thức cực kỳ, chính là điều ngăn trở bất kỳ sự thân thiết thành thực nào. Anh ta đến với những đợt điều trị tâm lý theo nhóm khoảng 6 tháng. Và ở mỗi đợt, anh ta lại được nghe từ nhóm điều trị những điều tương tự anh ta đã nghe từ vợ mình, rằng anh ta không biết chia sẻ cảm xúc, rằng anh ta là kẻ lãnh đạm, xa cách. Một buổi chiều, một thành viên nữ trong nhóm, cuối cùng cũng nói chuyện với anh ta: “Khi anh kể về những đau buồn của mình, tôi không cảm nhận được nỗi khổ nào cả. Khi anh tỏ ra thân mật với tôi, tôi cũng không cảm nhận được sự thân mật ấy”. Và Walter hiểu ra rằng những lời trách cứ của người vợ cũ của anh ta là có cơ sở. “Tôi đã cho rằng cô ấy chỉ là kẻ nanh nọc và lắm điều” – anh ta tâm sự – “Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy có thể nói đúng, hoặc là tôi có thể tỉnh ngộ ra đôi chút nếu chịu khó lắng nghe cô ấy”. Khi Walter đủ thời gian để tiếp thu bài học này, anh ta đã tỏ ra nhiệt tình hơn đối với tiến trình chữa trị tâm lý và cố gắng gỡ bỏ những chướng ngại cảm xúc của mình. Khi đã trở nên sinh động hơn, anh ta cũng có được một quan hệ thân mật với một người bạn gái mới. Trong đợt chữa trị cuối cùng ở chỗ tôi, anh ta thổ lộ tâm trạng: – Anh biết không, tôi đã phải mất 2 năm để học được một điều đơn giản: Để có được một mối quan hệ tốt đẹp, người ta phải nỗ lực để trưởng thành và thay đổi. Giá như tôi biết điều này 10 năm về trước, có lẽ tôi vẫn sống hạnh phúc với vợ và con trai tôi. Walter không đáng trách khi anh tin rằng: Hôn nhân là một chuyện dễ dàng và “tự nhiên”. Con người tự nhiên của chúng ta ưa thích một đời sống không cần phải cố gắng. Khi chúng ta còn là con trẻ, nếu thế giới từ chối, chúng ta thất bại, còn nếu thế giới chấp nhận thì chúng ta thoả mãn. Sau hàng ngàn những tương tác ban đầu như vậy, chúng ta tạo dựng một mô hình cho thế giới xung quanh và chúng ta bám víu lấy mô hình lỗi thời ấy ngay cả khi phải trả giá bằng cuộc hôn nhân của chính mình. Chúng ta lĩnh hội một cách chậm chạp rằng, để được yêu, trước tiên chúng ta phải trở thành một người yêu. Tôi không định nghĩa điều này trong những ngôn ngữ tình cảm. Tôi không định nghĩa những đoá hoa được trao tặng, những lá thư tình được viết hoặc những kỹ thuật ái ân mới mẻ được học hỏi…mặc dù bất kỳ điều gì trong số đó cũng đáng kể trong quan hệ yêu đương. Để trở thành một người tình, trước tiên chúng ta phải vứt bỏ những cung cách tai hại như tôi đã trao đổi với bạn trong 5 chương trước, và tái lập một ứng xử sáng suốt. Chúng ta phải thay đổi những ý tưởng về hôn nhân, về người bạn đời và cuối cùng, về chính chúng ta. Sợ hãi sự thay đổi Thay đổi – đó là điều chúng ta cần làm để có được mối quan hệ thoả mãn hơn, đừng sợ hãi sự thay đổi. Sợ hãi sự thay đổi cũng là nền tảng của con người tự nhiên. Chúng ta cảm thấy lo âu ngay cả khi có những thay đổi tích cực, như khi được thăng chức, dọn đến ngôi nhà mới hay bước vào kỳ nghỉ. Một điều gì đó làm rạn vỡ sự ấm cúng tiện nghi hoặc ngay cả những thói – quen – không – tiện – nghi của chúng ta cũng rung chuông báo động trong tâm thức cũ. Tâm thức cũ cảnh cáo cho chúng ta một thực tế là chúng ta đã bước vào một vùng đất không có bản đồ, không được trắc đạc và nỗi hiểm nguy rình rập chúng ta ở mỗi góc đường. Tôi đã chứng kiến ước muốn được bám víu vào những thói quen yên ổn ngay cả ở những đứa trẻ khi Leah, con gái tôi, được hai tuổi rưỡi và Hunter, em trai nó, đã thôi nôi. Helen và tôi quyết định cho nằm giường mới. Đó là một cái giường cho trẻ con có những gióng ngang để ngăn nó khỏi ngã ra ngoài vào ban đêm. Buổi sáng đầu tiên Leah thức dậy trên chiếc giường mới, tôi nghe thấy tiếng khóc quen thuộc của nó: “Bố! Bố!”. Tôi đã đi vào phòng nó và thấy nó quỳ trên giường, hai tay nắm lấy chấn song giường, gọi tôi: “Bố! Bế con!” cho đến khi tôi đặt nó vào cái giường cũi chật chội trước đây. Tôi phải ngạc nhiên vì vẻ hoảng hốt của nó. Thực ra nó có thể leo ra khỏi giường hoặc xuống đất qua phần cuối giường không có gióng ngang. “Leah” – tôi khuyến khích nó – “con có thể tự mình ra khỏi giường mới được mà!”, “Con không làm được” – nó cắn môi dưới – “con bị kẹt”. “Leah, con nhìn đây”, tôi chỉ phần giường không có gióng ngang, “con có thể trèo xuống chỗ này”. Nó cứ quỳ nguyên một chỗ. Cuối cùng, tôi phải leo lên giường nó và trình diễn cho nó xem phải làm như thế nào. Với sự khuyến khích của tôi,nó bám sát ngay sau lưng tôi cố vượt khỏi nỗi sợ hãi sự thay đổi và ra khỏi giường. Tôi chứng kiến một biểu hiện bi kịch hơn của tình trạng tê liệt trước sự thay đổi vào một buổi chiều khác, khi tôi đang đọc báo. Một đài truyền hình địa phương phát câu chuyện về một đứa trẻ sinh năm 1982 bị chứng khiếm khuyết miễn dịch trầm trọng và ngay từ phút chào đời, nó đã phải sống trong lồng kính, cách ly khỏi mọi mầm bệnh nguy hại. Cha mẹ nó túc trực bên nó ngày đêm nhưng cũng chỉ là bên ngoài lồng kính và chỉ được tiếp xúc với đứa con qua chiếc găng tay vô trùng gắn chặt vào lồng kính. Chỉ ít lâu sau lần sinh nhật thứ 5 của đứa bé, nó được ghép tuỷ thành công. Với những xét nghiệm phức tạp, các bác sĩ xác định rằng hệ thống miễn dịch của nó đã phát triển đầy đủ và cho phép nó được rời khỏi các thế giới vô trùng ấy. Vào ngày ấn định cho nó ra ngoài, chiếc lồng đã được mở, người cha và mẹ tràn trề hạnh phúc giơ tay về phía đứa con. Lần dầu tiên trong đời, họ có thể hôn và ôm con trai mình. Nhưng, mọi người đều sửng sốt, đứa bé co rúm lại bên góc lồng kính. Cha mẹ nó gọi nó, nhưng nó không nhúc nhích. Cuối cùng, cha nó phải bò vào trong lồng và ôm nó ra. Khi đứa bé nhìn quanh phòng, nó bật khóc. Căn phòng quá lớn nếu so với vụ trụ khép kín của chiếc lồng kính mà nó vừa sống qua. Cha mẹ nó ôm hôn nó để trấn an nó, nhưng nó không muốn có bất kỳ một tiếp xúc nào mà chỉ oằn người để tránh vòng tay của họ. Đoạn kết câu chuyện, bộ phim quay cảnh ít lâu sau đó, đứa bé đã trở nên quen thuộc hơn với đời sống bên ngoài lồng kính. Nhưng sự kiện trong ngày nó được “xổ lồng” dã chứng tỏ rằng nỗi sợ hãi khi đối diện với những gì không quen thuộc còn lớn hơn cả ước muốn được mở rộng thế giới của đứa trẻ. Đứa trẻ ấy sống 5 năm trong chiếc lồng kính. Những cặp vợ chồng đến chỗ tôi đã sống 2, 10, 20 … thậm chí 40 năm trong một mối quan hệ hạn hẹp, ức chế sự trưởng thành. Nhiều năm sống trong một ứng xử quen thuộc, lẽ tự nhiên là họ có một sự miễn cưỡng rất lớn khi phải thay đổi. Sau hết, tôi đang đòi hỏi ở họ không chỉ là mạo hiểm nỗi lo âu khi học một cung cách quan hệ mới, mà còn đối mặt với nỗi đau khổ và sợ hãi, những thứ đã “đóng chai” họ hàng thập niên – lý do cho những ứng xử sai chức năng trước đó. Đất Hứa Mang đến cho bạn cái nhìn thấu suốt về những khó khăn của sự sáng tạo một cuộc hôn nhân ý thức, tôi muốn thuật lại một cách cô đọng câu chuyện Moses và Đất Hứa, câu chuyện mà tôi coi là ngụ ngôn về tâm linh con người. Câu chuyện như sau: Nhiều thế kỷ trước đây, dân Israel là một bộ tộc lớn cư ngụ ở gần Địa Trung Hải. Xảy ra một trận hạn hán trên miền đất của họ, và để sống còn, dân Israel đã di cư về phía nam đến Ai Cập là một vựa lúa. Nhưng rồi họ bị cưỡng bức trở thành nô lệ của người Ai Cập, chịu sự đối xử hà khắc và phải lao động nặng nhọc. Sau hơn 400 năm sống cơ cực như vậy, xuất hiện một người là Moses, người đã nói với dân Israel: “Hỡi những người đáng thương, các người đang sống trong nỗi thống khổ mà sự cam chịu đã khiến các người ra nông nỗi này. Các người đã quên đi dĩ vãng của mình. Các người không phải là nô lệ của Ai Cập mà các người là con của Yahweh vĩ đại! Thượng đế chỉ tôn đã tạo ra các người và các người là một dân tộc đặc biệt”. Những lời của Moses đã khuấy động ý thức của người Israel và họ bỗng nhận ra tâm trí họ đã bị giam cầm. Điều đó làm họ bồn chồn khổ sở – chẳng khác nào nhiều cặp vợ chồng tìm đến tôi để tham vấn. Bị quyến rũ bởi viễn ảnh về miền Đất Hứa, người Israel đi theo Moses. Nhưng người Israel đã không chuẩn bị cho những gian khó của cuộc hành trình và họ chẳng mấy tin cậy và sự che chở của Thượng đế. Khi họ gặp trở ngại đầu tiên, Biển Đỏ, họ phàn nàn cay đắng với Moses: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi túp lều quen thuộc của chúng tôi với những lời hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bây giờ đường đi bị chắn ngang bởi biển cả bao la. Ông đưa chúng tôi tới sa mạc để chết, bỏ lại mồ mả ông cha ở Ai Cập. Chúng tôi làm gì đây?”. Chính Moses cũng không chắc phải làm gì, nhưng ông tin tưởng rằng nếu có đức tin thì đường đi sẽ hiện ra. Trong lúc ông đang suy tính về số phận của mọi người, một đám mây bụi khổng lồ xuất hiện ở chân trời. Trong nỗi kinh hoàng của người Israel, họ nhận ra đó là cát bụi cuộn lên bởi sự xuất hiện đột ngột của những chiến binh Ai Cập đuổi theo bắt họ để đưa họ trở về với xiềng xích nô lệ. Lúc đó, Moses đưa tay lên và một ngọn gió đông giữ dội rẽ đôi Biển Đỏ. Kinh sợ vì điều kỳ diệu lớn lao, những người Israel tập trung hết can đảm, nhìn lại Ai Cập lần cuối – quê hương duy nhất mà họ biết – và theo Moses, đầy sợ hãi bước vào khe nước. Hai bức tường nước dựng lên ở bên trái và bên phải họ. Khi họ đã vượt qua biển an toàn, Moses giơ tay lên lần nữa, và hai bức tường nước khổng lồ khép lại, nhấn chìm các chiến binh Ai Cập trong dòng nước xiết. Người Israel chỉ có một lần duy nhất để vinh danh cuộc hành trình trót lọt của mình. Khi nhìn thấy vùng đất mới, họ mất hết can đảm lúc nhận ra mình đi đến rìa của một sa mạc hoang vu, cằn cỗi. Một lần nữa, họ lại bật khóc trong nỗi thống khổ: “Ông đã huỷ hoại cuộc sống yên ổn của chúng tôi. Ông lôi kéo chúng tôi theo ông vào hành trình dài dằng dặc này. Chúng tôi đã suýt chết đuối trong Biển Đỏ. Bây giờ, chúng tôi lại lạc lõng trong sa mạc khô cằn, không thức ăn nước uống!” Dù sợ hãi, người Israel không còn cách nào khác là tiếp tục hành trình. Họ lang thang nhiều tháng ròng trong vùng đất xa lạ, theo sự dẫn dắt của một cột mây lúc ban ngày và của một cột lửa lúc ban đêm. Họ chịu đựng nhiều nỗi gian truân, nhưng Thượng đế nhân từ đã làm nhẹ bớt gánh đau thương của họ bằng những phép lạ. Cuối cùng, những người Israel cũng đi hết sa mạc. Vượt qua đụn cát cuối cùng, Moses nói, là miền Đất Hứa. Những toán trinh sát được phái đi để tìm hiểu vùng đất. Nhưng khi các trinh sát trở về, họ mang theo những tin tức còn tồi tệ hơn: “Đất Hữa thực sự là đầy sữa và mật ong, nhưng đã bị chiếm. Đó là xứ sở của người Canaan, một chủng tộc khổng lồ!”. Đám đông nghe vậy lại kêu khóc và nuối tiếc cuộc sống yên ổn an toàn ở Ai Cập. Lúc đó, Thượng đế nói với họ: “Bởi vì các ngươi không có đức tín và cứ ôm ấp hoài niệm ở Ai Cập, các ngươi sẽ phải lưu lạc trong sa mạc 40 năm, cho tới khi một thế hệ mới ra đời, thế hệ không có những hồi ức về quá khứ. Chỉ khi ấy các ngươi mới tới được Đất Hứa”. Và như vậy, 40 năm, người Israel du cư trong sa mạc. Những đứa trẻ ra đời và những người già chết đi. Cuối cùng, một nhà lãnh đạo mới xuất hiện trong cư dân và đưa họ đến Israel, khởi đầu công cuộc giành lại đất đai từ người Canaan. Chúng ta có thể học hỏi được gì từ câu chuyện đã trở nên quen thuộc này để áp dụng trong cuộc thăm dò khảo sát về hôn nhân? Một trong những lý do chân lý đầu tiên chúng ta có thể học được từ sự kiện: Hấu hết chúng ta đi qua đời sống hôn nhân như thể mơ ngủ, hoà tan vào những tương giao thường nhật với sự hài hoà bé mọn. Giống như những người Israel suốt 400 năm trong tình trạng nô lệ cho người Ai Cập, chúng ta quên mất mình là ai. Như trong thơ của Wordsworth, chúng ta mang tới thế gian “những đám khói tàn tích của vinh quang nhưng ngọn lửa thì đã tắt ngấm tự bao giờ, và chúng ta không còn nhìn nhận mình như một thực thể toàn vẹn và cao quý nữa. Chúng ta sống một cuộc sống khốn khổ, nhàm chán, vô vọng và đổ lỗi cho người bạn đời về nỗi bất hạnh của mình. Câu chuyện còn dạy chúng ta rằng, chúng ta là tù nhân của nỗi sợ hãi sự thay đổi. Khi tôi yêu cầu các cặp vợ chồng thử nghiệm cung cách ứng xử mới, họ tỏ ra bực bội với tôi. Một số cặp thà ly dị, phá vỡ gia đình, phân chia tài sản còn hơn là tìm một kiểu thức quan hệ mới. Giống như người Israel, họ run rẩy trước Biển Đỏ, ngay cả khi con đường mở ra trước mặt. Sau đó, cuộc hành trình trở nên gian khổ, nhũng khó khăn trong cảm xúc của họ cũng giống như đám quân Ai Cập truy nã hoặc những quái vật khổng lồ. Nhưng khác với trường hợp người Israel, kẻ thù lần này ở trong bản thân họ, nó phủ nhận và đàn áp những gì có thể trở nên nhận thức đối với họ. Chân lý cuối cùng trong câu chuyện về Moses là chúng ta luôn chờ đợi cuộc đời mang đến những phần thưởng một cách dễ dãi mà không phải hy sinh điều gì. Giống như người Israel mong muốn Đất Hứa là vườn Địa Đàng mà Chúa Trời dành sẵn cho Adam và Eva. Chúng ta mong muốn một cách đơn giản là hôn nhân sẽ chữa trị cho chúng ta mọi bệnh hoạn. Chúng ta muốn sống trong truyện cổ tích, những cô công chúa xinh đẹp gặp những chàng hoàng tử hào hoa và sau đó là cuộc sống hạnh phúc. Nhưng điều đó chỉ diễn ra khi người Israel nhìn nhận miền Đất Hứa như một cơ hội, một dịp để họ sáng tạo một thực tại mới, nơi mà họ được phép bước vào. Và điều đó chỉ diễn ra khi chúng ta nhìn nhận cuộc hôn nhân như một phương tiện cho sự thay đổi và tự trưởng thành, và chúng ta có thể bắt đầu thoả mãn những khao khát vô thức của chúng ta. Chương 7 : ĐÓNG NHỮNG CỬA THOÁT Một cuộc đời gắn bó với ta, mang lại cho tâm hồn ta sự thanh thản – đó là điều kỳ diệu của hôn nhân. DENIS DE ROUGEMONT Khi một cặp vợ chồng bước vào văn phòng của tôi ở đợt tham vấn đàu tiên, tôi biết rất ít hoặc chẳng biết gì về họ. Tất cả những gì tôi biết với ít nhiều tin chắc là họ đã bị sa lầy trong cuộc tranh chấp. Họ lạc lối đâu đó trên con đường quanh co khúc khuỷu. Họ là những cặp mới thành hôn bị chao đảo bởi cú sốc khi khám phá ra là họ đã cưới một kẻ phối ngẫu tồi tệ. Họ là một cặp trung niên đang cố gắng đương đầu với những stress khi đã có mỗi người một sự nghiệp, lũ con đang lớn và mối quan hệ đã thoái hoá trong hàng loạt những xung đột khó chịu. Hoặc là một cặp già hơn đã đánh mất mọi cảm xúc về nhau và đang dự tính một cuộc ly dị “thân ái”. Nhưng dù họ ở bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi cũng có thể đoán chắc rằng họ đã kinh qua một cuộc hôn nhân lãng mạn và sau đó sa vào xung đột, rối ren. Những khảo sát của tôi cũng như của nhiều đồng nghiệp, trong thời gian qua, đều tập trung vào những chi tiết của cuộc tranh chấp. Trong một vài đợt chữa trị đầu tiên, tôi khẳng định rằng dù sao đi nữa, những trục trặc chủ yếu của các cặp vợ chồng thường xoay quanh các chủ đề: sự thông cảm, tình dục, tiền bạc, cha mẹ hai bên, những kỳ vọng, chứng nghiện rượu, ma tuý… Qua vài tháng sau, tôi giúp họ nhìn nhận rõ ràng hơn những vấn đề ấy. Một phần quan trọng của tiến trình chữa trị là giúp họ có khả năng truyền đạt những cảm nhận của mình trực tiếp hơn: – Anh cảm thấy thế nào khi Mary nói điều đó? Hoặc: – Chị cảm nhận ra sao khi George làm như vậy? Và ở cuối mỗi đợt, tôi giúp họ thương thảo một khế ước ấn định tiến trình hành động. Ví dụ như, George thoả thuận sẽ quan tâm thăm hỏi Mary hằng ngày. Còn Mary thoả thuận sẽ biểu lộ thẳng thắn mỗi khi có điều gì bực bội, thay vì lầm lì câm lặng như trước. Đó là những chuẩn mực rõ ràng để định hướng mà tiến trình tham vấn về hôn nhân cần xác lập. Các cặp vợ chồng đã học hỏi lẫn nhau khá nhiều điều trong suốt thời gian chúng tôi tiến hành công việc, và họ đã trở nên khéo léo hơn trong việc truyền đạt cảm xúc. Nhưng điều khiến tôi hoang mang là một vài cặp dường như có khả năng vượt quá cả khái niệm tranh chấp quyền lực. Lẽ ra phải tranh cãi về những đề tài “hiện hữu” của họ, những gì đã khiến họ phải đi chữa trị, thì họ nằng nặc đòi tranh cãi trước hết về việc ai đã xúc phạm ai. Nhiều lúc, tôi cảm thấy vấn đề đi quá xa, vượt khỏi chức năng của một nhà tâm lý vốn đơn thuần chỉ là định lượng và nhận dạng xung đột của họ. Những ngày đầu, công việc của tôi là giám sát và tôi đã phải chia sẻ tâm trạng thất vọng của tôi với một vị cố vấn pháp lý. Tôi làm gì sai chăng? Tại sao những cặp vợ chồng chậm tiến bộ đến thế? Dường như tất cả những gì tôi làm chỉ khiến họ xung đột nhiều hơn. Cố vấn pháp lý của tôi mỉm cười thông cảm và chỉ cho tôi thấy rằng, dù thế nào di nữa, các khách hàng của tôi cũng muốn và sẵn sàng để thay đổi, và đó chính là điều thú vị đầu tiên. Nếu họ muốn thay đổi – ông động viên tôi – họ sẽ thay đổi. Có lẽ chương trình của tôi bị lộn xộn một chút. Vai trò của tôi – ông lưu ý tôi là giúp người khác thấu hiểu về những vướng mắc của họ, giúp họ củng cố các kỹ năng trong quan hệ và đưa họ đi đúng hướng. Đó là những năm tháng khó khăn trước khi tôi khám phá rằng, để đạt được hiệu quả, một nhà tâm lý hôn nhân không nên để mình mắc cạn trong những đề tài bề nổi như tiền bạc hay những xung khắc tình dục. Tiềm ẩn dưới những chủ đề nông cạn ấy là các khao khát của tuổi ấu thơ không được đáp ứng, những kỹ năng truyền đạt hay những thỏa ước ứng xử lạc địa chỉ, những gì ở tầng sâu hơn. Để đạt hiệu quả, nhà tâm lý hôn nhân phải định vị được các xung đột nền tảng. Trang bị điều khám phá này, tôi bắt đầu làm việc sâu hơn với các cặp vợ chồng, tìm kiếm bên dưới hiện tượng bề mặt những vấn đề nguyên thủy hơn. Yêu cầu cam kết Bởi vì mỗi cuộc hôn nhân đều là duy nhất, nên cách tiếp cận của tôi với từng cặp vợ chồng là một hỗn hợp của công thức và khám phá. Đôi khi, nhà tâm lý hôn nhân đi theo một giáo trình định trước, nhưng thường là tôi phải cắt gọt các phương pháp của tôi để thích hợp với những đòi hỏi cá nhân của họ. Nếu một cặp tìm đến tôi vì gặp khủng hoảng, tôi làm vài cử chỉ trấn an và ngăn không cho cú sốc và nỗi đau khổ của họ bùng nổ. Nếu ngược lại, một đôi vợ chồng bước vào mà biểu lộ đầu tiên là nỗi đau khổ làm tê liệt tất cả, đôi khi tôi phải tìm một nguyên cớ nào đó để kích thích họ. Ngoại trừ khi họ nhận thức được một cách tự nhiên những vấn đề của mình, còn thường là họ rất khó khăn để nhận diện và giải quyết chúng. Dù sao trong những đợt tham vấn đầu tiên, tôi cũng thiết lập được một số quy luật nền tảng cho việc chữa trị. Với những dị biệt nhỏ, chúng đã là những nguyên tắc cơ bản để tôi đưa ra các bài tập trong cuốn sách này. Một trong những nguyên tắc đầu tiên là các cặp vợ chồng phải thỏa thuận được lịch tham vấn suốt 12 tuần liên tiếp. Ngoại trừ những trường hợp thật sự khẩn cấp, họ phải bố trí công việc sao cho họ có thể tới tham vấn riêng rẽ và đúng hẹn. Lý do để tôi yêu cầu cam kết này là từ kinh nghiệm của bản thân, và từ những kết quả thống kê, đa phần các cặp vợ chồng ngưng chữa trị vào khoảng giữa lần hẹn thứ ba và thứ năm, đó là khoảng thời gian mà những chủ đề vô thức xuất hiện và một số người khác bắt đầu nếm trải những âu lo khắc khoải. Như chúng ta đã biết, một phương pháp hiện thực và đã được kiểm chứng dùng để giảm thiểu nỗi âu lo là tránh né. Một số cặp vợ chồng phàn nàn rằng việc chữa trị tâm lý làm vấn đề tồi tệ hơn và công kích bác sỹ tâm lý. Một số người khác nói rằng không thu xếp được thời gian theo lịch hẹn. Chính vì cung cách né tránh này khá phổ biến nên tôi phải khuyến cáo các cặp vợ chồng cam kết đủ 12 đợt chữa trị. Cũng có những trường hợp, một vài cặp theo đuổi việc chữa trị quá 3 tháng, nhưng ở mức tối thiểu, tôi tin chắc là hầu hết sẽ kiên trì đủ thời gian cần thiết, bất kể sự phản kháng ban đầu của mình. Khi thực hành các bài tập trong cuốn sách này, bạn có thể phải trải qua một sự miễn cưỡng tương tự để hoàn tất tiến trình. Một số bài tập dễ, thậm chí vui vẻ. Nhưng nhiều bài tập sẽ mang lại cho bạn những hiểu biết mới về bản thân bạn, thách thức bạn trưởng thành và thay đổi. Khi thực hành những bài tập đòi hỏi cao hơn, bạn có thể bị cám dỗ vứt cuốn sách sang một bên và từ chối những lời chỉ dẫn. Tóm lại, bạn cần cam kết với chính mình sẽ toàn tâm toàn ý theo đuổi tiến trình. Bạn sẽ khám phá ra rằng, nếu trước khi bắt đầu, bạn cam kết mạnh mẽ sẽ hoàn tất các bài tập một cách chính xác như hướng dẫn, bạn sẽ dễ dàng hơn nhiều khi vượt qua sự phản kháng của bản thân. Đối với những cặp vợ chồng nhìn nhận vấn đề như trên, mọi sự trở nên dễ dàng mọt cách đáng ngạc nhiên – ngay cả những cặp gặp phải sự xáo trộn nặng nề. Để bắt đầu, tôi yêu cầu họ lập danh sách một loạt những cam kết khởi đầu với từ “Chúng tôi” mô tả cung cách quan hệ mà họ muốn có. Họ đưa ra các cam kết đó ở thì hiện tại nếu như trong tương lai họ sẵn sàng cho điều đó. Sau đây là một ví dụ: – Chúng tôi vui vẻ với các mối quan hệ riêng của nhau. – Chúng tôi cùng nhau làm những gì mà cả hai cùng thấy thích. Chỉ sau một đợt chữa trị, họ có thể xác định quan điểm của nhau, tìm ra những điểm chung, và liên kết những cái đó và một mục đích được chia sẻ. Một khi đã xác định được quan điểm, tôi yêu cầu cả hai đọc những cam kết đó hàng ngày như một hình thức suy ngẫm. Dần dần, theo nguyên tắc lặp đi lặp lại, quan điểm ấy trở nên ăn sâu vào tiềm thức. Quyết định Không–cửa–thoát Ngay khi hoàn tất việc xác định quan điểm, thường là vào khoảng đợt chữa trị thứ hai hoặc thứ ba, tôi yêu cầu họ làm bản cam kết tiếp theo dành cho việc theo đuổi đủ 12 tuần chữa trị. Lý do hiển nhiên là: nhà tham vấn hôn nhân sẽ bó tay nếu như cuộc hôn nhân ấy không tồn tại nữa. Suốt 3 tháng, họ sẽ không ly thân, cũng không kết thúc quan hệ một cách bi thảm như tự sát, giết chóc hay mất trí … (mặc dù ly thân và ly dị không phải là cung cách phổ biến nhất mà các khách hàng của tôi dự tính cho cuộc hôn nhân, một thiểu số đáng chú ý cho biết cảm giác của họ là muốn phát điên, và một số cặp còn hình dung ra những lựa chọn bạo liệt hơn nữa…). Tôi gọi quyết định đóng chặt các cánh cửa thoát hiểm này là “quyết định không–cửa–thoát”. Khi sang Phần Ba, bạn sẽ thấy “quyết định không – cửa – thoát” là bài tập đầu tiên tôi yêu cầu thực hành. Động lực Nối kết/Cách ly Người chồng và người vợ thường phản ứng đối lập nhau đối với quyết định không–cửa–thoát. Điển hình là, một người cảm thấy an tâm còn người kia cảm thấy bị đe dọa. Người cảm thấy an tâm thường là “cầu chì” kết nối trong mối quan hệ, người trưởng thành với nhu cầu gắn bó không được thỏa mãn. Người cảm thấy bị đe dọa là “sứ cách điện”, một người có nhu cầu tự lập không được thỏa mãn. Lý do mà cầu chì cảm thấy an tâm là cam kết sẽ đảm bảo cho mối quan hệ được ổn định – ít ra trong ba tháng – và giảm thiểu nỗi sợ hãi bị bỏ rơi. (Đối với “cầu chì” nỗi sợ hãi này luôn ẩn náu sau lớp vỏ ngoài, nhưng sẽ trở nên gay gắt hơn trong quan hệ trục trặc). Lý do khiến “sứ cách điện” cảm thấy e ngại quyết định không–cửa–thoát là thỏa thuận đó sẽ đóng sập cánh cửa thoát hiểm quan trọng, gợi lên nỗi sợ hãi cổ xưa đối với sự si mê. Như vậy là quyết định không–cửa–thoát có khuynh hướng làm giảm thiểu nỗi sợ hãi ở người này và làm trầm trọng nó ở người kia. Trong thời kỳ thỏa hiệp này, tôi cố gắng làm vơi nhẹ nỗi lo âu ở người khách hàng cảm thấy bị mắc bẫy. Tôi lưu ý rằng, cam kết này chỉ có thời hạn 3 tháng và ở cuối thời hạn, họ có thể tự do rời bỏ nó. Bởi vì nó là một quãng thời gian xác định nên hầu hết cảm thấy có thể chấp nhận được. Tiếp theo, tôi giải thích rằng quyết định không–cửa–thoát có khuynh hướng làm hai bên bớt xâm lấn nhau hơn. “Một lý do mà người phối ngẫu của bạn cần cam kết này chính là sự quan tâm của bạn”, tôi giải thích với “sứ cách điện”: “Bởi vì bạn có vẻ lãnh đạm. Một khi bạn chấp nhận quyết định ở lại bên nhau suốt thời gian tham vấn về cuộc hôn nhân, người phối ngẫu của bạn sẽ cảm thấy bớt bị áp lực săn đuổi bạn hơn”. Điều đáng nói là khi thỏa thuận giữ mối quan hệ 3 tháng, “sứ cách điện” lại thường kết thúc nó với một tâm trạng nhiều si mê hơn trước đó. Sự hưởng ứng của một cặp vợ chồng đối với quyết định không–cửa–thoát là một thoáng hiện đầy mê hoặc của những động lực nối kết/ cách ly phức tạp hơn. Mỗi ngày trong đời sống hôn nhân, cả người chồng lẫn người vợ giằng kéo một ranh giới quan hệ vô hình trong cố gắng thỏa mãn đòi hỏi hai mặt của họ: độc lập và gắn kết. Hầu hết thời gian, mỗi cá thể dính chặt vào một phía: một người hướng tới, cố gắng thỏa mãn những đòi hỏi không được đáp ứng về sự gắn kết; người kia co lại, cố gắng thỏa mãn những đòi hỏi không được đáp ứng về sự độc lập. Một vài cặp tự giam mình trong một vũ điệu đặc thù suốt khoảng thời gian hôn nhân. Một số cặp khác trải qua một sự đảo lộn làm sửng sốt. Với nhiều lý do, người dấn lên điển hình bỗng co lại loay hoay kinh ngạc: Kẻ theo đuổi biến đi đâu? Và bất ngờ, “sứ cách điện” đột nhiên khám phá nhu cầu không được đáp ứng của sự gần gũi. Kẻ đối ngẫu cũng đảo chiều, giống như sự đảo cực của nam châm, và giờ đây, “sứ cách điện” thành người đuổi bắt. Sự việc sẽ như vậy nếu các cặp vợ chồng thỏa thuận duy trì một khoảng cách nào đó giữa họ. Nếu người này bắt đầu xâm lấn thánh địa của người kia, người kia sẽ thoát lui. Nếu người kia bỏ trống phần đất của mình, người này sẽ săn đuổi. Y như một cặp nam châm bị đảo chiều bởi dòng điện, có một từ trường vô hình giữ cho người chồng và người vợ một khoảng phân cách tới hạn. Những lối thoát không bi thảm Một cặp vợ chồng mà tôi đã tham vấn, khá thông thạo trò chơi kéo co. Một chỉ báo rõ ràng là trước đó họ đã từng không có quan hệ chăn gối hơn 3 năm. Tôi yêu cầu họ bỏ ra một ngày cùng nhau làm một việc gì đó mà cả hai thấy thích thú. Nhiều ngày sau đó, điều xảy ra là vào một ngày Thứ Bảy, họ đồng ý cùng đi một chuyến về vùng nông thôn và sau đó cùng nhau ăn tối. Sáng hôm sau, ngay khi họ rời khỏi nhà, cô vợ đưa ra đề nghị là nên mời một người bạn cùng đi. Đã lâu họ không gặp người bạn này, cô vợ nêu lý do, thêm nữa, người bạn vốn rất thích có dịp ra khỏi thành phố. Anh chồng nói rằng ý kiến đó không hay lắm. Mục đích rõ ràng của ngày hôm đó là dành thời gian hai vợ chồng ở bên nhau. Tại sao cô ta cứ luôn luôn muốn phá đám như vậy? Họ tranh cãi kịch liệt suốt một giờ, rồi anh chồng đành nhượng bộ. Cô vợ gọi điện thoại đến người bạn, và ông bạn tỏ ra thích thú được đi cùng họ. Trong lúc chờ ngồi bạn đến, cô vợ đọc báo và dọn dẹp nhà cửa còn anh chồng thì biến vào phòng riêng với mớ giấy tờ quen thuộc của mình. Người bạn đến và cả ba lên xe đi về vùng quê. Trên xe, hai người đàn ông ngồi ở băng ghế trước – có vẻ như vì chân họ dài và cần có chỗ duỗi cẳng – còn người vợ ngồi ở hàng ghế sau, đọc sách. Trong chuyến đi, hoặc anh chồng hoặc cô vợ trò chuyện với ông bạn, trong khi người kia lẽo đẽo đằng sau. Khi họ trở lại thành phố, ông bạn về nhà, còn hai vợ chồng bắt đầu thảo luận kế hoạch cho bữa tối. Họ quyết định đến một nhà hàng có trình diễn nhạc sống. Tại nhà hàng, anh chồng đề nghị chọn một bàn ngay trước dàn nhạc để thưởng thức âm nhạc tốt hơn. Họ ăn tối và cố gắng trò chuyện nhưng không thể được vì nhạc quá lớn khiến họ chẳng thể nghe rõ lời nhau. Họ rời nhà hàng lúc 9 giờ kém 15 phút, như vậy là có thể xem chương trình tivi yêu thích của họ. Ngay khi bước vào nhà, họ rót hai ly rượu và cùng nhau yên vị trước màn ảnh tivi. Cô vợ vào giường lúc 11 giờ đêm (sau khi nhắc nhở chiếu lệ anh chồng đừng uống quá nhiều) còn anh chồng ngồi đó đến tận 1 giờ sáng, khoái trá nốc whisky và coi chương trình truyền hình. Với kỹ năng hoàn hảo, họ đã làm cho một ngày ở bên nhau của họ hoàn toàn không có chút gì thân mật ấm cúng. Họ đã làm một cuộc ly dị vô hình, dẫu rằng họ không thực hiện điều đó. Cuộc ly dị vô hình Ở một mức độ khác, hầu hết các cặp vợ chồng đã rơi vào xung đột tranh chấp theo một mô hình tương tự: họ cấu trúc cuộc đời họ cách nào đó khiến cho sự thân mật chân thành không còn đất sống nữa. Cách họ làm điều đó thật là tài tình. Khi tôi hỏi các thân chủ của tôi một câu hỏi giản dị: “Người bạn đời của bạn đã làm như thế nào để tránh né bạn?”, tôi đã thống kê được khoảng 300 câu trả lời khác nhau. Sau đây là một mảng những câu trả lời ấy. Theo tiết lộ của họ thì chiến thuật phổ biến là: “đọc tiểu thuyết”, “chui vào gara”, “săn sóc xe cộ”, “ôm lấy điện thoại”, “quẩn quanh với con cái”, “chạy công chuyện”, “đọc báo liên miên”, “ngủ gật ở đi văng”, “làm hooligan thể thao”, “về nhà thật muộn”, “lúc nào cũng ốm đau mệt mỏi”, “không thích tiếp xúc”, “nốc rượu suốt đêm”, “đam mê bài bạc”, “ăn uống liên miên”, “đi mua sắm”, “lập sổ sách chi tiêu riêng”, “ra quán”, “nghiền ma túy”, “thủ dâm”… Với thực tế là nhiều cặp vợ chồng đã đục rỗng mối quan hệ của họ bằng những lối thoát khác nhau, đã đặt ra câu hỏi hiển nhiên: Điều gì khiến những người đàn ông và đàn bà bỏ rất nhiều thời gian để tránh né sự thân mật? Có hai lý do đáng kể: tức giận và sợ hãi. Tại sao lại tức giận? Trong câu chuyện lãng mạn của mối quan hệ yêu đương, những người này tìm được sự thân mật tương đối dễ dàng, bởi vì họ bị nhồi đầy những mong đợi và ước muốn. Người bạn đời của họ vừa là cha, là mẹ, là bác sĩ, là nhà tâm lý trị liệu, tất cả trong một con người. Nhiều tháng hoặc nhiều năm sau, khi họ nhận ra rằng, người bạn đời của họ chỉ cam kết cho sự cứu rỗi bản thân chứ không phải của họ, họ cảm thấy tức giận và cảm thấy bị phản bội. Một thỏa thuận ngầm đã bị xé bỏ. Trong ước muốn trả thù, họ dưng lên một chướng ngại cảm xúc, như thể họ tuyên bố: “Tôi căm giận vì kẻ ấy đã không đến với những khao khát của tôi”. Thế rồi học khởi đầu một cách hệ thống việc tìm kiếm sự hài lòng và thỏa mãn những mong muốn của họ ở bên ngoài mối quan hệ. Y hệt một con bò đói khát vươn cổ ra ngoài hàng rào gặm những ngọn cỏ xanh, họ tìm kiếm sự thỏa mãn ở bất kỳ đâu. Người chồng ở lại cơ quan thật muộn dẫu rằng ngày làm việc đã hết, hoặc người vợ bỏ cả buổi chiều cho lũ trẻ con trong khi người chồng dán mắt vào tivi – cả hai cá thể cố gắng kiếm tìm sự hài lòng đã vắng mặt từ lâu trong mối quan hệ giữa họ. Lý do khác để cho các cặp vợ chồng tránh né sự thân mật chính là nỗi sợ hãi, đặc biệt là nỗi sợ hãi sự đau khổ. Ở mức độ vô thức, nhiều người phản ứng với người bạn đời như kẻ thù. Bất kỳ ai, dù là cha mẹ, vợ chồng hay hàng xóm láng giềng (theo cung cách nhận thức của tâm thức cũ) mang lại sự thỏa mãn cho mong ước của ta, sau đó lại tước đoạt sự thỏa mãn ấy (cũng theo cung cách nhận thức của tâm thức cũ), người đó chính là nguồn gốc của sự đau khổ và làm xuất hiện bóng ma của cái chết. Nếu người bạn đời của bạn chính là người sẽ làm cho điều đó xảy ra. Khi mà sự chăm sóc đã không có, lại còn kèm theo những lời công kích dữ dội và trong một số trường hợp là sự ngược đãi thực sự, người bạn đời sẽ trở nên một kẻ thù tiềm tàng. Lý do vô thức mà một số người tránh né người bạn đời của mình, không phải là họ săn tìm một thảo nguyên xanh tươi hơn mà là họ đang lẩn tránh cái chết. Hình ảnh thích hợp trong trường hợp này không phải là điền viên, con bò tìm thức ăn, mà là bầy cừu hoảng loạn chạy trốn con sư tử. Trong hầu hết trường hợp, nỗi sợ hãi người bạn đời là vô ý thức. Tất cả các cặp vợ chồng đều nhận thức điều đó như một cảm xúc êm dịu của nỗi lo âu khi ở bên người bạn đời và đồng thời, một ước muốn với kẻ khác. Từng dịp, nỗi sợ hãi lại trồi lên trên bề mặt. Một thân chủ kể với tôi rằng, chỉ một lần duy nhất chị cảm thấy thực sự an toàn bên chồng là khi họ bước vào văn phòng của tôi. Anh ta không khi nào ngược đãi chị, nhưng mối quan hệ của họ đầy những xung đột mà làm chị tin rằng cuộc sống của chị đang bị nguy hiểm. Đóng những cửa thoát Chúng ta không đặt vấn đề là liệu các lý do cho hành vi né tránh căn cứ trên cái gì. Dù sao, điều quan trọng trong những diễn biến khởi đầu của quá trình chữa trị là các cặp vợ chồng, từng bước một, đưa nguồn năng lượng của họ trở lại mối quan hệ. Họ sẽ luôn tìm kiếm sự hài lòng ở những nơi không thích hợp cho đến khi nào họ đóng chặt những cửa thoát có khá nhiều của họ. Và khi những nhu cầu quan hệ của họ chuyển hướng sang những đứa con, hoặc nghề nghiệp, hoặc những gì có thể thay thế, những lầm lạc trong cuộc hôn nhân không phải lúc nào cũng hiển lộ. Những khu vực trục trặc căn bản cần được xác định trước khi có thể giải quyết chúng. Thật ngạc nhiên, nhiều cặp vợ chồng cảm thấy khó khăn khi đóng hàng tá những cửa thoát nhỏ trong mối quan hệ của họ hơn là đóng một cửa thoát bi thảm. Nói cách khác, việc bỏ những giờ dán mắt vào tivi trong 3 tháng còn khó khăn hơn là chấp nhận việc đưa ra giải pháp ly dị. Một phần lý do là việc chặn những lối thoát nhỏ dường như cướp đi sự hài lòng. Và khi người bạn đời không mang lại những gì họ muốn, họ tỏ ra miễn cưỡng khi mình phải nhìn nhận nguồn gốc của sự thỏa mãn những đòi hỏi của mình. Lý do khác của sự đề kháng là khi vợ chồng thấu hiểu nhau hơn, họ phải thường xuyên đối mặt với những nỗi thất vọng bị đè nén, tức giận và sợ hãi. Họ phải giảm thiểu mức độ của nỗi bất hạnh bằng việc xao lãng tâm trí với những hành vi ngoài lề. Họ không đào hầm hố trong mối quan hệ của họ một cách ngẫu nhiên hay có chủ định – họ làm điều đó vì những lý do quan trọng: để thỏa mãn những mong ước và để an toàn. Nhằm giúp các cặp vợ chồng vượt qua sự đề kháng của bản thân và trở nên thân mật với nhau hơn, tôi đặt ra một nguyên tắc gọi là: “Thay đổi tiệm tiến”. Ý tưởng cơ bản đằng sau khái niệm này là việc xử lý những nhiệm vụ khó khăn sẽ trở nên dễ dàng hơn khi ta phân chia nó thành những đơn vị nhỏ. Nếu những đơn vị đó được sắp xếp theo mức độ khó khăn và đơn vị dễ nhất được xử lý trước tiên, dự án sẽ trở nên trong tầm tay. Khi đọc sang Phần Ba, bạn sẽ tìm thấy những chỉ dẫn đầy đủ cho việc đóng những cửa thoát. Còn bây giờ là cái nhìn tổng quan cho tiến trình đó. Bạn hãy hình dung hai người bị mắc bẫy trong một mối quan hệ không thỏa mãn. Để hóa trang cho sự trống rỗng của cuộc hôn nhân, họ làm đầy cuộc sống của họ với những hài lòng giả tạo. Chúng ta hãy xem xét những cửa thoát của người phụ nữ. Trong mớ trách nhiệm, có sự nghiệp của cô, hai đứa con tuổi mới lớn, một đời sống xã hội sôi động, một vị trí trong cộng đồng, nỗi đam mê rèn luyện thể hình, hai giờ học nhạc mỗi tuần và thói quen đọc tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Những hoạt động đó giúp cô vùi sâu cảm giác thất vọng nhưng chúng lại làm kiệt quệ năng lượng sống của cô trong mối quan hệ vợ chồng. Khi người phụ nữ quyết định loại bỏ một vài hoạt động – những “cửa thoát” – thì cũng như nhiều người khác, cô sẽ cố tìm một mức độ giá trị thực sự cho những điều cô làm. Khi bạn thực hành bài tập không–cửa–thoát ở Phần Ba, bạn có thể gặp sự bối rối ban đầu tương tự như vậy. Một cửa thoát là gì? Một hoạt động bản chất hay một hình thái giá trị của sự tái tạo là thế nào? Con đường cần tìm là hãy hỏi chính bạn những câu hỏi sau: “Phải chăng một trong những lý do khiến ta tham gia hoạt động này là để tránh phải ở bên cạnh người bạn đời?”. Hầu như tất cả đều biết trường hợp này. Chúng ta giả thiết rằng, người phụ nữ đã tự hỏi mình câu hỏi đó và nhận dạng những hoạt động mà cô sẵn sàng giảm bớt hoặc loại bỏ. Tiếp đó, cô phân loại các hoạt động đó theo mức độ khó khăn và chọn ra cái dễ nhất để xử lý. Ví dụ, cô quyết định sẽ làm 2 thay đổi tương đối dễ: Chạy bộ 2 ngày một tuần thay vì 5 ngày một tuần, đọc những cuốn tiểu thuyết ưa thích vào buổi trưa thay vì buổi chiều. Và dành những thời gian được thu xếp cho chồng cô. Cô cũng có thể quyết định tìm người khác thay thế trong công việc cộng đồng, việc này dẫu khó khăn nhưng không phải là không làm được. Các thay đổi khác có vẻ khó khăn hơn. Nếu cô dấn tới và thực hiện hai thay đổi dễ dàng đó, dù sao, cô cũng dôi ra được vài giờ mỗi tuần để dành chúng cho mối quan hệ vợ chồng. Đây là một xuất phát điểm tốt. Các thay đổi khác, nếu cần thiết, có thể làm sau đó. Vào thời điểm mà người phụ nữ dự tính loại trừ một số lối thoát, chồng cô cũng đang trong một tiến trình tương tự. Anh cũng rà soát lại các hoạt động của mình, nhận dạng các lối thoát, và bắt đầu một chương trình thu giảm có hệ thống. Kết quả của bài tập này là, cả hai vợ chồng sẽ dành ra nhiều khoảng thời gian đáng chú ý hơn cho nhau. Phản ứng đối với tương tác được nâng cao này ở mỗi cặp vợ chồng có sự khác biệt. Một vài cặp vui vẻ đón nhận những tiếp xúc bổ sung. Một số khác thấy rằng việc đóng các cửa thoát khiến họ có ít hơn những con đường bỏ trốn khỏi một hoàn cảnh nặng nề. Mặc dù không có những kết quả hài lòng, họ cũng nhận được đôi điều từ bài tập, đó là một mô tả rõ ràng hơn về khu vực xung đột của họ, họ biết đích xác vì sao họ tránh né nhau và đó là bước đầu tiên quan trọng trong việc chữa trị. Đến khi cái chết chia lìa chúng tôi Khi tôi hướng dẫn các cặp vợ chồng làm một loạt cam kết – thỏa thuận như: 1. Theo đuổi các đợt chữa trị, tối thiểu 12 tuần lễ. 2. Xác định một quan điểm hôn nhân. 3. Sát cánh bên nhau suốt thời gian chữa trị. 4. Từng bước đóng các cửa thoát. tôi cho họ biết rằng, các thỏa thuận đó có thể dẫn đến một cam kết rộng lớn hơn: Quyết định gắn bó cùng nhau trong một hành trình sẽ chỉ kết thúc trong sự an nghỉ của cuộc đời họ. Mặc dù quyết định này không thể đưa ra lúc khởi đầu quá trình chữa trị, tôi muốn các cặp vợ chồng biết rằng, để có sự tăng trưởng tâm lý và tinh thần tối đa, họ cần sát cánh bên nhau không chỉ 3 tháng hoặc 3 năm, ngay cả 30 năm, mà là cả những năm tháng còn lại của đời họ. Nhưng thương tổn tuổi thơ không hiện diện cùng với họ trong một kiện hàng gói ghém gọn ghẽ. Chúng trồi lên bề mặt một cách chậm chạp, trước tiên thường là những gì nông cạn hơn. Đôi khi, một rắc rối nhỏ xuất hiện cả một thời gian dài trước khi nó được nhận dạng như một vấn đề đặc trưng. Và đôi khi, một khao khát tinh thần đã được vùi sâu chỉ bật ra do một khủng hoảng hoặc do những đòi hỏi của một biến cố đời sống nào đó. Cuối cùng là cam kết sẽ mang lại cho cặp vợ chồng một quãng đời bên nhau để nhận diện và chữa trị phần lớn những chấn thương tinh thần tuổi thơ. Trong một nền văn hóa mà chế độ một vợ một chồng trở thành quy tắc sống, ý tưởng về một cam kết vĩnh cửu đối với người phối ngẫu có vẻ cổ lỗ, trói buộc. Câu hỏi thịnh hành những năm 50 là: “Hôn nhân có thể được cứu vãn?” Hàng triệu người đã quyết định trả lời: Không! Trong thực tế, nhiều người trong số đó đã nhìn nhận ly dị như một cơ hội cho sự tăng trưởng cá nhân. Theo quan điểm ngày càng phổ biến này, con người trưởng thành và thay đổi bên ngoài hôn nhân, khi hôn nhân đã đổ vỡ. Họ tin tưởng rằng điều này sẽ mở mắt cho họ những hành vi tự kỷ và mang đến cho họ một cơ hội để giải quyết những vấn đề đó với kẻ phối ngẫu mới. Nhưng trừ phi họ hiểu rõ những ước muốn vô thức, những gì đã dẫn đến ứng xử lệch lạc của họ trong cuộc hôn nhân đầu tiên và học cách làm thỏa mãn những ước muốn ấy với kẻ phối ngẫu mới, cuộc hôn nhân thứ hai cũng sẽ lại mắc cạn trên những ghềnh đá cũ mà thôi. Cảm nhận về sự trưởng thành và thay đổi giữa hai cuộc hôn nhân là một ảo tưởng: nó sẽ chỉ là nỗi đau khổ đến từ sự hoán đổi những ứng xử quen thuộc của người trước cho kẻ sau. Tôi sẽ tiếp tục chủ đề này trong một nghiên cứu khác về quan hệ yêu đương, cố tránh những quan điểm bảo thủ về hôn nhân. Nhưng tôi tin rằng, rồi đây, các cặp vợ chồng sẽ dành mọi nỗ lực để tôn vinh lời ước nguyện trong hôn lễ của họ là mãi mãi bên nhau “đến khi cái chết chia lìa” đôi lứa. Không phải vì những lý do đạo đức mà là vì những lý do tâm lý: sự trung thành và cam kết trở thành tiền đề, được xác lập bởi vô thức. Trong Phần Ba, các bạn sẽ có cơ hội để khơi sâu cam kết, bắt đầu một tiến trình trưởng thành và thay đổi, thời gian được đề nghị gói trọn 16 bài tập là 10 tuần lễ. Dành ra hai tháng rưỡi để cải thiện cuộc hôn nhân, có lẽ là tất cả những gì bạn cần để hiện thực hóa quan niệm của mình. Tình yêu hoàn hảo có nghĩa là để yêu, kẻ này thấu suốt kẻ kia và trở nên bất hạnh. - SOREN KIERKEGAAR TẠO RA MỘT VÙNG AN TOÀN Khi một cặp vợ chồng cam kết sẽ ở bên nhau để thực hiện chương trình chữa trị tâm lý, bước lôgic tiếp theo sẽ là giúp họ trở nên đồng minh chứ không phải thù địch. Sẽ chẳng ăn thua gì nếu chỉ là đưa 2 kẻ thù ghét nhau đi bên nhau trên con đường tăng trưởng tâm lý và tinh thần – họ sẽ chỉ chăm chăm người này tìm cách gạt kẻ kia sang bên lề đường. Để có được những tiến bộ chắc chắn nhất và khả quan nhất hướng tới một quan điểm liên kết, họ cần phải trở thành những người bạn và những trợ thủ của nhau. Nhưng bằng cách nào để làm được điều đó? Các cặp vợ chồng sẽ chấm dứt tranh chấp bằng cách nào khi mà họ không có cơ hội để giải quyết những bất đồng cơ bản giữa họ? Tình yêu và lòng trắc ẩn là những gì chỉ đạt được ở điểm cuối của hành trình chữa trị chứ không phải ở điểm khởi đầu. Tôi đã đặt ra một giải pháp cho tình thế tiến thoái lưỡng nan này trong một nghiên cứu về khoa học ứng xử. Tôi cho rằng có thể tác động đến cung cách một cặp vợ chồng cảm nhận về nhau bằng cách giúp họ xây dựng lại (một cách nhân tạo) những tiền đề của tình yêu lãng mạn. Khi người này cư xử với người kia theo cung cách mà họ đã có trong những ngày hạnh phúc, người này sẽ bắt đầu nhận diện người kia một lần nữa lại như suối nguồn của lạc thú và chính điều này làm cho họ quyết tâm hơn theo đuổi chương trình chữa trị. Nhận thức và sự thay đổi hành vi Nhiều năm trước, tôi đã chống lại ý tưởng đề cập trực tiếp đến sự hoán chuyển hành vi của người bệnh. Xuất phát từ một trường phái phân tâm học, tôi cho rằng mục tiêu của nhà điều trị tâm lý là giúp đỡ người bệnh cất bỏ các gánh nặng cảm xúc. Một khi người bệnh đã liên kết một cách sai lầm những xúc cảm của họ về người bạn đời với những nhu cầu và ước muốn bị gạt bỏ trong tuổi ấu thơ của họ, điều được giả định là phải giúp họ tiến tới một cung cách quan hệ người lớn và duy lý hơn. Định kiến này đặt cơ sở trên một mô hình y khoa cho rằng, khi một căn bệnh được thầy thuốc chữa trị, người bệnh sẽ được phục hồi sức khỏe hoàn toàn. Trước khi xuất hiện các hình thức chữa trị bệnh tâm thần theo hướng phân tâm vốn có cội rễ trong y học thế kỷ 19, việc chữa trị dựa trên những định kiến sinh học phổ biến là điều dễ hiểu. Nhưng nhiều năm kinh nghiệm chữa trị cho các cặp vợ chồng đã thuyết phục tôi rằng, một mô hình y khoa không thể áp dụng cho việc tham vấn về hôn nhân. Khi một thầy thuốc chữa trị một căn bệnh thực thể, cơ thể tự động hồi phục bởi vì nó trông cậy vào chương trình di truyền. Mỗi một tế bào trong cơ thể – trừ phi nó bị hư hỏng hoặc bệnh hoạn, hàm chứa tất cả các thông tin cần thiết cho các chức năng thông thường. Nhưng chẳng có mã di truyền nào dành cho hôn nhân cả. Hôn nhân là một sáng tạo văn hóa tác động lên con người sinh học. Bởi vì con người thiếu một kiến trúc nội tại dành cho các chỉ dẫn xã hội, họ vẫn có thể bị mắc kẹt trong những mối quan hệ bất hạnh sau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm chữa trị. Những gánh nặng xúc cảm của họ có thể được cất bỏ và họ có thể thấu tỏ căn nguyên những khó khăn của họ, nhưng họ vẫn cứ bám víu vào những ứng xử quen thuộc. Cũng như nhiều nhà tham vấn hôn nhân khác, tôi kết luận rằng nhà tâm lý phải đóng vai trò chủ động trong việc trợ giúp các lứa đôi thiết kế lại mối quan hệ của họ. Soi rọi các chấn thương tuổi thơ là một việc thiết yếu trong quá trình chữa trị, nhưng điều đó không đủ. Người ta cũng cần hiểu rõ các hành vi phản hồi sẽ tác động như thế nào và tái định vị chúng một cách hiệu quả hơn. Những hành vi săn sóc Ở đầu chương này, tôi đã đề cập đến sự tiếp cận hành vi, nó tỏ ra đặc biệt hữu dụng trong việc giải quyết các trục trặc, hồi phục nhanh chóng cảm quan về tình yêu và thiện ý của các cặp vợ chồng. Trong cuốn sách: Trợ giúp sự thay đổi của các lứa đôi: Một cách tiếp cận xã hội đối với tham vấn hôn nhân, nhà tâm lý Richard Stuart giới thiệu một bài tập cho các cặp vợ chồng, giúp họ có cảm giác yêu thương kẻ bạn đời nhiều hơn đơn giản bằng cách dấn thân vào những hành vi yêu thương nhiều hơn. Được gọi là “Những ngày săn sóc”, bài tập hướng dẫn các cặp vợ chồng viết ra một danh sách những cách thức tích cực và đặc trưng mà người bạn đời của họ có thể làm họ hài lòng. Ví dụ, một người đàn ông viết: “Anh muốn em xoa bóp vai anh khoảng 15 phút trong lúc anh xem tivi”, hoặc là: “Anh muốn em mang bữa điểm tâm vào tận giường cho anh mỗi buổi sáng Chủ nhật”. Người chồng hoặc người vợ sẽ dành cho người bạn đời một vài hành vi săn sóc nào đó mỗi ngày, bất kể họ cảm nhận về người kia như thế nào. Stuart khám phá ra rằng, khi bài tập thành công, nó phát sinh “những đổi thay đáng kể trong các chi tiết tương giao hàng ngày giữa 2 vợ chồng trong khoảng tuần lễ chữa trị đầu tiên, một nền tảng chắc chắn để đưa ra những gợi ý tiếp theo cho sự thay đổi”. Để thấy cách tiếp cận hành vi này tác dụng ra sao, tôi quyết định thử nghiệm nó cho Harriet và Dennis Johnson. Tôi chọn họ bởi vì họ cảm thấy sống với nhau không hạnh phúc, giống như nhiều lứa đôi khác đang chữa trị ở chỗ tôi. Một trong những nỗi lo chính yếu của Harriet là Dennis đang lìa bỏ cô. Trong cố gắng tuyệt vọng để níu giữ anh, cô đã tán tỉnh lộ liễu một người đàn ông khác. Để làm cô mất tinh thần, Dennis đáp lại hành vi “chấp chới” của cô bằng một cung cách tương tự đối với mỗi việc cô làm – nhưng khắc kỷ hơn. Trong một đợt chữa trị, Dennis thổ lộ rằng anh đang cố gắng điều chỉnh chiến thuật trước sự kiện là mỗi ngày Harriet có thể có một “phi vụ”. Sự im lặng “bi hùng”của anh chỉ làm Harriet cảm thấy sự việc trở nên trầm trọng hơn. Cô đang cố hết sức để “thấm ướt” thái độ phòng vệ của anh nhằm làm cho anh ưa thích cô trở lại. Ở khoảng thời gian hiếm hoi đó, khi cô loay hoay chọc tức anh thì anh lại cư xử theo một kiểu “sứ cách điện” điển hình là bỏ nhà đi. Hầu hết các cuộc tranh chấp giữa họ kết thúc với việc Dennis bắn vọt lên trời trong chiếc ghế cấp cứu của phi công phản lực! Để đặt nền móng cho bài tập, tôi yêu cầu Dennis và Harriet kể cho tôi nghe họ đã cư xử với nhau như thế nào khi bắt đầu yêu nhau. Khi nghe họ kể, tôi có cảm tưởng rằng họ đang nói về hai người nào khác, tôi không thể hình dung ra Dennis và Harriet cưỡi xe đạp lang thang cùng nhau suốt cả ngày Chủ nhật, trốn sở làm để đi xem phim với nhau và gọi điện thoại cho nhau 2-3 lần mỗi ngày. “Điều gì sẻ xảy ra” – tôi hỏi khi trở lại bình thường sau cơn sửng sốt, – “nếu các bạn trở về nhà và làm lại tất cả những điều đó một lần nữa? Điều gì xảy ra nếu các bạn cư xử với nhau tương tự những gì các bạn đã làm lúc đang si mê nhau?”. Họ nhìn tôi với vẻ bối rối. “Tôi nghĩ là mình sẽ cảm thấy không thoải mái”, Dennis nói sau một cử chỉ phản ứng mơ hồ: “Tôi không muốn hành động khác với những cảm xúc của mình. Tôi cảm thấy mình… giả dối. Tôi không còn cảm xúc với Harriet như những điều tôi đã làm trước đây nữa, vậy tại sao tôi lại phải cư xử với cô ấy như trước?” Harriet tán thành: “Có vẻ như chúng tôi đóng kịch. Chúng tôi không hạnh phúc, nhưng ít nhất chúng tôi cũng cố gắng thành thật với nhau”. Khi tôi giải thích rằng, bài thực nghiệm có thể giúp họ vượt qua ngõ cụt, họ chấp nhận thử nó, bất kể sự chống đối ban đầu của mình. Tôi giải thích bài tập cho họ thật cẩn thận. Họ về nhà, lập một danh sách và tự nguyện thực hiện 3-5 hành vi săn sóc nhau môi ngày. Các hành vi ấy là những tặng phẩm. Họ nhìn nhận chúng như những cơ hôi để làm vui lòng nhau, chứ không phải là một trò đổi chác. Quan trọng nhất là họ đã giữ được cơ may và đã giữ lời hứa mang vào bài tập một cố gắng chân thành. Mở đầu lần hẹn tiếp theo, Dennis tường thuật kết quả thực nghiệm: “Tôi nghĩ là ông có lý. Chúng tôi đã làm tất cả những gì ông yêu cầu và hôm nay tôi cảm thấy có nhiều hy vọng hơn cho cuộc hôn nhân của chúng tôi”. Tôi yêu cầu anh kể tiếp. “Vâng. Sau buổi hẹn đầu, tôi thấy mình lái xe lòng vòng các phố trong một tâm trạng đen tối”, Dennis tâm sự, “Tôi không còn nhớ vì sao tôi lại như vậy. Sau đó, tôi quyết định thử làm hết mình những gì mà ông yêu cầu. Tôi dừng xe ở một siêu thị và mua cho Harriet vài đóa hoa. Đó là một trong những mong muốn của cô ấy được ghi trong danh mục. Người bán hàng hỏi tôi có muốn mua một tấm thiệp không. Tôi tự nghĩ: “Tại sao không?”. Tôi nhớ lại là đã tự bảo mình: “Chúng tôi đã nhờ ông tư vấn để mọi chuyện được tốt đẹp hơn, vậy tốt nhất là làm tất cả”. Thế là tôi mua một tấm thiệp và khi về đến nhà, tôi ghi vào mặt sau tấm thiệp: “Anh yêu em”. – Anh ngừng một lát. – “Điều ngạc nhiên nhất là khi tôi trao cho Harriet những đóa hoa, tôi đã thực sự âu yếm với cô ấy”. “Và khi tôi đọc tấm thiệp”, Harriet bổ sung, “nước mắt tôi ràn rụa. Đã quá lâu kể từ ngày anh ấy ngỏ lời yêu tôi”. Họ tiếp tục diễn tả tất cả những gì họ đã làm để vui lòng nhau. Harriet đã làm món rô-ti với khoai tây rán mà Dennis ưa thích. Trên giường ngủ, họ đã không quay lưng vào nhau nữa. Kết toán các sự kiện, dường như đã xuất hiện một trường hấp dẫn mới giữa hai người. Khi họ rời văn phòng của tôi, tôi còn thấy Dennis khoác áo ngoài cho Harriet và cô thì mỉm cười: “Cảm ơn, anh yêu!”. Chỉ là một điều nhỏ nhặt thôi, nhưng là một mảnh lạc thú cho và nhận đã vắng bóng từ lâu trong quan hệ của họ. Tôi yêu cầu Dennis và Harriet tiếp tục các hành vi săn sóc lẫn nhau, và ở mỗi đợt tham vấn, họ lại thông báo một tiến triển khả quan trong quan hệ. Họ không chỉ săn sóc lẫn nhau mà còn sẵn sàng thăm dò những gì nằm sâu bên dưới nỗi bất mãn của họ. Tại các buổi tham vấn, họ ít than phiền hơn và dành thời gian để tìm hiểu những thương tổn của tuổi ấu thơ là lý do tiềm tàng cho cảm giác bất hạnh trước đây của họ. Bởi vì bài tập của Stuart đã có hiệu quả tốt trong trường hợp Dennis và Harriet, tôi đã dùng nó như một mô hình cho một bài tập mở rộng hơn mà tôi đặt tên là “Tái lãng mạn hóa” bởi vì nó có tác dụng phục hồi tương tác xung đột – giải thoát của tình yêu lãng mạn. Tôi đã hướng dẫn bài tập “Tái lãng mạn hóa” cho những khách hàng khác và gần như không có ngoại lệ, khi các cặp vợ chồng bắt đầu thu xếp để gia tăng số thời gian trong ngày cho những hành vi yêu thương, họ cũng bắt đầu cảm thấy được an toàn và được yêu thương hơn. Điều này làm mạnh mẽ mối liên kết cảm xúc giữa họ và kết quả là họ đã thúc đẩy nhanh tiến trình chữa trị. Tôi sẽ giải thích những chi tiết của bài tập “Tái lãng mạn hóa” đầy đủ hơn trong Phần Ba. Khi bạn theo những chỉ dẫn một cách cẩn thận, bạn cũng sẽ trải nghiệm một sự cải thiện tức thời khí hậu hôn nhân của mình. Bài tập này không phải để giải quyết những xung đột sâu sắc nhưng nó sẽ giúp tái lập cảm giác an toàn và hài lòng, đồng thời gia tăng sự thân mật trong quan hệ hôn nhân. Tại sao làm điều đó? Tại sao một bài tập đơn giản lại có hiệu quả như vậy? Lý do hiển nhiên là thông qua những hành vi tích cực lặp lại mỗi ngày, tâm thức cũ bắt đầu nhìn nhận người bạn đời như “một kẻ nuôi dưỡng”. Những thương tổn đầy khổ đau bị vượt qua với những giao tiếp tích cực và người bạn đời mới đây còn bị coi là “kẻ mang lại cái chết” đã trở thành suối nguồn của đời sống. Điều này mở đường cho sự thân mật, khả tính duy nhất trong một thông điệp của lạc thú và an toàn. Nhưng cũng có những lý do khó thấy hơn khiến cho bài tập này đạt kết quả. Thứ nhất, nó giúp ta làm xói mòn niềm tin tuổi thơ là người bạn đời có thể đọc được những ý nghĩ của ta. Trong tình yêu lãng mạn, ta thường tin tưởng sai lầm rằng người bạn đời của ta biết đích xác những điều ta mong muốn. Khi người bạn đời, không làm thỏa mãn những ước muốn thầm kín của ta, ta cho rằng họ chủ tâm tước đoạt của ta sự hài lòng và khiến ta cũng muốn tước đoạt sự hài lòng của họ. Bài tập “Tái lãng mạn hóa” ngăn chặn vòng xoáy tai hại này bằng yêu cầu cặp vợ chồng để cho nhau nghe đích xác điều gì làm họ hài lòng, và như vậy, làm thu giảm sự tin tưởng vào phép màu thần giao cách cảm. Một kết quả khác của bài tập là nó đập tan trạng thái ăn miếng trả miếng của sự tranh chấp. Khi một cặp vợ chồng thực hành bài tập “Tái lãng mạn hóa”, họ được hướng dẫn làm hài lòng nhau theo một khóa biểu hiện riêng rẽ, họ phân định một danh mục các hành vi săn sóc mỗi ngày, không quan tâm tới hành vi của người kia. Điều này tái lập khuynh hướng tự nhiên là đưa ra những ưu tiên trên 1 cơ sở có đi có lại: Anh làm điều này cho tôi, tô sẽ làm điều kia cho anh. Rất nhiều cuộc hôn nhân diễn ra theo kiểu mua bán các hành vi yêu đương chẳng khác nào tiền trao cháo múc. Nhưng những “tình yêu” như vậy cũng chẳng thể tồn tại được đối với tâm thức cũ. Nếu John xoa bóp vai cho Martha với hy vọng rằng cô sẽ để yên cho anh một ngày đi câu cá với đám bạn thì trong thâm tâm, Martha sẽ nghĩ: “Xem đấy! Có giá hết. Chẳng có gì hay hớm khi nhận được một sự săn sóc như thế, bởi vì sau đó mình cũng sẽ phải đáp lại”. Một cách vô thức, cô không chấp nhận sự săn sóc của John, bởi vì cô biết những cái đó là dành cho chính anh ta chứ không phải cho cô. Tâm thức cũ của cô sẽ chỉ chấp nhận một ứng xử yêu thương duy nhất không có điều kiện nào kèm theo đó là: “Anh xoa bóp vai cho em vì anh biết rằng em rất thích điều đó”. Lúc đấy, hành động sẽ trở thành một “tặng phẩm”. Nhu cầu “được trao tặng” xuất hiện ngay từ tuổi thơ ấu. Khi chúng ta là những đứa trẻ, tình yêu không kèm theo trả giá. Ít nhất trong những tháng đầu tiên của cuộc đời, chúng ta không phải “đáp lại” khi chúng ta được vỗ về, đưa nôi hay bú mớm. Còn bây giờ, khi đã trưởng thành, quá khứ đã khép lại vẫn còn khẩn nài ta dưới hình thái tình yêu. Chúng ta muốn được yêu, được săn sóc mà không phải “có đi có lại”. Khi người bạn đời tặng ta những hành vi săn sóc không phụ thuộc vào thái độ của ta, nhu cầu được yêu vô điều kiện của ta được thỏa mãn. Lợi ích thứ ba của bài tập là nó giúp ta nhận thấy rằng những gì làm ta hài lòng là sản phẩm của cá nhân ta, thuộc về kinh nghiệm sống riêng của ta và có thể rất khác với những gì làm hài lòng người bạn đời. Thông thường, người chồng hay người vợ chỉ quan tâm đến nhu cầu và ham muốn của bản thân mình chứ không phải của người kia. Ví dụ, một phụ nữ tới tham vấn chỗ tôi vì gặp trục trặc trong đời sống gia đình, đã dành cho chồng mình buổi tiệc sinh nhật lần thứ 40 đầy ngạc nhiên. Cô mời tất cả bạn bè của chồng, nấu những món ăn chồng cô ưa thích, thuê một lô những băng nhạc của thập kỷ 60 mà chồng cô rất mê cùng với nhiều sáng kiến sinh động cho lễ sinh nhật. Trong bữa tiệc, chồng cô hết sức vui vẻ, nhưng chỉ vài tuần sau, giữa một đợt tham vấn, anh ta trở nên bực bội và bảo vợ mình rằng anh ta đã phải chịu một nỗi khổ sở không nói ra được. “Anh không thích những buổi sinh nhật ồn ào huyên náo như vậy, nhất là sinh nhật lần thứ 40 của anh. Anh chỉ muốn một buổi tối êm ả bên em và các con với một chiếc bánh do em làm và một vài món quà nhỏ. Em chỉ thích những bữa tiệc om sòm ầm ĩ”. Vợ anh ta đã thực thi Định Luật Vàng: “Hãy làm cho người khác những gì mà bạn muốn người khác làm cho bạn” với một chút quá lố. Cô đã hồn nhiên dành cho chồng một bữa tiệc sinh nhật theo “khẩu vị” của cô chứ không phải của anh ta. Bài tập “tái lãng mạn hóa” điều chỉnh trục trặc này bằng cách hướng dẫn cho các cặp vợ chồng thực hành quy tắc : “Hãy làm cho người khác những gì họ muốn bạn làm cho họ”. Quy tắc này sẽ điều chỉnh các hành vi săn sóc “lung tung” của bạn trở thành những hành vi được thiết kế nhằm thỏa mãn các khao khát đích thực của vợ hay chồng bạn. Lợi ích cuối cùng của bài tập “Tái lãng mạn hóa” là khi một cặp vợ chồng thường xuyên mang đến cho nhau những hành vi săn sóc “có đích”, họ sẽ không chỉ cải thiện khí hậu yêu đương của họ mà còn khởi đầu việc chữa trị các thương tổn tâm lý xa xưa. Tôi có một kinh nghiệm cá nhân về việc này. Vợ tôi, Helen, và tôi thỏa thuận tiến hành một thí nghiệm tương tự: tôi là một khách hàng, và bài tập “Tái lãng mạn hóa” được chúng tôi thực hiện với nhiều thời gian và hết sức tự nhiên. Một trong những điều mà tôi muốn Helen thực hiện là nàng sẽ sửa soạn giường cho cả hai trước khi đi ngủ. Yêu cầu này xuất phát từ một kinh nghiệm của tôi 40 năm trước. Sau khi mẹ tôi mất, tôi sống với chị tôi là Maize Lee. Lúc ấy bà 18 tuổi và mới lập gia đình, nhưng bà đã dành cho tôi những cử chỉ săn sóc tinh tế. Một trong những cử chỉ đó là bà luôn luôn dành thời gian vào phòng tôi trước giờ ngủ, sửa soạn giường nằm cho tôi và pha cho tôi một ly nước cam hoặc một ly sữa. Giờ đây, khi Helen sửa soạn giường cho tôi trước khi tôi đi ngủ, tôi lại nhớ tới chị tôi với tất cả những cử chỉ săn sóc yêu thương và tôi cảm thấy tràn ngập xúc động. Ở một mức độ sâu xa, cử chỉ đơn giản đó đã tái tạo một tình mẫu tử sống động. Tôi cảm thấy yên ổn trở lại, thương tổn tuổi thơ được chữa trị trong một mối quan hệ của tuổi trưởng thành, mối quan hệ đã trở nên một khu vực của tình yêu và sự an toàn. Danh mục gây ngạc nhiên Sau khi đưa bài tập “Tái lãng mạn hóa” vào chương trình của các cặp vợ chồng, tôi ghi nhận một hiện tượng đáng chú ý: giá trị tích cực của bài tập này sau một vài tháng lại trở nên mờ nhạt. Cặp vợ chồng tuân thủ các chỉ dẫn nhưng những gì làm họ hết sức hài lòng lúc bắt đầu bài tập chẳng kéo dài được bao nhiêu. Điều này gợi ý cho tôi rằng, có lẽ phải đưa vào bài tập khái niệm: củng cố ngẫu nhiên. Củng cố ngẫu nhiên là một nguyên tắc của khoa học hành vi, có nghĩa là, sự kích thích hài lòng sẽ mất hiệu quả nếu nó được nhắc lại một cách đơn điệu. Nhìn rộng hơn, mặt khác, phải sáng tạo một không khí bất trắc và chờ đợi, tăng cường ý nghĩa của sự tưởng thưởng. Khái niệm này được một nhó nhà khoa học đưa ra sau những thí nghiệm huấn luyện động vật. Một hôm, những thiết bị thí nghiệm bỗng bị trục trặc và các con vật tham gia thí nghiệm không được thưởng sau những cố gắng của chúng. Hôm sau, thiết bị được sửa chữa và việc thưởng cho các con vật trở lại tiến trình cũ. Nhưng các nhà khoa học rất ngạc nhiên vì các con vật như có gì thúc đẩy chúng làm các động tác hăng hái hơn trước. Sự mong đợi phần thưởng mà chúng không còn biết trước khiến chúng trở nên hoạt động hơn. Hiện tượng củng cố ngẫu nhiên có thể quan sát dễ dàng trong đời sống hiện tại. Hầu hết các cặp vợ chồng tặng quà cho nhau nhân dịp lễ lạc như Giáng sinh, Tết, sinh nhật… Những tặng phẩm “nhân dịp” ngày trở nên nhàm chán. Mặc dù các tặng phẩm vẫn làm người nhận vui thích nhưng chúng không còn gây xúc cảm và ngạc nhiên như lẽ ra phải có. Một nhà hành vi học nói rằng: những tặng phẩm mất khả năng kích thích là vì “hệ thống tâm-thần-kinh trở nên vô cảm đối với sự hài lòng có thể đoán trước và lặp đi lặp lại”. Một nguyên tắc tương tự được áp dụng cho bài tập “Tái lãng mạn hóa”. Một cặp vợ chồng neo buộc nhau trong một lịch biểu những hành vi săn sóc – ví dụ như, người này đấm lưng cho người kia trước khi đi ngủ hoặc một bó hoa cho nhau vào Thứ Bảy hàng tuần – sẽ bào mòn sự hài lòng từ những hành vi săn sóc ấy. Cần đưa vào tình trạng đó một quãng ngắt để kích thích sự chú ý của cả hai. Để bổ sung yếu tố đợi chờ thấp thỏm, tôi đưa ra bài tập “Danh mục gây ngạc nhiên”, đó là những hành vi săn sóc ở bên trên và bên kia những gì mà người bạn đời của bạn đề nghị. Mỗi người lập danh sách những gì mình có thể đáp ứng những ước muốn sâu kín, thậm chí trong mơ, của người bạn đời. Một người phụ nữ không nhớ rằng mình đã thổ lộ với chồng vào một lúc nào đó là mình rất thích một bộ đồ trong cửa hiệu thời trang, sẽ sáng mắt lên khi thấy bộ đồ đó – dĩ nhiên đúng cỡ – xuất hiện trong tủ áo. Một người đàn ông ngưỡng mộ giọng tenor của Parvarotti, một hôm mở thùng thư bỗng thấy một cặp vé đi xem opera, buổi diễn của Parvarotti, kèm một dòng chữ âu yếm của vợ mình. Bạn thấy sao khi một cặp vợ chồng bổ sung những điều hài lòng không dự kiến ấy vào các hành vi săn sóc thường nhật? Chắc chắn hiệu quả hữu ích của bài tập sẽ không bị bào mòn đi mà còn được nâng cấp. Danh mục vui đùa Lúc này, tôi đưa ra một bổ sung cuối cùng cho tiến trình “tái lãng mạn hóa”. Tôi yêu cầu các cặp vợ chồng không chỉ mang đến cho nhau những hành vi săn sóc và những hành vi gây ngạc nhiên mà đôi khi, cả những hoạt động vui đùa “toát mồ hôi” hàng tuần. Đó là những trò chơi tay đôi đầy hào hứng và ngẫu nhiên như: đấu vật, đuổi bắt, massage, kéo co, khiêu vũ… những môn thể thao có tính ganh đua sẽ chỉ thích hợp với những cặp vợ chồng không có máu ăn thua cay cú. Lý do mà tôi bổ sung yếu tố này là hầu hết những hoạt động mà các cặp vợ chồng đưa vào danh mục hành vi săn sóc đều rất “người lớn”, họ đã quên mất rằng ngày xưa họ đã vui đùa với nhau như thế nào. Ngay khi đưa ra hướng hoạt động này, tôi tiến hành khảo sát các thân chủ của tôi và nhận thấy thời lượng họ dành để vui đùa cười cợt với nhau chỉ khoảng mươi phút mỗi tuần. Cải thiện tình trạng đáng buồn này trở nên một ưu tiên trong chương trình, bởi vì tôi biết rõ ràng, khi vui đùa cùng nhau, hai vợ chồng sẽ nhận dạng nhau như những suối nguồn của lạc thú và an toàn, đó là điều sẽ tăng cường những liên hệ cảm xúc giữa họ. Khi tâm thức cũ ghi nhận một dòng năng lượng tích cực, nó biết rằng hoạt động đó sẽ khởi động tiến trình nối kết vào đời sống và sự an toàn và những kẻ phối ngẫu sẽ nối kết lẫn nhau ở mức độ vô thức và sâu xa hơn. Nỗi sợ hãi sự hài lòng Với hai bản danh mục vừa bổ sung, giờ đây tôi đã có một công cụ để có thể giúp các cặp vợ chồng bắt đầu tiến trình chữa trị tâm lý tích cực. Nhưng cũng giống như bất kỳ một thực nghiệm nào dẫn tới sự tăng trưởng nhân cách, bài tập đơn giản này cũng thường xuyên gặp phải sự chống đối. Một mức độ chống đối chắc chắn là sự thụ động. Khi hai vợ chồng cư xử thù địch với nhau suốt 5 năm trời, thì thật là xa lạ khi phải viết lại những điều thân thương. Bài tập này tạo ra những xúc cảm, có vẻ nhân tạo và bày đặt (dĩ nhiên) và đối với tâm thức cũ, bất cứ điều gì không theo thông lệ hoặc không quen thuộc đều trái tự nhiên. Cách duy nhất để giảm thiểu sự chống đối tự động này và làm thay đổi tình trạng là nhắc đi nhắc lại một hành vi mới mẻ, đến khi nó được cảm nhận một cách thân thuộc và do đó, trở nên an toàn. Môt nguồn gốc sâu xa của sự chống đối bài tập này – và đó là một nghịch lý – là nỗi sợ hãi sự hài lòng. Ở mức độ ý thức, chúng ta lao vào những hành trình dằng dặc để tìm kiếm hạnh phúc. Vì sao chúng ta lại sợ hãi điều đó? Để cảm nhận điều mâu thuẫn này, chúng ta cần nhớ rằng, cảm giác về tồn tại sinh động chính là sự hài lòng sâu sắc. Khi chúng ta còn là những đứa trẻ, năng lượng sống của chúng dường như vô tận và chúng ta đón nhận nồng nhiệt những niềm vui. Nhưng thực ra, năng lượng sống ấy bị giới hạn và nó tái định hướng cho chúng ta bị cắt gọt để chúng ta được an toàn và thích hợp với các chuẩn mực xã hội, và chúng ta cũng không giơ tay đe dọa các thiết chế đàn áp nữa. Những giới hạn này đè nặng lên chúng ta, đôi khi, như một kiểu trừng phạt, chúng ta tạo ra những liên kết lạ lùng giữa hài lòng và đau khổ. Nếu như chúng ta trải nghiệm những sự hài lòng chắc chắn hay có thể nói là hài lòng ở mức độ cao, chúng ta lảng tránh, tự trách móc hay trừng phạt. Ở mức độ vô thức, kích thích tiêu cực này ngăn cản nỗi sợ hãi cái chết. Hậu quả là chúng ta giới hạn sự hài lòng của chính mình để tái tạo nỗi lo âu. Và như vậy, chúng ta nhận thức rằng: đời sống đầy hiểm nguy. Dẫu sao, áp dụng lôgic của trẻ con, chúng ta không đổ lỗi cho cha mẹ ta hoặc cho xã hội về đẳng thức giữa hài lòng và đau khổ, nó xuất hiện với gương mặt số phận. Chúng ta tự nhủ: “Cha mẹ mình không cho mình được thỏa mãn, vậy mình phải cố tỏ ra xứng đáng để được thỏa mãn”. Sẽ an toàn hơn nếu tin rằng chúng ta không xứng đáng chứ không phải cha mẹ chúng ta không đủ khả năng cảm nhận những ước muốn của con cái hoặc cố tình thu giảm hạnh phúc của chúng ta. Kết quả là chúng ta phát triển một sự ngăn cấm nội tại đối với sự hài lòng. Những người trưởng thành với một kinh nghiệm lớn về khuynh hướng áp chế sẽ gặp khó khăn khi thực hành bài tập “Tái lãng mạn hóa”. Họ cảm thấy khó khăn với bất kỳ yêu cầu nào hoặc họ ngầm phá hoại những nỗ lực của người bạn đời. Ví dụ, một thân chủ của tôi, một người đàn ông không mấy tự trọng, viết ra một danh mục, trong đó có yêu cầu vợ mình ca tụng mình hàng ngày. Điều này cũng chẳng đến nỗi khó với người vợ vì cố nghĩ rằng chồng cô có vô số phẩm chất sáng chói. Nhưng khi cô cố gắng ca tụng chồng hàng ngày, người chồng lập tức phủ nhận lời ca tụng của cô hoặc cố giảm nhẹ nó tới mức nó trở nên vô nghĩa. Nếu người vợ nói những lời ca tụng chẳng hạn như: “Em rất thích cách anh trò chuyện với con chúng ta tối hôm qua”, anh ta sẽ làm vô hiệu hóa với lời tự chỉ trích: “Được, anh sẽ làm điều đó thường xuyên hơn. Quả là anh ít khi dành thời gian cho con”. Nghe bất cứ lời ca tụng nào của vợ, anh ta cũng cảm thấy không tương đương với con người thực của mình. Trước cung cách tiêu cực đó, tôi khuyên anh ta đáp lại một cách máy móc các nhận xét của vợ bằng một câu “Cảm ơn em” rồi cho qua luôn. Một người đàn ông khác lại đề kháng bài tập “Tái lãng mạn hóa” theo kiểu khác: anh ta dường như không hiểu các lời chỉ dẫn. Anh ta nói sau đợt chữa trị lần thứ hai nhằm ấn định lịch thực hành các bài tập: “Tôi không hiểu điều này. Bây giờ tôi phải làm gì?”. Tôi nhắc lại các chỉ dẫn một lần nữa, để chắc chắn là chúng hoàn toàn dễ hiểu. Tôi hiểu rằng những khó khăn để lĩnh hội bài tập chẳng qua chỉ là để che giấu sự bất lực khi phải đáp ứng một yêu cầu nào đó. Để giúp anh ta thoát khỏi ngõ cụt, tôi bảo anh ta rằng, ngay cả việc yêu cầu vợ anh ta làm những điều tốt đẹp cho anh ta vốn chỉ có mục đích duy nhất là lợi ích của anh ta, nó cũng sẽ giúp cho vợ anh ta nhận thức được bằng cách nào trở nên đáng yêu hơn – điều đang thực sự diễn ra. Khi dẫn dụ anh ta vào công thức tự kỷ này, anh ta lập tức hiểu ngay bài tập. Anh ta tạo được một sự hòa hoãn với nỗi ám ảnh rằng anh ta không đáng được yêu. Anh ta vớ lấy cây bút chì và chỉ trong vài phút, viết ra một danh mục những điều mà anh ta muốn vợ làm cho mình. Kiểu người “sứ cách điện” thường là gặp khó khăn khi thực hành bài tập. Họ muốn hợp tác nhưng lại không thể nghĩ ra bất cứ điều gì mà người bạn đời có thể làm cho họ, dường như họ chẳng có cả nhu cầu lẫn ước muốn. Điều mà họ thực sự làm là lẩn trốn sau tấm lá chắn tâm lý được dựng lên y như một đứa trẻ tìm cách tự bảo vệ trước lời trách mắng của cha mẹ. Họ khám phá ngay từ hồi trẻ rằng, cách bảo vệ cõi riêng tư của mình tốt nhất trước con mắt xét nét của cha mẹ là giữ những suy nghĩ và cảm xúc của mình cho riêng mình. Khi họ che giấu cha mẹ họ những điều đó, cha mẹ họ sẽ không thể xâm nhập vào không gian riêng tư của họ. Dần dần, nhiều “sứ cách điện” thực hiện hành động “tàng hình” tối hậu là giấu kín những cảm xúc của họ ngay cả với chính họ. Thế là an toàn nhất, chẳng ai biết mình! Nhiều trường hợp, như tôi nhận xét trước đây, một “sứ cách điện” tái tạo cuộc tranh chấp tuổi ấu thơ bằng cách cưới một “cầu chì”, kẻ có nhu cầu không thỏa mãn về sự thân mật. Điều này sẽ làm những xung đột vốn đã ăn mòn họ lúc còn thơ ấu, trở nên vĩnh cửu. Không phải như một cuộc tái đấu vô vọng của quá khứ, hay như một đam mê bệnh hoạn đối với nỗi đau khổ, mà như một hành động vô thức nhắm tới giải pháp cho những nhu cầu nền tảng của con người. Khi một cặp “cầu chì/sứ cách điện” thực hành bài tập này, kết quả sẽ hết sức bất định. Khi “sứ cách điện” điền thêm một cách đau khổ một hoặc vài yêu cầu vào danh mục thì “cầu chì” hăm hở liệt kê một loạt những: “Tôi muốn….” . Trước mắt người khác, “sứ cách điện” là một cá thể “tự cung tự cấp” với những nhu cầu thật ít ỏi, còn “cầu chì” là cả một kho ước muốn vô hạn. Thực ra, cả hai cá thể này đều có nhu cầu được yêu và được quan tâm săn sóc. Vấn đề chỉ là một người có những xúc cảm với nhu cầu đó hơn người kia. Với bất kỳ lý do nào khiến người bệnh đề kháng bài tập này, lời khuyên của tôi cũng là: “Hãy thực hành bài tập chính xác như đã được hướng dẫn. Ngay cả khi bạn cảm thấy lo âu, cũng làm như vậy và còn làm mạnh mẽ hơn, hăm hở hơn. Nhất định nỗi lo âu sẽ tan biến”. Thực hành đủ thời gian và số lần, tư duy của bạn sẽ chuyển sang một thực tại khác. Những người có thái độ ít tự trọng cũng tạo được một nhân dạng tích cực hơn. Kiểu người “sứ cách điện” sẽ có cơ hội khám phá ra rằng việc chia sẻ những ước muốn sâu kín không mâu thuẫn với sự độc lập cá nhân. Nỗi sợ hãi những ứng xử mới mẻ cùng mở ra con đường kích thích sự hài lòng và khởi đầu quá trình liên kết với sự an toàn và với cuộc đời. Bài tập “Hành vi săn sóc” trở nên một việc dễ chịu, một công cụ đáng tin cậy cho quá trình tăng trưởng nhân cách. Nhận thức và sự thay đổi hành vi Bài tập “Hành vi săn sóc” này và một vài bài tập khác mà bạn sẽ đọc trong những chương sau, đã gợi ý cho tôi rằng việc thay đổi nhận thức và hành vi tạo nên một mối liên kết mạnh mẽ. Nó không đủ để một cặp vợ chồng thấu hiểu những động lực vô thức của hôn nhân, cũng không chữa trị những thương tổn tuổi thơ. Nó không đủ khả năng để đưa các thay đổi hành vi vào mối quan hệ nếu bạn không thấu hiểu những lý do đằng sau các hành vi ấy. Kinh nghiệm chỉ cho tôi thấy là hầu hết các hình thức chữa trị hiệu quả đã kết hợp cả hai. Khi bạn đã nhận ra những động lực vô thức của mình và chuyển điều hiểu biết đó vào các hành vi phụ trợ, bạn có thể sáng tạo một mối quan hệ xứng đáng hơn và ý thức hơn. Chương 9: HIỂU BIẾT HƠN VỀ BẢN THÂN VÀ VỀ NGƯỜI BẠN ĐỜI Và ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ làm cho ngươi tự do. JOHN 8:32 Mặc dù chúng ta đã đồng ý về nguyên tắc rằng người bạn đời của chúng ta có quan điểm riêng và những nhận thức vững chắc riêng của họ, nhưng ở mức độ cảm xúc, chúng ta vẫn chấp nhận một cách miễn cưỡng sự thật giản dị này. Chúng ta thích được tin rằng, ta nhìn thế giới như thế nào thì thế giới đúng là như vậy. Khi người bạn đời bất đồng với chúng ta, chúng ta nghĩ rằng họ bị thông tin sai lạc hoặc có quan điểm méo mó. Vậy điều đó đúng hay sai? Một số người cố thủ trong quan điểm cá nhân của mình về thế giới. Tôi có một thân chủ tên là Gene, là một người như vậy. Ông là giám đốc một công ty ăn nên làm ra, quen thống trị mọi thứ quanh mình với một trí thông minh sáng chói. Ông hoàn toàn che khuất bà vợ, một phụ nữ tốt bụng và lịch sự tên là Judy. Bà ta ngồi bên cạnh ông với cái đầu cúi gằm và hai vai rũ xuống như một đứa trẻ bị quở phạt. Một trong những chủ đề của đợt chữa trị đầu tiên của tôi là nâng đỡ Judy để bà có đủ can đảm bày tỏ quan điểm của mình trước mặt ông chồng oai vệ. (Trong các sách giáo khoa tâm lý học, điều này được gọi là: “cung cấp cán cân điều trị”). Thường thường, ngay khi bà thốt ra một vài câu, Gene đã lập tức bắt bẻ ý kiến của bà. “Sai! Hoàn toàn không đúng”, ông ta sẽ tuyên bố như vậy và bắt đầu bảo vệ vị trí của mình. “Đó không phải là ý kiến của tôi mà chỉ là một chuyện bịa đặt”. Tôi có thể thấy ngay rằng ông ta tin tưởng chắc chắn quan điểm của mình là điều duy nhất đúng và chỉ một mình ông ta nắm chắc hiện thực. Tôi chẳng biết phải nói thế nào về nhãn quan hẹp hòi của ông ta, ông ta đã đưa cuộc đối thoại vào ngõ cụt. Bắt đầu đợt tham vấn thứ 8 của chúng tôi, tôi chợt nảy ra một sáng kiến, Judy đánh bạo nói về vụ va chạm mới đây giữa Gene và bố ông ta. Gene, Judy và ông bố của Gene cùng ăn bữa tối. Ông bố Gene đã nói điều gì đó với con trai và làm Gene tự ái. Judy cho rằng ông bố chỉ góp ý có tính cách xây dựng, còn Gene lại cho rằng thái độ của bố mình là thô bạo và thù địch. Gene lên giọng: “Em lại sai rồi, Judy. Sao em có thể mù quáng đến thế!”. Tôi ngăn cuộc đối thoại ấy lại và bảo họ rằng tôi muốn họ tạm gạt những quan điểm khác biệt sang một bên và dành ra mươi phút nghe một băng nhạc cổ điển mà tôi đã chuẩn bị sẵn, đó là bản sonate violon của Franck. Tôi mở máy cassette, mời họ nghe bản nhạc và yêu cầu họ để ý đến những hình ảnh thoáng qua trong tâm trí. Họ bối rối một chút bởi đề nghị của tôi và dường như Gene có vẻ bứt rứt: nghe nhạc liệu có giúp gì cho việc giải quyết những khó khăn của họ? Nhưng giờ đây, Gene cũng đã ít nhiều tin cậy tôi sau vài đợt điều trị, ông nghĩ rằng tôi phải có lý do xác đáng nào đó mới đưa ra đề nghị như vậy. Cả ba chúng tôi ngồi im lặng nghe nhạc. Tôi tắt máy khi bản nhạc sang chương 2 và biết rằng mình đang làm chủ tình thế, tôi lần lượt hỏi Gene và Judy xem họ nghĩ gì về bản nhạc. Gene lên tiếng trước: “Bản nhạc thú vị và rất trữ tình. Tôi đặc biệt thích tiếng violon trong chương 1”. Ông ta nhai kẹo cao su và tôi có cảm tưởng rằng ông đang nhai những nốt nhạc trong trí nhớ. “Giai điệu thật đẹp”, ông tiếp tục. Theo như những định ngữ mà ông vừa dùng, có lẽ ông đang ở tâm trạng hứng khởi. “Không hiểu sao tôi hình dung ra một vùng biển rộng. Có điều gì đó gợi nhớ đến bản sonate của Debussy. Ngay cả khi Franck tỏ ra ít ấn tượng hơn, vẫn có những đoạn rất gợi cảm. Có lẽ nó thuộc về truyền thống Pháp”. Tôi quay lại Judy và hỏi quan điểm của bà. “Thật dễ chịu”, bà nói với một giọng trầm ít thấy ở bà, “tôi có một cảm giác hơi khác khi nghe bản nhạc này”. Bà ngồi lún sâu hơn vào ghế bành và tỏ ra không muốn nói thêm. Không biết ông chồng sẽ lại chỉ trích như thế nào? “Hãy nói cho tôi biết và thấy gì, Judy”, tôi động viên bà. “Tôi cũng muốn biết những điều bà nghĩ”. “Được”, bà nói và hắng giọng. “Tôi có cảm tưởng bản nhạc như một cơn bão trong đầu tôi, đặc biệt là phần piano và dàn dây. Tôi hình dung những đám mây giông và gió thổi mạnh – một bầu trời tối sầm”. “Em à, điều gì làm em hình dung một cách bi kịch như vậy?”, Gene hỏi với cái giọng kẻ cả quen thuộc ông vẫn dành cho vợ. “Anh chỉ cảm thấy êm đềm, dịu dàng thôi. Nghe kỹ lại nào, Judy, và em sẽ thấy là anh nói đúng. Đó là một trong những bản nhạc trữ tình nhất. Có đúng thế không, ông bạn?” (giống như nhiều người khác, ông ta luôn cố gắng kéo bác sĩ tâm lý về phía quan điểm của mình). “Phải, tôi thấy như vậy”, tôi tán thành Gene. “Bản nhạc thật trang trọng, lãng mạn và có những đoạn rất êm dịu”. Rồi tôi quay lại Judy và nói. “Nhưng tôi cũng đồng ý với bà, Judy ạ. Có những đoạn đầy đam mê và bi kịch. Tôi nghĩ rằng cả 2 bạn đều đúng”. Gene gõ ngón tay trên thành ghế. “Tôi có ý kiến”, tôi nói, “Tại sao chúng ta không nghe lại bản nhạc này lần nữa? Nhưng lần này tôi muốn các bạn tìm những bằng chứng không phải cho quan điểm của mình mà cho quan điểm của người kia. Gene, ông hãy chú ý những đoạn cao trào và nhiều kịch tính, còn Judy, bà có thể tìm những mảng tươi sáng, trữ tình”. Tôi quay lại băng nhạc và họ nghe lần nữa. Và rồi tôi lại hỏi quan điểm của họ. Lần này cả hai chú ý lắng nghe những gì đã gây ấn tượng khác biệt ban đầu đối với họ. Gene có một quan sát thú vị. Khi nghe bản sonate lần đầu, ông có sự quan tâm đặc biệt tới tiếng violon. Nhưng lần sau, khi chú ý hơn tới phần piano, ông hiểu tại sao ông và Judy lại có những quan điểm khác nhau. “Bản nhạc có nhiều sắc thái, đặc biệt là những hợp âm rải của piano ở đoạn mở đầu của chương 2. Đó là một trường đoạn hay mà lần nghe trước tôi đã bỏ qua. Tôi phải tĩnh trí để nghe lại và quả là nó có ấn tượng của giông bão”. Judy cũng vậy, bà đã có thể hiểu các ấn tượng ban đầu của Gene. Bản nhạc dường như êm dịu hơn đối với bà ở lần nghe sau: “Quả là có những đoạn rất êm đềm, trữ tình, nhất là đoạn đầu tiên”. Nhờ nghe bản nhạc trên quan điểm của người khác, họ đã hiểu rằng môt bản sonate cũng có thể trở nên phong phú hơn hẳn so với ấn tượng ban đầu của họ. Nó có những đoạn bi kịch và cả những đoạn trong sáng, nó phức tạp và đa diện. Gene thốt lên: “Thật kỳ diệu nếu như chúng ta có thể trò chuyện với các nhạc sĩ để hiểu những ấn tượng của họ hoặc trao đổi với một nhà nghiên cứu âm nhạc. Mỗi người có thể bổ sung cảm nghĩ riêng của mình vào bản nhạc. Bản nhạc trở nên sâu sắc hơn và phong phú hơn”. Tôi hài lòng với kết quả của cuộc thảo luận này, trò chơi đã thành tựu. “Đó chính là những gì mà tôi hy vọng ông cảm nhận được”, tôi nói với Gene. “Và đó cũng là mục tiêu của bài tập này. Nếu cả hai bạn cùng có những quan điểm rộng rãi tương tự, các bạn sẽ nhận thức được hai điều: thứ nhất, mỗi người đều có quan điểm vững chắc của riêng mình, thứ hai, thực tại rộng lớn hơn và phức tạp hơn những gì mỗi người có thể nhận thức được. Mỗi người có thể có một ấn tượng về thế giới nhưng nếu mở rộng tầm mắt, bạn có thể tiếp cận sự thật gần hơn. Có một điều chắc chắn là nếu bạn tôn trọng quan điểm của người khác và xem nó như một cách mở rộng tầm mắt của mình, bạn sẽ thâu nhận được một hình ảnh xác đáng hơn, rõ ràng hơn về thế giới”. Được trang bị một tinh thần hợp tác mới mẻ, tôi hướng dẫn Gene và Judy quay lại thảo luận về cuộc va chạm giữa Gene và người cha. Gene cũng đồng ý rằng đằng sau lời phê bình của cha mình có những thiện ý. Có lẽ ông ta đã nhìn nhận các ý kiến của cha mình theo hướng mà ông ta đã lắng nghe phần piano trong bản sonate của Franck vừa qua. Ngược lại, Judy cũng đánh giá đầy đủ hơn về sự khác biệt giữa hai thế hệ cha và con. Bà cũng nhìn nhận rõ ràng hơn câu chuyện giữa Gene và người cha trong bữa ăn, bà hiểu tại sao chồng mình lại bực bội, mà lúc đầu dường như bà không thể thông cảm. Vậy là chỉ trong một thời gian ngắn, họ đã có thể nhìn bằng hai con mắt thay vì một con mắt như trước. Suối nguồn ẩn giấu của Tri thức Khi bạn thừa nhận một thực tại bị giới hạn trong nhận thức của mình và thừa nhận sự đúng đắn trong nhận thức của người bạn đời, một thế giới toàn vẹn sẽ mở ra trước mắt bạn. Thay vì thấy những quan điểm của người bạn đời như một nguồn gốc của xung đột, bạn sẽ thấy chúng như một nguồn gốc tri thức. “Anh thấy những gì mà sao em không thấy?” hay: “Em biết điều gì mà sao anh không biết ?”. Hôn nhân mang lại cho bạn cơ hội để tiếp tục học hỏi trong thực tại của chính mình và trong thực tại của người khác. Mỗi một mối tương giao hàm chứa một hạt mầm của chân lý, một mảnh của hiểu biết và một cái nhìn xuyên thấu cõi sâu kín và toàn vẹn của chính bạn. Khi bạn bổ sung nền móng tăng trưởng của tri thức, bạn cũng sáng tạo một tình yêu đích thực, một tình yêu đặt cơ sở trên sự thật hiển lộ ở chính bạn và ở người bạn đời chứ không phải trên một ảo tưởng lãng mạn nào. Ở chương 6, chúng ta đã thảo luận về một số khu vực đặc trưng cần thiết để gia tăng hiểu biết của bạn. Bạn cần nhận thức rõ ràng hơn về “chương trình” ẩn giấu mà bạn mang vào cuộc hôn nhân, về những tính cách bị chối bỏ của bạn, về thế giới nội tâm của người bạn đời và về tiềm năng chữa trị của quan hệ hôn nhân. Khi bạn từ góc độ này xem xét mối quan hệ giữa Gene và Judy, chắc chắn câu chuyện sẽ mở rộng nhãn quan của bạn và bạn sẽ sẵn sàng công nhận giá trị cũng như học hỏi từ những nhận thức của người bạn đời. Một khi cả hai vợ chồng biểu thị mong muốn mở rộng ý niệm cá nhân về thế giới, mỗi chi tiết của đời sống hàng ngày sẽ trở nên một mỏ vàng của tri thức. Một khu vực đặc biệt có ích đối với tôi về tri thức ẩn giấu này là những ý kiến chỉ trích, nói ra và không nói ra, về người bạn đời. “Anh không bao giờ về nhà đúng hẹn”, “Em không thể tin anh được”, “Em không thể nghĩ khác về anh được sao?”, “Anh thật ích kỷ”. Vào lúc mà bạn nói những lời đó, bạn tin rằng chúng mô tả xác đáng về người bạn đời. Nhưng sự thật là những lời nói đó lại thường mô tả một phần của chính con người bạn. Xem xét ví dụ về một cặp vợ chồng, ta có thể rút ra nhiều kết luận từ một lời phàn nàn khó chịu lặp đi lặp lại. Giả sử, một người đàn bà luôn miệng cằn nhằn chồng mình về tính cẩu thả: “Anh lúc nào cũng bừa bãi! Em không thể trông mong gì ở anh được!”. Khi chồng cô yêu cầu một dẫn chứng cụ thể, cô bắt bẻ chồng: “Đấy, kỳ nghỉ vừa rồi xem anh sửa soạn tệ như thế nào! Quên hết thứ này đến thứ khác. Đến sinh nhật con, anh cũng quên. Hễ vào bếp là anh lại làm lộn xộn bừa bãi mọi thứ!”. Điều dễ hiểu người chồng sẽ đáp lại cả mớ những lời phê phán đó bằng sự phủ nhận hoàn toàn và còn trả đũa: “Không đúng. Em chỉ phóng đại mọi chuyện. Chính em cũng cẩu thả bừa bãi còn hơn cả anh nữa!”. Vậy làm thế nào để biến những lời lẽ nặng nề ấy thành một thông điệp nhẹ nhàng dễ nghe? Đầu tiên, người chồng cần xem lại chính mình, nếu như trong thâm tâm, anh ta thừa nhận rằng trong sự chỉ trích của vợ, có một vài sự thật nào đó. Hầu hết mọi người đều sành sõi trong việc phát hiện gót chân Achiles ở kẻ khác và đáng buồn thay, hầu hết đều sử dụng phát hiện đó để kết tội và như vậy sẽ lập tức đánh thức bản năng tự vệ của người bị chỉ trích. Nếu như người chồng vượt qua được phản ứng tự vệ của mình, anh ta có thể nhận ra cuộc sống của anh ta quả là cũng có khá nhiều điều cẩu thả bừa bãi. Nỗi bực bội vì bị chỉ trích là một món nợ lớn, chính bởi sự xác đáng của lời phê bình. Nếu anh ta chấp nhận sự thật trong lời nhận xét, anh ta có thể nhận ra một nét tính cách bị chối bỏ của vợ mình. Nhận thức này sẽ loại bỏ nhu cầu trả đũa của anh ta, để phóng rọi nét tính cách ấy trở lại người vợ và mang đến cho anh ta một cơ sở cần thiết cho sự trưởng thành và thay đổi. Quan sát trên đây về những tri thức ẩn giấu trong sự chỉ trích có thể được diễn đạt thành các nguyên tắc phổ biến như sau: Nguyên tắc 1: Hầu hết các lời chỉ trích của người bạn đời nói về ta có những cơ sở hiện thực. Một cặp vợ chồng có thể học được điều gì thêm nữa qua việc hoán đổi vị trí? Một người phụ nữ đầu óc cởi mở có thể thu thập được một số thông tin bổ ích về những chấn thương tuổi thơ của chính mình. Cô có thể làm điều này theo một cách thức đơn giản. Đầu tiên, cô viết những lời chỉ trích của mình ra một tờ giấy: “Anh lúc nào cũng cẩu thả như thế!”. Rồi cô tự trả lời những câu hỏi sau: – Tôi cảm thấy ra sao nếu chồng tôi cũng nói với tôi như vậy? – Tôi nghĩ gì khi chồng tôi nói như vậy? – Những xúc cảm sâu xa nào nằm bên dưới những cảm nghĩ ấy ? – Phải chăng tôi đã có những cảm xúc và ý nghĩ ấy từ hồi ấu thơ ? Qua tiến trình phân tích tâm lý đơn giản này, cô có thể nhận thức rằng: phải chăng thái độ của chồng cô đã gợi lên một hồi ức mạnh mẽ từ tuổi thơ của cô? Chúng ta giả thiết là bài tập đã giúp người phụ nữ khám phá ra rằng: hồi còn nhỏ, cha mẹ cô cũng thường tỏ ra cẩu thả bừa bãi và dành rất ít thời gian cũng như công sức để quan tâm tới các nhu cầu của cô. Điều dễ hiểu là khi chồng cô có những cung cách tương tự, cô lại cảm thấy nỗi sợ hãi mà cô đã có hồi thơ ấu. Ẩn giấu trong lời chỉ trích của cô đối với sự cẩu thả của chồng là tiếng khóc phiền muộn từ tuổi thơ: “Sao không một ai săn sóc quan tâm săn sóc đến tôi?” Điều này dẫn chúng ta đến nguyên tắc thứ hai. Nguyên tắc 2: Nhiều ý kiến chỉ trích cay đắng và dai dẳng của ta về người bạn đời là sự thể hiện (được ngụy trang) những nhu cầu không thỏa mãn của chính ta. Một điểu hiểu biết khác có thể rút ra từ những lời chỉ trích như vậy. Lời chỉ trích của người phụ nữ đối với chồng có thể diễn đạt xác đáng về thói cẩu thả thì chính cô cũng cẩu thả bừa bãi như chồng. Nhận ra điều này, cô có thể tự hỏi mình một câu hỏi khá quen thuộc: “Làm thế nào mà những điều tôi chỉ trích chồng tôi lại cũng đúng với tôi như vậy?” Cô đinh ninh rằng cung cách cẩu thả của cô khác hẳn cung cách của chồng cô. Cô có thể giữ bếp núc gọn gàng ngăn nắp, hoặc sửa soạn chu đáo cho kỳ nghĩ – những việc “hóc búa” đối với chồng – nhưng cô lại hết sức lúng túng trong công việc ở cơ quan hoặc chi tiêu bừa bãi ngân sách gia đình. Với nhận thức mới này, cô có thể quyết định sẽ cố gắng xua đuổi bóng ma của phần bản ngã tiêu cực bà bị chối bỏ của cô bằng cách “ngoại hiện” nó, ánh xạ phần bản ngã vào chồng cô và rồi chỉ trích nó. Nếu cô thấy điều đó là sự thật, cô sẽ có được hiểu biết cần thiết cho phép cô phân tích những tính cách tiêu cực của chính cô ra khỏi người bạn đời. “Tôi cẩu thả kiểu này, còn chồng tôi lại cẩu thả kiểu khác”. Theo thuật ngữ tâm lý học, cô đã “thú nhận” và “rút bỏ” những xạ ảnh của mình. Jesus đã nói một cách thi ca hơn về điều này: “Các ngươi không thấy thanh xà trong mắt mình mà lại thấy hạt bụi trong mắt người anh em của các ngươi!” Điều này dẫn chúng ta đến quan sát thứ ba về sự chỉ trích. Nguyên tắc 3: Một số ý kiến chỉ trích cay đắng và dai dẳng của ta về người bạn đời có thể là một mô tả xác đáng phần bản ngã bị chối bỏ của chính ta. Thường thường, khi một sự chỉ trích thường xuyên không phải là sự mô tả một phần bản ngã bị chối bỏ, nó sẽ mô tả một khía cạnh vô thức khác là phần bản ngã bị mất. Nếu người phụ nữ ấy xem xét kỹ càng hành vi của mình và thấy mình gọn gàng ngăn nắp trong mọi khía cạnh đời sống, lời chỉ trích của cô về người bạn đời có thể là một ước muốn vô thức: ít phải gọn gàng ngăn nắp hơn, có nghĩa là thư giãn hơn, linh hoạt hơn và tự phát hơn. Khi cô chỉ trích chồng cô vì những hành vi buông thả, có thể là cô đang oán hận sự tự do của anh ta mà cô không biết. Khi những người phối ngẫu chỉ trích nhau là hiếu động quá, lẳng lơ quá, ham vui quá, tham công tiếc việc quá thường là họ đang nhận dạng những khu vực bị dồn nén và không phát triển của chính tâm trí họ. Bây giờ chúng ta nói đến nguyên tắc thứ tư và là nguyên tắc cuối cùng. Nguyên tắc 4: Một số ý kiến chỉ trích của ta về người bạn đời có thể giúp ta nhận dạng phần bản ngã đã mất của chính ta. Ở chương sau, trong một bài tập có tên là bài tập Giải tỏa, tôi sẽ trình bày với các bạn một hiểu biết nhỏ, mà các bạn có thể thu nhặt từ những lời chỉ trích lẫn nhau và đưa nó vào một tiến trình hỗ trợ tăng trưởng hiệu quả. Hiểu biết thế giới nội tâm của người bạn đời Việc xem xét những lời chỉ trích của bạn về người bạn đời sẽ giúp bạn thu thập tri thức về chính mình. Bạn có thể gia tăng hiểu biết của bạn về người bạn đời như thế nào? Câu trả lời là: thông qua sự cải thiện các kênh giao tiếp. Suốt quá trình quan hệ, người bạn đời đã mang lại cho bạn hàng ngàn giờ phút bằng chứng về những ước muốn, tư tưởng và cảm xúc của người ấy, nhưng chỉ một phần nhỏ những thông tin đó được thu nhận. Để đào sâu hiểu biết của bạn về thực tại chủ quan của người bạn đời, bạn cần phải tự đào luyện để có thể giao tiếp hiệu quả hơn. Để làm điều này, bạn cần biết đôi chút về ngữ nghĩa học: ngay cả khi hai vợ chồng cùng nói một ngôn ngữ, mỗi người vẫn chỉ khoanh vùng trong một thế giới đặc thù của những ý nghĩa riêng tư. Lớn lên trong những gia đình khác nhau với những kinh nghiệm sống khác nhau sẽ mang lại cho mỗi người một ngữ vựng riêng. Một ví dụ thông thường, chúng ta hãy xem xét một mệnh đề đơn giản: “Chúng ta chơi tennis” có ý nghĩa như thế nào ở hai gia đình khác nhau. Ở gia đình A, câu này được xác định ngầm đầy đủ như sau: “Chúng ta hãy nhặt cây vợt cũ vứt đâu đó quanh phòng, ra công viên quận, đánh trái banh nỉ qua lưới đến khi một trong hai người không muốn chơi nữa. Luật chơi là thứ yếu, chỉ để tập đánh thôi”. Còn ở gia đình B, câu này có nghĩa khác hẳn: “Chúng ta dành ra vài giờ giải trí ở câu lạc bộ với những cây vợt giá 200 đôla, để quyết đấu, đến khi một bên chiến thắng mới thôi”. Mark, thuộc gia đình A, sửng sốt vì tình gây gổ và quả quyết của vợ mình là Susan, vốn sinh trưởng trong gia đình B, khi chơi tennis. Một ví dụ còn tầm thường hơn là sự liên tưởng của Mark và Susan với câu: “Chúng ta nói chuyện đó”. Ở gia đình Susan, câu đó có nghĩa là: “Tất cả người lớn ngồi quanh bàn và thảo luận một cách bình tĩnh, hợp lý về những điểm bất đồng đến khi thỏa thuận được một chương trình hành động”. Còn ở gia đình Mark, câu đó lại có nghĩa là: “Đây là một đề tài mà chúng ta sẽ bàn sơ qua và sẽ gác lại đến khi nào thuận tiện”. Ẩn bên dưới sự đề cập tùy hứng hơn của gia đình Mark là triết lý sau: ngay cả những vấn đề gay cấn nhất cũng có thể “tà tà” giải quyết. Khi Susan đề nghị Mark “ nói chuyện đó”, thực sự chỉ là chuyện con họ bị điểm kém ở trường. Mark nói qua loa lăm câu rồi xem tivi, còn Susan thì tỏ ra giận dữ. Mark sửng sốt hơn nữa khi Susan bỏ ra ngoài với vẻ bực bội, vài giờ sau vẫn chưa thấy cô về. Anh làm điều gì sai trái? Điều sai trái của anh chỉ là ngỡ rằng hai vợ chồng nói cùng một ngôn ngữ. Từ chối Bên cạnh vấn đề ngôn ngữ riêng, còn một ngõ cụt khác của quá trình giao tiếp. Có lẽ cơ chế phổ biến nhất là sự từ chối: bạn chỉ đơn giản từ chối tin những gì người bạn đời nói. Sau đây là một ví dụ: Joseph và Amira đến tham dự một khóa tham vấn cuối tuần của tôi. Joseph là một nhà báo 40 tuổi còn Amira là một diễn viên truyền hình 25 tuổi. Họ đều là những người hấp dẫn và thành đạt. Một chiều thứ bảy, khi cuộc hội thảo diễn ra nửa chừng thì căn nguyên then chốt của mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu lộ diện. Trong quá trình thảo luận, bỗng Joseph bộc lộ rằng anh mong muốn một cách tuyệt vọng tạo dựng một gia đình. “Tôi đáng tuổi làm ông rồi mà vẫn chưa làm bố”, anh than thở. Nhưng Amira lại muốn trì hoãn có con. Sự nghiệp của cô chỉ mới khởi đầu, và cô không muốn mất nhiều thời gian cho con cái trước tuổi 35. Cô phản đối rằng, việc này cô đã nói với Joseph trước khi cưới nhau và cô không muốn có con nếu chưa phải là đã quá muộn. “Tôi đã khẳng định rõ ràng vấn đề này và đã nói với anh ấy không biết bao nhiêu lần mà anh ấy vẫn không chịu nghe. Chắc tôi sẽ phải mặc một chiếc T-shirt với mấy chữ to tướng: “Tôi không sẵn sàng có con”. Joseph thừa nhận rằng Amira đã nói rõ quan điểm của cô với anh nhưng anh lại thuyết phục mình rằng cô sẽ không làm như cô nói: “Tôi tin chắc rằng cô ta chỉ tự đánh lừa mình thôi. Làm sao mà việc đóng một vai vớ vẩn trong một vở ca kịch tầm phào lại quan trọng hơn việc làm mẹ cơ chứ?”. Thỏa mãn nhu cầu khẩn thiết: có con, đối với anh là điều hết sức quan trọng và anh đã không đếm xỉa đến những quan tâm ưu tiên của vợ mình. Chúng ta đều có những “điểm nóng” ngầm trong quan hệ vợ chồng, những điểm mà sự trông đợi của chúng ta ở người bạn đời bị xung đột với thực tại. Khi người bạn đời tỏ ra mâu thuẫn với điều “tâm đắc” của chúng ta, chúng ta có cả một kho vũ khí giúp ta bảo vệ ảo tưởng. Chúng ta kết tội họ: “Em thật tồi tệ (thô bạo, vô cảm, thù địch, dốt nát…) mới cư xử như vậy!”. Chúng ta còn “giáo dục” họ: “Em không thực sự cảm thấy như vậy. Điều mà em thực sự cảm thấy chính là…”. Chúng ta gạt bỏ họ: “Ái chà, thú vị đấy! Anh xin nói với em rằng…” Hoặc chúng ta mổ xẻ họ: “Lý do khiến em không chấp nhận là bao nhiêu năm trước mẹ em đã…”. Trong tất cả các phản ứng này, điều mà chúng ta cố gắng làm là thu giảm cảm giác về bản ngã của người bạn đời và tái định vị nó với ảo giác tự tôn của chính chúng ta. Thật đáng buồn, đó chính là điều đã xảy ra trong tuổi thơ ấu của người bạn đời. Hoặc kiểu này hoặc kiểu nọ, người nuôi dưỡng ngày xưa đã từng nói với người bạn đời của chúng ta rằng: “Chỉ có vài cảm xúc của con là đúng đắn. Chỉ có một phần nhỏ những cảm xúc và hành vi của con là được chấp nhận”. Thay vì giúp đỡ người bạn đời hàn gắn những vết thương cảm xúc ấy, chúng ta lại tiếp tục đưa ra lời phán xét. Bài tập Soi gương “Soi gương” là tên gọi một kỹ thuật giao tiếp với hai chức năng quan trọng: 1. Giúp giảm thiểu những dị biệt ngữ nghĩa giữa hai vợ chồng. 2. Rèn luyện khả năng lĩnh hội dễ dàng hơn những thông điệp ngôn ngữ của người bạn đời. “Soi gương” là một bài tập có vẻ giản dị mà các nhà tham vấn hôn nhân thường sử dụng. Khi bạn có một điều gì đó để giao tiếp, một ý tưởng hoặc một cảm xúc, bạn diễn đạt nó đơn giản trong một câu thông báo ngắn bắt đầu với từ: “Tôi..” “Anh…” hoặc “Em…”. Ví dụ: “Anh rất vui vì đêm qua chúng ta đã nói chuyện ấy”. Người bạn đời sẽ diễn giải ý kiến của bạn và yêu cầu bạn xác nhận: “Đêm qua anh thấy sung sướng vì chúng ta đã có dịp trò chuyện về những điều phiền muộn mới đây. Em hiểu như vậy có đúng không?”. Hai bạn sẽ lặp lại tiến trình này tới khi người bạn đời của bạn đã hiểu rõ cả nội dung ngữ nghĩa lẫn nội dung cảm xúc của thông điệp mà bạn chuyển giao. Sau đó, bạn đưa ra một thông điệp khác. Tất cả chỉ có vậy, nhưng phong cách từ tốn chậm rãi này lại xa lạ với hầu hết các cặp vợ chồng vì nó đòi hỏi một quá trình thực hành thường xuyên. Sau đây là một ví dụ về một số trục trặc có thể xảy ra khi thực hành bài tập “Soi gương”. Cuộc đối thoại sau đây là ở một đợt chữa trị cuối tuần, khi tôi yêu cầu một cặp vợ chồng tình nguyện ra trước cả nhóm và nói về một đề tài nhạy cảm, y hệt như khi họ ở nhà với nhau. Đó là Greg và Sheila, một đôi vợ chồng trẻ mới chung sống với nhau được vài tháng. Greg khởi đầu cuộc đối thoại: Greg: Sheila, anh cảm thấy buồn phiền vì em hút thuốc lá và anh muốn em tỏ ra tế nhị hơn khi hút thuốc bên cạnh anh. Vì tôi đã hướng dẫn Sheila và Greg thực hành bài tập “Soi gương” nên Sheila, theo bản năng, đã đáp lại Greg với thái độ tự vệ. Sheila: Anh biết là em hút thuốc từ khi anh hỏi cưới em. Anh chấp nhận điều đó ngay từ đầu. Vậy tại sao anh cứ luôn luôn chỉ trích em? Anh nên chấp nhận em đúng như con người em. Còn em, anh cũng thấy là em đang cố bỏ thuốc. Greg – cũng do bản năng, nhắc lại nhận xét của mình với giọng điệu chỉ trích mạnh mẽ hơn. Cuộc đối thoại giống như một ván tennis: Anh công nhận rằng em đang cố gắng hút ít hơn. Nhưng có điều đáng lưu ý là khi tới đây, thấy tấm bảng ghi “Không hút thuốc”, em cũng thôi không hút. Nhưng ở nhà thì khói thuốc tràn ngập mọi chỗ. Sheila: Đúng vậy, đây không phải là nhà mình. Nhưng em cho rằng em có quyền hút thuốc trong ngôi nhà của mình chứ! Sheila đưa ra thông điệp cuối cùng này với đôi chút bực bội và có những tiếng thì thầm trong đám đông bên dưới. Đây là lúc tôi tham gia vào câu chuyện. Bác sĩ: OK. Chúng ta bắt đầu lại lần nữa và xem thử, nếu như chúng ta thực hành bài tập giao tiếp không có sự đối đầu thì sẽ như thế nào. Greg, anh có thể nhắc lại thông điệp mở đầu của anh được chứ? Greg: Anh rất thích thú khi chúng ta ở nhà với nhau, nhưng về chuyện em hút thuốc thì quả thật anh đã không lường hết những nỗi phiền muộn đối với anh. Bác sĩ: OK. Bây giờ tôi muốn anh nói lại điều này một cách giản dị để người nghe thấy dễ hiểu hơn. Greg: Để tôi xem nào… Việc em hút thuốc làm anh buồn phiền. Anh đã không hình dung được chuyện ấy, nhưng rồi nó đã xảy ra. Bác sĩ: Tốt. Nào, Sheila, tôi muốn cô diễn giải ý kiến của Greg, soi trong gương những ý nghĩ và cảm xúc của cô, nhưng đừng chỉ trích. Greg cũng đừng tự vệ. Rồi cô hỏi lại Greg xem cô có hiểu đúng ý kiến của anh ấy không? Sheila: Em thực sự buồn vì việc hút thuốc của em đã làm ảnh hưởng… Bác sĩ: Không, tôi không yêu cầu cô xin lỗi. Cô chỉ đáp lời Greg, tỏ ra là cô hiểu và chấp nhận những cảm nghĩ của anh ấy. Sheila: Anh ấy có thể nhắc lại lần nữa được không ? Greg: Việc em hút thuốc làm anh buồn phiền. Anh đã không hình dung được chuyện ấy nhưng rồi nó đã xảy ra. Bác sĩ: Nào, hãy đáp lời anh ấy với thái độ chấp nhận và thiện ý. Sheila: Em nghĩ rằng tốt nhất là em cai thuốc. (Đám đông cười lớn) Bác sĩ: Hít một hơi thở sâu và hãy nhận thức rằng anh ấy cảm thấy không thoải mái vì một thói quen của cô. Nên lắng nghe thông điệp này như một lời phê bình về hành vi của cô và nghe với thiện cảm. Dù đó có là lời phán xét hay không, anh ấy cũng đã cảm thấy không thoải mái và cô hãy quan tâm đến anh ấy. Tôi biết điều đó không dễ làm trước một đám đông như thế này và đối với cô, quả là một điều nhạy cảm. Sheila: Có thể là em… Bác sĩ: Không, đừng cố gắng giải quyết vấn đề. Cô chỉ diễn giải thông điệp của anh ấy cùng nội dung cảm xúc đằng sau nó để anh ấy biết rằng cô hiểu những gì anh ấy cảm nhận. Sheila: (lấy một hơi thở sâu) OK. Tôi sẽ làm việc ấy bây giờ… Em hiểu rằng anh thực sự buồn phiền vì em hút thuốc. Anh đã không hình dung ra điều đó sẽ làm anh buồn phiền đến thế nào cho đến khi chúng ta sống với nhau. Bây giờ anh cảm thấy băn khoăn vì nó. Có phải anh định nói như vậy không? Bác sĩ: Tuyệt. Tôi như nghe thấy nỗi phiền muộn của Greg phản ánh trong giọng nói của cô. Hãy kiểm tra lại xem, Greg? Đó có phải là những điều anh nói không? Greg: Đúng! Chính là những gì tôi cảm thấy. Thật sự nhẹ nhõm! Đây là lần đầu tiên cô ấy thực sự để tâm nghe tôi. Như phản ứng của Greg đã thể hiện, có một sự thỏa mãn kỳ lạ trong việc anh được lắng nghe, khi biết rằng thông điệp mà anh gửi đi đã được nhận một cách chính xác. Đó là một hiện tượng hiếm hoi trong hầu hết các cuộc hôn nhân. Sau khi trình diễn bài tập này trước cả nhóm điều trị, tôi trả các cặp vợ chồng về nhà họ để họ có thể thực hành việc gửi và nhận những thông điệp đơn giản. Hầu hết khi trở lại nhóm, họ đều thông báo rằng đó là một thử nghiệm thú vị và đầy phấn khích. Được người bạn đời chăm chú lắng nghe quả là một niềm vui bất ngờ. Các cặp vợ chồng thường có những phản ứng khác nhau và đáng ngạc nhiên đối với bài tập này. Khi một đôi thực hành “soi gương” có hiệu quả, họ cảm thấy hứng khởi ngay lập tức. Tôi nhận thấy sự hưng phấn này không những ở các cặp vợ chồng đã thực hiện tốt kỹ thuật “soi gương” mà ngay cả ở những đứa trẻ. Một ngày khác, Leah, con gái tôi chạy vào văn phòng của tôi và nói với tôi về bộ phim nó vừa xem có tựa đề “Hòn đảo cá heo xanh”. Nó kêu lên: “Bố, con vừa xem phim về một con cá xanh rất lớn”. Tôi có thể trả lời nó nhiều cách khác nhau. Hoặc là tôi nói cho qua chuyện: “Thế à!” và mỉm cười với nó. Tôi có thể bảo nó bình tĩnh và nói chậm hơn. Nhưng tôi đã nói với nó cũng hào hứng chẳng kém: “Thế à! Con vừa xem bộ phim về con cá xanh khổng lồ ư?” Nó nhào vào hai cánh tay tôi và reo lên: “Vâng! Con vừa xem xong. Con thích lắm bố ạ!” “Con thích bộ phim ấy lắm phải không?” Tôi nói, cố gắng khích lệ sự hứng khởi của nó. “Vâng! Con thích lắm!” nó kêu lên. Leah giờ đây đầy vui sướng, sống động. Cha nó không những đã lắng nghe nó mà còn hiểu nó, phản ánh cả sự phấn khích của nó. Trong tương quan giữa người lớn, chúng ta học được cung cách thủ thế khi đáp ứng người khác, nhưng cũng không thể phủ nhận được niềm hưng phấn tràn ngập trong ta khi người bạn đời thấu hiểu những ý tưởng và cảm xúc của ta. Ta cảm nhận đầy đủ hơn về bản thân và thấy gần gũi hơn với người bạn đời. Một kết quả quan trọng hơn và xa hơn của bài tập “Soi gương” là nó khởi đầu việc hàn gắn những vết thương thơ ấu. Chúng ta bị thương tổn lúc còn thơ bởi cha mẹ, thầy giáo hay một ai đó đã nói với chúng ta rằng: “Con đâu có nghĩ như vậy!”, “Con không cảm thấy như thế mà!” Một khi cha mẹ chúng ta ra khỏi “dàn đồng ca” phủ nhận này và bảo chúng ta rằng: “Bố hiểu là con thực sự cảm thấy như thế và con nghĩ như vậy là đúng”, khi ấy, thực thể toàn vẹn của chúng ta được chấp nhận. Chúng ta không còn thấy rằng mình đã phải cắt bỏ một phần bản thân để được yêu và được chấp nhận. Chúng ta có thể bắt đầu tiến trình trở thành một con người đa diện và phức tạp – mà chúng ta thực sự là như vậy – và vẫn tìm thấy sự chấp nhận trên thế gian. Xây dựng Hình mẫu Khi các cặp vợ chồng đã nắm vững kỹ thuật giao tiếp cơ bản này, tôi hướng dẫn họ sử dụng một công cụ thu thập tri thức khác, một bài tập hướng dẫn trí tưởng tượng sẽ giúp tiếp cận sáng suốt hơn các thương tổn tuổi thơ. Khi bài tập hoàn tất, tôi yêu cầu hai vợ chồng chia sẻ những điều quan sát được cho nhau bằng kỹ thuật “soi gương”. Đây là cách thức hiệu quả để hai vợ chồng nhìn nhận con người thực của nhau như những thực thể bị tổn thương đang khao khát tìm kiếm sự toàn vẹn tinh thần. Trước khi bài tập bắt đầu, tôi yêu cầu họ nhắm mắt và thư giãn. Thường thường, tôi sử dụng một số bản nhạc êm dịu để giúp họ tập trung tư tưởng. Khi họ đã thư giãn đầy đủ, tôi yêu cầu họ cố gắng nhớ lại ngôi nhà thuở ấu thơ, điều đầu tiên mà họ có thể hồi tưởng. Khi hình ảnh đã hiện ra, tôi bảo họ hình dung mình là những đứa trẻ đang đi tìm cha mẹ hay người nuôi dưỡng. Người đầu tiên họ gặp là bà mẹ, hoặc bất kỳ người phụ nữ nào có ảnh hưởng sâu đậm nhất lên tuổi thơ của họ. Tôi bảo họ rằng họ được ban cho ngay lập tức những quyền năng thần bí và có thể thấu suốt những ưu điểm cũng như nhược điểm của người phụ nữ đó như thể qua một lớp kính trong suốt. Họ ghi nhận những nét tính cách ấy và tưởng tượng rằng họ sẽ nói với mẹ mình những gì mà họ mong muốn ở bà nhưng đã không nhận được. Trong một cung cách tương tự, tôi để họ gặp gỡ người cha hoặc người đàn ông đã nuôi dưỡng họ thuở ấu thơ, hoặc một người đàn ông nào đó đã có những ảnh hưởng nền tảng lên họ trong những năm bắt đầu quá trình trưởng thành. Khi họ đã thâu nhận tất cả các thông tin về những người quan trọng ấy, tôi từ từ đưa họ trở về thực tại, bảo họ mở mắt và viết những gì họ thâu nhận được lên giấy. Tôi thường bị ngạc nhiên bởi lượng thông tin phong phú mà họ thu hoạch được sau bài tập đơn giản này. Ví dụ, một chàng trai đã thực hành bài tập và nhận thức được lần đầu tiên rằng anh đã cô đơn và sống cách biệt đến thế nào khi còn thơ. Anh thu nhận được thông tin quan trọng này mặc dù nó đã không hằn một dấu vết cảm xúc nào trong anh. Làm sao anh có thể cô đơn trong một gia đình có tới 4 anh chị em, một người cha là mục sư và một bà mẹ nội trợ? Trong tưởng tượng, anh đã đi vòng quanh nhà tìm kiếm cha anh, tìm mãi cũng không thấy. Khi anh tìm thấy bà mẹ, câu hỏi bất ngờ anh đưa ra cho bà là: “Sao lúc nào mẹ cũng bận rộn thế? Sao mẹ không thấy là con cần có mẹ biết bao?”. Nhận thức đó đã khiến anh thấu hiểu nỗi phiền muộn kinh niên của mình. Anh nói: “Cho tới lúc này, nỗi buồn của tôi luôn luôn là một điều bí ẩn đối với tôi”. Khi đã hoàn tất bài tập hướng dẫn trí tưởng tượng, các cặp vợ chồng sẽ có những hiểu biết cần thiết để xây dựng Hình mẫu của mình, một hình ảnh nội tâm về người khác phái đã dẫn dắt chúng ta trong việc lựa chọn người bạn đời. Việc cần phải làm là phải tập họp những nét tính cách ưu và nhược của tất cả những người có ảnh hưởng then chốt lên tuổi thơ của ch&ua Chương 10: XÁC ĐỊNH QUY TRÌNH Một trong những bí ẩn sâu xa nhất của đời sống là tất cả những gì thật sự xứng đáng để ta làm chính là những điều ta làm cho người khác. LEWIS CARROLL Ở những chương trước, tôi đã mô tả các bước đầu tiên trong tiến trình sáng tạo một hôn nhân ý thức. Tôi đã trao đổi với bạn về những cửa thoát chật hẹp, về nguồn năng lượng mà bạn có thể dành cho quan hệ hôn nhân. Tôi cũng đã trao đổi về những tương tác đáng khích lệ giữa các bạn để dẫn tới sự thân mật sâu đậm hơn, về những cách thức giúp bạn hiểu biết hơn về bản thân và về người bạn đời. Bây giờ là lúc chúng ta trao đổi về việc chữa trị những thương tổn sâu xa trong tuổi thơ. Trong chương này, tôi sẽ mô tả cách thức để bạn có thể đưa những nỗi thất vọng kinh niên vào đại lộ của sự trưởng thành. Ở chương sau, tôi sẽ nói về cách thức ứng xử đối với những xung đột dễ bùng nổ. Khi một cặp vợ chồng bỏ ra vài tuần để thực hành bài tập “Tái lãng mạn hóa” được mô tả ở chương 8, họ trải nghiệm một sự phục hưng những xúc cảm tích cực, và họ trở nên nối kết với nhau hơn qua những hành vi mà họ đã từng làm cho nhau trong giai đoạn “mở màn” của tình yêu lãng mạn. Trước khi một môi trường thân mật hơn, tình cảm hơn trở thành thói quen của họ thì họ lại gặp phải một sự kiện làm nản lòng: những xung đột liên tiếp xảy ra, đó cũng chính là điểu đã khiến họ phải chữa trị tâm lý. Một lần nữa họ bị lầy vào những chuyện khó chịu giống như trước, những xung khắc cơ bản giống như trước. Dường như là bài tập “Tái lãng mạn hóa” làm sống lại tình yêu lãng mạn xưa kia chỉ có tác dụng đẩy họ vào cuộc tranh chấp một lần nữa. Lý do để những cảm xúc tốt đẹp không đến với họ là mặc dù những tương tác đáng hài lòng tăng lên, người chồng và người vợ một lần nữa lại nhận dạng một cách vô thức người phối ngẫu của mình như thể “một người đáp ứng tất cả”, một người bạn đời lý tưởng sẽ giúp họ phục hồi một cách thần kỳ sự toàn vẹn của họ. Sau những cơn bùng nổ giận dữ và sự thoái trào của cuộc tranh chấp quyền lực, một lần nữa người này lại tìm kiếm sự cứu rỗi ở người kia. Và họ cũng lại khám phá ra một điều đáng buồn là họ chẳng hề có chút kỹ năng cần thiết cũng như động cơ nào để tìm đến được những ước mong sâu thẳm của nhau. Thực tế, nhiều người đã đi đến một kết luận tỉnh táo là những điều họ mong muốn nhất ở người bạn đời lại chính là điều mà người bạn đời ít có khả năng đem đến cho họ nhất. Chúng ta có thể làm gì để giải quyết điều nan giải trung tâm này? Câu hỏi ấy đã theo đuổi tôi suốt những năm đầu tiên làm công tác tham vấn hôn nhân. Ở đây có hai yếu tố: 1. Chúng ta mang vào mối quan hệ hôn nhân những vết sẹo cảm xúc từ thuở ấu thơ. 2. Chúng ta lựa chọn một cách vô ý thức người bạn đời có những nét trùng hợp với người nuôi dưỡng ta, người đã góp phần hình thành những vết thương lòng của ta – dường như hôn nhân là để dành cho việc nhắc lại và chữa trị những nỗi bất hạnh của chúng ta. Nhiều năm trước khi tôi tiến hành các đợt chữa trị theo nhóm, quan điểm bi quan này khá rõ nét. Trong một cuộc tham vấn, khi tôi giải thích về cơ chế tự hủy của việc lựa chọn người phối ngẫu, một phụ nữ giơ tay lên và nói: “Phải chăng để tránh việc khơi lại những vết thương lòng xa xưa, ta nên cưới người nào không hấp dẫn ta? Và đừng có gắn kết với người nào có những lầm lỗi tương tự như cha mẹ ta?”. Có ai đó cười, nhưng quả thật lúc đó tôi cũng không thấy giải pháp nào khả dĩ hơn. Những cuộc hôn nhân được sắp đặt nhờ người mai mối hoặc do các dịch vụ “tìm bạn” có những cơ hội tốt hơn so với những cuộc hôn nhân đặt cơ sở trên tiến trình lựa chọn vô thức. Xu hướng của chúng ta lựa chọn người bạn đời là người chia sẻ những nét ưu điểm và nhược điểm của người nuôi dưỡng chúng ta dường như ngay từ điểm xuất phát đã kết án hôn nhân quy ước. Lời khuyên duy nhất của tôi đối với các cặp vợ chồng là hãy nhận thức rõ những lý do ẩn giấu bên trong việc lựa chọn người bạn đời, bao hàm cả những yếu tố thực tại. Nhận thức, hiểu biết và chấp nhận – đó là tất cả những gì tôi có thể khuyên. Tôi cũng đã từng phải chữa trị tâm lý cho chính mình. Người mà tôi tham vấn nói với tôi: “Anh cần chấp nhận một thực tế là mẹ anh chẳng chăm sóc anh bao nhiêu, và vợ anh cũng không mang lại những gì mà anh muốn. Cô ấy không thể giúp anh trở lại tuổi thơ. Để chữa trị, anh chỉ cần rũ bỏ những ước muốn của anh mà thôi”. Và ông ta nói: “Anh đã không làm được điều này trước đây, giờ đây anh cũng không làm được. Nhưng anh sẽ trưởng thành và với cuộc đời, anh sẽ làm được”. Tôi cố gắng chấp nhận những gì mà ông ta nói với tôi, nhưng tôi hiểu rằng, từ trong đáy lòng, tôi không muốn theo đuổi hành trình vô tận này. Một phần con người tôi lại cảm nhận rằng tôi có quyền được hưởng một nền giáo dục an toàn và yêu thương. Khi tôi xem xét kỹ các thân chủ của tôi, tôi nhận thấy rằng quả là họ bám rất chắc vào các ước muốn của họ. Họ có thể dồn nén chúng, có thể phủ nhận chúng, có thể chiếu rọi chúng lên những người bạn đời. Nhưng họ không thể và không bao giờ có thể rũ bỏ những ước muốn tuổi thơ của họ. Tại sao Tình yêu bản thân không có tác dụng? Một lần, tôi gặp một bác sĩ tâm lý có quan điểm lạc quan hơn về khả năng thỏa mãn những ước muốn tuổi thơ. Ông tin rằng con người có thể thành tựu những gì mà họ không làm được trong tuổi thơ thông qua Tình yêu bản thân: Một trong những kỹ thuật mà ông giúp tôi vượt qua nỗi khát khao được yêu thương là yêu cầu tôi tưởng tượng lại khung cảnh trong nhà bếp với mẹ tôi như tôi đã kể với ông ta trước đó. Ông hướng dẫn tôi một bài tập thư giãn sâu rồi bảo tôi: “Anh hãy tưởng tượng mình là đứa bé muốn được mẹ quan tâm. Bà đang đứng cạnh bếp lò quay lưng lại phía anh. Hãy tưởng tượng anh muốn được mẹ ôm vào lòng. Anh gọi bà. Anh thấy bà quay lại với anh và bế anh lên với một nụ cười hạnh phúc trên gương mặt. Bây giờ bà ôm chặt anh. Hai tay bà vòng quanh người anh. Bây giờ hãy nhìn đứa trẻ đó! Nó đứng ngay trước mặt anh và mong muốn được ôm ấp. Hãy nắm lấy nó, ôm nó và âu yếm nó. Hãy ghì nó vào ngực anh. Nào, hãy kéo đứa nhỏ hạnh phúc ấy vào trong tâm hồn anh.” Ông tin rằng nếu tôi sáng tạo tiếp bức tranh rực rỡ về khung cảnh hạnh phúc ấy thì sẽ dần dần làm dịu đi nỗi khát khao tình mẫu tử của tôi. Cách tiếp cận của ông dường như có tác dụng trong chốc lát, sau buổi chữa trị, tôi cảm thấy bớt cô đơn và nhiều tình yêu hơn. Nhưng rồi cảm giác ấy dần dần biến mất, tôi lại rơi vào sự trống rỗng một lần nữa. Lý do khiến cho cách tiếp cận này không hiệu quả là vì nó bị phá hỏng bởi tâm thức cũ. Khi chúng ta còn nhỏ, không thể thỏa mãn những khát khao cảm xúc và thân xác của mình, những nỗi đau khổ và niềm hoan lạc đến từ thế giới bên ngoài trở nên bí ẩn. Khi chai sữa hoặc bầu vú mẹ xuất hiện, cơn đói của chúng ta được giải quyết. Khi được dỗ dành, chúng ta cảm thấy an lòng. Khi bị bỏ một mình trong nôi và khóc, chúng ta lo âu, sợ hãi. Lớn lên, tâm thức cũ của chúng ta vẫn bị đóng băng trong khung cảnh quá khứ: những cảm xúc tốt và xấu là do người khác tạo ra cho chúng ta, chúng ta không thể tự săn sóc mình, việc đó cũng do người khác làm. Phần con người bị tổn thương của tôi không chấp nhận tình yêu bản thân bởi vì tôi đã làm “ngoại hiện” suối nguồn cứu rỗi của tôi. Những giới hạn của tình bạn Dần dần, tôi từ bỏ quan điểm cho rằng tình yêu chữa trị tổn thương đến từ bên ngoài chúng ta. Nhưng liệu nó có đến từ người bạn đời? Hoặc từ một người bạn thân? Trong thời gian suy tư về khả năng này, tôi đang hướng dẫn một nhóm trị liệu và có cơ hội quan sát về tiềm năng chữa trị tổn thương của tình bạn. Những mối quan hệ gần gũi thường phát triển giữa các thành viên của nhóm trị liệu và tôi cổ vũ những tình cảm này. Trong một đợt trị liệu điển hình, tôi phải ghép cặp Mary, người có một bà mẹ đồng bóng và vô cảm, với Susan, người có một bà mẹ nhân hậu và quả quyết. Tôi yêu cầu Susan ôm lấy Mary vào lòng và cù Mary làm cô ta phải kêu lên. Mary cảm thấy được xoa dịu vì bài tập, nhưng cô vẫn không được chữa trị. Cô nói: “Tôi thích được ôm ấp nhưng không phải bởi Susan. Tôi không muốn Susan ôm tôi mà muốn một người khác.” Sau một vài thí nghiệm tương tự, tôi kết luận rằng, tình yêu được tìm kiếm không chỉ đến từ một người khác trong một mối quan hệ an toàn và thân mật mà còn phải đến từ một sự tương xứng hình mẫu – một người tương tự cha mẹ chúng ta mà tâm trí vô thức của chúng ta nối kết với họ. Đây là con đường duy nhất để chúng ta chữa lành những vết thương lòng của tuổi ấu thơ. Chúng ta có thể vui thích vì được ôm ấp và quan tâm săn sóc, nhưng hiệu quả của nó chỉ tạm thời. Điều đó cũng giống như sự khác biệt giữa đường và đường hóa học. Lưỡi ta cảm nhận được vị ngọt của đường hóa học nhưng cơ thể ta không nhận được chút dinh dưỡng nào. Chúng ta đói khát tình yêu từ những người nuôi dưỡng nguyên thủy của chúng ta hoặc từ những người tương tự họ mà ở mức độ vô thức, chúng ta đã hợp nhất những người ấy với họ. Điều này đã đưa tôi trở lại vòng luẩn quẩn của tình thế tiến thoái lưỡng nan ban đầu. Người bạn đời sẽ chữa trị các vết thương lòng của chúng ta như thế nào nếu như họ lại có những nhược điểm tương tự với những người nuôi dưỡng chúng ta? Nếu như họ là những ứng cử viên ít thích hợp nhất cho việc xoa dịu những chấn thương cảm xúc của chúng ta? Nếu như con gái của một người cha ích kỷ và vô trách nhiệm lại chọn một anh chàng nghiện rượu làm chồng thì cuộc hôn nhân ấy có thỏa mãn những mong ước được gần gũi yêu thương của cô ta không? Hoặc như con trai một người mẹ đầy mặc cảm và bị ức chế tình dục lại cưới một cô vợ cũng bị dồn nén và lãnh cảm thì có ích gì cho nhu cầu tìm kiếm niềm vui và hạnh phúc của anh ta? Hay một cô gái bị mồ côi cha từ nhỏ lại chuyển nỗi khát khao của mình vào một người đàn ông không cưới cô làm vợ, cô sẽ cảm nhận ra sao về tình yêu và sự an toàn? Một câu trả lời bắt đầu hình thành trong trí tôi. Đó là một kết luận lôgic. Nếu một người cần được chữa trị các thương tổn tuổi thơ, tôi nhấn mạnh, người bạn đời của họ phải có sự thay đổi. Người chồng mê rượu phải chủ động chuyển hướng những đam mê của mình về phía vợ. Người vợ bị dồn nén và lãnh cảm phải trở nên nhạy cảm và gần gũi chồng. Người tình né tránh hôn phải giảm thiểu những chướng ngại của mình đối với sự thỏa mãn ước mong của người phụ nữ yêu anh ta. Như thế và chỉ có như thế, họ mới có thể mang đến cho người bạn đời của họ những gì mà người ấy kiếm tìm trong suốt cuộc đời. Chính ở điểm này, tôi bắt đầu nhìn nhận tiến trình chọn lựa vô thức dưới một ánh sáng mới: một mặt, sự thật rõ ràng là trong hôn nhân, những gì người này cần nhất cũng chính là những gì mà người kia ít có khả năng mang lại nhất, nhưng đồng thời, chính khu vực ấy lại là nơi mà người kia cũng cần để được trưởng thành! Ví dụ, nếu Mary lớn lên bên những người nuôi dưỡng quan tâm tới cô, cô tìm đến một người chồng, ví dụ George, một anh chàng cũng tỏ ra hờ hững với những ước muốn gần gũi. Nhu cầu tuổi thơ bị gạt bỏ của Mary lại thích hợp một cách lạ lùng với sự thiếu khả năng đáp ứng của George. Tuy nhiên, nếu George vượt qua được sự đề kháng của bản thân, cố gắng đáp ứng những mong muốn của Mary thì không chỉ Mary cảm thấy thỏa mãn mà ngay cả George cũng dần dần tìm lại được sự nhạy cảm của mình. Nói cách khác, khi cố gắng chữa trị vết thương lòng của người bạn đời, chúng ta cũng phục hồi một phần bản chất của chính mình. Tiến trình chọn lựa vô thức sẽ dẫn dắt hai người bạn đời, hoặc làm tổn thương nhau hoặc hàn gắn cho nhau, tùy thuộc vào quyết tâm của họ để trưởng thành và thay đổi. Đưa lý thuyết vào thực tiễn Tôi bắt đầu hướng sự quan tâm của mình về tiềm năng chữa trị của hôn nhân vào thực tại sinh động. Câu hỏi không có lời đáp là: khuyến khích những đôi vợ chồng vượt qua những hạn chế của họ như thế nào để họ có thể đáp ứng những nhu cầu của nhau? Tôi quyết định phát triển một bài tập có một vài đặc điểm giống như bài tập “Tái lãng mạn hóa”. Một người chồng hoặc người vợ được yêu cầu lập ra một danh sách các đòi hỏi của mình, với danh sách ấy, người kia có thể tùy nghi, đáp ứng hoặc không đáp ứng. Trong trường hợp này, các đòi hỏi bao gồm nhiều thay đổi khó khăn trong hành vi ứng xử, không chỉ là những tương tác đơn giản và dễ chịu. Ví dụ người lập danh sách yêu cầu người bạn đời phải trở nên quả quyết hơn, khoan dung hơn… Thực chất, các đòi hỏi này có nghĩa là người kia phải vượt bỏ những tính cách tiêu cực chính yếu của mình. Như trong bài tập “Tái lãng mạn hóa”, những đòi hỏi chung nhất sẽ được chuyển hóa vào các hành động đặc trưng, có thể cân đo đong đếm và có thể thực hiện được. Nếu không thế, người bạn đời sẽ không đủ thông tin để thực hiện sự thay đổi, và cũng có quá nhiều không gian cho những suy diễn sai lệch và cho những thủ thuật lảng tránh. Cũng như bài tập “Tái lãng mạn hóa”, bài tập “Giải tỏa” sẽ dựa trên nguyên tắc “Quà tặng”. Không phải là sự trao đổi có đi có lại. Nếu không như vậy, tâm trí vô thức sẽ bác bỏ sự thay đổi trong hành vi ứng xử. Điều này rất quan trọng. Nếu một người thực hiện một thay đổi nhỏ rồi chờ đợi người kia hưởng ứng những cố gắng của mình (“Anh sẽ bớt áp chế em nếu như em tỏ ra săn sóc anh hơn!”), toàn thể tiến trình sẽ lập tức thoái hóa vào một cuộc tranh chấp. Những thù hận xưa kia lại bùng cháy, và sẽ không còn khả năng chữa trị nữa. Các cặp vợ chồng phải nhận thức rằng: nếu như họ vượt bỏ được những giới hạn của mình và phát triển năng lực yêu thương, không phải vì họ đã đợi chờ tình yêu trở lại mà đơn giản chỉ là vì người bạn đời của họ xứng đáng được yêu thương. Với những phác họa sơ bộ về bài tập mới như vậy, tôi bắt đầu đi vào chi tiết. Các ông chồng và các bà vợ sẽ làm thế nào để xác định những hành vi ứng xử mà họ đòi hỏi người bạn đời đáp ứng? Liệu rồi họ sẽ lại phàn nàn và chỉ trích nhau? Liệu họ có tìm được những từ ngữ chính xác và tích cực để diễn đạt các đòi hỏi mà họ dành cho người bạn đời? Những hiểu biết của họ có ở trên bình diện ý thức? Quá trình trị liệu sẽ kéo dài bao lâu, vài tháng hay vài năm? Có một giải pháp dễ dàng hơn, đó là khảo sát những lời chỉ trích. Như chúng ta đã xem xét ở chương trước, chỉ cần phân tích những lời phàn nàn dai dẳng lẫn nhau của một cặp vợ chồng cũng có thể vẽ nên một bức tranh chính xác về những thiếu thốn mất mát trong tuổi thơ của họ. Không rõ ràng đến từng chi tiết – ai, lúc nào, làm gì – nhưng nó chẳng khác nào một vỉa quặng lộ thiên, sẵn sàng cho ta khai thác. Nhiều tháng và nhiều năm trôi qua, các cặp vợ chồng ở bên nhau, những điều phiền muộn như những lớp đất đá bề mặt, nông hơn và xốp hơn, đã bị bào mòn và làm lộ ra những nhu cầu nền tảng. “Anh không bao giờ…”, “Em lúc nào cũng…”, “Khi nào anh mới thôi đi…”. Ẩn sâu trong những lời buộc tội là lời biện hộ được ngụy trang cho tất cả những gì không có được trong tuổi ấu thơ – cho sự săn sóc, sự công nhận, sự che chở, sự độc lập, sự gắn bó… Bởi vậy, để có thể lập danh sách các đòi hỏi cho bài tập này, các cặp vợ chồng phải cách ly những ước muốn ẩn giấu trong những nỗi thất vọng dai dẳng của họ. Họ có thể chuyển hóa những ước muốn chung nhất vào các hành vi ứng xử đặc trưng sẽ giúp họ thỏa mãn những ước muốn ấy. Bản danh sách các đòi hỏi tích cực và rõ ràng này sẽ trở thành “quy trình công nghệ” của mối quan hệ hôn nhân. Xác định quy trình Sau đây là một ví dụ lấy từ một văn phòng tư vấn hôn nhân có thể dùng để minh họa cho bài tập này. Đầu tiên, tôi yêu cầu một người tình nguyện trình bày lại lời than phiền gay gắt về người bạn đời của mình. Một phụ nữ tên là Melanie, với mái tóc nâu quyến rũ và bộ váy áo óng ánh, giơ tay. Theo yêu cầu, đầu tiên cô ta thuật lại lời phàn nàn bực bội của cô về chồng mình là Stewart: “Anh ấy có một trí nhớ rất tệ, dường như ngày càng tệ hơn. Tôi luôn luôn bị khổ sở vì tật đãng trí của Stewart. Ước gì anh ấy chịu để tâm một chút”. Stewart, một người đàn ông dáng vẻ trí thức ngồi bên cạnh vợ, bắt đầu tự vệ bằng một giọng bực dọc: “Melanie, anh là một luật sư. Anh đã nhớ cả hàng ngàn trang sách luật. Sao anh lại không có trí nhớ tốt kia chứ?”. Trước khi Melanie có cơ hội để lặp lại lời chỉ trích của mình, tôi yêu cầu cô nói rõ điều gì đã làm cô cảm thấy bực bội nhất với tật hay quên của Stewart, và cô thấy khổ sở nhất khi nào. Cô nghĩ một lát. “Tôi thấy bực bội khi anh ấy quên làm một việc gì đó mà tôi đã yêu cầu anh ấy làm. Tuần vừa rồi chẳng hạn, anh ấy quên phắt rằng hai vợ chồng đã hẹn nhau đi ăn trưa. Một chuyện nữa là vài ngày trước đây, chúng tôi đến dự một bữa tiệc, anh ấy quên cả việc giới thiệu tôi với bạn bè, khiến tôi cứ đứng như trời trồng một cách thật ngu ngốc”. “Cô có cảm xúc nào sâu hơn, bên dưới những nỗi thất vọng cô vừa kể, chẳng hạn như nỗi phiền muộn, lo âu, sợ hãi…? – Tôi hướng dẫn cô theo một tiến trình tương tự những gì tôi đã nói ở đầu đợt chữa trị, giúp cô nhận dạng những ước muốn tiềm ẩn trong lời chỉ trích của mình. “Có, khi anh ấy không làm những điều đó, tôi cảm thấy mình không được yêu thương, cảm thấy anh ấy không quan tâm đến tôi. Tôi như bị bỏ rơi, mà điều tôi mong muốn nhất là anh ấy phải chứng tỏ rằng tôi có vai trò quan trọng đối với anh ấy, ít nhất cũng ngang bằng với công việc anh ấy làm”. Đến đây, tôi đã có thể yêu cầu Melanie thử hình dung lại những năm tháng tuổi thơ, những thương tổn mà cô đã phải chịu khiến cho tật hay quên của Stewart đã khơi dậy những xúc cảm tưởng như đã ngủ yên: Liệu cha mẹ cô có cư xử với cô theo cung cách đó không? Nhưng với Melanie, có lẽ không cần phải nói nhiều về lợi ích của bài tập này. Tất cả những gì cô cần làm là nhận dạng ý kiến chỉ trích của mình, chuyển hóa nó vào một ước muốn và sau đó là đưa ra một hành vi ứng xử tích cực có thể thỏa mãn ước muốn ấy. Tôi tiếp tục: “Melanie, bây giờ cô lập một danh sách những hành vi ứng xử có thể giúp cô cảm thấy mình được quan tâm săn sóc. Cô hãy làm cho Stewart hiểu: bằng cách nào anh ấy có thể trở thành một nhân tố tích cực hơn trong cuộc sống của cô?”. Cô suy nghĩ một phút, sau đó cô đồng ý sẽ làm như vậy. Tiếp theo, tôi hướng dẫn Stewart, Melanie và cả nhóm thực hành bài tập “Giải tỏa” rồi để họ trở về nhà. Hướng dẫn của tôi là: nhận dạng một lời phàn nàn dai dẳng, cách ly những ước mong tiềm ẩn ra khỏi lời phàn nàn, đồng thời, lập một danh sách những hành vi ứng xử cụ thể và khả thi có thể giúp thỏa mãn những ước mong đó. Các ông chồng và các bà vợ sẽ trao đổi cho nhau bản danh sách, xem xét và phân loại các đề mục theo mức độ từ dễ tới khó đối với khả năng của mình. Tôi yêu cầu họ trao đổi những thông tin này với nhau nhưng không tìm cách gò ép chúng cho thích hợp với mong muốn của người kia. Mục đích của bài tập là để những người bạn đời, khi muốn giải tỏa những ước mong của mình vào các hành vi ứng xử, phải đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Ép buộc hay trông đợi có nguy cơ dẫn đến những thỏa thuận có đi có lại, và có rất nhiều khả năng là nó sẽ kết thúc trong oán hận và thất bại. Khi nhóm điểu trị tập hợp trở lại, Melanie tự nguyện đưa ra bản danh sách của cô, bao gồm những đòi hỏi như sau: – “Em muốn chúng ta cách ly nhau mỗi tuần một đêm, ngay từ buổi tối hôm nay. – Em muốn anh giới thiệu em với các bạn anh khi em đến cơ quan anh. – Em muốn anh tặng em một món quà đặc biệt vào dịp sinh nhật sắp tới của em, mà phải tự tay anh mua và bao gói. – Em muốn ngày nào anh cũng gọi điện thoại về nhà cho em chỉ để trò chuyện thân mật với nhau. – Em muốn anh kéo ghế cho em khi chúng ta ăn bữa tối. – Em muốn anh không mang công việc ở cơ quan về nhà làm vào ngày Chủ nhật – Em muốn anh gọi điện thoại báo trước cho em nếu anh về nhà ăn cơm chiều muộn quá 15 phút. – Em muốn anh…” Theo chỉ dẫn của tôi, Stewart nhận những đòi hỏi của Melanie, phân loại mức độ khó khăn của từng đề mục, chọn ra những đề mục mà anh thấy dễ thực hiện nhất. Anh nói trước cả nhóm rằng anh sẽ thực hiện ngay lập tức yêu cầu đơn giản nhất của Melainie là sẽ kéo ghế cho cô trong các bữa ăn tối. Có một sự tương phản đáng chú ý giữa thái độ ban đầu của Stewart khi anh phản đối lời phàn nàn của Melanie về trí nhớ kém cỏi của anh, với sự chấp nhận vui vẻ các đòi hỏi của Melanie sau này. Lý do là vì anh đã hiểu và cảm thông với những thương tổn tuổi thơ của cô, anh được chủ động lựa chọn những hành vi đáp ứng của mình, anh có thể làm hoặc chưa làm nếu nó quá khó khăn đối với anh, và tìm được con đường thuận lợi nhất để đáp ứng những ý muốn của cô. Danh mục những yêu cầu của Melanie cũng hàm chứa tiềm năng trưởng thành đối với Stewart, chính vì có một số yêu cầu, quả thực, anh rất khó thực hiện. Điều này không có gì lạ đối với tôi, bởi vì ước muốn lớn nhất của người này thường tương ứng với sự đề kháng lớn nhất của người kia. Melanie có thể làm cho Stewart hiểu tầm quan trọng của lời yêu cầu khó khăn ấy đối với cô nhưng không thể ép buộc anh phải thực hiện. Quyền lực hợp lý duy nhất mà cô có trong mối quan hệ hôn nhân là thông tin cho Stewart biết những ước muốn của cô và thay đổi những hành vi ứng xử của chính cô cho phù hợp với những ước muốn của Stewart. Xu hướng thay đổi phức hợp trong quá trình vận động Sau khi xem xét bản danh mục các yêu cầu của Melanie, Stewart cũng đưa ra bản của mình. Anh cũng đã nhận dạng những ý kiến than phiền thường xuyên nhất của anh, cách ly các ước muốn ra khỏi lời than phiền và lập ra một danh sách những yêu cầu mà anh muốn Melanie đáp ứng. Lời than phiền thường xuyên nhất của Stewart đối với Melanie là về tính hay chỉ trích của cô. Có vẻ như cô thường xuyên chê bai chỉ trích anh. Điều đó khiến anh khổ sở, chính vì cha mẹ anh ngày trước cũng là những người hay chê bai chỉ trích. Anh kết luận với một nụ cười và nháy mắt cho tôi: “Có lẽ đây là điều tôi thu hoạch được sau đợt chữa trị, vì chính điều đó là điều làm cô ấy trở nên hấp dẫn đối với tôi”. Một trong những mong muốn rõ ràng nhất của Stewart là Melanie sẽ khen tặng anh mỗi ngày một lần. Melanie biết rằng có những ngày thật khó mà được điều đó. Cô nói chân thành: “Tôi nghĩ mình đâu phải là một kẻ chuyên chỉ trích người khác. Vấn đề là ở chỗ Stewart tỏ ra thiếu trách nhiệm, nghĩa là không phải ở thái độ của tôi mà là ở cư xử của anh ấy!”. Một trong những lý do khiến cô cảm thấy khó khăn khi phải khen ngợi Stewart là cô phủ nhận giá trị lời phàn nàn của Stewart. Cô chỉ thấy mình như một người có trách nhiệm phán xét tính cách của Stewart . Một lợi ích khác của bài tập “Giải tỏa” là: Khi Melanie không đồng ý với cách Stewart nhìn nhận về cô, rồi từ đó định ra tiến trình chữa trị, cô chỉ chấp nhận thực hiện một đáp ứng đơn giản nhất: sẽ dành cho Stewart mỗi ngày một lời khen tặng. Nhưng khi cô làm điều này, cô sẽ nhận thức rõ hơn về những phẩm chất tốt đẹp của Stewart. Và dần dần cô sẽ học được cách làm thế nào loại trừ vai trò của kẻ phán xét trong con người cô. Cuối cùng, cả Stewart lẫn Melanie đều có lợi khi thực hành bài tập. Stewart sẽ được tán thành khi bộc lộ những phẩm chất xứng đáng. Còn Melanie có thể thay đổi một nét tính cách tiêu cực của cô. Trong quá trình chữa trị, cô dần dần trở nên một con người toàn vẹn hơn và nhân hậu hơn. Khi các cặp vợ chồng thực hiện đến nơi đến chốn bài tập này trong vài ba tháng, họ còn khám phá ra một lợi ích tiềm ẩn: Tình yêu mà họ mang đến cho người bạn đời sẽ xoa dịu và chữa trị những vết thương của chính họ – cả những vết thương mà họ không biết là họ có. Stewart và Melanie tiếp tục các đợt chữa trị ở văn phòng của tôi hơn 1 năm. Khoảng 6 tháng sau khi dứt các đợt đó, Stewart và Melanie đã đáp ứng hoàn toàn các mong ước của nhau. Họ có thể không thích một ý tưởng nào đó, nhưng họ hiểu tầm quan trọng của ý tưởng đối với người bạn đời và họ chấp nhận sẽ mang lại niềm vui cho nhau. Hầu hết các cặp vợ chồng có những ước muốn đồng nhất nhưng những gì được thừa nhận thẳng thắn ở người này lại bị người kia phủ nhận. Khi những người bạn đời, với các ước muốn bị phủ nhận, vượt qua được sự đề kháng của chính họ và thỏa mãn ước muốn được bày tỏ thẳng thắn của người kia, phần tâm trí vô thức sẽ diễn dịch hành vi săn sóc như hành vi tự định hướng. Và tình yêu đối với bản thân sẽ được thành tựu thông qua tình yêu đối với người khác. Để hiểu tại sao cơ chế tâm thần hoạt động như vậy, chúng ta cần nhớ lại những điều đã trao đổi trước đây về bộ não con người. Tâm thức cũ không biết về sự tồn tại của thế giới bên ngoài, tất cả những đáp ứng của nó là các biểu tượng. Thiếu một nối kết trực tiếp với thế giới bên ngoài, tâm thức cũ cho rằng, tất cả các hành vi đều hướng nội. Khi bạn trở nên khoan dung hơn, yêu thương người bạn đời của mình hơn, lúc đó, tâm thức cũ cho rằng hành động này là nhằm tới chính bản thân bạn. Phần thưởng và sự đề kháng Tóm lại, Melanie và Stewart thu hoạch được ba lợi ích quan trọng từ bài tập “Giải tỏa”: 1. Những ước muốn của người bạn đời về sự thay đổi ứng xử có thể giải quyết một số thương tổn tuổi thơ của chúng ta. 2. Người bạn đời có các thay đổi trong ứng xử sẽ làm phục hồi những khía cạnh của bản ngã đã bị mất của chúng ta. 3. Người bạn đời có những thay đổi trong ứng xử sẽ làm thỏa mãn những ước muốn bị đè nén của chúng ta – những ước muốn cũng đồng nhất với những ước muốn của người bạn đời. Kết quả của quá trình tăng trưởng này là một sự phát triển ngoạn mục những cảm xúc tốt đẹp giữa hai vợ chồng. Cả Melanie lẫn Stewart đều cảm nhận tốt đẹp hơn về nhau bởi vì họ có khả năng thỏa mãn những ước muốn nền tảng của nhau. Nói cách khác, họ cảm nhận tốt đẹp hơn về nhau bởi vì người bạn đời đã giúp họ thỏa mãn những ước muốn sâu thẳm của họ. Điều đó làm họ thêm quyết tâm giải tỏa những đề kháng của họ vào các hành vi tích cực hơn. Tới khi quá trình xác định ước muốn của mỗi người và chuyển hóa chúng thành những nhu cầu tích cực và khả thi được hoàn tất, họ có thể đưa cuộc hôn nhân của mình vào vòng quay vĩnh cửu của sự trưởng thành nhân cách. Sự đề kháng Thay đổi hữu ích này luôn luôn bao hàm một vài sự đề kháng. Một trong những phát hiện sâu sắc của Freud là: “Bên dưới mỗi ước muốn đều tiềm ẩn một nỗi sợ hãi rằng ước muốn ấy sẽ thành hiện thực”. Khi người bạn đời cư xử với bạn theo cung cách mà bạn vẫn hằng mong ước, bạn sẽ trải nghiệm một sự kết hợp lạ lùng giữa hài lòng và sợ hãi. Bạn thích những gì mà người bạn đời làm cho bạn, nhưng một phần con người bạn lại cho rằng mình không xứng đáng với điều đó. Thực tế là, một phần con người bạn tin rằng, khi chấp nhận những ứng xử tích cực của người bạn đời; bạn đã xâm phạm một cấm kỵ đầy quyền năng. Tôi đã đề cập đến phản ứng phổ biến này khi trao đổi về cấm kỵ đối nghịch với sự hài lòng, còn trong trường hợp bài tập “Giải tỏa” thì sự đề kháng còn mạnh mẽ hơn. Một ví dụ sẽ làm sáng tỏ cơ chế của sự đề kháng. Giả sử là bạn lớn lên với các bậc cha mẹ là những người ưa chỉ ra những lầm lỗi của bạn. Không kể những cố gắng lạc lối nhằm giúp bạn thành công hơn, họ luôn nhấn mạnh những thất bại của bạn. Họ cho rằng, chỉ ra những lầm lỗi ấy là để bạn có thể sửa chữa chúng, và dù sao đi nữa thì mục đích của họ là tạo cho bạn lòng tự tin. Khi bạn thành công ngoài những ảnh hưởng tiêu cực của họ và hành động để tự khẳng định, họ sẽ bảo bạn: “Đừng có tự mãn thế!”. Bạn cảm thấy đau nhói vì phản ứng của họ nhưng bạn chỉ là một đứa trẻ và không có con đường nào khác là phải tuân theo những lời chỉ bảo của cha mẹ. Khi bạn lấy vợ lấy chồng, bạn lựa chọn một cách vô ý thức một người sẽ làm trường tồn hành vi hủy hoại của cha mẹ bạn và một lần nữa, bạn lại bị tấn công. Giả sử rằng, vì một vài lý do nào đó, người bạn đời của bạn cư xử với bạn tử tế hơn. Đầu tiên, bạn tăng trưởng với dữ kiện mới mẻ này. Nhưng rồi, một tiếng nói nội tâm cất lên trong đáy sâu: “Mày không đáng được tôn trọng. Điều đó sẽ không thích hợp với mày. Nếu cứ tiếp tục như vậy, mày sẽ không tồn tại. Đời sống của mày là ở trong tay kẻ khác và họ sẽ không để mày yên!”. Thế là bạn sẽ tìm cách làm xói mòn hành vi của người bạn đời cho đến khi tiếng nói ấy câm bặt. Có thể bạn sẽ thận trọng tìm cách chống lại hoặc nghi ngờ động cơ của những ứng xử tử tế của người bạn đời. Và rồi bạn sẽ tìm cách tự phủ nhận cả tình yêu và sự khẳng định mà bạn mong muốn đến tuyệt vọng. Phản ứng đề kháng lại sự thỏa mãn một ước muốn sâu thẳm phổ biến hơn là ta tưởng. Hầu hết các thân chủ của tôi ngừng tiến trình chữa trị giữa chừng không phải vì họ không có khả năng tạo ra những biến đổi tích cực, mà chỉ vì họ không thể đối phó với nỗi lo âu chính những biến đổi tích cực ấy mang lại. Để vượt qua nỗi sợ hãi này, chỉ có cách tiếp tục tiến trình. Tôi khuyến cáo các thân chủ của tôi giữ vững tiến độ thực hành bài tập “Giải tỏa” cho tới khi nỗi lo âu trở nên chấp nhận được. Thực hành bài tập này đến cùng, họ sẽ nhận ra rằng những cấm kỵ ngăn cản sự trưởng thành của họ chẳng qua chỉ là những bóng ma của quá khứ và chúng cũng chẳng có quyền lực thực sự nào trên đời sống hiện tại của họ. Một người đàn ông đã thực hiện xuất sắc việc giải tỏa những ước muốn vào các ứng xử mới, trong đáp ứng của mình đối với đòi hỏi của bà vợ, ông đã xếp đặt lại thứ tự các mục tiêu ưu tiên. Ông thôi không mang công việc ở cơ quan về nhà làm nữa và ngày nào cũng về ăn cơm chiều lúc 6 giờ. Nhưng khi bà vợ yêu cầu ông ta trở nên một người cha có trách nhiệm hơn thì ở ông xuất hiện sự đề kháng. Ông lại đến tìm tôi và thổ lộ: “Tôi mà thay đổi thêm nữa chắc là tôi sống hết nổi. Tôi sẽ không còn là tôi nữa, điều đó sẽ tiêu diệt nhân cách của tôi!” Nếu thay đổi hành vi ứng xử theo yêu cầu của người bạn đời, ông cảm thấy “cái tôi” thân thuộc của mình biến mất tiêu. Ở mức độ vô thức, thay đổi này tương đương với cái chết. Tôi lưu ý ông rằng, nếu ông tiếp tục quá trình thay đổi các hành vi ứng xử, ông sẽ cảm thấy nỗi lo âu mỗi lúc một lớn hơn, nhưng ông sẽ không chết. Nó sẽ không mất đi, bởi vì nó không phải là hành vi ứng xử của ông, giá trị của ông hay niềm tin của ông. Ông lớn hơn nhiều so với tất cả những thứ đó gộp lại. Thực ra, nếu ông thay đổi một vài hành vi ứng xử, một vài niềm tin của mình, ông sẽ trở thành một con người toàn vẹn hơn, nhân hậu hơn, sâu sắc hơn là con người hiện nay của ông. Ông sẽ có khả năng phát triển những khía cạnh tích cực của nhân cách, những khía cạnh đã bị gạt sang một bên khi ông nỗ lực để tiến thân trong công việc. Gia đình ông sẽ hạnh phúc, trong khi chính ông sẽ trở nên một thực thể toàn vẹn hơn. Và khi làm như thế, ông đã vượt thoát nỗi sợ hãi cái chết. Tôi khuyên ông cứ tiếp tục những hành vi đã kích thích nỗi sợ hãi ấy. Tôi bảo ông: “Đầu tiên, ông nghĩ là ông sẽ không sống nổi. Một tiếng nói từ sâu thẳm cất lên trong ông: “Dừng lại đi! Thế là quá đủ rồi! Ta sẽ chết mất!”. Nhưng nếu cứ tiếp tục quá trình thay đổi, tâm thức cũ của ông tiếp tục vòng quay và tiếng nói ấy sẽ câm lặng: “Ta sẽ chết mất! Ta sẽ chết mất!… Ta sẽ chết mất chăng? Nhưng ta không chết!”. Và cuối cùng, nỗi sợ hãi cái chết sẽ chỉ là một yếu tố ngăn cản không hơn không kém trong quá trình vận động để tự trưởng thành của chúng ta. Agape Khi bài tập “Giải tỏa” (được giải thích chi tiết trong Phần Ba) đã thẩm thấu hiệu quả của nó vào mối quan hệ, sức mạnh chữa trị của hôn nhân sẽ không chỉ là một đợi chờ vô thức mà là một yếu tố sinh động hàng ngày. Hôn nhân có thể giúp bạn hoàn tất mục tiêu ẩn giấu của bạn là được chữa trị và được toàn vẹn. Nhưng nó không diễn ra theo con đường bạn mong muốn, dễ dàng, tự động, không xác định mục đích, không đòi hỏi, không đền đáp… Bạn có thể xoa dịu phản ứng của tâm thức cũ bằng một cung cách tương tác ý thức hơn và có chủ định hơn. Bạn sẽ thôi không chờ đợi thế giới bên ngoài mang sự quan tâm săn sóc đến cho bạn và bắt đầu nhận lãnh trách nhiệm chữa trị cho chính mình. Và để làm việc này, bạn sẽ tập trung năng lượng của mình để chữa trị những vết thương lòng của người bạn đời, một quá trình chữa trị tâm lý và tinh thần ở mức độ sâu xa sẽ khởi đầu. Khi bài tập “Giải tỏa” trở thành phương pháp tiêu chuẩn để bạn ứng phó với xung đột và chỉ trích, bạn sẽ vươn tới một tầm cao mới trong quá trình sáng tạo một hôn nhân ý thức. Bạn sẽ vượt ra khỏi sự tranh chấp và tình trạng mê ngủ để thay đổi. Quan hệ hôn nhân của bạn giờ đây đặt cơ sở trên tình yêu, thứ tình yêu tuyệt vời như định nghĩa của từ Hy Lạp Agape. Agape là một thứ tình yêu tự siêu việt và tái định hướng Eros, năng lượng sống, ra khỏi bản thân và hướng tới người bạn đời. Như một phản ứng dây chuyền, nỗi đau khổ của quá khứ sẽ dần dần bị xóa bỏ, và cả hai vợ chồng sẽ chứng nghiệm thực tại của sự toàn vẹn bản thể. Chương 11: KIỀM CHẾ CƠN GIẬN Thiên Đường không có cơn giận dữ nào giống như cơn giận dữ của tình yêu biến thành thù hận. Địa Ngục không có cơn cuồng nộ nào giống như cơn cuồng nộ của người đàn bà bị khinh rẻ. WILLIAM CONGREVE Có một số cặp vợ chồng không khi nào “gấu ó” nhau. “Ngôi nhà của chúng tôi thật đáng ao ước!” – Marla nói. Cô khoảng gần 30 tuổi, nét mặt cân đối và đầy vẻ mãn nguyện. Cô trang điểm sơ sài, mái tóc hung chải hất ra phía sau và cột thành một cái đuôi ngựa rũ xuống. Đây là đợt tham vấn thứ hai của Marla và chồng cô, Peter, một người đàn ông ưa nhìn. Marla tiếp tục: “Chúng tôi chẳng bao giờ la hét hay chỉ trích nhau”. Cô ngừng một lát, nhìn Peter rồi nói thêm với một nụ cười buồn… “ít nhất thì cũng không công khai”. Trong thời gian ngắn ngủi tôi biết họ, quả là Marla nói đúng. Giữa cô và Peter dường như mọi sự đều tốt lành. Họ luôn luôn âu yếm nhau, cười đùa, nắm tay nhau, chăm chú lắng nghe nhau, dành thời gian cho nhau trong suốt đợt chữa trị, tranh luận sôi nổi về quan điểm của nhau. Nhưng bên dưới sự êm ả hời hợt và những ứng xử đầy cảm thông ấy là một biển cả thất vọng. Họ phải tìm sự trợ giúp vì quan hệ của họ đã đi vào chỗ bế tắc. Peter chỉ còn đóng vai trò một đứa trẻ hư, kẻ chẳng làm được việc gì tử tế, còn Marla là vị thánh nhân từ và toàn năng. Peter nói: “Khi tôi làm điều gì sai, cô ấy tha thứ cho tôi. Tôi trốn tránh một trách nhiệm nào đó thì cô ấy lại gánh lấy. Chúng tôi bây giờ thành ra là: tôi vô tích sự còn cô ấy kỳ diệu. Tôi ghét điều đó”. Từ ghét được anh ta nói với giọng hờ hững, vô cảm như bất kỳ từ nào khác, đã xác nhận tình trạng đáng buồn của họ. Nếu tất cả các cặp vợ chồng được đưa vào một biểu đồ thể hiện mức độ giận dữ của họ thì Marla và Peter nằm ở ngoài cùng bên trái. Di chuyển dần vào phía trong là các cặp vợ chồng chỉ trích nhau, quát tháo nhau và gây gổ. Xa hơn một chút về bên phải là những cặp thỉnh thoảng “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Xa hơn nữa là những cặp trục trặc vô phương cứu chữa, rồi là những cặp hành hạ sỉ nhục nhau thậm tệ. Hầu hết các thân chủ của tôi chiếm vị trí đâu đó ở giữa biểu đồ. Họ có những thời điểm thù địch nhưng họ biểu hiện cơn giận của mình bằng ngôn từ và những hành vi gây hấn thụ động chứ không phải là bạo lực. Từ câu chuyện của Marla với Peter và của nhiều cặp vợ chồng khác, trước hết, tôi muốn đi sâu vào chi tiết những cung cách khác nhau mà các cặp vợ chồng biểu lộ cơn giận dữ của họ. Hành hạ thể xác rất hiếm gặp trong quá trình tham vấn nhưng có số trường hợp còn lưu lại trong trí nhớ của tôi. Khoảng 9 giờ sáng hôm đó, Stephen và Olivia bước vào văn phòng của tôi theo lịch hẹn. Họ khoảng 40 tuổi, Stephen có vẻ cố kìm nén một cách không bình thường còn Olivia thì tái nhợt và hoảng loạn. Tôi nhận thấy một vết bầm trên gò má cô. Họ ngồi xuống ghế, không nói với nhau và cả với tôi một lời nào. Khi tôi hỏi họ điều gì đã xảy ra, Stephen bắt đầu thuật lại vụ xô xát tai hại đêm hôm trước. Theo lời anh ta, Olivia đã khiêu khích anh ta. Stephen nói: “Chúng tôi nói về chuyện tiền nong. Tôi cố gắng giải thích cho Olivia hiểu những áp lực tiền bạc đang đè nặng lên tôi. Tôi muốn cô ấy thấy là tôi đang oằn lưng dưới gánh nặng. Tôi cảm thấy mình nguy đến nơi và muốn được trợ giúp”. Anh ta ngước mắt lên trần nhà, hít một hơi thở sâu và tiếp tục: “Trong khi tôi nói, cô ấy khoanh tay và cười chế nhạo. Cô ấy có cái lối nhìn tôi bằng nửa con mắt, như muốn đóng đinh tôi vào tường. Rồi cô ấy nói rằng, nếu tôi cảm thấy buồn bực, sao không tìm quách một nghề khác lương lậu cao hơn, rằng cô ấy muốn phát ốm vì phải nghe tôi phàn nàn về chuyện tiền nong. Trước khi tôi kịp hiểu điều gì xảy ra, tôi đã tát vào mặt cô ấy. Cô ấy đánh lại tôi và chúng tôi lao vào nhau. Chúng tôi cùng ngã xuống sàn rồi cô ấy túm tóc tôi mà sỉ vả thậm tệ. Tôi lại đánh cô ấy và cả hai chúng tôi như những kẻ mất trí”. Stephen và Olivia cũng đã từng có nhiều trận cãi vã, lời qua tiếng lại trong suốt 13 năm chung sống, nhưng đây là lần đầu tiên họ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Cả hai đều bị sốc do cuộc đối đầu đầy bạo lực không dự kiến này. Đối với hầu hết các cặp vợ chồng, một vụ bùng nổ như thế là khá hiếm. Thông thường hơn cả là họ bóp nghẹt cơn giận dữ của mình và để nó thoát ra thành những lời chì chiết đay nghiến. Đó là trường hợp của Elizabeth và Frank, một cặp vợ chồng mà tôi đã gặp trong cùng một ngày, muộn hơn một chút so với Stephen và Olivia. Như trùng hợp ngẫu nhiên, họ cũng mới cãi nhau hôm trước, nhưng họ chỉ giới hạn cuộc đối đầu trong những lời lẽ cục cằn. Cuộc tranh cãi của họ là về ngôi nhà mới mà họ sắp xây dựng. Elizabeth đã thuê một họa sĩ trang trí nội thất vẽ kiểu cho căn bếp của ngôi nhà và nghĩ rằng đây là lãnh địa của cô. Chồng cô nổi giận vì cô đã không tham khảo ý kiến anh về việc đó. Tiền không thành vấn đề vì họ tương đối khá giả. Điều làm anh ta nổi giận chỉ là cô đã hành động không có sự bằng lòng của anh. Một điều đáng chú ý ở trường hợp này là sức mạnh tàn phá của sự chỉ trích. Kể lại với tôi về mức độ nặng nề của cơn giận dữ của chồng cô, Elizabeth nói: “Những lời giận dữ của anh ấy đổ như mưa lên đầu tôi. Tôi cảm thấy đau đớn rã rời cho đến khi anh ấy thôi nhiếc móc tôi”. Chồng cô đã không đánh đập cô, nhưng tâm hồn cô cảm thấy chẳng khác gì như vậy khi bị anh sỉ vả. Không có một cái tát nào nhưng cô như bị bắn nát bởi sự thù địch và những lời chỉ trích. Ở mức độ vô thức, Elizabeth cũng cảm nhận nỗi đau đớn và sợ hãi chẳng khác gì Olivia, người bị đánh thâm tím mặt mày. Cơn giận có thể khó phát hiện hơn nếu nó mang bộ mặt kiềm chế. Một năm trước đây, tôi có dịp làm việc với một cặp vợ chồng, Barbara và Allen. Allen là một giáo viên trường cao đẳng còn Babara làm nội trợ. Họ đến tìm tôi vì họ lo lắng về nỗi phiền muộn lặp đi lặp lại của Barbara. Mấy năm gần đây, Barbara tỏ ra uể oải, mệt mỏi, thờ ơ cả với chuyện gối chăn. Ngay từ đợt chữa trị đầu tiên, Allen đã thổ lộ rằng sự ủ rũ của vợ làm anh cảm thấy chán cô. Mấy tuần sau nữa, anh mới thú thật rằng anh cảm thấy nguy hiểm vì có quan hệ với một nữ giáo viên khá hấp dẫn và đã ly dị chồng. Anh thú nhận. “Mọi chuyện dường như tạo cơ hội tốt cho chuyện đó”. Một ngày gần cuối một đợt chữa trị, Allen và Barbara đã chọc thủng lớp băng. Khi chỉ còn vài phút nữa là kết thúc, cô nhìn đồng hồ đeo tay và nói rằng có một vài điều làm cô lo âu và cô muốn nói về chúng. Cô ngưng một lát rồi thu hết can đảm nhìn tôi và Allen: “Tuần vừa rồi, tôi có một giấc mơ đáng sợ, tôi muốn kể lại với ông. Tôi mơ rằng tôi đến đây để chữa trị một mình. Trong mơ, ông hỏi tôi rằng phải chăng có điều gì đó mà tôi không muốn biết và cũng không thể nói về nó. Và tôi đã nói với ông một điều nằm sâu trong đáy lòng tôi… tôi muốn giết Allen”. Cô lấy một hơi thở ngắn như thể có cái gì chẹn trong dạ dày. “Ngay khi mơ đến chỗ đó thì tôi tỉnh dậy. Tôi cảm thấy hốt hoảng và bối rối. Tôi đâu có muốn giết Allen? Tôi yêu anh ấy. Anh ấy đâu có làm hại gì tôi? Ông hãy giúp tôi xác định xem giấc mơ ấy là như thế nào? Barbara đã nhận ra một điều mà tôi đã đôi lúc cảm thấy: cô giận dữ một cách bí mật. Cô kiềm giữ cơn giận trong lòng và che giấu nó đối với Allen và với cả cô, biến cơn giận thành sự phiền muộn ủ rũ nhưng để trấn áp cơn giận, cô cũng mất luôn cả cảm giác ngon miệng khi ăn, cả ham muốn ái ân, cả niềm vui khi chơi đàn piano, cả những kích thích mới mẻ – nó rút hết năng lượng sống của cô và bóp nghẹt cô. Lý do cô sợ hãi cơn giận của mình, như sau này tôi có dịp khám phá là cô đã liên hệ một cách vô thức cơn giận với sự ruồng bỏ. Khi còn là một đứa trẻ, cô đã đóng vai trò “đứa con gái ngoan” tương phản với bà chị của cô, người luôn luôn có thái độ thù địch và nổi loạn. Bà chị cô thường trừng phạt nghiêm khắc những hành vi của cô và cô rất sợ để lộ cơn giận của mình, vì ngay cả điều đó cũng khiến cô bị trừng phạt ngay lập tức. Cô phải giấu diếm cơn giận đối với cha mẹ cô, chị cô và sau đó là với chính cô. Kết quả là cô sống một nửa con người mình trong bóng mờ. Cũng như lúc còn thơ, cô đi tìm lối thoát cho mình và giờ đây lối thoát ấy là cuộc hôn nhân của cô với Allen. Sức mạnh phá hủy của Cơn giận Câu chuyện trên minh họa một điểm quan trọng. Cơn giận phá hủy mối quan hệ, bất kể nó diễn ra dưới hình thức nào. Khi cơi giận bộc lộ, người tiếp nhận cơn giận cảm thấy bị tấn công thô bạo, dù có hay không có các hành vi bạo lực – tâm thức cũ của chúng ta không phân biệt ngôn ngữ và vũ khí. Sau đó, do cơ cấu lạ lùng của vô thức, người nổi giận cũng cảm thấy bị tấn công, vì ở mức độ sâu xa, tâm thức cũ chuyển tất cả các hành động trở thành hướng nội. Khi chúng ta làm người bạn đời đau đớn, chúng ta cũng đau đớn như thế. Trong những lời tiên tri của Kinh Thánh, ta đọc thấy: “Những gì ngươi đổ xuống cho kẻ khác cũng sẽ đổ xuống trên ngươi”. Khi cả hai phía cảm thấy bị tấn công, sẽ xuất hiện sự thụt lùi trong mối quan hệ. Chẳng có con đường nào để hai cá nhân bị tổn thương ấy sống trong hòa bình như trước, ngoại trừ sự xã giao bề ngoài. Sự thân mật không thể có vì không có sự an toàn. Tâm thức cũ sẽ không cho phép bức tường phòng thủ của nó bị xuyên thủng. Như ta đã thấy, cơn giận bị kìm nén sẽ có tiếng dội tiêu cực tương đương. Cơn giận bộc lộ tạo ra một hiểm nguy tức thời còn cơn giận kìm nén sẽ tạo ra một cuộc hôn nhân trống rỗng. Sự uể oải ủ rũ của Barbara đã xô đẩy chồng cô tìm con đường thỏa mãn những ước muốn của mình ở bên ngoài quan hệ hôn nhân. Tôi có kinh nghiệm đầu tiên về sức mạnh phá hủy của cơn giận bị kìm nén vì tôi đã phải trải qua 33 năm đầu tiên của đời tôi đầy phiền muộn, và sự chán nản, ngã lòng cũng là một nguyên nhân quan trọng đưa cuộc hôn nhân đầu tiên của tôi đến chỗ đổ vỡ. Lý do cho nỗi phiền muộn ở tuổi thanh xuân là tôi không được sống thực với những đau khổ và giận dữ của mình. Tôi vẫn còn kinh ngạc vì mình có thể bị mất cả cha lẫn mẹ lúc lên 6 tuổi mà không cảm thấy tuyệt vọng, hay quá đau đớn. Khi mẹ tôi đột ngột qua đời vì một tai nạn, thậm chí tôi cũng không khóc. Các anh chị tôi khen tôi là “thằng bé can đảm”. Với lôgic trẻ con, tôi đã chuyển nội dung lời khen đó theo hướng: “Mày sẽ là người có giá trị nếu như mày tỏ ra xa lạ với những nỗi đau khổ của mày”. Sau này, tôi đã nhận thức được bài học ấy theo góc độ khác: Ở tuổi thanh niên, tôi đã có dịp nhìn lại những năm đầu đời và cảm thấy may mắn khi cha mẹ tôi mất sớm, vì như vậy tôi có cơ hội rời bỏ nông thôn ra thành phố sống với chị tôi, nơi tôi có được một sự giáo dục tốt hơn. Điều huyền hoặc này có những chức năng của nó, mà chức năng đầu tiên là nó giúp tôi đi qua tuổi thơ như bị gây mê – tê cóng và vô cảm với nỗi đau khổ vì bị bỏ rơi. Tôi tự vẽ ra những “may mắn”, rằng mình không phải là một đứa trẻ mồ côi khổ sở, và kết quả là tôi chẳng có lúc nào cảm thấy phải than khóc cho số mệnh. Nhưng những cảm xúc bị kìm nén ấy đã trỗi dậy tàn phá cuộc hôn nhân của tôi. Bởi vì một phần căn bản thực thể của tôi đã bị cắt lìa, tôi đã không sống đầy đủ con người mình. Tôi chẳng có bao nhiêu cảm giác tha thiết nội tâm đối với sự dịu dàng săn sóc – hướng đến bản thân tôi cùng như đến người khác. Một cách vô thức, tôi tìm kiếm ở người vợ của tôi những gì mà tôi thiếu. Tôi khao khát sự gần gũi cả về xúc cảm lẫn thể xác ở mức độ cao, nhưng vợ tôi không mang lại cho tôi đầy đủ như tôi mong muốn – một phần bởi vì cô ấy bị ấn tượng rằng tôi là một kẻ lạnh lùng, đòi hỏi, xa cách, không bao giờ thỏa mãn. Đó là một vòng luẩn quẩn. Tôi càng mong muốn, vợ tôi càng lảng tránh. Một trong những thời điểm đáng kể nhất trong mối quan hệ của chúng tôi là ngay sau khi bố vợ tôi qua đời. Chúng tôi ở trong phòng ngủ. Vợ tôi khóc vùi vì đau khổ trước tang tóc. Tôi phải khó khăn lắm mới có thể bày tỏ sự chia sẻ. Tôi vòng tay quanh vai cô an ủi nhưng cả người tôi cứ cứng đơ và hờ hững. Lý do khiến tôi không thể đáp ứng cho vợ tôi là vì tôi đang trải qua cuộc đấu tranh nội tâm. Một phần con người tôi biết rằng cô đau khổ vì cái chết của bố là đúng, nhưng phần kia của con người tôi lại cho rằng: “Chuyện ấy đâu đến nỗi như vậy?”. Tôi đã mất cả cha lẫn mẹ cùng lúc và chẳng cảm thấy đau khổ bao nhiêu. Vậy tại sao cô ấy lại dễ xúc động đến thế? Vài năm sau đó, lần đầu tiên tôi đến gặp một bác sĩ tâm lý không phải vì tôi cần điều trị tâm lý, mà vì phân tích tâm lý là một phần trong tiến trình tự đào tạo của tôi. Trong buổi gặp đầu tiên, vị bác sĩ tâm lý đó hỏi tôi về cha mẹ tôi. Tôi kể rằng họ đã qua đời khi tôi còn rất nhỏ, nhưng kết quả là tôi gặp may mắn lớn. Vì cha mẹ mất, tôi được sống với chị tôi, được ra thành phô, được học hành, vân vân… Ông ta đột ngột cắt ngang lời tự thuật dài dòng của tôi: “Hãy kể về cái chết của mẹ anh”. Tôi bắt đầu kể mẹ tôi chết như thế nào, nhưng không hiểu tại sao cổ họng tôi khô rang và nghẹn lại. “Kể về đám ma của bà ấy vậy”. Bác sĩ bảo tôi: Tôi lại cố gắng mở miệng một lần nữa. Rồi, chính tôi hết sức ngạc nhiên thấy mình òa lên khóc không sao cầm lại được. Tôi, một gã đàn ông 33 tuổi, òa khóc như một đứa trẻ sáu tuổi. Một lúc sau, bác sĩ tâm lý của tô dịu dàng bảo: “Bây giờ anh mới bắt đầu than khóc cho cái chết của mẹ anh đấy!” Một khi đã được trải nghiệm nỗi đau của chính mình và cơn giận dữ không thể tránh khỏi đi kèm với nó, tôi bắt đầu thay đổi. Tôi ít lo lắng cho bản thân hơn. Tôi quan tâm hơn đến nỗi đau của người khác. Và lần đầu tiên, theo ký ức có ý thức của tôi, tôi cảm thấy được sống đầy đủ. Tôi biết mình là ai và ở vị trí nào, tôi cảm nhận được những nhịp đập cảm xúc của trái tim mình. Khi mọi xúc cảm của tôi được mở, tôi bắt đầu giàn hòa với thế giới. Ý tưởng rằng mỗi người cần được tiếp xúc với nỗi đau và cơn giận dữ của chính mình đi ngược lại những giáo huấn nghiêm khắc. Khi trẻ con khóc vì mệt mỏi hay thất vọng, thông thường các bậc cha mẹ làm ngơ hoặc đánh chúng, trêu chọc chúng, hoặc la hét bắt chúng im lặng. Một thiếu niên đóng sầm cửa phòng riêng trong cơn giận dữ thường bị quở mắng, bắt phải xin lỗi, hoặc bị từ chối một số điều mong muốn. Hình phạt dành cho cơn giận dữ ở mỗi gia đình khác nhau – trong một số gia đình, ngay cả một ánh mắt giận dữ cũng bị cấm đoán – nhưng có thể nói, đa số chúng ta lớn lên với ý tưởng rằng giận dữ là cảm xúc xấu, gây đổ vỡ, hoặc không được phép. Lựa chọn của chúng ta là hoặc biểu lộ cơn giận dữ và đương đầu với hậu quả của nó, hoặc nhấn chìm nó sâu hơn trong tâm hồn ta với hy vọng rằng như thế nó sẽ không gây hại gì cho ta hay bất cứ ai khác. Nhưng nếu ta chọn cách nhấm chìm cơn giận dữ, chúng ta cũng sẽ nhấn chìm cả khả năng yêu thương của mình, vì tình yêu và cơn giận chỉ là hai mặt của một đồng xu. Chúng không phải là hai thực thể tách biệt, một cái tốt và một cái xấu. Thực tế, chúng là cùng một nguồn sinh lực được thể hiện dưới hai lớp vỏ. Cảm giác bay bổng sung sướng ngập tràn thời ấu thơ và thoáng xuất hiện trở lại khi chúng ta “phải lòng” ai đó cũng chính là cảm giác cuồng nộ khi chúng ta lao vào người bạn đời của mình trong một cuộc cãi cọ chiều cuối tuần. Khi chúng ta cảm thấy vui sướng, đó là vì sức sống của chúng ta được nổ bùng. Khi chúng ta cảm thấy giận dữ, đó là vì sức sống của chúng ta bị ngăn chặn. Chúng ta giận dữ vì những triển vọng của cuộc sống bị chối bỏ. Ý tưởng của sự kiềm chế Cơn giận dữ là một biểu hiện sinh động của năng lượng sống là điều hiển nhiên. Khi kìm nén sự giận dữ, chúng ta trở nên mệt mỏi, thất vọng, hay lặng lẽ âm thầm. Mặt khác, nếu thả lỏng cơn giận dữ, chúng ta sẽ gây tổn thương cảm xúc hay thể xác cho những người khác. Làm sao chúng ta có thể giải thoát cơn giận dữ mà không làm tổn thương những người ta yêu? Câu trả lời là: một quá trình kiềm chế. Để hiểu được ý nghĩa của từ “kiềm chế” chúng ta hãy lấy ví dụ về sức công phá mạnh mẽ của xăng. Hãy đổ một ít xăng lên sàn và ném một que diêm cháy dở lên đó. Ngay lập tức, một ngọn lửa điên cuồng bùng lên. Bây giờ cùng một thứ xăng ấy được đổ vào một động cơ đốt trong với liều lượng vừa đủ. Một tia lửa điện lóe lên đúng lúc, và động cơ bừng sống. Năng lượng đó có thể dùng để chạy xe hơi, hay máy bay. Qua “quá trình kiềm chế”, một chất đốt có sức phá hủy tiềm tàng đã được biến thành một dạng năng lượng sử dụng được. Bạn cần có một quá trình tương tự với những cơn cuồng nộ trước đây. Sự giận dữ của chúng ta cần được giải tỏa với từng liều lượng vừa phải, đốt cháy trong một môi trường an toàn, và biến đổi trở lại thành eros, dạng năng lượng nguyên thủy của đời sống. Các bài tập được tạo ra để làm nhẹ bớt cơn giận dữ là tương đối mới mẻ trong lĩnh vực điều trị tâm lý. Trước đây, một nhà phân tích tâm lý thường xoa dịu cơn giận dữ và sợ hãi bằng cách làm cho thân chủ nhận thức được chúng. Thân chủ được khuyến khích liên tưởng tự do và nói ra bất cứ điều gì chợt đến trong đầu. Nhà phân tích tâm lý dùng những lời bình luận dẫn giải được sắp xếp sẵn để trả lời trong lúc thân chủ đang thai nghén các ý tưởng, để nối kết những ý tưởng có vẻ rời rạc. Kết quả lý tưởng sẽ là khi những nhận xét được chọn thời điểm cẩn thận này đem lại cho thân chủ sự nhận thức nội tâm. Nếu thân chủ cảm thấy khổ sở trong khi diễn tả lại cơn giận dữ, hoặc sống lại một sự kiện đau lòng nào đó, bác sĩ tâm lý cũng vẫn đáp ứng theo cùng một cách thức được kiểm soát kỹ như vậy. Không có một cố gắng nào về phía nhà phân tích tâm lý để gợi mở một đáp ứng cảm xúc lớn hơn hay nhẹ hơn. Một bác sĩ tâm lý trường phái Gestalt sẽ đáp ứng trực tiếp hơn. Ông ta sẽ lợi dụng ngay cơ hội thể hiện sự giận dữ của thân chủ để áp dụng phương pháp gọi là “Đối thoại hai chiếc ghế”. Thân chủ được yêu cầu ngồi đối diện một chiếc ghế trống và tưởng tượng ra người gây ra cơn giận dữ hay sự đau buồn của mình đang ngồi trên chiếc ghế đó. Thân chủ được khuyến khích cường điệu cơn giận dữ hoặc phá vỡ cảm giác bị tổn thương để thể hiện sự giận dữ bằng cách ném một chiếc gối hoặc vung một cây gậy về phía kẻ vô hình kia. Bằng phương pháp gợi ý này, những ý tưởng giận dữ hay buồn phiền của thân chủ được biến đổi thành một tâm trạng phấn chấn về cảm xúc và thể chất, và hướng về một mục tiêu chủ yếu. Về lý thuyết, phải có sự giảm sút rõ rệt, “những mối bận tâm chưa được giải quyết” của thân chủ. Một bác sĩ tâm lý theo trường phái “Kịch tâm lý” sử dụng một đường lối hơi khác. Người điều trị tâm lý giống như đạo diễn của một vở kịch, chỉ dẫn cho thân chủ phân vai cho một dàn diễn viên. Thân chủ đóng vai nhân vật chính, rồi lại đóng vai cha mẹ, anh chị em, bạn bè hoặc thủ trưởng cơ quan của nhân vật chính, rồi trở lại vai nhân vật chính của mình để đối đáp với những nhân vật tưởng tượng kia. Kỹ thuật này cũng đem lại sự giải tỏa cảm xúc và nhận thức nội tâm như phương pháp trên. Dây chuyền kiềm chế “Dây chuyền ứng xử kiềm chế” là một bài tập giúp kiềm chế sự giận dữ mà tôi đã sửa đổi để phù hợp với một cặp vợ chồng. Mục đích của nó là cho phép bạn thể hiện cảm giác giận dữ mà người bạn đời của bạn không chống đối lại nó, vô hiệu hóa nó hay chối bỏ nó. Thay vì cãi cọ về nguyên nhân của sự giận dữ, người bạn đời của bạn sẽ được rèn luyện để nhận thức sự tồn tại của nó: “Đúng, em thấy rằng anh đang rất giận dữ”. Khi người bạn đời của bạn chăm chú lắng nghe, giải thích rõ các nhận xét của bạn, và nhận thức sự tồn tại những cảm xúc mạnh mẽ đó, nhu cầu được quan tâm của bạn sẽ được thỏa mãn và cơn giận dữ sẽ tan biến. Bài tập này không phải nhằm loại trừ nguyên nhân của cơn giận dữ – điều này sẽ được thực hiện sau đó bằng cách đề nghị một thay đổi đặc biệt trong hành vi ứng xử. Bài tập này chỉ nhằm khẳng định thực tế tồn tại của các cảm xúc của bạn. Khi người bạn đời của bạn trở nên giận dữ và đến lượt bạn là người phải kiềm chế, bạn cũng có lợi trong việc thực hiện bài tập này, vì bạn sẽ học được cách ngăn chặn phản ứng phòng thủ của mình. Nhận thức sự giận dữ của người bạn đời không có nghĩa là bạn đồng tình hay chấp nhận những lời buộc tội của người ấy. Bạn chỉ hiểu rằng người đó đang giận dữ, khẳng định tâm trạng xúc cảm của người đó. Điều thiết yếu là bài tập này ở trình độ hoàn chỉnh của bài tập “Soi gương” (mô tả ở chương 9), do đó bạn không nên thử nếu các bài tập trước chưa nhuần nhuyễn. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai bài tập là trong bài tập Dây chuyền kiềm chế, người đưa ra thông tin có những cảm xúc mạnh hơn. Cường độ cao này đòi hỏi ba nguyên tắc cơ bản: 1. Không bên nào được rời khỏi phòng cho đến khi bài tập hoàn tất. 2. Không bên nào được phá hủy đồ đạc hay đụng chạm vào người kia với tính cách thù địch. 3. Người đang giận dữ chỉ được giới hạn những nhận xét của mình trong sự mô tả các hành vi ứng xử, chứ không mô tả tính cách của người kia. Nói cách khác, người đang giận dữ chỉ được nói: “Em rất giận vì anh không về nhà đêm hôm qua”, chứ không được nói: “Một con người đê tiện như anh mới đi suốt đêm không về nhà” (Xem chỉ dẫn chi tiết ở Phần Ba). Một biến thể của bài tập này mà tôi áp dụng cho một số thân chủ của tôi là bài tập “Thực hành kiềm chế”. Điều cơ bản là: Bài tập “Thực hành kiềm chế” chính là bài tập Dây chuyền ứng xử kiềm chế được kéo dài trong 24 tiếng đồng hồ. Trong một ngày, một người đóng vai người kiềm chế và người kia được quyền phát biểu bất kỳ hoặc tất cả những thất vọng của mình. Người kiềm chế phải lắng nghe, diễn giải, duy trì và ủng hộ sự phát biểu đó, mà không chỉ trích, ngăn cản, thủ thế với những nỗi thất vọng của riêng mình. Khi đến lượt bạn bày tỏ sự thất vọng, bạn sẽ có cơ hội làm quen tốt hơn với chiều sâu của những cảm xúc của mình. Một số cảm xúc trỗi lên mặc dù chúng chưa bao giờ xuất hiện trước đấy vì chưa có đủ độ an toàn. Nói theo một nghĩa nào đó, bài tập này cho phép chúng ta trở lại làm một đứa trẻ, nhưng lần này là với một bậc phụ huynh biết tôn trọng và hỗ trợ… Sự thoái lui về thời thơ ấu trong môi trường an toàn và đầy yêu thương này có tác dụng chữa trị rất hiệu quả. Khi bạn lại đóng vai người kiềm chế, bạn sẽ học trở nên thành thạo hơn trong ứng xử không-phản-ứng. Bạn sẽ học được rằng cơn giận dữ của người bạn đời sẽ không làm hại bạn. Bạn sẽ bắt đầu diễn đạt cảm xúc của mình đầy đủ hơn, vì mỗi người đều đã bớt nhạy cảm trước sự giận dữ. Cuối cùng bạn sẽ phát triển một cảm nhận rõ ràng hơn về những giới hạn không được vượt qua, hiểu rằng bạn không cần bị lôi cuốn vào tâm trạng cảm xúc của người bạn đời. Xét lại Xung đột lõi Một kỹ thuật mà tôi thường áp dụng với những cặp trải qua nhiều lần cùng một sự thất vọng được gọi là “Xét lại xung đột lõi”. Bài tập này nhằm làm giảm cường độ và mật độ của những xung đột, đối đầu, những trận ẩu đả và cãi cọ đau đớn như tôi đã kể trong trường hợp của Stephen và Olivia, hay Frank và Elizabeth ở đầu chương, những va chạm có tính chất tàn phá đối với khí hậu của cuộc hôn nhân. Những xung đột “lõi” – xảy ra khi sự thích ứng tuổi thơ của người này đối chọi với sự thích ứng tuổi thơ người kia, khiến cho cuộc va chạm gây đau đớn gấp bội. Một xung đột điển hình kết thúc không lối thoát với cả hai người trong cảm giác đau đớn sâu sắc, ta gọi là xung đột “lõi”. Deborah và Jack thường có những cuộc cãi cọ đến ba giờ sáng. Nó không hung hăng, bùng nổ, mà gây mỏi mệt, kiệt quệ và lặp đi lặp lại, không có giải pháp nào, kéo theo nhiều ngày buồn phiền sau đó. Khi đã qua 4 hoặc 5 bản sao của cùng một cuộc xung đột “lõi”, Jack và Deborah đã thấy rằng mọi cuộc va chạm của họ đều có nhiều điểm chung. Ban đầu họ còn thấy ngộ nghĩnh khi rút ra một mẫu số chung cho những cuộc cãi cọ của mình, nhưng rồi cảm giác buồn rầu bắt đầu len vào. Jack nói: “Tôi chẳng thấy hay ho chút nào. Tại sao chúng tôi cứ lặp đi lặp lại cái vòng luẩn quẩn đó?”. Xung đột “lõi” của họ như thế này: Jack đi làm về lúc 5 giờ chiều, gặp ngay Deborah đang chờ để yêu cầu anh làm một số việc nhà. Jack đồng ý, nhưng anh khất lần mãi suốt buổi tối. Và anh càng lần lữa, Deborah càng cằn nhằn đòi hỏi. Jack tiếp tục làm ngơ để chăm chú vào những trò giải trí riêng cho đến khi Deborah nổi cơn điên và la hét đầy kích động. Khi không thể bình yên được nữa, anh đứng lên bỏ đi khỏi nhà. Cảnh cuối cùng là khi Jack say xỉn về nhà rất muộn, và Deborah lại vào tấn công với những lời chỉ trích nặng nề trong khi Jack cố gắng xoa dịu hoặc tảng lờ. Cuối cùng, đã mệt rũ với vở bi kịch đó, họ quay lưng lại với nhau trong nỗi thất vọng. Nếu tìm kiếm mẫu người như Deborah và Jack trong bất cứ cuốn giáo khoa tâm lý học nào, bạn sẽ thấy Jack được mô tả là “gây hấn-thụ động”. Anh ta tức giận vì Deborah xâm phạm quá nhiều vào cõi riêng tư của anh ta, nhưng lại sợ thể hiện trực tiếp cơn giận đó. Thay vì như vậy, anh ta trốn tránh, lợi dụng vô số lối thoát. Deborah lại được gọi là mẫu người “gây hấn-hiếu chiến”. Cô xông thẳng tới phía trước bằng những đòi hỏi và sự giận dữ. Yếu tố cơ bản nhất trong xung đột của họ là Deborah càng tấn công, Jack càng rút lui, Deborah càng cảm thấy bị bỏ rơi. Cơn giận của cô trước tính thụ động của Jack thực ra là nỗi hoảng hốt trá hình. Cô kinh sợ trước viễn cảnh bị bỏ rơi ở nhà một mình, và sự trơ lì của Jack khiến cô cảm thấy như thể đang giao tiếp với một người không tồn tại, một bóng ma ảo mờ không có thật. Tôi giải thích cho Jack và Deborah rằng, để giải thoát khỏi ngõ cụt, họ phải viết lại vở kịch xung đột của họ, từng lời một, trên giấy trắng mực đen, để khi màn hạ, họ sẽ ôm hôn nhau thay vì ẩu đả nhau. Họ sẽ phải đọc đi đọc lại kịch bản tưởng tượng đó đến khi cảm thấy quen thuộc với nó y như kịch bản thực tế đáng buồn kia. Chỉ cần nhận ra khi nào họ bắt đầu đi vào cái vòng luẩn quẩn xung đột cũng đã là một tiến bộ đáng kể. Khi đó, bất cứ thay đổi nào cũng có ích, để họ không tái diễn vai tuồng cũ một lần nữa. Deborah có thể bớt hung hăng hơn, tôn trọng yêu cầu “được yên thân” của Jack, không đòi hỏi thêm sau một vài lần nhắc nhở. Phản ứng rút lui của Jack cũng không cần thiết nữa. Anh có thể uống ít rượu hơn, hoặc không bỏ nhà đi, và cuối cùng sẽ hợp tác. Mặt khác, Jack có thể thay đổi thành một con người mạnh mẽ hơn. Nếu không muốn làm, anh có thể nói: “Không. Anh bận những công việc khác”. Deborah có thể bị bất ngờ lúc đầu, nhưng nếu Jack khăng khăng như vậy, cuối cùng cô sẽ thấy nhẹ nhõm. Thực ra cô không cần sự phục tùng của anh, cô chỉ cần một người chồng mạnh mẽ, có nghị lực. Việc xác định một xung đột “lõi”, sau đó là những dị bản, là một phương thức hiệu quả. Khi một cặp vợ chồng có thể khách quan hóa những xung đột giữa họ, định dạng các yếu tố “lõi” và sáng tạo những lựa chọn mềm dẻo, họ có thể nắm được khả năng kiểm soát một trong những sức mạnh tàn phá tiềm tàng nhất cuộc hôn nhân của họ. Mặc dù không phải bài tập này cũng như bài tập “Dây chuyền kiềm chế” được tạo ra để lần đến cội rễ những vấn đề rắc rối của một cặp vợ chồng – có lẽ bài tập “Giải tỏa” ở chương trước có tác dụng hơn – nhưng cả hai bài tập này đều có thể làm giảm bớt tác động tàn phá của cơn giận dữ. Kiềm chế hoàn toàn Bài tập cuối cùng mà tôi muốn mô tả, bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” này sẽ giúp bạn tiếp xúc với cơn giận của mình và nối kết nó với những nguồn gốc thời thơ ấu của nó. Bài tập này có tác dụng tốt với những người kìm nén cơn giận cũng như với những người biểu lộ cơn giận công khai. Tôi phải lưu ý rằng, bài tập này, không như những bài tập khác, yêu cầu sự theo dõi trực tiếp của bác sĩ tâm lý. Bạn cũng không thấy nó ở Phần Ba của cuốn sách. Tôi sẽ mô tả nó bằng một ngôn ngữ phổ thông vì dù sao, điều đó cũng giúp bạn hiểu biết rõ ràng hơn về vai trò của cơn giận dữ trong cuộc hôn nhân . Bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” đặt cơ sở trên bài tập “Hai chiếc ghế” của trường phái Gelstalt mà tôi đã mô tả ở trên. Một khác biệt quan trọng là bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” có hai diễn viên, chứ không phải một người và một chiếc ghế trống. Tôi hướng dẫn người chồng hoặc người vợ vừa trải qua một cơn giận dữ hoặc một cảm xúc đau khổ do tác dụng tàn phá của cơn giận, bắt đầu bài tập bằng cách tìm kiếm sự kiện “khởi động” cơn giận, sự kiện đã kích động bất ngờ những cảm xúc mạnh mẽ. Tôi giúp người đó “leo thang” cảm xúc và nối kết chúng với những kinh nghiệm tuổi thơ – những kinh nghiệm đã mang lại tiềm năng cho chúng. Việc tạo ra “kênh” tiếp xúc với những xúc động nguyên thủy đó sẽ giúp thân chủ của tôi trở nên toàn vẹn hơn, thống nhất và nối kết hơn với nguồn năng lượng cốt tủy của đời sống. Người chống đỡ cơn giận, mặt khác, có vai trò quan trọng trong vở kịch, sẽ khuyến khích người kia đào sâu hơn nữa vào nỗi đau khổ và sự giận dữ. Thay vì “chào thua” tâm thức cũ để rồi trả đũa hoặc chạy trốn, người chống đỡ được khuyến khích để níu giữ những xúc cảm mạnh mẽ của người bạn đời. Thay vì nói: “Thôi đủ rồi, tôi không muốn nghe thêm một lời khó chịu nào nữa!”, người chống đỡ sẽ nói: “Em cứ nói tiếp đi. Anh muốn biết tất cả những cảm xúc của em”, và như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơn giận “leo thang”. Để làm điều này, người chống đỡ phải có một số lá chắn bảo vệ. Tôi yêu cầu người chống đỡ thư giãn, hít vài hơi thở sâu, vào vai một bậc cha mẹ hùng mạnh và khoan dung. Tiếp tục bài tập, khi người bộc lộ cơn giận đã chuyển hóa thành công cơn giận vào những cảm xúc đau khổ, tôi yêu cầu người chống đỡ hỗ trợ và an ủi người bộc lộ như thể an ủi một đứa trẻ nhỏ bị thương tổn tình cảm. Bằng sự hỗ trợ nhằm gọi tên cơn giận dữ, dung chứa nó và sau đó là hồi sinh nỗi đau khổ ẩn chứa trong nó, người chống đỡ đã góp phần quan trọng chữa trị tâm lý người bạn đời. Có một số bước thực hành để bài tập này phức tạp hơn, nhưng dù là để giảm thiểu hết mức các cơ hội “khởi động” cơn giận từ một hành vi nào đó hay là để loại trừ các xung đột tương lai, bài tập này cuối cùng cũng kết thúc trong một cảm xúc khoan dung và yêu thương. Việc “kiềm chế hoàn toàn” cơn giận sẽ tăng cường mối ràng buộc cảm xúc giữa hai cá thể trong quan hệ hôn nhân. Những trang tiếp theo sẽ thuật lại quá trình thực hành bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” của Marla và Peter, cặp vợ chồng mà tôi đã có dịp kể đầu chương này, cặp vợ chồng sống trong một thế giới êm đềm giả tạo. Nếu bạn nhớ lại, khi Peter và Marla có xung đột, họ đã thỏa thuận cắt đứt nhanh chóng cuộc khủng hoảng để gìn giữ sự yên tĩnh trong mối quan hệ hôn nhân. Sự cố bất ngờ mà Marla đưa ra trong đợt chữa trị đã đặt cơ sở cho bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” được thực hành như một ví dụ điển hình. Không có những lời lẽ giận dữ. Không có những cái tát. Nhưng hố sâu ngăn cách giữa họ cũng tương tự. Để bắt đầu bài tập, tôi yêu cầu Marla thuật lại tóm tắt nhưng chính xác điều gì đã xảy ra. Bài tập kiềm chế hoàn toàn của Marla và Peter Marla: ( nói nhỏ nhẹ, không có một dấu vết giận dữ nào) Tôi nằm trên giường, cố gắng kể lại một giấc mơ quan trọng của tôi cho Peter nghe, một giấc mơ có tác động lớn đến tôi. Khi tôi kể điều đó, tôi như trải nghiệm lại giấc mơ và rất xúc cảm. Bất ngờ, tôi nhận ra là Peter chỉ giả vờ lắng nghe tôi. Anh ấy ậm ừ. Tôi cảm thấy đau đớn vì anh ấy không quan tâm đến tôi, tôi quay mặt đi và khóc. Tôi trăn trở với giấc mơ rất nhiều, còn anh ấy chẳng hề chú ý gì đến điều đó. Bác sĩ: OK, Marla. Tôi muốn cô nói với Peter, trực tiếp và đơn giản, điều mà cô vừa nói. Marla: (Quay lại phía Peter và nói tiếp với 1 chút xúc động). Em cảm thấy đau đớn vì khi em kể về giấc mơ mới mà em cảm thấy thực sự quan trọng đối với em, anh lại không muốn nghe. Bác sĩ: Tốt. Nào, Peter, bây giờ tôi muốn anh thực hành bài tập “Soi gương” với Marla để cô ấy biết là anh đã nghe rõ lời cô ấy. (Cả hai đều đã có kỹ năng thực hành bài tập “Soi gương”) Peter: Em đang cố gắng trải nghiệm lại và kể lại giấc mơ mà em vừa có, giấc mơ rất quan trọng đối với em, anh lại không lắng nghe em. Marla: Vâng, đúng như vậy. Bây giờ họ đã xác định và đồng ý về sự kiện khởi động, đây là thời điểm Peter dựng lên một hàng rào bảo vệ quanh mình, như vậy Marla có thể bộc lộ cơn giận của cô mà không làm tổn thương anh. Bác sĩ: Peter, anh đặt ly cà phê xuống và làm một điều gì đó mà anh muốn để thư giãn và tự vệ. Anh có thể hít một vài hơi thở sâu, nó sẽ giúp anh thư giãn. Bây giờ hãy hình dung rằng anh đã ở vào một vị trí an toàn, một vị trí mà anh muốn tạo dựng. Anh có thể giả định mình đội mũ bảo hộ, chiếc áo mưa chống bão, hoặc ẩn nấp trong một lô cốt an toàn ở đâu đó. Lúc nào đã sẵn sàng, hãy bảo tôi.. Peter thư giãn vài phút. Anh thở sâu, ngồi vào ghế bành, nhắm nghiền hai mắt, tay ruỗi thoải mái trên đùi, lòng bàn tay ngửa lên. Peter: OK. Tôi sẵn sàng rồi. Bác sĩ: Tốt. Bây giờ hãy nói với Marla là anh sẵn sàng mời gọi những xúc cảm của cô ấy. Peter: Anh sẵn sàng nghe bất cứ điều gì em nói. Bác sĩ: Marla, tôi muốn cô bắt đầu với những gì mà cô đang nghĩ tới, cảm thấy và muốn lưu lại cùng những xúc cảm. Điều cô muốn làm là đưa những xúc cảm của cô lên cao trào, xuyên qua nỗi buồn và sự thất vọng để đi đến nỗi đau khổ của cô. Marla: (Nói với giọng thật nhỏ nhẹ). Tôi cảm thấy hoang mang thực sự khi những xúc cảm ấy tràn ngập trong tôi. Bác sĩ: Cô cảm thấy mình sẽ bộc lộ những xúc cảm ấy. Phản ứng của cô là… Marla: Tôi cảm thấy điều đó không công bằng với Peter. Thật không công bằng khi đổ lỗi cho Peter. Không phải lỗi của anh ấy. Peter: Anh muốn em tiếp tục đi tới. Marla. Đừng lo ngại gì cho anh. Anh đã chuẩn bị rồi. Anh muốn nghe tất cả các cảm xúc của em. Marla: Em biết (cô cười thoải mái). Em xin lỗi nếu như em không làm được điều đó. Bác sĩ: Khoan đã. Cô có thể gợi lại cảm xúc và từ đó dẫn đến sự kiện. Cô hãy cảm nhận những xúc cảm của mình qua sự kiện cô vừa kể. Marla: (thở dài) Tôi đang nói với Peter về giấc mơ. (Cô do dự một lát) Điều mà tôi muốn làm ngay lúc này là né tránh việc kể lại giấc mơ đó, vì tôi nghĩ như thế sẽ dễ dàng hơn. Peter: Anh lại muốn nghe điều đó. Anh muốn nghe tất cả mọi thứ về giấc mơ của em và em cảm thấy thế nào về nó. Marla: (Thở sâu 4-5 lần và bắt đầu lại) Giấc mơ này là về một người phụ nữ hấp dẫn. Nó thực sự tác động đến em. Nó tác động, nhưng nó là một giấc mơ lớn, một giấc mơ tích cực. Em có cảm tình với người phụ nữ này. Cô ta rất hấp dẫn (ngừng một lúc lâu). Giấc mơ của em thật đẹp và bình an. Và em cảm thấy sự hồi sinh của những xúc cảm mà em đã kể cho anh nghe. Trong mơ, em thấy mình giống hệt cô ta và anh chấp nhận cô ta. (cô bắt đầu khóc). Và khi em kể với anh… em cảm thấy lúng túng khi kể chuyện đó…(thổn thức) và em muốn anh chấp nhận em như anh đã chấp nhận em trong mơ. Và em không thích việc anh không hề lắng nghe em nói. Bác sĩ: Nhắc lại nào – “Em không thích điều đó”’. Marla: (Im lặng) Em không thích điều đó (khóc). Bác sĩ: Hãy lưu lại các xúc cảm ấy. Hãy nhận thức những nỗi thất vọng và biểu lộ chúng. Marla: (Thở dài) Trời ơi! Nó giống như một bức tường lớn ngăn trở cơn giận dữ của tôi. Bác sĩ: Tôi muốn cô tìm kiếm sự đề kháng ở Peter và ở bản thân cô. Hãy nói với anh ấy: “Em muốn kể với anh về những cảm xúc giận dữ của em”. Marla: (Nói rành rọt) Em muốn kể với anh về những cảm xúc giận dữ của em. Bác sĩ: Cứ thế. Nói lớn hơn chút nữa. Marla: (Kêu lớn) Em muốn kể với anh về những cảm xúc giận dữ của em (cô bắt đầu khóc). Anh chẳng bao giờ nghe em cả (khóc). Bác sĩ: Nói lại với Peter: “Anh chẳng bao giờ nghe em”. Marla: ( Nói với Peter rất nhẹ nhàng, cố gắng kiềm giữ cơn giận dữ và đưa những xúc cảm đau đớn của cô vào vị thế an toàn). Em muốn anh nghe em. Em muốn anh nghe em khi em thực sự là em và không cố ra vẻ hoàn hảo hay cố trở thành một người nào khác khiến anh thất vọng. Bác sĩ: Hãy nói: “Em cảm thấy đau đớn khi anh không nghe em”. Marla: (Im lặng) Em cảm thấy đau đớn khi anh không nghe em. (khóc). Em sợ hãi khi có cảm giác giận dữ với anh (xuất hiện bằng chứng đầu tiên của nỗi đam mê trong giọng nói của cô). Bác sĩ: Hãy lưu lại cảm xúc ấy. Marla: (Thở dài) Trời ơi! Bác sĩ: Hãy hoàn tất câu này: “Nếu em giận dữ…”. Marla: (Thổn thức) Nếu em giận dữ với anh…anh sẽ ghét em! Bác sĩ: Tốt! Tiếp tục! Marla: (Mạnh mẽ hơn) Và em sợ rằng anh sẽ nghĩ là em thật ngu ngốc. Rồi anh nổi khùng lên. Bác sĩ: Nói tất cả đi. Nói với nỗi sợ hãi. Marla: (Nói lớn) Tôi không cảm thấy như vậy! Tôi biết là tôi có thể giận dữ. Tôi biết tôi có quyền như vậy. Đó chỉ là… Bác sĩ: Nói lại câu đó: “Tôi có quyền giận dữ”. (Tôi muốn cô trải nghiệm nỗi sợ hãi ở điểm này). Marla : Tôi có quyền giận dữ! (lớn hơn). Tôi có quyền giận dữ! Bác sĩ : Nói lớn hơn nữa! Marla: (Nhổm dậy khỏi ghế, nắm chặt hai bàn tay ở hai bên sườn). Tôi có quyền giận dữ! (Ngồi xuống và òa khóc. Rồi bất ngờ, cô nói với giọng sợ hãi). Ôi, Chúa ơi! Bác sĩ: Còn điều gì trong lòng mà cô muốn nói ra không? Marla: (Im lặng và thốt ra với vẻ ngạc nhiên) Ồ, ông ấy… Bác sĩ: Cô thấy ai vậy ? Marla: (Với giọng cam chịu, nhẫn nhục) Cha tôi…Ồ (thở dài). Tôi có quyền giận dữ. Bác sĩ: Tôi không nghe thấy cô nói gì. Marla: (Giọng trở lại bình thường). Tôi có quyền được người khác lắng nghe. Tôi có quyền được người khác quan tâm. (khóc). Bác sĩ: Đúng. Cô nói điều đó đi nào. Marla: (Nói sôi nổi) Tôi có quyền được là mình! Tôi không cố gắng để trở thành người khác vì tôi không thể… Bác sĩ: Nói hết đi. Cô có quyền có các cảm xúc của cô. Marla: Trời ơi ( ngừng một lúc lâu) Ồ ! (thở dài) Tôi chỉ… Bác sĩ: Hãy gặp lại cha cô và nói: “Cha không bao giờ nghe con”. Marla: Ôi, cha tôi, không thể thế được! (cười) Bác sĩ: Thử xem sao! Marla: (Khóc) Tôi cô đơn quá! Bác sĩ: Và khi tôi cô đơn… Marla: Chẳng có ai quan tâm đến tôi. Bác sĩ: Và rồi… Marla: Và rồi… tôi sẽ chết. (Nói như xưng tội). Đó là lý do tôi sợ thấy mình giận dữ. Bác sĩ: Hãy nói câu này: “Nếu tôi là mình, tôi sẽ chết”. Marla: (Vô cảm) Nếu tôi là mình, tôi sẽ chết. Bác sĩ : Cô cảm nhận điều đó như thế nào? Marla : Tôi không rõ. Bác sĩ: Cô hãy thử nói ngược lại: “Nếu tôi không là mình, tôi sẽ chết”. Marla: Nếu tôi không là mình, tôi sẽ chết. Bác sĩ: Có thực thế không? Marla: Tôi nghĩ vậy. Dường như có một phần là tôi, một phần không phải là tôi, đang sống. Khi thì tôi là con người toàn vẹn, khi thì lại khác… Bác sĩ: Hãy nhắc lại: “ Nếu tôi là mình, tôi sẽ chết”. Marla: (Miễn cưỡng) Nếu tôi là mình, tôi sẽ chết. Bác sĩ: Điều đó có thực không? Marla: Không, không phải như vậy. Bác sĩ: Nhắc lại câu ấy! Marla: Điều đó không đúng! Không! Không! Không! KHÔNG!… Bác sĩ: Hãy giữ lại. Vậy sự thật là gì? Marla: Là tôi xứng đáng được yêu thương! Bác sĩ: Đúng. Nói lại đi nào! Marla: (Khóc như mưa. Thở một hơi dài) Tôi chính là mình. Tôi xứng đáng được yêu thương. Tôi xứng đáng được sống. (Cô bất chợt thôi khóc và nói với giọng căng thẳng). Tôi luôn thấy cha tôi trong tâm tưởng của tôi. Ông ấy nói rằng tôi không xứng đáng được yêu thương. Bác sĩ: Cô hãy nói chuyện với cha cô! Marla: Con xứng đáng được yêu thương mà, cha! Bác sĩ: Hãy nói mạnh mẽ hơn! Marla: Con xứng đáng! Bác sĩ: Xứng đáng với cái gì? Marla: (Thở dài) Xứng đáng được yêu thương. Bác sĩ: Cô là cái gì? Marla: (Im lặng) Tôi là tôi! Bác sĩ: Lớn hơn nào! Marla: TÔI LÀ TÔI! Bác sĩ: Lớn hơn nữa! Hãy làm cho ông ấy nghe cô. Để ông ấy nghe thấy điều đó. Hãy xóa bỏ tiếng nói của ông ấy trong đầu cô! Marla: TÔI LÀ TÔI! TÔI LÀ TÔI! TÔI LÀ TÔI! Bác sĩ: Tốt. Hãy nói câu này: “Tôi là tôi và tôi sống!”. Marla: Tôi là tôi và tôi sống! Tôi là tôi và tôi sống! Bác sĩ: Sâu hơn nữa và cao hơn nữa! Marla: TÔI LÀ TÔI VÀ TÔI SỐNG! Bác sĩ: Cô sẽ tồn tại chứ? Marla: Vâng (cô gục đầu vào 2 bàn tay và khóc). Bác sĩ: Điều cô đang làm rất lớn lao. Tôi muốn cô cũng làm một vài điều như thế nữa.Tôi muốn cô gặp cha cô và nói với ông ấy rằng ông ấy không thể giết chết cô, rằng cô sẽ tồn tại, không có vấn đề gì cả. Marla: (Ngừng 1 lát. Thở dài) Cha không thể giết chết con! Bác sĩ: Nói lại câu ấy mạnh mẽ hơn. Marla: (Kêu lớn) CHA KHÔNG THỂ GIẾT CHẾT CON! (Cười) Tuyệt! (Lại cười và thoát khỏi tâm trạng căng thẳng). Thật nhẹ người khi nói được điều đó với ông ấy! Thậm chí tôi cũng không biết rằng tôi tức giận cha tôi đến thế nào! Hoặc là khiếp sợ ông ấy đến mức nào! Bác sĩ: Bây giờ cô hãy quay sang Peter và nói: “Em không giận dữ và vẫn tiếp tục sống”. Marla: (Im lặng và tự tin) Em không giận dữ và tiếp tục sống. Bác sĩ: Bây giờ nói: “Em không giận anh nữa”. Marla: (Cười) Ông làm thế để tôi chứng tỏ rằng tôi có thể giận anh ấy? Ồ, không đâu! (Cười và nói vui vẻ) Peter, em giận anh đấy. Khi anh không nghe em nói, em rất giận anh. Bác sĩ: Hãy để anh ấy thấy cơn giận của cô. Đừng cười. Marla: (Với giọng mạnh mẽ). Em rất giận anh. Em muốn anh lắng nghe em. Em rất giận anh. Em muốn anh lắng nghe em. Em muốn anh nghe chính con người em… (Quay sang tôi) Hay lắm! Thật là hay khi cảm thấy thế này! Quả là một điều lớn lao! Bác sĩ: Hãy nói với anh ấy: “Em sẽ biểu lộ cơn giận của em đối với anh khi nào nào em muốn”. Marla: Em sẽ biểu lộ cơn giận của em đối với anh. Em có thể làm điều đó. Em xứng đáng được như vậy (cười). Điều đó chứng tỏ em yêu anh biết bao. Ở cuối đợt chữa trị, tôi giải thích cho Marla rằng sẽ còn không ít những cuộc đối đầu loại này cho tới khi nỗi sợ hãi và cơn giận dữ mất hẳn. Bộ não có xu hướng đưa ra bản thông điệp quen thuộc của nó trong thời gian đầu đời, và không đếm xỉa đến những dữ kiện bổ sung sau này. Đặc biệt trong những giai đoạn căng thẳng sẽ rất thích hợp để cô trở lại cung cách ứng xử cũ của cô – đối với Peter. Cô có thể khóc vì đau khổ và thất vọng còn hơn là tìm lối thoát khỏi sự dày vò của cơn giận bị che giấu. Nhưng sau khoảng 10-15 bài tập về chủ đề này, cô đã có thể nhận thức trọn vẹn sự thật, khiến cô có được tất cả các xúc cảm cũng như đời sống của mình. Một trong những lý do khiến tôi muốn chi sẻ với các bạn đoạn mô tả trên đây là: nó thể hiện những tầng xúc cảm phức tạp là điều khá phổ biến đối với tất cả chúng ta. Cũng như nhiều người khác, phản ứng đầu tiên của Marla là nỗi buồn. Cô buồn vì Peter không chịu lắng nghe cô kể lại giấc mơ của cô, giấc mơ mà cô cảm thấy rất quan trọng đã tác động mạnh mẽ đến cô. Thật dễ cho cô nếu cảm thấy buồn, bởi vì đó là cảm xúc mà người nuôi dưỡng cô cho phép cô có. Không có lời khuyến cáo của tôi, cô có thể sa lầy trong những cảm xúc quen thuộc và “thuận tiện” ấy mà không khi nào chứng nghiệm những cảm xúc xa xưa hơn về cha cô, những cảm xúc tiềm ẩn bên dưới tất cả. Phản ứng tự nhiên của cô sẽ là để nỗi buồn chuyển hóa thành sự rút lui và nỗi oán giận mòn mỏi. Tuy nhiên, bằng cách cường điệu tình cảm của mình, Marla đã có thể phá bỏ được nỗi buồn và nỗi sợ hãi sự nổi giận. Rồi cô đã có thể nổi giận và những cơn giận đó thường qui hướng vào cô chứ không phải người bạn đời. Điều này kéo theo một khám phá quan trọng: Lý do khiến cô không có khả năng nổi giận là vì cô đã nhập tâm mệnh lệnh của cha cô không cho phép cô giận dữ. Khi cô còn là một đứa trẻ, mỗi lần cô giận, cha cô lại làm cô có cảm giác là mình cư xử ngu ngốc hoặc mình giống như một người điên. Vi phạm điều cấm kỵ này có nghĩa là tự dấn mình vào nguy cơ bị bỏ rơi. Và tâm thức cũ của cô lý luận, nếu mình bị bỏ rơi, mình sẽ chết. Nỗi sợ hãi cái chết này còn được khuếch đại lên vì cô sợ rằng nếu cô để lộ cơn giận dữ của mình, cha cô không những sẽ bỏ rơi cô mà có thể còn giết cô nữa. Không có gì lạ rằng với nỗi sợ bị bỏ rơi cộng thêm nỗi sợ bị giết đến cùng cực, cô rất khó có thể nổi giận với Peter, người mà trong vô thức, cô đã lẫn lộn với cha mình. Khi kết thúc bài tập, Marla đã tìm lại được một cảm xúc quan trọng, một phần chính yếu của con người cô đã bị chối bỏ trong một thời gian dài, đó là sự giận dữ. “Thật dễ chịu”, cô nói, rồi cười một cách sảng khoái và đầy sức sống. Tôi và Peter cũng phấn khởi không kém gì Marla, vì chúng tôi biết cô vừa đạt được một chiến thắng rực rỡ về mặt tâm lý: cô đã vượt qua được tiếng nói chuyên chế của cha cô và dù cô vẫn còn sợ hãi, nhưng bóng ma của cha cô đã không hiện lên để giết chết cô. Cô vẫn tồn tại, và cô đạt được sự toàn vẹn; cô không còn phải che giấu cảm xúc của mình để sống còn. Cô kêu vui sướng: “TÔI LÀ TÔI! TÔI LÀ TÔI!” Khi Marla và Peter nói chuyện với nhau về những điều xảy ra lúc kết thúc quá trình chữa trị, Peter thổ lộ: “Cảm giác của anh trong suốt thời gian em tìm lại cảm xúc của chính mình là chuyện này không chỉ quan trọng đối với em, mà đối với cả hai chúng ta. Việc em không thể nổi giận đã làm hỏng sự cân bằng trong mối quan hệ giữa chúng ta. Nó cho phép anh sống thiếu trách nhiệm vì anh biết anh sẽ không phải đương đầu với cơn giận của em. Nếu em có thể thoát ra khỏi vai trò của một vị thánh, anh sẽ hưởng ứng tích cực. Anh rất tôn trọng cơn giận của em”. Nổi giận với Peter và chiếm được tình yêu của anh là cái mà các nhà tâm lý gọi là một “kinh nghiệm sửa chữa cảm xúc” đối với Marla. Cô đã học được một bài học quan trọng, rằng Peter không phải là cha cô. Cô đã nhầm lẫn chồng mình với Hình mẫu của mình. Bây giờ, cô đã hiểu rõ giá trị của một Peter thực thụ. Cô khám phá ra rằng cô có thể nổi giận với anh và không chỉ bị nguy hiểm mà còn chiếm được tình yêu và sự tôn trọng của anh. Ở một mức độ nào đó, cuộc chiến đấu của Marla với sự giận dữ cũng tương tự như cuộc chiến đấu của tất cả chúng ta. Ai cũng đều cố che giấu những cảm xúc mạnh của mình. Một số người che giấu nỗi buồn. Một số khác là nỗi sợ hãi và một số khác nữa là sự giận dữ. Nhưng tất cả đều là che giấu những cảm xúc thật với mọi người xung quanh và với cả chính mình. Trên bề mặt, điều này là do chúng ta sợ bị chê cười, bị phê phán hoặc bị trừng phạt. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, đó là nỗi sợ sẽ phải chết. Cũng như Marla, chúng ta tin rằng mình chỉ được sống thật với một phần của con người mình để có thể tồn tại. Vì thế, chúng ta ẩn sau một cái mặt nạ mà ta hy vọng sẽ đem lại cho ta một sự bảo vệ chắc chắn hơn và an toàn hơn. Qua nhiều năm, tôi đã có cơ hội được chứng kiến hàng trăm người thực hành bài tập “Kiềm chế hoàn toàn” này và trong một khoảnh khắc, họ đã gỡ bỏ mặt nạ. Lúc mới bắt đầu bước vào bài tập này, nhiều người trong số họ có vẻ nông cạn hoặc tự kiêu, hoặc yếu đuối – những tính cách mà trên thực tế là sự thích nghi từ thời thơ ấu trước nỗi đau khổ. Khi họ đã xuyên thủng được lớp vỏ của những tính cách này, họ có thể tìm lại được nỗi đau khổ và sự giận dữ của chính mình. Lúc đó, họ trở nên rất thật và rất đáng yêu. Vẻ giả tạo biến mất và không có ngoại lệ, người bạn đời của họ vẫn yêu họ. Trong các buổi chữa trị cuối tuần, tôi đưa bài tập này ra thực hành trong nhóm. Chỉ đến lúc đó tôi mới làm bùng lên được cơn giận dữ, nỗi sợ hãi hoặc nỗi đau khổ xa xưa của họ. Và những người nào đủ can đảm thổ lộ những cảm xúc này sẽ được tất cả những người khác trong nhóm ủng hộ. Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta muốn cảm nhận được nỗi đau và sự giận dữ đã bị đè nén bấy lâu. Chúng ta muốn cảm nhận được bằng trực giác sự thiếu vắng năng lượng sống và cầu nguyện cho sự phục hồi của nó. Nhưng, khi đã tìm lại được những cảm xúc bị đè nén, chúng ta lại thu mình lại vì sợ hãi. Chúng ta sợ rằng điều ẩn giấu trong chúng ta là một điều đen tối, xấu xí và ngoài vòng kiểm soát. Nhưng một khi ta đã có đủ can đảm vượt qua nỗi sợ này, ta sẽ biết được một điều đáng ngạc nhiên: cái ẩn giấu trong con người ta là năng lượng sống bị khóa kín của riêng ta. Đó là tình yêu; đó là ánh sáng; đó là sự thuần khiết của đời sống và giải thoát cho nguồn năng lượng này là mục tiêu tối hậu của tình yêu. Chương 12: CHÂN DUNG HAI CUỘC HÔN NHÂN Điều gì tạo nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc? Đó là câu hỏi mà mọi người đàn ông và đàn bà đều đặt ra… Tôi cho rằng câu trả lời sẽ được tìm thấy trong sự khám phá lẫn nhau của hai người, trong một cuộc hôn nhân, nhu cầu sâu xa nhất của nhân cách người kia và sự thỏa mãn nhu cầu đó. PEARL BUCK Tôi bắt đầu sự nghiệp trên cương vị một mục sư, chứ không phải một bác sĩ tâm lý. Tôi được giới thiệu vào mục sư đoán từ khi còn rất trẻ. Thời thiếu niên, tôi là một tín đồ của dòng First Baptist ở Statesboro, bang Georgia. Mỗi năm một lần, nhà thờ chúng tôi tài trợ cho một “Ngày Chủ nhật Thanh niên”, một ngày lễ hội đặc biệt dành riêng cho các thanh niên trong giáo xứ. Năm 15 tuổi, tôi được chọn phát biểu bài diễn văn truyền thống của thanh niên. Tôi còn nhớ mình ăn vận chỉnh tề, đứng sau bục giảng kinh, và toát mồ hôi lạnh khiến áo sơ mi dán chặt vào lưng. Tôi nhìn xuống nhà thờ đông nghẹt các thanh thiếu niên và cha mẹ họ, và cuối cùng cũng tìm được cách mở miệng nói. Mặc dù lo lắng như vậy, có lẽ tôi đã thuyết giảng tương đối tốt vì sau đó, một vài người đã đến gần tôi và khen rằng lẽ ra tôi là một nhà thuyết giáo mới phải. Rõ ràng là mục sư của chúng tôi, ông George Lovell, cũng nghĩ như vậy, vì vài tuần sau ông cho gọi tôi lên văn phòng. Ông bảo tôi: “Có một nhà thờ nhỏ dòng Baptist, ở cách thị trấn 20 dặm, ông mục sư vừa mất. Họ gọi cho ta và hỏi ta có biết một ai đó có thể làm lễ giúp họ tạm thời vào các Chủ nhật trong vài tuần tới. Con có thích việc này không?”. Đỏ bừng mặt vì thành công bất ngờ từ bài diễn văn thanh niên, tôi nhận lời ngay. Suốt mấy ngày liền sau đó, tôi nghiên cứu Kinh Thánh với một cảm giác mới đầy trách nhiệm và nghiền ngẫm cuốn sách mà ông Lovell đã cho tôi có tựa đề: Những bài thuyết giáo nổi tiếng, một tuyển tập những bài thuyết giảng của các giáo chủ nổi tiếng. Ngày Chủ nhật kế tiếp, chị và anh rể tôi đưa tôi đến nhà thờ, vì tôi chưa đủ tuổi để được cấp bằng lái xe. Tôi nhớ lại, bức thông điệp mà tôi đã phát biểu từ trong đáy sâu của mọi kinh nghiệm sống riêng tương tự như sau: “Con người là những tạo vật tội lỗi. Chúng ta có một Đức Chúa Trời đầy yêu thương. Để được cứu rỗi, chúng ta phải gặp Ngài. Và chúng ta phải làm điều đó bằng cách cố gắng sống mẫu mực”. Tôi còn nhắc đến cái gọi là “sự tái phạm”, xu hướng đánh mất dần đức tin của những tín đồ vốn rất mộ đạo. Tôi thuyết giảng ở nhà thờ nhỏ đó trong vài tuần và ông Lovell nghe tin rằng tôi đã làm việc rất tốt. Từ đó, ông bắt đầu gọi tôi là “cậu bé mục sư” của ông và trong mấy năm sau đó, bất cứ khi nào một cộng đồng nhỏ cần một mục sư tạm thời, ông lại cử tôi đi. Một lần, tôi được cử tới một nhà thờ nhỏ ở Guyton, Georgia, gọi là Nhà thờ Baptist Cây Thông. Tôi giảng ở đó trong bốn tuần liền. Sau đó, người đứng đầu nhà thờ tổ chức môt cuộc họp và quyết định mời tôi làm mục sư lâu dài cho họ. Lúc bấy giờ tôi mới 17 tuổi – một thanh niên ở tuổi đàn đúm bạn bè với cái giọng vỡ rè rè – nhưng họ vẫn muốn tôi ở lại. (Trong nhà thờ dòng Baptist, không cần phải học tập lý thuyết lâu dài mới được làm mục sư, mà chỉ cần được một giáo đoàn mời gọi. Nếu giáo xứ gốc của người đó chấp thuận yêu cầu của giáo đoàn đã mời gọi, người đó sẽ trở thành mục sư). Nhớ lại thời gian đó, tôi nhận ra rằng được mời gọi phục vụ ở Nhà thờ Cây Thông là một trong những món quà lớn nhất Thượng đế ban cho tôi. Giáo đoàn ở Nhà thờ Cây Thông là một giáo đoàn rất tình cảm, và họ đã xoa dịu sự thất vọng và cô đơn được giấu kín trong tôi. Tình yêu thương của họ khiến tôi tự tin hơn, và trong vài năm, tôi đã làm cho cộng đồng đó tăng lên hơn hai trăm người. Tôi đã giảng ở đó trong hai năm rưỡi. Vào các mùa hè, tôi còn được mời gọi tới làm lễ và thuyết giáo ở nhiều nhà thờ khác. Và kết quả của tất cả các kinh nghiệm này đã làm tôi trưởng thành. Bạn thử hình dung tôi đứng trên bục giảng, hàng ngàn người vây quanh chăm chú lắng nghe từng lời tôi nói ra. Đó là một kinh nghiệm giao tiếp lớn lao đối với bất kỳ ai. Tôi muốn tiếp tục làm mục sư nhưng rồi tôi cảm thấy mình cần được giáo dục đầy đủ trong môi trường đại học. Thế là tôi vào trường Đại học Mercer, một trường đại học thuộc dòng Baptist ở cách đó khoảng 100 dặm. Trong năm thứ 3 đại học, tôi hoàn thành xuất sắc luận văn triết học, và một thế giới mới, toàn vẹn của những ý tưởng lôgic mở ra trước mắt tôi. Tôi sớm phát hiện ra rằng, người ta không thể tới gần Thượng đế chỉ bằng con đường nghiền ngẫm ngôn ngữ Kinh Thánh. Thế rồi sự nghiệp mục sư ngắn ngủi của tôi kết thúc, nhưng những khao khát tri thức của tôi về triết học và tôn giáo lại được mở rộng. Trong những năm tiếp theo ở trường đại học, tôi bổ sung thêm lãnh vực ham thích thứ ba: Tâm lý học. Và khi kết thúc chặng đường học hỏi nghiên cứu, tôi thấy mình hạ cánh trên một lãnh vực thích hợp hơn cả với những gì tôi đã ham thích và trải nghiệm, đó là tâm lý hôn nhân. Vậy là từ một “cậu bé mục sư”, tôi thành một bác sĩ tâm lý hôn nhân. Nhưng những năm tháng làm mục sư không vô ích đối với tôi mà chính khoảng thời gian ấy đã đóng góp rất nhiều cho thế giới quan của tôi. Tôi nghiệm ra rằng, sự toàn vẹn tinh thần của con người liên kết chặt chẽ với sự toàn vẹn tâm lý của họ. Điều gì đã khiến tôi tin tưởng rằng: trị liệu tâm lý hôn nhân là một tiến trình tinh thần? Tại sao chúng ta có thể coi những “sự thay đổi hành vi”, “thái độ quan tâm săn sóc”, “kiềm chế cơn giận”, hoặc bất cứ điều gì hỗ trợ đời sống hôn nhân là những kinh nghiệm tâm linh thiêng liêng? Tôi sẽ xác định tính chất thực tế của những thuật ngữ đó. Khi tôi dùng từ “tinh thần” hay “tâm linh”, tôi không định mang tới một phạm vi ngữ nghĩa thông dụng. Nó không nói về việc bạn đi nhà thờ hay theo đuổi một lý thuyết tôn giáo hạn hẹp nào, hoặc một hành vi tín ngưỡng nào kiểu như: suy ngẫm, cầu nguyện, ăn chay… Tôi dùng những thuật ngữ này với nghĩa “tinh thần tự nhiên”, cái tinh thần là một phần thực thể của chúng ta, cái tinh thần là món quà tặng của tự nhiên khi chúng ta bắt đầu nhận thức thế giới, cái tinh thần mà chúng ta có thể đánh mất lúc còn nhỏ nhưng rồi lại tìm thấy ở tuổi thanh niên khi chúng ta có khả năng chữa trị các vết thương lòng tuổi ấu thơ. Khi tìm lại được tri thức về sự thống nhất nội tại căn bản của con người mình, chúng ta cũng khám phá ra rằng chúng ta không phải là một mảnh bị cắt lìa khỏi thế gian này. Bởi vì chúng ta liên kết với phép màu của sự sống toàn thể, chúng ta sẽ được tự do hân hoan với vẻ đẹp và tính đa dạng của thế giới xung quanh. Vũ trụ trở nên có ý nghĩa và có mục đích, và chúng ta là một phần của toàn thể rộng lớn kỳ vĩ đó. Điều xác tín của tôi là: một trong những con đường đúng đắn nhất để chúng ta tôn vinh đời sống chính là lối đi khiêm nhường của hôn nhân. Khi chúng ta đủ can đảm để tìm kiếm chân lý, tìm kiếm sự thật về bản thân mình và về người bạn đời, cũng là lúc chúng ta khởi đầu tiến trình chữa trị các vết thương của chính chúng ta. Tóm lược Những chương trước đã chi tiết hóa các ngả đường khác nhau của tiến trình chữa trị tâm lý. Bây giờ chúng ta cùng nhau tóm lược lại và tìm một điểm nhìn bao quát. Bước đầu tiên là chúng ta trở nên ý thức hơn về các vết thương xưa cũ của mình. Chúng ta tìm lại trong dĩ vãng những bằng chứng về việc chúng ta không được quan tâm săn sóc đầy đủ ra sao hoặc chúng ta phải dồn nén những phần thực thể bản chất của mình ra sao. Chúng ta làm việc này qua suy tưởng, cầu nguyện, chữa trị tâm lý và qua việc trở thành một người quan sát tinh tường những sự kiện thường nhật. Khi chúng ta mặc khải một trí thức mới mẻ, chúng ta chia sẻ nó với người bạn đời, bởi vì giờ đây chúng ta hiểu rằng họ không phải là người lúc nào cũng có thể đọc vanh vách những ý nghĩ sâu kín trong ta. Và khi người bạn đời chia sẻ với ta những ý nghĩ và cảm xúc của họ, chúng ta lắng nghe với sự hiểu biết và thông cảm vì biết rằng việc chia sẻ ấy là từ sự tin cậy thiêng liêng. Dần dần, chúng ta “vẽ lại” chân dung người bạn đời, nhìn nhận họ như con người thực của họ – đó là một đứa trẻ bị tổn thương đang đi tìm sự cứu rỗi. Khi đã có được hình ảnh chính xác hơn này, chúng ta bắt đầu thiết kế lại quan hệ hôn nhân, nhằm chữa trị các vết thương lòng của chúng ta. Để làm việc đó, chúng ta phải xây dựng một không khí an toàn và tin tưởng. Chúng ta bổ sung cho cảm giác an toàn và chắc chắn này bằng cách học kỹ thuật giao tiếp cởi mở và hiệu quả. Khi đã vượt qua sự đề kháng của bản thân, chúng ta bắt đầu nhìn người bạn đời trong sáng hơn. Chúng ta hiểu rằng họ có những nỗi sợ hãi, yếu đuối và mong muốn mà họ không chia sẻ với chúng ta. Chúng ta lắng nghe những lời chỉ trích của người bạn đời và coi những lời ấy là minh họa phần bóng tối trong chúng ta. Chúng ta tự nhủ: “Người bạn đời của ta có những điều phiền muộn cần nói ra. Trong những lời phê bình đó có ít nhiều sự thật”. Từng bước, chúng ta trở nên chấp nhận con người toàn thể của mình, cả phần ánh sáng lẫn phần bóng tối. Bước tiếp theo trong tiến trình chữa trị có lẽ là bước khó khăn nhất: Chúng ta phải đưa ra quyết định dựa trên thông tin mà chúng ta thâu nhận được về bản thân và về người bạn đời. Chúng ta chống lại xu hướng bản năng vốn chỉ chú tâm đến các nhu cầu của bản thân ta, để có một sự lựa chọn ý thức và chú tâm đến các nhu cầu của người khác. Và như vậy, chúng ta phải chinh phục nỗi sợ hãi sự thay đổi. Khi đáp ứng những nhu cầu của người bạn đời, chúng ta sửng sốt khám phá ra rằng, trong khi chữa trị các vết thương lòng của người bạn đời, chúng ta cũng dần dần soi sáng những vùng khuất lấp trong chính bản thân ta. Chúng ta hợp nhất những phần của con người chúng ta bị cắt lìa trong thời thơ ấu. Chúng ta tìm lại năng lực để cảm xúc và suy nghĩ, để sống toàn vẹn cả thể xác và tinh thần, và để thể hiện bản thân bằng những phương thức sáng tạo. Khi nhìn lại tất cả những gì đã nhận thức, chúng ta thấy rằng những khoảnh khắc đau khổ trong cuộc đời ta là những cơ hội thực tiễn để ta trưởng thành. Thay vì đắm chìm trong đau khổ, chúng ta tự hỏi mình: “Đâu là sự thật? Cảm xúc nào tiềm ẩn bên dưới những nỗi buồn, những lo âu và thất vọng? Chúng ta hiểu rằng những cảm xúc tiềm ẩn ấy là khổ đau, giận dữ, nỗi sợ hãi cái chết, những gì chung nhất cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, chúng ta tìm ra một phương thức an toàn và có thể giúp ta trưởng thành, để biểu lộ những xúc cảm mạnh mẽ ấy mà không gây nguy hiểm cho quan hệ hôn nhân. Mỗi một thành tố của cuộc hôn nhân trước đây còn nằm trong vô thức mịt mùng – sợ hãi, lo âu, thương tổn tuổi thơ, đau khổ dĩ vãng – đều được mang lên bề mặt, trước tiên là để chúng ta chấp nhận chúng, sau nữa là giải quyết chúng. Khi những vết thương xưa đã kín miệng và những phần ẩn giấu trong bản thân ta đã được nhận diện, chúng ta sẽ có một cảm giác mới mẻ về sự thống nhất và toàn vẹn vốn có của chúng ta. Hôn nhân là một lộ trình tinh thần, nhưng nó không cần phải là một lộ trình được tô vẽ. Hầu hết những nỗ lực để sáng tạo một hôn nhân ý thức là những vấn đề thực tiễn hằng ngày. Để mang lại cho quá trình sáng tạo ấy một vài chi tiết thực tế, tôi muốn phác họa chân dung hai cuộc hôn nhân trong những trang sau. Có những khác biệt rõ ràng giữa hai cặp vợ chồng. Cặp thứ nhất, Anne và Greg Martin, khoảng 40 tuổi. Họ mới lấy nhau được 5 năm. Cả hai đã có gia đình riêng trước đó rồi ly dị và có những đứa con riêng. Họ cũng biết đến liệu pháp tâm lý hôn nhân và đã tham gia các đợt chữa trị khoảng ba năm về trước. Còn Kenneth và Grace Brentano đã ngoài 60 tuổi và cuộc hôn nhân của họ đã được 35 năm. Họ có 4 đứa con đã trưởng thành. Kenneth đảm bảo hầu hết tài chính gia đình còn Grace làm nội trợ. Họ đã sa lầy vào cuộc xung đột kéo dài 30 năm trước khi tìm được một lối thoát cho quan hệ hôn nhân. Giờ đây họ sống với nhau khá hạnh phúc. Phần lớn những nỗ lực tìm lối thoát này xuất phát từ các ý tưởng của chính họ, mãi về sau họ mới tìm đến tôi. Những gì mà hai cặp vợ chồng này giống nhau dù sao cũng có ý nghĩa hơn là những điều khác biệt. Cả hai cặp vợ chồng đều hướng tới mục tiêu sáng tạo một cuộc hôn nhân có khả năng thỏa mãn ước muốn của mỗi cá thể cho sự chữa trị các tổn thương tinh thần và cho sự toàn vẹn – một cuộc hôn nhân mà mỗi cá thể đều cảm thấy an toàn, sinh động và tràn đầy tình yêu. Anne và Greg Họ gặp nhau trong một quán bar ngày cuối tuần và cả hai cùng bị “cú sét ái tình” quật ngã ngay lập tức. Nguồn gốc của sức hấp dẫn này là gì? Hãy nhìn lại thời thơ ấu của họ. Cha mẹ của Anne luôn vắng nhà vì họ phục vụ trong quân đội, và cô phải sống với ông bà. Khi cha mẹ cô ly dị năm cô lên bảy, cô không bao giờ gặp lại người cha nữa. Sống với người mẹ thích giao du phù phiếm và thường xuyên đi chơi qua đêm, Anne trở thành một đứa trẻ tự lập hoàn toàn và có trách nhiệm về bản thân, một phần vì cô luôn luôn phải tự lo cho mình và một phần vì mẹ cô rất tin cậy và tán thưởng khả năng tự lập của con gái. Cô chối bỏ nỗi đau thiếu thốn sự chăm sóc yêu thương và cảm giác an toàn trong tuổi thơ, vì nó quá ngập tràn. Greg, ngược lại, sinh trưởng trong một gia đình đông con. Mẹ anh là một người hay cằn nhằn, giận dữ, nhưng cũng rất giàu tình yêu thương. Cha anh là một người tốt bụng, nhưng thiếu thực tế, mộng tưởng và luôn xa cách. Greg trở nên cô độc, luôn luôn cặm cụi một mình. Anh tự tách mình khỏi bạn bè. Anh không cảm thấy cô độc, nhưng luôn tự cho rằng mình là người khác biệt và xa lạ với mọi người xung quanh. Sau ba cuộc hôn nhân không thật sự say đắm, Greg càng co cụm lại, tự cô lập mình.Người bạn tâm giao suy nhất của anh, lạ thay, không phải là một phụ nữ,mà là một người bạn cùng phái. Cuộc hôn nhân đầu tiên của Anne cũng giống như hôn nhân của Greg, bình yên và không có sự kiện nào. Nhưng sau một cơn khủng hoảng tinh thần, chồng cô trở nên thích cô độc, rút lui khỏi cuộc sống chung và Anne lại hoàn toàn độc lập, lo toan tất cả như lúc cô còn con gái. Mâu thuẫn nảy sinh từ đó và họ chia tay, mặc dù đã có hai đứa con. Lần đầu gặp Greg, cô cảm thấy bị thu hút không phải vì anh thông minh, tháo vát và luôn tự bằng lòng, mà vì anh đã có những biểu hiện không sẵn sàng về mặt tình cảm. Giống như cha cô luôn vắng nhà và cuối cùng từ bỏ cô, giống như người mẹ bỏ con đi chơi suốt đêm, Greg, với ba cuộc hôn nhân đổ vỡ, bốn đứa con, và bản tính rất cô lập sẽ rất khó trở nên thân mật. Điều đó kích thích ở Anne ý hướng hàng đầu của cô, là mong muốn biến một người xa cách lạnh nhạt trở thành thân thiết và tin cậy được. Đó là công việc mà cô chưa hoàn tất trong thời thơ ấu. Ngược lại, Greg lại thấy Anne là một phụ nữ nhiệt tình, đầy yêu thương, hơi quá hăng hái, giống hệt mẹ anh, cũng hay chọc tức anh vậy. Có thể nói là anh muốn sống yên ổn, nhưng thực ra, anh muốn cuộc sống đầy thử thách. Anh cũng muốn gặp một người phụ nữ có thể phá vỡ những rào cản cảm xúc của chính anh. Vài tuần đầu sau lễ cưới, họ rất thân thiết. Nhưng rồi Greg bắt đầu cảm thấy Anne xâm phạm và lấn chiếm quá nhiều không gian của anh. Greg bắt đầu co cụm và khép kín, để cảm nhận lại sự an toàn quen thuộc. Đến lượt Anne coi xu hướng khép kín của Greg giống như sự rút lui của người chồng trước, cô bắt đầu nổi giận, đòi hỏi, và tin rằng Greg đang có ý định từ bỏ cô. Sự độc lập mà Anne ngưỡng mộ ở Greg cũng như sự hăng hái hoạt bát mà Greg ngưỡng mộ ở Anne đã phát triển thành một cuộc tranh chấp. Điều duy nhất khiến Anne không bỏ cuộc là vì cô hiểu rằng nếu từ bỏ Greg, cô cũng sẽ gặp lại những vấn đề y như cũ. Vả lại, họ vẫn rất yêu nhau. Sau khi đến gặp tôi, Greg đã thu nhặt được hai điều hiểu biết sâu sắc. Trước hết, anh rất xúc động với bài tập giúp anh nhìn Anne như một đứa trẻ bị tổn thương. Anh nói: “Làm sao một phụ nữ trưởng thành lại có cảm giác bị bỏ rơi được? Tôi chưa bao giờ trải qua cảm giác đó. Hình ảnh Anne như một đứa trẻ bị bỏ rơi khiến tôi thực sự xúc động. Tôi sẵn lòng lắng nghe những lời than vãn của cô ấy hơn và cố gắng thay đổi xu hướng rút lui của tôi”. Điều hiểu biết thứ hai của Greg là kỹ năng trao đổi thông tin. Bài tập “Soi gương” giúp anh đối phó với những cảm xúc quá mãnh liệt của vợ. Khi Anne nổi giận, Greg chỉ lắng nghe và lặp lại những lời nói của cô mà không phản ứng. Bằng cách đó, cơn giận của cô giảm dần và cuối cùng cô kiềm chế được để họ có thể trò chuyện bình tĩnh và hợp lý hơn. Khi không bị vướng vào cơn giận dữ của cô, Greg có thể tự bảo vệ mình mà không tấn công cô hay rút lui vào trong vỏ ốc của anh. Anne và Greg còn học được cách giải tỏa bản thân. Thay vì cãi cọ nhau, họ bắt đầu phát biểu thành lời những nhu cầu của mình. Điều này rất khó khăn lúc khởi đầu. Vấn đề của Greg là anh quá tự hào về sự độc lập của anh. Đối với anh, rất khó để anh thú nhận rằng anh cần một điều gì đó từ bất cứ ai, nhất là từ Anne . Nhưng cuối cùng anh đã học được rằng anh phải nói thẳng ra nhu cầu của mình. Anne không thể đọc được suy nghĩ của anh. Ngược lại, vợ anh không gặp khó khăn trong việc yêu cầu Greg thay đổi cách ứng xử để đáp ứng những nhu cầu thơ ấu của cô, nhưng cô lại không chấp nhận kiểu quan tâm của anh khi anh đáp ứng những yêu cầu đó. Nhưng Greg tiếp tục cố gắng bền bỉ và cuối cùng Anne đã thấy thoải mái hơn. Một trong những nhu cầu mà Anne nhấn mạnh rằng nó rất quan trọng đối với cô là nhu cầu được an toàn và được xác nhận về tình cảm của Greg. Khi cô quá xúc động – dù là giận dữ, khóc lóc hay dỗi dằn – điều cô thực sự mong đợi là được nghe Greg khẳng định tình yêu của anh đối với cô. Với sự giúp đỡ của Anne, cuối cùng Greg, người đã từng tuyên bố rằng không biết an ủi người khác, giờ đây có thể thốt ra những lời yêu thương chân thành. Anne và Greg cũng học được rằng, nếu có va chạm, phải va chạm theo một cung cách khác. Anne nói: “Chúng tôi trút cơn giận ra, nhưng chúng tôi không vướng vào những sai lầm cũ. Chúng tôi nói thẳng thắn chân thành và đi thẳng vào vấn đề. Đôi khi xung đột không giải quyết được ngay, vì nhiều vấn đề rất phức tạp, nhưng điều quan trọng là chúng tôi đã xả những cảm xúc của mình ra. Chúng tôi lắng nghe nhau. Chúng tôi tháo ngòi nổ những xung lực xấu và không còn giận dữ nữa.” Anne và Greg công nhận rằng, đạt được một cuộc hôn nhân có ý thức là điều không dễ dàng. Tuy nhiên họ vẫn sẵn lòng cố gắng trong quan hệ hôn nhân này, vì họ cũng gặt hái được nhiều phần thưởng hàng ngày. Thay đổi quan trọng nhất là trạng thái cảm xúc của họ. Greg nói: “Trước kia, tính khí chúng tôi rất thất thường, tôi thì khóa chặt những cảm xúc của mình trong khi Anne lại bộc lộ quá nhiều. Bây giờ chúng tôi cố gắng trở thành nửa kia của chính mình – chúng tôi đã đạt tới sự cân bằng. Điều đó khiến chúng tôi cảm thấy yên lòng.” Anne nói: “Nếu cho tôi khuyên một lời với độc giả cuốn sách này tôi xin nói rằng những điều bạn làm cho người bạn đời của mình cũng là những gì bạn làm cho chính bạn. Đó là vì sự phát triển nhân cách của bạn. Khi tôi cố gắng giải tỏa những nhu cầu của Greg, tôi cũng đang cải tạo chính bản thân tôi. Vì thế khi người bạn đời của bạn yêu cầu bạn làm một điều gì đó, bạn hãy tự hỏi mình: Điều đó có ý nghĩa không? Tôi có cần làm điều đó không? Nếu câu trả lời là có, hãy thực hiện điều đó, bất chấp bạn cảm thấy như thế nào, vì khi thỏa mãn nhu cầu của người bạn đời, bạn sẽ giành lại được một phần thực thể của chính bạn.” Kenneth và Grace Bầu không khí của gia đình Grace là sự hòa trộn giữa tình yêu thương và sự huyên náo. Mẹ của cô vừa đầy tình cảm lại vừa nóng nảy, mạnh mẽ. Grace thường nói: “Bà có tính cách mạnh đến mức tôi phải đấu tranh với bà để giữ bản sắc riêng của tôi. Đó cũng là một lý do khiến tôi trở nên nổi loạn”. Cha cô thì lại dịu dàng, chăm sóc và lắng nghe. Hai cha con Grace có tình cảm rất thân thiết, đến mức khi lớn lên, cô cảm thấy hơi khó chịu về điều đó. Nhưng cô lại mong rằng cha cô mạnh mẽ hơn một chút. Ông luôn lảng tránh khi mẹ cô giận dữ và ông không bao giờ bảo vệ cô. Năm 12 hay 13 tuổi, Grace tham dự một nhóm tôn giáo thanh niên, và cô bắt đầu có những quan niệm mới. Cô cảm thấy mình “xấu xa” và “tội lỗi” vì đã nổi loạn với mẹ. Cô trải qua một cuộc khủng hoảng tình cảm nặng nề, và quan điểm tiêu cực ấy về bản thân còn lặp lại nhiều năm sau. Grace cũng thường lo âu rằng cô là kẻ “vụng về, ngu ngốc”. Thông thường đó là vì cô rất ít khi suy nghĩ trước khi làm bất cứ việc gì mà lao vào ngay không cần vạch kế hoạch hay tổ chức. Đôi khi cô tự hào về khả năng làm việc của mình, nhưng cô cũng thường hối tiếc vì không biết suy tính, trù liệu như mọi người. Một điểm mạnh của Grace là cô có thiên hướng hội họa. Cô đã từng đoạt nhiều giải thưởng về hội họa siêu thực và các mẫu phác thảo tự do. Hội họa trở thành lĩnh vực trung tâm của đời cô. Có nhiều điểm cơ bản giống nhau giữa hoàn cảnh của Grace và Kenneth thời thơ ấu. Mẹ của Kenneth cũng mạnh mẽ, tình cảm, bà cũng đòi hỏi và hay phê phán với miệng lưỡi sắc sảo. Kenneth không bao giờ dám gần gũi bà quá, chưa nói đến cãi lại bà. Cha của anh là người thụ động, lặng lẽ và dịu dàng. Mặc dù ông chính là kiểu mẫu của Kenneth, ông vẫn luôn luôn xa cách và lảng tránh. Kenneth còn học ở cha mình nỗi sợ hãi những cơn giận dữ: sự giận dữ khiến anh gặp rắc rối với mẹ và ngăn cách anh khỏi người cha. Kenneth quyết định luôn luôn tỏ ra nhẹ nhàng. Nhưng bộ mặt không thật đó vẫn che giấu sự khao khát tuyệt vọng “một chút tình mẫu tử dịu dàng và tình phụ tử bền vững, đáng tin cậy hơn”. Vì Kenneth tỏ ra thụ động và tốt bụng để gìn giữ không gian tâm lý an toàn, còn Grace luôn nổi loạn và giận dữ, họ trở nên hấp dẫn với nhau. Họ nhìn thấy trong nhau những phần bản thể tự nhiên của chính mình đã không được phát triển. Họ không biết rằng những nét cá tính trái ngược đó chỉ là những nỗ lực để hàn gắn những vết thương giống hệt nhau. Mỗi người đều chọn người bạn đời có những nét cá tính gây đau khổ cho họ nhất trong thời thơ ấu. Năm đầu của cuộc hôn nhân trôi qua êm ả. Xung đột thực sự bắt đầu khi phòng mạch của Kenneth (anh là bác sĩ) bắt đầu mất khách. Grace đã lo lắng từ lâu và cuối cùng nổi giận trước tính thụ động của Kenneth. Mặc dù đánh giá cao sự quan tâm của Grace, Kenneth vẫn bực bội với sự xâm phạm của cô. Anh nhận thấy cô giống hệt mẹ anh, đòi hỏi quá nhiều. Từ đó, giữa bản chất dễ bộc lộ và quyết đoán của Grace và bản chất thụ động nhẹ nhàng của chồng cô bắt đầu cuộc tranh chấp kéo dài 30 năm. Kenneth lại gây thêm phiền muộn cho vợ khi anh yêu cầu vợ đọc sách nhiều hơn. Một lần nữa, Grace lại nhận được thông điệp rằng cô không được “thông minh”, lặp lại nỗi đau đớn và lo âu thuở nhỏ của cô. Khi con gái đã đi học, Grace cũng đi làm. Mùa đông năm đó, mẹ chồng cô đến ở chơi với gia đình cô. Quá bận bịu với công việc, cô không thể tiếp đãi bà cẩn thận. Cộng với việc cô không bận tâm lo toan công việc nhà như mẹ chồng mong muốn, bà nổi giận và bỏ về sớm, than phiền và cằn nhằn Kenneth đủ điều trên đường ra ga. Kenneth lại gặp phải cảnh tượng cũ: “Tôi phải nghe mẹ tôi tấn công Grace mà không dám bảo vệ cô ấy. Tôi thậm chí không có can đảm để che chở cho vợ mình”. Đối với Grace, đây cũng là một bi kịch quen thuộc. Một lần nữa cô lại phải nhờ một người đàn ông thụ động và kém cỏi bảo vệ cô trước hình bóng người mẹ thù địch và đầy chỉ trích. Grace nói: “Anh ấy không dám động tới mẹ anh ấy, nhưng lại có can đảm để quay lại nổi giận với tôi vì tôi không làm vui lòng mẹ chồng.” Grace nhớ lại rằng Kenneth rất giống cha cô. Điều cô mong đợi ở Kenneth cũng là điều cô mong đợi ở cha cô – sự bảo vệ và lãnh đạo. Điều thú vị là khi nổi giận, cô cư xử với anh giống hệt mẹ cô đã cư xử với cha cô. Vô tình, Grace đã tiếp thu những tính cách tiêu cực của mẹ cô. Bên dưới lớp vỏ ứng xử trái ngược nhau đó, Kenneth cũng giận dữ không kém gì Grace. Anh chỉ trích và làm cho Grace không yên lòng, mặc dù anh biết điều đó gây đau đớn cho cô. Đó là vì mục đích chính của đời anh là tìm kiếm hình bóng người mẹ che chở và dịu dàng, nhưng đồng thời anh cũng phải giữ một khoảng cách để khỏi bị cuốn hút quá sâu. Anh thực hiện điều đó bằng cách yêu thương đủ để giữ chân Grace, nhưng đồng thời chỉ trích cô đủ để giữ một khoảng cách. Về phía Grace, vì không được xác nhận về tình cảm của anh, cô cảm thấy ghen tuông và nghi ngờ mọi hoạt động bên ngoài của anh, nhất là các mối quan hệ với phụ nữ. Cuộc hôn nhân của họ tiếp tục thăng trầm như vậy trong nhiều hoàn cảnh biến đổi suốt 20 năm. Grace mong mỏi nhiều tình yêu thương, sự mạnh mẽ, và thân thiết hơn từ phía Kenneth, còn anh ao ước nhiều hành vi âu yếm, sự dịu dàng và đồng thời nhiều khoảng cách hơn từ phía Grace. Sự căng thẳng lớn đến mức nó luôn đe dọa dẫn tới ly dị. Cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất xảy ra khi họ hơn 40 tuổi và Kenneth trải qua nỗi thất vọng nghề nghiệp phổ biến của tuổi trung niên. Trong khi đó, Grace đột ngột cảm thấy tín ngưỡng tôn giáo của cô, chỗ dựa rất quan trọng suốt đời cô, bỗng không còn ý nghĩa nữa. Cô quay sang Kenneth để trông cậy, nhờ anh sắp xếp lại những tư tưởng tôn giáo và đạo đức rối tung của mình. Nhưng anh không làm được và cô buông mình vào đau khổ và giận dữ. Kenneth nói: “Cô ấy muốn tôi phải mạnh mẽ, quyết đoán. Cô ấy muốn làm cô bé con và tôi làm người cha. Nhưng tôi không muốn mình mạnh mẽ như thế. Đó là điều bất công. Tôi cũng muốn làm một đứa trẻ, ước ao có mẹ vỗ về, an ủi chứ?” Sau đó họ hồi phục dần. Grace theo một giáo phái mới, còn Kenneth tham gia điều trị tâm lý, và nhờ đó anh đã hiểu được một điều quan trọng về bản thân: anh đã để cho Grace gánh hết sự giận dữ, trong khi anh cũng có cảm giác giận dữ, nhưng anh đã nén lại, trở nên xa cách và làm Grace càng giận dữ hơn. Dần dần anh đã dám thử nổi giận với cô. Anh đã thách thức sự tự cấm đoán đối với cơn giận dữ của mình và học sống với nó. Lúc đầu, Grace ngạc nhiên và sau đó, cô lại tiếc nuối con người cũ của Kenneth. Mặc dù vậy, Kenneth vẫn trở nên tự tin và gây hấn hơn, những phát triển nhân cách được khuyến khích trong khi anh điều trị tâm lý. Anh bắt đầu tìm những cách khác để cảm thấy toàn vẹn. Anh tìm đến sự ngoại tình như một cuộc phiêu lưu hồi hộp, và chỉ để tự khẳng định mình. Chỉ vài tuần sau, Grace phát hiện ra việc này. Cô nổi giận, la hét. Hai ngày sau nữa, cô đến tìm một bác sĩ tâm lý. Cô nói: “Tôi muốn coi những buổi điều trị ấy như một phiên tòa đối với Kenneth, để anh ấy hiểu nỗi đau mà anh ấy gây ra cho tôi.” Qua đợt điều trị đó, họ đã tìm ra giải pháp chung. Kenneth từ bỏ người đàn bà kia và Grace cố gắng xây dựng lại niềm tin. Kenneth cũng nhận thức được nhiều điều về vợ anh: “Cơn giận dữ của cô ấy cho thấy cô ấy coi trọng cuộc hôn nhân của chúng tôi như thế nào, và cô ấy sẵn lòng chắp lại những mảnh vỡ để tiếp tục chung sống. Chúng tôi đã nói nhiều đến ly dị tới mức tôi rất hài lòng khi hiểu được cô ấy như vậy.” Cuộc khủng hoảng cuối cùng là khi Kenneth phải phẫu thuật tim. Dù anh đã bình phục, Grace vẫn rất xúc động. Cô nói với anh rằng nếu sự ra đi của cô khiến cho Kenneth hồi phục dễ dàng hơn, cô rất sẵn lòng. Cô nhấn mạnh rằng cô không muốn rời bỏ anh, nhưng cô sợ rằng sự chung sống khiến tình trạng của anh tồi tệ hơn. Sự sẵn sàng hy sinh của cô khiến Kenneth nhận thấy rằng anh không thể tìm được người vợ nào tốt hơn Grace. Tình yêu không sở hữu và chấp nhận tất cả của cô chính là điều anh mong ước. Anh nói: “Đúng vậy. Tình yêu của mẹ tôi có rất nhiều ràng buộc. Grace lại cho tôi một tình yêu không ích kỷ”. Cùng với sự tin cậy, Kenneth còn tìm thấy nhiều phẩm chất tốt khác của Kenneth. Lần đầu tiên, anh thực sự ngưỡng mộ vô vì cô là một họa sĩ tài năng, bất chấp rằng cô không được đào tạo đến nơi đến chốn về hội họa. Đó là thời điểm họ đến gặp tôi. Họ đã tự mình thoát khỏi ngõ cụt, nhưng họ vẫn cần hiểu biết hơn và bổ sung kỹ năng mới. Khi tham dự bài tập “Kiềm chế hoàn toàn”, Grace vui sướng vì cô hiểu ra rằng: “Một người giận dữ không phải người xấu. Giận dữ có lý do và mục đích của nó. Tôi không phải chối bỏ nó để được yêu thương, mà chỉ cần chuyển hóa nó thành một phần có ích của cuộc hôn nhân”. Thái độ của Kenneth về sự giận dữ cũng thay đổi. Grace nói: “Trước đây anh ấy chỉ chấp nhận cơn giận của mình nhờ điều trị tâm lý, nhưng không chấp nhận cơn giận của tôi. Bây giờ thì khác. Tôi la hét, khóc lóc, và tôi vẫn được yêu thương”. Grace tin rằng việc Kenneth chấp nhận bản thân cô là yếu tố quyết định để cô tự chấp nhận mình. Với Kenneth, sự biến đổi quan trọng nhất là cảm giác an toàn và được chăm sóc gia tăng. Đối với cả hai, nhu cầu hàng đầu của tâm thức cũ là được ở trong môi trường an toàn, được nuôi dưỡng, đã thỏa mãn. Qua mô tả chi tiết hai cuộc hôn nhân, chúng ta có thể thấy rõ rằng “tình yêu” không phải một từ đơn giản để chỉ vô số những cảm giác đa dạng mà hai cá thể cảm thấy về nhau. Trong giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân, tình yêu được mô tả là Eros, năng lượng sống đang tìm kiếm sự hợp nhất với một thực thể vừa ý khác. Khi hai vợ chồng quyết định xây dựng một quan hệ hôn nhân thỏa mãn hơn, tình yêu được định nghĩa là Agape, nguồn sinh lực hướng về người bạn đời với dụng ý làm lành những vết thương. Và ở giai đoạn cuối, tình yêu thực tế, nó là nguồn năng lượng dao động liên tục giữa hai vật thể. Tình yêu này được mô tả là Philia, tình yêu giữa những người bạn. Khi đạt đến khả năng yêu một cách quên mình, các cặp vợ chồng sẽ cảm thấy được giải tỏa nguồn năng lượng. Tình yêu trở nên tự nhiên, vẫn dồi dào như giai đoạn đầu của hôn nhân, nhưng giờ đây, nó dựa trên thực tế về người bạn đời, chứ không phải một ảo tưởng nữa. – HẾT PHẦN II – (phần III của cuốn sách chỉ gồm 1 chương, chương 13: trình bày 16 bài tập, và ngoài ra còn có đoạn kết) PHẦN III : CÁC BÀI TẬP Chương 13: MƯỜI BƯỚC TIẾN TỚI MỘT CUỘC HÔN NHÂN Ý THỨC *** Phần này của cuốn sách nhằm mô tả tiến trình 10 bước giúp bạn thành tựu một cuộc hôn nhân ý thức, bao gồm 16 bài tập hỗ trợ những hiểu biết sâu sắc của bạn về các kỹ năng hiệu quả trong quan hệ hôn nhân. Tôi sẽ đưa ra một vài dẫn giải trước khi mô tả chúng. Tất cả các bài tập đều đã được trắc nghiệm hoàn hảo. Với một vài ngoại lệ thứ yếu, chúng tương tự như những bài tập tôi đã áp dụng cho các cặp vợ chồng tới chữa trị ở văn phòng của tôi suốt 10 năm qua. Chỉ có một điều chỉnh duy nhất là tôi loại bớt một vài điểm đòi hỏi phải có sự giám sát trực tiếp, và để các bài tập trở nên thích hợp hơn trong khuôn khổ một cuốn sách. Nói cách khác, những bài tập này cũng tương tự như khi bạn tới tham vấn trực tiếp tại văn phòng của tôi hay của một nhà tâm lý nào khác chuyên về tư vấn hôn nhân. Những bài tập này đã tỏ ra rất hiệu quả. Một nhà nghiên cứu đã rút ra kết luận rằng, những cặp vợ chồng tới chữa trị tại chỗ tôi, với thời lượng xấp xỉ thời lượng mà cuốn sách này đề nghị, có thể cải thiện mối quan hệ của họ tương đương với bất kỳ một chương trình tham vấn nào kéo dài từ 3 đến 6 tháng. Hầu hết các bài tập tuân theo nguyên tắc biến đổi tuần tự, có nghĩa là bạn sẽ khởi đầu với những bài tập dễ dàng, sau đó sẽ dần dần tới những phần khó hơn một cách thuận lợi. Bạn sẽ được hướng dẫn về tốc độ và khối lượng thực hành. Bạn hãy luôn nhớ rằng, bài tập càng khó bao nhiêu càng có nhiều tiềm năng bấy nhiêu để giúp bạn tăng trưởng đời sống tâm lý. Bạn sẽ nhận ra rằng, các bài tập đòi hỏi một khối lượng đáng kể thời gian và sự nỗ lực. Để hoàn tất chúng, bạn sẽ phải dành trọn từ một đến hai giờ đồng hồ không bị gián đoạn ở mỗi tuần lễ trong vài tháng. Việc theo đúng lịch chữa trị hàng tuần có thể khiến bạn phải thuê người giúp việc nhà để mình có được những khoảng thời gian cần thiết. Những cam kết theo đuổi chương trình chữa trị đòi hỏi bạn nhận thức rõ tầm quan trọng của một cuộc hôn nhân tốt đẹp đối với cuộc đời bạn và bạn phải khẳng định việc dành ưu tiên cho điều đó. Một số người muốn thực hành những bài tập này nhưng lại không nhận được sự ủng hộ của người bạn đời. Thường thì một trong hai người sẽ giữ vai trò chủ động hơn trong việc giải quyết vấn đề. Nếu hiện tại, chỉ có một mình bạn có nhu cầu thực hành các bài tập, tôi khuyên bạn hãy cố gắng nhiều hơn nữa. Một quan hệ hôn nhân giống như một quả bóng bơm căng, bạn không thể đẩy ở một phía mà không làm nó biến dạng. Khi bạn bắt đầu lắng nghe một cách khách quan hơn, cảm nhận một cách vô tư hơn, kiểm soát những phản ứng tự vệ và xâm lấn của mình, cố gắng làm người bạn đời hài lòng, cũng là lúc bắt đầu một sự cải thiện đáng kể. Dần dần, sự đề kháng của người bạn đời cũng giảm bớt và các bạn sẽ có thể cùng nhau thanh thản đi hết cuộc hành trình. Một số người muốn thực hành các bài tập trong phạm vì hai vợ chồng, một số khác lại muốn làm theo nhóm, bao gồm những cặp vợ chồng có chung mục tiêu trong quá trình chữa trị. Để thích hợp với từng cung cách, bác sĩ tâm lý cũng sẽ có những hướng dẫn riêng thích hợp. Khi thực hành các bài tập theo cung cách riêng cả mỗi người, bạn sẽ khám phá ra rằng, con đường đi đến một cuộc hôn nhân ý thức cũng khá quanh co. Đôi khi, hành trình thuận lợi, bạn thấy vui vẻ và gần gũi, đôi khi nó khúc khuỷu và bế tắc, và cũng có khi bạn cảm thấy thụt lùi bất ngờ. Khi thụt lùi, bạn cảm thấy nản lòng và tự chê trách mình vì những sai lầm tái phạm. Một bệnh nhân đã nói với tôi : “Chúng tôi lại phạm sai lầm, lại sa vào cung cách cũ. Cứ ngỡ mình đã vượt qua, thế rồi lại vẫn như trước. Chúng tôi sai lầm chỗ nào vậy ?” Tôi trả lời rằng : không có những con đường vạch sẵn thẳng tắp trong tình yêu và hôn nhân. Quan hệ hôn nhân có xu hướng đi vòng vo và xoắn ốt, những thời kỳ êm đềm xen lẫn những thời kỳ giông tố. Ngay cả khi bạn có cảm giác rằng bạn đã vượt qua các tranh chấp không chỉ một lần, sự thay đổi vẫn còn đó. Bạn khơi sâu kinh nghiệm cá nhân, tiếp tục mối tương giao của riêng bạn với mức độ khác, cung cách khác. Có thể bạn sẽ đưa những yếu tố vô thức vào mối quan hệ nhiều hơn hoặc mở rộng ý thức vốn có của mình về sự thay đổi. Có thể bạn sẽ tác động mạnh mẽ hơn đến hoàn cảnh quen thuộc vì bạn đã khơi mở những cảm xúc mới mẻ. Hoặc ngược lại, bạn sẽ tác động ít mạnh mẽ hơn vì bạn chỉ đụng đến một vài cảm xúc nhất định. Những thay đổi ấy có thể rất vi tế, nhưng cũng có lúc nó làm biến đổi toàn thể đời sống. Một khi, bạn tiếp tục khẳng định quyết tâm trưởng thành và thay đổi, đồng thời thực hành đến nơi đến chốn những kỹ thuật được mô tả trong các trang tiếp theo của cuốn sách này, bạn có thể tạo ra tiến trình vững vàng và ổn định, tiến tới một cuộc hôn nhân ý thức. Thực hành các bài tập Như đã thảo luận ở chương 7, việc làm một cam kết chắc chắn ngay khởi đầu tiến trình sẽ giúp bạn vượt qua bất kỳ sự đề kháng nào. Bạn hãy rà soát lại những quan tâm hàng đầu của mình trong lúc này. Việc sáng tạo một mối quan hệ hôn nhân dễ chịu hơn, tình cảm hơn quan trọng đến mức nào đối với bạn? Bạn có quyết tâm dành thời gian cho tiến trình tự trưởng thành khó khăn hay không? Nếu bạn đã sẵn sàng, hãy lấy một vài trang giấy trắng và viết những điều mong muốn của bạn, ví dụ như : “Bởi vì quan hệ hôn nhân là điều cực kỳ quan trọng đối với chúng tôi, chúng tôi làm bản cam kết này để làm sáng tỏ nhận thức của mỗi người, để tìm kiếm và thực hành những kỹ năng mới trong quan hệ hôn nhân. Để đạt mục tiêu đó, chúng tôi đồng ý thực hiện tất cả các bài tập một cách cẩn thận và tới nơi tới chốn”. Khi bạn làm các bài tập, hãy nhớ nằm lòng hai quy tắc chủ đạo sau: 1. Những hiểu biết mà bạn thu thập được trong quá trình thực hiện các bài tập là để giúp bạn và người bạn đời hiểu biết về các nhu cầu của nhau. Việc lĩnh hội các tri thức ấy không bắt buộc bạn thỏa mãn các nhu cầu. 2. Khi chia sẻ những ý tưởng và cảm xúc của mình cho người bạn đời, bạn có thể trở nên nhạy cảm hơn. Điều quan trọng là bạn sẽ ứng dụng những hiểu biết thân thiện được về người bạn đời một cách tình cảm và tế nhị trong quan hệ hôn nhân. Thời khóa biểu được đề nghị cho 10 đợt tham vấn · Đợt 1: Bài tập 1 · Đợt 2: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân (bài tập 1) – Tài liệu mới: bài tập 2-6 · Đợt 3: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Tài liệu mới: bài tập 7 · Đợt 4: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Tài lịêu mới: bài tập 8 · Đợt 5: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tài liệu mới: bài tập 9 · Đợt 6: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp theo là 2-3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tài liệu mới: bài tập 10-11 · Đợt 7: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp tục 2-3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tiếp nữa là những điều gây ngạc nhiên và những hoạt động vui đùa “đổ mồ hôi” – Tài liệu mới: bài tập 12 · Đợt 8: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp tục 2-3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tiếp tục những điều gây ngạc nhiên và hoạt động vui đùa – Tiếp đến là 3-4 thay đổi ứng xử mỗi tuần – Tài liệu mới : Bài tập 13 · Đợt 9: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp tục 2-3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tiếp tục những điều gây ngạc nhiên và hoạt động vui đùa – Tiếp đến là 3-4 thay đổi ứng xử mỗi tuần – Tài liệu mới: bài tập 15 · Đợt 10: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp tục 2-3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tiếp tục những điều gây ngạc nhiên và hoạt động vui đùa – Tiếp đến là 3-4 thay đổi ứng xử mỗi tuần – Tài liệu mới: bài tập 16 · Đợt hoàn tất: Đọc hoặc học thuộc lòng Quan điểm Hôn nhân – Rà soát nhu cầu để đóng các cửa thoát phụ – Tiếp tục 2 – 3 cử chỉ săn sóc mỗi ngày – Tiếp tục những điều gây ngạc nhiên và hoạt động vui đùa – Tiếp đến là 3-4 thay đổi ứng xử mỗi tuần – Đọc bài tập 16 – Tài lịêu mới: Bổ sung thêm các hành vi săn sóc, và những thay đổi ứng xử khi nào bạn nghĩ ra. Ghi chú: Bạn nên giữ lại những đáp án ở các bài tập để sau này có thể tham khảo lại. Một điều nên làm nữa là bạn có 2 cuốn sổ tay, mỗi người 1 cuốn (khoảng 30-40 trang) và ghi lại tất cả những gì liên quan trong quá trình tham vấn. 16 BÀI TẬP Bài tập 1: Quan điểm hôn nhân của bạn Thời gian : Khoảng 60 phút Mục đích : Bài tập này sẽ giúp bạn hiểu biết những tiềm năng trong cuộc hôn nhân của mình. Chú thích : Cà hai vợ chồng cùng thực hành bài tập này. Chỉ dẫn : 1. Lấy hai tờ giấy, mỗi người một tờ, viết (riêng rẽ) một loạt những câu ngắn diễn đạt quan điểm cá nhân của mỗi người về những gì làm bạn thõa mãn sâu xa trong quan hệ yêu đương, bao gồm những điều bạn đã có được và muốn gìn giữ cũng như những điều bạn muốn có. Bạn viết ở thì hiện tại, điều đó đã diễn ra. Ví dụ : “Chúng tôi cùng nhau vui đùa”. “Chúng tôi ham muốn nhau”. “Chúng tôi giúp đỡ nhau”. Diễn đạt tất cả các mệnh đề theo hướng tích cực, chẳng hạn như viết: “Chúng tôi giải quyết các bất đồng một cách êm thấm”, chứ không viết: “Chúng tôi không cãi nhau”. 2. Trao đổi các ý tưởng. Ghi lại những đề mục nào có sự nhất trí và gạch dưới chúng. (Việc dùng một vài từ ngữ khác nhau không quan trọng, miễn là các ý tưởng chủ yếu giống nhau). Nếu người bạn đời viết một câu nào mà trong thâm tâm bạn tán thành nhưng chưa nghĩ đến, bạn có thể bổ sung vào danh mục của bạn. Không trao đổi về những điểm bất đồng. 3. Bây giờ quay lại với bạn danh mục của bạn và phân loại các ý tưởng (bao gồm những điều còn bất đồng) và đánh số từ 1 đến 5 theo mức độ quan trọng của chúng đối với bạn (1 là “rất quan trọng”, 5 là “không quan trọng lắm”) 4. Khuyên tròn hai ý tưởng bạn cho là quan trọng nhất. 5. Đánh dấu bên cạnh những ý tưởng nào bạn nghĩ là khó thành công nhất đối với bạn hoặc đối với cả hai vợ chồng. 6. Tiếp theo, cả hai cùng phác họa một quan điểm hôn nhân chung như ví dụ dưới đây. Khởi đầu với ý tưởng mà cả hai nhất trí là quan trọng nhất. Đánh dấu những ý tưởng cả hai cho là khó thành công nhất. Cuối danh mục, viết những ý tưởng tương đối ít quan trọng. Nếu có những ý tưởng có thể là nguồn gốc nảy sinh mâu thuẫn giữa hai người, bạn nên tìm một giải pháp thỏa hiệp. Nếu không, xóa những ý tưởng đó khỏi danh mục chung. QUAN ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA CHÚNG TÔI Chồng Quan điểm Vợ 1 Chúng tôi cùng vui đùa 1 1 Chúng tôi giải quyết êm thấm các bất đồng 1 1 Chúng tôi ham muốn và thỏa mãn lẫn nhau 1 1 Chúng tôi cùng khỏe mạnh 1 1 * Chúng tôi giao tiếp cởi mở và dễ dàng * 1 1 Chúng tôi cùng tín ngưỡng 1 1 Chúng tôi là bạn tốt của nhau 1 1 Chúng tôi cùng có những đứa con khỏe mạnh, thông minh 1 2 Chúng tôi tin cậy lẫn nhau 1 2 * Chúng tôi cùng hài lòng về nghề nghiệp * 2 2 Chúng tôi hợp nhau trong việc nuôi dạy con cái 1 2 Chúng tôi nhất trí trong những quyết định quan trọng 2 2 Chúng tôi có những nhu cầu sâu xa nhất giống nhau 2 3 Chúng tôi có những thời gian riêng tư trong ngày 4 3 Chúng tôi cảm thấy an toàn khi ở bên nhau 2 3 * Chúng tôi thoải mái về tiền bạc * 4 4 Chúng tôi sống cùng cha mẹ của chúng tôi 5 5 Chúng tôi có những quan điểm chính trị gần gũi nhau 3 ... + Đính bản danh mục này ở nơi bạn có thể trông thấy hàng ngày. Mỗi tuần một lần, lúc bắt đầu đợt chữa trị, hãy đọc to cho nhau nghe. Bài tập 2 : Những chấn thương tuổi thơ (Xem lại Chương 2 ) Thời gian : Khoảng 30 phút Mục đích : Bây giờ bạn đã có một quan điểm về tương lai, bài tập này sẽ đưa bạn trở lại quá khứ, làm sống động ký ức của bạn vể người nuôi dưỡng bạn lúc ấu thơ, về những người có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của bạn. Chú thích : Hai vợ chồng có thể cùng nhau thực hành bài tập này hoặc làm riêng rẽ. Điều quan trọng là bạn có thể thoải mái tâm trí trong khoảng 30 phút. Hãy đọc kỹ các chỉ dẫn trước khi thực hành bài tập. Chỉ dẫn : Trước tiên, bạn có thể làm một vài động tác thể dục nhẹ nhàng để thư giãn, sau đó ngồi vào một chiếc ghế êm ái, thở sâu 10 phút, thư giãn theo từng nhịp thở. Khi bạn cảm thấy thanh thản, bạn nhắm mắt và nhớ lại ngôi nhà tuổi thơ, điều đầu tiên mà bạn có thể hồi tưởng. Tưởng tượng bạn hãy còn là một đứa trẻ, nhìn căn phỏng bằng con mắt của một đứa trẻ. Bây giờ, bạn đi vòng quanh ngôi nhà và tìm kiếm những người đã ảnh hưởng sâu xa đến tuổi thơ của bạn. Khi bạn gặp lại những người đó, bạn có thể nhìn họ dưới một ánh sáng mới. Hãy dừng lại, gặp gỡ từng người. Ghi lại những ưu điểm và nhược điểm của họ. Nói với họ về những điều đã làm bạn vui sướng khi sống với họ và cả những điều làm bạn không vui. Cuối cùng, bạn nói với họ về những gì bạn muốn họ làm nhưng họ đã không làm. Đừng lưỡng lự khi chia sẻ những cảm xúc lo âu, đau khổ, buồn bã của bạn. Trong thâm tâm, bạn tỏ lòng biết ơn những người nuôi dưỡng bạn. Khi đã tìm lại được những ký ức này, bạn hãy mở mắt và ghi lại tất cả theo các chỉ dẫn trong bài tập 3. Bài tập 3 : Xây dựng Hình mẫu (Xem lại Chương 3 ) Thời gian : Khoảng 30 – 45 phút. Mục đích : Bài tập này sẽ giúp bạn ghi lại và tổng kết những hiểu biết mà bạn đã thu nhận được trong Bài tập 2. Chú thích : Bạn có thể thực hành bài tập này một mình. Chỉ dẫn : 1. Lấy một tờ giấy trắng và vẽ một vòng tròn lớn, chừa khoảng 7 – 8 cm bên dưới vòng tròn. Chia đôi vòng tròn bằng một đường kẻ ngang. Viết ở bên trái vòng tròn một chữ B (hoa) trên đường kẻ và một chữ A (hoa) dưới đường kẻ. 2. Ở nửa vòng tròn trên, bạn ghi tất cả những ưu điểm của cha, mẹ bạn và những người đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi thơ ấu của bạn. Gộp tất cả những ưu điểm lại, đừng phân nhóm chúng theo từng người. Bạn có thể làm việc này theo dòng hồi tưởng quá khứ, đừng mô tả họ như họ hiện nay. Hãy diễn đạt với những tính từ đơn giản như :”nồng nhiệt”, “thông minh”, “tin cậy”, “kiên nhẫn”, “sáng tạo”, “hiền hậu”… 3. Ở giữa vòng tròn dưới, (cạnh chữ A) bạn ghi những nhược điểm của họ và cũng gộp những điểm đó lại với nhau. Bản danh sách những ưu điểm và nhược điểm này chính là Hình mẫu của bạn. 4. Khuyên tròn những ưu điểm và nhược điểm nào bạn cho là ảnh hưởng đến bạn nhiều nhất. 5. Ở khoảng trống bên dưới vòng tròn, bạn viết một chữ C (hoa) và hoàn tất mệnh đề sau: “Những điều tôi ước ao nhất khi còn thơ ấu và đã không đạt được là …” Sau đó, bạn viết xuống dòng dưới 1 chữ D (hoa) và hoàn tất mệnh đề sau: “Khi còn thơ ấu, tôi đã có những cảm xúc tiêu cực ở …”. Sau cùng, xóa những chữ A, B, C, D. Những ghi nhận này sẽ liên quan tới Bài tập 5. Bài tập 4: Những thất vọng tuổi thơ (Xem lại Chương 2 ) Thời gian : Khoảng 30 – 45 phút. Mục đích : Bài tập này giúp bạn soi rọi những nỗi thất vọng chủ yếu trong ấu thơ và mô tả cách thức tác động đến chúng. Chú thích : Bạn có thể thực hành một mình. Chỉ dẫn : 1. Bạn lập danh sách những nỗi thất vọng thường trở đi trở lại trong tuổi thơ (xem ví dụ bên dưới). 2. Ngay sau nỗi thất vọng, mô tả vắn tắt cách thức mà bạn đã tác động trở lại đối với hoàn cảnh. (Bạn có thể có nhiều cách tác động, hãy viết ra những cách thức phổ biến hơn cả). Viết chữ E (hoa) bên trên danh mục các phản ứng như ví dụ dưới đây. BIÊN BẢN CÁC SỰ KIỆN Nỗi thất vọng Phản ứng (E) 1. Không được anh chị em quan – Cảm thấy tai họa tâm – Cố gắng để được quan tâm 2. Cha thường vắng nhà – Đôi khi cảm thấy lo sợ – Cố làm vui lòng cha. 3. Cảm thấy thấp kém hơn anh – Cam chịu thấp kém chị – Nỗ lực ganh đua trực tiếp 4. Cha nghiện rượu – Cố quên điều đó – Đôi khi cảm thấy chính mình bị đau dạ dày 5. Mẹ bảo hộ thái quá – Giữ mọi chuyện cho riêng mình – Đôi khi tỏ ra ngang bướng Bài tập 5: Gương mặt người bạn đời (Xem lại Chương 3 ) Thời gian : Khoảng 30 – 45 phút Mục đích : Bài tập này giúp bạn xác định những gì bạn ưa thích và không ưa thích ở người bạn đời và so sánh những đặc điểm của người bạn đời với những đặc điểm nhân dạng của bạn. Chú thích : Làm bài tập này một mình. Không trao đổi những nhận xét vào thời điểm này. Bài tập 12 sẽ giúp bạn sử dụng các nhận xét đó một cách hữu ích. Chỉ dẫn : 1. Bạn vẽ một vòng tròn lớn, chừa lại 7-8 cm bên dưới vòng tròn. Chia vòng tròn làm hai nửa bằng một đường kẻ ngang, tương tự như ở Bài tập 3. Viết ở bên trái vòng tròn một chữ F (hoa) trên đường kẻ và một chữ G (hoa) dưới đường kẻ. 2. Ở nửa vòng tròn trên (cạnh chữ F), bạn ghi những ưu điểm của người bạn đời, trước tiên là những gì đã hấp dẫn bạn. 3. Ở nửa vòng tròn dưới (cạnh chữ G), bạn ghi những nhược điểm của người bạn đời. 4. Khuyên tròn những ưu điểm và nhược điểm nào dường như có ảnh hưởng đến bạn nhiều nhất. 5. Bây giờ trở lại Bài tập 2 và so sánh những đặc điểm Hình mẫu của bạn với những đặc điểm của người bạn đời. Đánh dấu những điểm tương đồng. 6. Ở dưới vòng tròn, viết chữ H (hoa) và hoàn tất mệnh đề sau: “Những điều làm tôi vui thích ở người bạn đời của tôi là…” 7. Sau đó viết chữ I (hoa) ở dòng dưới và hoàn tất mệnh đề sau: “Những điều tôi mong muốn ở người bạn đời của tôi nhưng đã không đạt được là…” Bài tập 6: Những điều còn dang dở (Xem lại Chương 2 ) Thời gian : Khoảng 15 – 20 phút. Mục đích : Bài tập này nhằm tổ chức lại những điều được nhận thức từ các bài tập 2 – 3 – 4 – 5 trong một mô hình về những gì còn dang dở của bạn, một đề cương bị che giấu mà bạn đã đưa vào mối quan hệ yêu đương. Chú thích : Làm bài tập này một mình. Chỉ dẫn : Viết vào một tờ giấy những gì mà bạn sẽ chỉ viết ra khi “gan cùng mình”. Hoàn tất các mệnh đề dưới đây bằng những câu thích hợp mà bạn đã viết trong các bài tập trước (trong ngoặc đơn): – “Tôi đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm một người có những đặc điểm…” (những đặc điểm bạn đã gạch dưới ở A và B trong Bài tập 3) – “Khi tìm được một người như vậy, tôi lại thấy phiền muộn bởi những đặc điểm…” (những đặc điểm bạn đã gạch dưới ở A trong Bài tập 3 – bước 4 ) – “Và tôi muốn người ấy sẽ mang lại cho tôi…” (ở C trong Bài tập 3, bước 5 ) – “Khi những mong muốn của tôi không được đáp ứng, tôi cảm thấy…” (ở D trong Bài tập 3, bước 6 ) – “Và tôi thường phản ứng theo cách thức…” (ở E trong Bài tập 4 ). * Bài tập 6 hoàn tất phần đầu tiên của các bài tập. Bạn đã có một quan điểm về hôn nhân, một mô tả về Hình mẫu của bạn, một biên bản về những nỗi thất vọng đầu đời và những cách thức phản ứng, một danh mục những điều bạn ưa thích và không ưa thích ở người bạn đời và cuối cùng là một đề cương bị che giấu mà bạn đã đưa vào cuộc hôn nhân của mình. Bài tập 7: Soi gương (Xem lại Chương 9 ) Thời gian : Khoảng 45 – 60 phút Mục đích : Bài tập này sẽ tập cho bạn cách gửi đi những thông điệp đơn giản và rõ ràng, cẩn thận lắng nghe những gì người bạn đời nói, và để hiểu người bạn đời của mình một cách chính xác. Những kỹ năng này sẽ dẫn bạn đến một giao tiếp sáng tỏ và hữu hiệu. Chú thích : Cả 2 vợ chồng cùng thực hành. Chỉ dẫn : 1. Bài tập này được thực hành bởi một ngôn ngữ giao tiếp đơn giản và “trung tính”. Một người gửi thông điệp còn người kia nhận. Người gửi sẽ trình bày một thông điệp đơn giản bắt đầu bằng từ “Tôi…” “Anh…”, “Em…” để diễn đạt một cảm xúc hay một ý tưởng. Ví dụ: “Sáng nay anh thức dậy và cảm thấy lo lắng vì công việc”. 2. Nếu mệnh đề quá phức tạp, người nhận có thể hỏi lại cho rõ: “Anh có thể nói ngắn hơn không?”. Khi một mệnh đề sáng tỏ và đơn giản được gửi đi, người nhận sẽ diễn giải nó và hỏi lại cho rõ: Ví dụ: “Sáng nay anh thức dậy và cảm thấy muốn ở nhà hơn là đi làm. Em hiểu vậy có đúng không?”. (Hỏi lại cho rõ là rất quan trọng, vì nó biểu lộ một cố gắng để hiểu thông điệp). 3. Người gửi sẽ đáp lại bằng câu: “Em hiểu đúng đấy!” hoặc làm sáng tỏ thông điệp của mình như: “Không hẳn vậy. Sáng nay anh vẫn muốn đi làm nhưng lại thấy chán những gì xảy ra ở cơ quan”. Quá trình này được tiếp tục tới khi người gửi công nhận rằng những gì mình nói, mình nghĩ, mình cảm thấy đã được truyền đạt chính xác. (Bài tập này đôi khi có cảm giác không tự nhiên, khúc mắc, nhưng lại là cách thức hiệu quả để bảo đảm sự giao tiếp chính xác). 4. Đổi vai trò và tiếp tục một giao tiếp đơn giản khác. Thực hành vài lần tới khi bạn trở nên thành thạo. 5. Bây giờ sử dụng kỹ thuật giao tiếp này để chia sẻ những gì bạn thu hoạch được khi thực hành bài tập 2, bài tập về tưởng tượng. Bạn đổi vai trò lần nữa. Khi bạn là người nghe, hãy cố lắng nghe người bạn đời của mình một cách chăm chú. Bạn có thể yêu cầu làm sáng tỏ thông điệp được gửi nhưng đừng thử phân tích tâm lý người gửi và đừng suy diển thêm thắt. Khi nghe, bạn hãy cố gắng hình dung “đứa trẻ bị tổn thương” ở người bạn đời của mình. Bài tập 8: Quyết định Không-cửa-thoát (Xem lại Chương 7 ) Thời gian : Khoảng 60 – 90 phút Mục đích : Bài tập này có hai mục đích. – Củng cố việc giữ hai vợ chồng ở bên nhau trong suốt thời gian thực hành các bài tập. – Tăng cường từng bước mức độ thân mật. Chú thích : Cả hai cùng nhau thực hành. Chỉ dẫn : 1. Hình dung mối quan hệ của bạn được thể hiện bằng một hình chữ nhật với 4 cạnh đục thủng từng đoạn. Những khe hở là các “cửa thoát”, những con đường không thích hợp để bạn tìm kiếm sự an toàn, thỏa mãn các nhu cầu và làm kiệt quệ năng lượng của quan hệ hôn nhân. Bốn góc là 4 cửa thoát bi thảm : tự sát, ly dị, bạo hành và điên khùng. Hãy rà soát lại xúc cảm và ý nghĩ của bạn xem có lúc nào bạn định rời bỏ hôn nhân qua một trong những cửa thoát bi thảm đó không. Nếu như có, tôi khuyến cáo bạn hãy đóng tức khắc cánh cửa đó trong thời gian hai vợ chồng bạn cùng nhau thực hành các bài tập. 2. Bạn lấy 4 tờ giấy, mỗi người 2 tờ. Ở tờ thứ nhất, bạn lên danh sách toàn bộ những cửa thoát thường có, chẳng hạn như: bỏ bữa ăn gia đình, ở lại công sở quá giờ làm, luẩn quẩn bên các con suốt ngày, … bất cứ cung cách nào mà bạn dùng để tránh né người bạn đời (xem lại Chương 7). 3. Ở trang thứ 2, bạn lên danh sách (cho riêng bạn) tất cả những cửa thoát của người bạn đời mà bạn cảm nhận được. 4. Dùng kỹ thuật “soi gương” mô tả ở Bài tập 7, trao đổi những điều ghi chép giữa hai vợ chồng. Yêu cầu người bạn đời bình luận và bổ sung. Ví dụ: Vợ : Em nghĩ rằng một trong những lý do mà anh mang việc ở cơ quan về nhà làm trong ngày Chủ nhật là để tránh trò chuyện với em. Chồng : Em nghĩ là anh mang việc cơ quan về nhà làm ngày Chủ nhật là để tránh trò chuyện với em, phải không? Vợ : Không hoàn toàn như vậy. Em chỉ nghĩ đó là một trong nhiều lý do mà thôi. Em biết anh có những lý do khác. Chồng : Anh hiểu rồi. Em nói rằng một trong những lý do khiến anh mang việc ở cơ quan về nhà làm trong ngày Chủ nhật là để giảm bớt thời gian bên em. Đúng không nào? Vợ : Vâng. Anh hiểu đúng ý em đấy! 5. Hoàn tất danh sách các cửa thoát của bạn bởi những ý kiến bổ sung của người bạn đời. 6. Bây giờ, bạn đánh dấu những cửa thoát mà bạn quyết tâm loải bỏ hoặc giảm bớt trong giai đoạn này. Đánh một dấu X bên cạnh những gì bạn cảm thấy khó khăn khi phải thay đổi chúng. 7. Viết thỏa thuận sau đây và điền thêm vào khoảng trống: “Bắt đầu từ tuần này (ghi ngày cụ thể) tôi sẽ dành nhiều thời gian và công sức cho cuộc hôn nhân của tôi. Đặc biệt là…” Sau đây là một ví dụ về danh sách các cửa thoát của người chồng và thỏa thuận giảm bớt của anh ta: CÁC CỬA THOÁT – Gọi điện thoại làm việc buổi tối. – Xem các chương trình thể thao cuối tuần. – Ngồi lì trước tivi đến khuya. – Không tham khảo ý kiến vợ cho các kế hoạch gia đình. – Dây muộn hơn vợ – Về nhà sau bữa tối – Lơ đãng khi vợ nói chuyện. – Đi ngủ muộn hơn vợ. Thỏa thuận: Bắt đầu từ tuần này (21 – 28 tháng 9), tôi sẽ không gọi điện thoại làm việc các buổi tối. Nếu có ai gọi tôi, tôi sẽ yêu cầu họ gọi vào giờ làm việc ban ngày. Tôi cũng sẽ vào giường ngủ trước 11 giờ đêm, và dậy lúc 6 giờ 30 sáng mỗi ngày. 8. Trước khi sơ kết mỗi đợt tham vấn, dành riêng, một khoảng thời gian để trò chuyện giữa hai vợ chồng về những giờ phút bên nhau như một lứa đôi hạnh phúc và việc đóng các cửa thoát phụ có ý nghĩ như thế nào với mỗi người. (Sử dụng kỹ thuật “soi gương” nếu như có đôi chỗ bất đồng về quan điểm). Nếu bạn thấy quyết định gần gũi nhau nhiều hơn là hữu ích, hãy tự đòi hỏi mình loại bỏ hoặc giảm bớt các cửa thoát khác. Viết một thỏa thuận tương tự những gì bạn đã viết trước đó. Quan hệ yêu đương có thể và thực sự đã tồn tại trong tất cả các nền văn hóa, nhưng hôn nhân đặt cơ sở trên tình yêu và lựa chọn lẫn nhau đòi hỏi tự do và bình đẳng nam nữ. Bài tập 9: Tái lãng mạn hóa (Xem lại Chương 8 ) Thời gian : Khoảng 60 phút Mục đích : Chia sẻ hiểu biết về những gì làm bạn hài lòng và thỏa thuận sẽ làm hài lòng người bạn đời của bạn một cách thích hợp và thông thường, việc đó sẽ giúp đưa cuộc hôn nhân của bạn vào một vùng an toàn. Chú thích : Có thể làm từ bước một đến bước 3 riêng rẽ. Nhưng bước tiếp theo, hãy cùng nhau làm. Chỉ dẫn : 1. Bước đầu tiên trong tiến trình này là nhận dạng những gì mà người bạn đời sẵn sàng làm để bạn được hài lòng. Lấy một tờ giấy và hoàn tất mệnh đề dưới đây (với nhiều cung cách, nhấn mạnh những gì tích cực và thường xuyên): “Anh cảm thấy được yêu thương và săn sóc khi em…” VÍ DỤ : … rót đầy tách cà phê đã cạn của anh. … để anh lướt qua trang báo trước khi vào việc … hôn anh khi em đi làm. … thỉnh thoảng lại gọi điện thoại cho anh giữa buổi. … kể cho anh nghe những gì mới xảy ra với em. … đấm lưng cho anh. … nói rằng em yêu anh. … tặng anh một món quà nhỏ. … ngồi sát bên anh cùng xem tivi … lắng nghe anh khi … bàn bạc mọi kế … làm bữa tối Chủ … âu … động viên anh khi cần thiết. anh gặp chuyện hoạch gia đình nhật dành riêng yếm buồn với cho phiền anh. anh. anh 2. Hồi tưởng lại những chi tiết lãng mạn trong thời kỳ yêu đương. Hành vi săn sóc nào hai vợ chồng đã dành cho nhau mà giờ đây không còn nữa? Hãy làm lại điều đó và lấy một tờ giấy khác, hoàn tất mệnh đề sau: “Em đã từng cảm thấy được yêu thương và săn sóc khi anh…” VÍ DỤ : … viết cho em những lá thư tình. … tặng em những đóa hoa. … cầm tay em khi chúng ta đi dạo. … thì thầm bên tai em những lời âu yếm. … gọi điện thoại cho em chỉ để nói rằng anh yêu em. … muốn ở bên em thật lâu. 3. Bây giờ nghĩ đến những hành vi yêu thương và săn sóc mà bạn luôn luôn ao ước những đã không đòi hỏi ở người bạn đời. Những điều này có thể xuất phát từ ý tưởng của bạn về một cuộc tình hoàn hảo hay một kinh nghiệm trước đây (dẫu sao, chúng cũng không dẫn đến những gì là nguồn gốc của xung đột hiện tại). Chúng có thể là những điều tưởng tượng rất cá nhân. Đừng bao giờ định lượng những yêu cầu của bạn. Hãy hoàn tất mệnh đề sau: “Em muốn VÍ DỤ … làm massage cho em liên tục … mua cho em vài món nữ trang … đi du lịch với em trong … đưa em đi nhà hàng mỗi tháng một lần. 30 bất mùa anh…” : phút ngờ hè 4. Bây giờ bạn tổng hợp cả 3 bản danh mục và sắp xếp các hành vi săn sóc theo mức độ quan trọng, đánh số từ 1 đến 5 bên cạnh mỗi dòng. Số 1 là “rất quan trọng”, số 5 là “không quan trọng lắm”. 5. Trao đổi các bản danh mục. Rà soát bản danh mục của người bạn đời và đánh dấu X những mục mà bạn không sẵn sàng làm ngay lúc này. Những mục còn lại sẽ được xem xét. Bắt đầu từ ngày mai, bạn hãy làm ít nhất hai hành vi không gây tranh cãi mỗi ngày trong suốt 2 tháng, đi từ điều dễ dàng nhất. Khi nào bạn nghĩ ra một điều gì mới hãy bổ sung vào danh mục. Nếu người bạn đời làm một cử chỉ săn sóc nào đó, hãy đón nhận với thái độ thích thú. Như bạn đã được lưu ý trong Chương 8, những hành vi săn sóc ấy là những tặng phẩm, đừng coi đó là một nghĩa vụ. Hãy làm các hành vi săn sóc một cách vui vẻ và đừng quan tâm tới việc mình cảm nhận ra sao về người bạn đời, cũng như việc người bạn đời đó dành bao nhiêu hành vi săn sóc cho bạn. 6. Hoặc bạn hoặc người bạn đời của bạn cảm thấy chống đối bài tập này, hãy cứ duy trì các hành vi săn sóc tới khi cảm giác chống đối đó qua đi. (xem lại những giải thích về Nỗi sợ hãi – Sự hài lòng ở Chương 8 ) Bài tập 10: Danh mục gây ngạc nhiên (Xem lại Chương 8 ) Thời gian : khoảng 15 -20 phút. Mục đích : Bổ sung cho các hành vi săn sóc trong Bài tập 9 những cảm giác hài lòng bất ngờ cũng như cảm giác an toàn và liên đới. Chú thích : Chuẩn bị bài tập này một mình và phải giữ kín với người bạn đời. Chỉ dẫn : 1. Lập danh sách những điều có thể làm cho người bạn đời đặc biệt vui thích. Đừng phỏng đoán mà hãy lục lọi trong trí nhớ của bạn xem điều gì đã từng làm người bạn đời của bạn vui thích, hoặc những gì mà người ấy đã gợi ý. Hãy làm một cuộc điều tra, tìm hiểu về những ước muốn, khao khát không thổ lộ của người bạn đời, giữ kín bản danh sách ấy trong suốt thời gian này. 2. Chọn một điều và thực hành ngay trong tuần khiến người bạn đời ngạc nhiên thích thú. Hãy làm ít nhất một điều gây ngạc nhiên trong tuần ở thời điểm thích họp mà người bạn đời của bạn không ngờ nhất. 3. Ghi lại thời điểm bạn thực hiện điều đó. 4. Ở một tờ giấy khác, bạn ghi lại sự kiện và thời điểm mà người bạn đời của bạn mang tới cho bạn một điều ngạc nhiên thích thú. Hãy cảm ơn người bạn đời vì điều đó. Bài tập 11: Danh mục vui đùa (Xem lại Chương 8 ) Thời gian : Khoảng 20 – 30 phút Mục đích : Tăng cường những liên đới xúc cảm của bạn, đồng thời khơi sâu cảm giác về sự an toàn và hài lòng. Chú thích : Hai vợ chồng làm bài tập này cùng nhau. Chỉ dẫn : 1. Lập danh sách những hoạt động vui vẻ và kích thích mà bạn muốn chia sẻ với người bạn đời, bao gồm những kinh nghiệm mặt đối mặt và những tiếp xúc cơ thể mang lại sự hài lòng sâu đậm. Ví dụ như : khiêu vũ, massage, vật nhau, trêu chọc, đạp xe, sex… 2. Trao đổi bản danh sách và tổng hợp thành một danh sách chung tất cả các đề nghị của cả hai. 3. Chọn một hoạt động trong danh sách và thực hiện hàng tuần. 4. Bạn có thể có cảm giác chống đối với những hoạt động hào hứng và “con nít” đó – đặc biệt nếu bạn đang sống trong một quan hệ hôn nhân trục trặc. Hãy đi thẳng người, đừng để tuổi tác làm lưng bạn còng xuống và hãy thử nghiệm một chuyến đi ngắn trở lại tuổi ấu thơ. Bài tập 12: Giải tỏa (Xem lại Chương 10 ) Thời gian : Khoảng 60 – 90 phút Mục đích : Bài tập này giúp bạn thấu hiểu những nhu cầu sâu thẳm của người bạn đời và mang đến cho bạn một cơ hội thay đổi hành vi ứng xử của mình để đáp ứng những nhu cầu đó. Khi bạn giải tỏa sự chống đối của mình, người bạn đời của bạn sẽ được chữa trị các chấn thương tâm lý và bạn sẽ trở nên một cá thể toàn vẹn hơn và nhân ái hơn. Chú thích : Đây là bài tập rất quan trọng. Tôi lưu ý lần nữa là bạn hãy dành cho nó sự ưu tiên cao nhất. Chỉ dẫn : 1. Bước đầu tiên trong bài tập này là nhận dạng những ước muốn ẩn đằng sau những nỗi thất vọng của bạn. Lấy một tờ giấy, lập một bản danh mục toàn diện tất cả những điều bạn cảm thấy bực bội về người bạn đời. Khi nào người bạn đời khiến bạn cảm thấy lo âu, khó chịu, sợ hãi, nghi ngờ, oán giận, đau khổ, cay đắng? Sau đây là một ví dụ: BẢN DANH MỤC CỦA NGƯỜI VỢ “Em không vui khi anh… … lái xe quá nhanh. … ra khỏi nhà mà không nói với em là anh đi đâu. … chỉ trích em trước mặt các con. … làm mất uy tín của em trước các con. … đọc báo trong bữa tối. … châm chọc em trước mặt bạn bè. … lơ đãng khi nghe em nói chuyện. … bỏ mặc em khi em lo buồn, khóc lóc. … chỉ trích em khi em tỏ ra do dự … chỉ trích em khi em vụng về trong việc nhà. … luôn nói rằng anh làm ra nhiều tiền hơn em. 2. Lấy 1 tờ giấy khác và nghĩ ra những ước muốn ẩn đằng sau mỗi nỗi thất vọng. Bỏ cách một vài dòng sau mỗi ước muốn được ghi ra. Không ghi những nỗi thất vọng mà chỉ ghi những ước muốn thôi. (Đây là điều cần làm, vì bạn sẽ đưa tờ giấy này cho người bạn đời của mình). Ví dụ: Ước muốn : (liên hệ với nỗi thất vọng được ghi trước đó) em muốn được cảm thấy an toàn và thư thái khi anh lái xe. 3. Dưới mỗi ước muốn, ghi ra những yêu cầu đặc trưng, những gì có thể giúp bạn thỏa mãn ước muốn. Điều quan trọng là những yêu cầu đó “tích cực” và dẫn đến một hành vi tương ứng. Ví dụ: Ước muốn : Em muốn được cảm thấy an toàn và thư thái khi anh lái xe. Yêu cầu : Khi anh lái xe, em muốn anh lưu tâm đến giới hạn tốc độ. Nếu đường xấu, em muốn anh lái xe chậm hơn. Ước muốn : Em muốn anh an ủi em khi em lo buồn. Yêu cầu : Khi em nói với anh rằng em gặp chuyện lo buồn, em muốn anh nhẹ nhàng ôm em và quan tâm sâu sắc tới những gì em thổ lộ. Bạn hãy ghi những yêu cầu này tương ứng với các hành vi tích cực và rõ ràng. Sau đây là ví dụ về những yêu cầu không rõ ràng: Yêu cầu mơ hồ: Em muốn anh tỏ ra quan tâm hơn. Bạn có thể viết lại yêu cầu này một cách chi tiết: Yêu cầu rõ ràng : Em muốn anh ôm hôn em khi em đi làm về. Sau đây là 1 ví dụ về những yêu cầu “tiêu cực”: Yêu cầu tiêu cực: Em muốn anh đừng quát mắng em khi em tỏ ra lúng túng. Bạn có thể viết lại yêu cầu này để diễn đạt một hành vi tích cực : Yêu cầu tích cực: Khi anh có điều gì không bằng lòng với em, em muốn anh nói nhẹ nhàng, bình tĩnh. 4. Trao đổi bản danh sách này giữa 2 bạn (bản danh sách những ước muốn, không ghi những nỗi thất vọng). Sử dụng kỹ năng giao tiếp để làm sáng tỏ những ước muốn và yêu cầu để cả hai cùng hiểu rõ. Nếu cần, viết lại những điều bạn yêu cầu để người bạn đời hiểu chính xác là bạn mong muốn nhận được hành vi ứng xử nào. 5. Bây giờ lấy bản danh sách những yêu cầu của mình và đánh số bên lề trái từ 1 đến 5 cho những mục bạn cho là quan trọng, 1 là “rất quan trọng”, 5 là “không quan trọng lắm”. 6. Trao đổi bản danh sách này một lần nữa giữa hai bạn. Bạn có trong tay bản danh sách những ước muốn và yêu cầu của người bạn đời. Bên lề phải, bạn đánh số từ 1 đến 5 những mục mà bạn cảm thấy khó khăn khi thực hiện để thỏa mãn người bạn đời của mình, số 1 là “rất khó”, số 5 là “không đến nỗi khó lắm”. 7. Giữ lại bản danh sách của người bạn đời. Bắt đầu từ hôm nay, bạn tìm cơ hội để thỏa mãn 3 hoặc 4 yêu cầu của người ấy. Hãy nhớ rằng mỗi hành vi là một tặng phẩm. Đừng để ý đến việc mình cảm thấy ra sao khi làm điều đó cũng như việc người bạn đời của mình đã thay đổi như thế nào. Giữ một mức độ ổn định 3 – 4 thay đổi hành vi ứng xử mỗi tuần (bạn hãy can đảm bổ sung thêm một vài yêu cầu vào bản danh sách đúng lúc cần thiết). Bài tập 13: Dây chuyền kiềm chế (Xem lại Chương 11 ) Thời gian: Khoảng 30 phút để nghiên cứu các chỉ dẫn và thực hiện bài tập. Mục đích : Bài tập này cho phép bạn biểu lộ nỗi bực bội, tức giận đối với người bạn đời trong một môi trường an toàn và xây dựng. Chú thích : Bài tập này sẽ là phương pháp chuẩn mực để bạn ứng xử với nỗi tức giận. Với cả hai vợ chồng, nó có tầm quan trọng lớn lao dẫu một trong hai người có thể thực hiện nó một cách dễ dàng. Chỉ dẫn : 1. Khi một trong hai vợ chồng có một nỗi thất vọng nặng nề, hãy lưu ý người kia bằng cách nói: “Em có một chuyện khó chịu (hoặc “Em bực mình quá”) anh có sẵn sàng nghe em nói không.” Hãy thực hành ngay điều này. 2. Người chống đỡ hít một vài hơi thở sâu, cố gắng hình dung người đang bộc lộ nỗi lòng như 1 đứa trẻ bị tổn thương và hãy tỏ ra chú ý lắng nghe. Nếu đang mắc bận, hãy cố thu xếp để có được 5-10 phút ngay sau đó dành cho người bộc lộ. 3. Khi người chống đỡ đã sẵn sàng, người bộc lộ cần lưu ý quy tắc: có thể diễn tả những gì đã làm mình bực bội, nhưng không được dùng những ngôn ngữ có tính cách lăng mạ hay chỉ trích tâm tính người kia (Ví dụ : Có thể nói : “Em bực mình vì anh đã quên gửi hộ em lá thư quan trọng ấy” chứ đừng nói: “Anh thật vô trách nhiệm!”). Người bộc lộ có thể diễn đạt bằng giọng nói gay gắt nhưng đừng tỏ thái độ thù địch với người nghe và không nên có bất kỳ hành động đập phá thô bạo nào. Bạn hãy thực hành việc biểu lộ một thái độ giận dữ. Hãy nghĩ ra một đề tài nào đó, chẳng hạn: “Đêm qua, em rất bực mình vì anh tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm. Em có cảm giác là anh chẳng thèm nghe bất cứ điều gì em nói”. 4. Khi nỗi thất vọng đã được truyền đạt, người tiếp nhận thông điệp sẽ diễn giải nó không phải với thái độ phản ứng mà hãy dùng kỹ thuật đã được mô tả trong bài tập “Soi gương”: “Anh hiểu là em đang rất phiền muộn vì đêm qua anh đã không chăm chú nghe em nói chuyện, khiến em cảm thấy như bị bỏ rơi”. Tiếp tục tiến trình này, người kiềm chế công nhận rằng người kia bực bội là đúng nhưng không nhất thiết phải tán thành ý kiến của người kia. 5. Khi thông điệp đã gửi và được nhận, người bực bội có thể chuyển nỗi thất vọng vào một yêu cầu “thay đổi thái độ” và bổ sung yêu cầu này vào danh sách các yêu cầu đã được lập. Bài tập 14: Thực hành kiềm chế (Xem lại Chương 11 ) Thời gian : Khoảng 15 phút để nghiên cứu các chỉ dẫn. Mục đích : Bài tập này nhằm mở rộng hiệu quả chữa trị của Bài tập 13, Dây chuyền kiềm chế, sang 1 thời kỳ dài hơn cho phép bạn đào sâu các xúc cảm, làm bộc lộ và giảm thiểu hơn nữa nỗi sợ hãi và tình trạng bực bội giữa hai vợ chồng. Chú thích : Bạn có thể thực hành bài tập này tùy ý. Chỉ dẫn : 1. Bài tập Thực hành kiềm chế là phần mở rộng của bài tập trước. Ở ngày đầu tiên của bài tập này, bạn đóng vai người bộc lộ còn người bạn đời của bạn trong vai người chống đỡ. Nếu bạn là người bộc lộ, bạn thoải mái thể hiện nỗi thất vọng của mình bất kỳ lúc nào, trong một ngày từ sáng đến khuya, chẳng cần e ngại các phản ứng tiêu cực. Người kia sẽ lắng nghe và diễn giải ý kiến của bạn nhưng không được phép phản ứng bằng một cung cách chống đối và xâm lấn. 2. Ngày tiếp theo, hai vợ chồng đổi vai cho nhau, điều quan trọng là những ngày đổi vai trò cho nhau sẽ giúp bạn thu thập kinh nghiệm ở cả hai phía của cuộc “chạm trán”. 3. Những quy tắc tương tự ở bài tập Dây chuyền kiềm chế cũng được áp dụng ở đây : không tỏ thái độ thù địch, không xâm hại đến người kia hoặc đập phá thô bạo. 4. Một lần nữa, bạn có thể chuyển những nỗi thất vọng của bạn vào các yêu cầu “thay đổi thái độ” sau đó. Bài tập 15: Tự hợp nhất (Xem lại Chương 2 ) Thời gian : Khoảng 15 – 30 phút Mục đích : Mục tiêu của bài tập này là hợp nhất các khía cạnh của bản ngã bị chối bỏ, giả tạo và đã mất của bạn, khiến bạn nhận thức được sự toàn vẹn bản chất của mình. Chú thích : Bạn đã theo đuổi các bài tập trong nhiều tuần lễ, bạn đã mở rộng cảm quan của mình về bản ngã, bằng cách phá hủy bản ngã giả tạo, khôi phục bản ngã bị phủ nhận và tìm lại bản ngã bị mất. Bài tập này giúp bạn ý thức hơn về những thay đổi đó. Hai bạn có thể thực hành bài tập này riêng rẽ hoặc cùng nhau. Chỉ dẫn : 1. Lấy 1 tờ giấy và kẻ 1 đường thẳng đứng ở giữa. 2. Kẻ 2 đường thẳng ngang chia tờ giấy làm 3 phần. Tờ giấy của bạn đã có 6 hình vuông như hình vẽ dưới đây . 3. Bạn giở lại sổ tay đến khi tìm thấy đáp án ở Bài tập 3 (Xây dựng hình mẫu) và Bài tập 5 (Gương mặt người bạn đời). Ở ô vuông góc trên bên trái, bạn ghi những nhược điểm nổi trội ở người nuôi dưỡng bạn và người bạn đời. Đặt tên cho ô này là : “Bản ngã bị chối bỏ của tôi”. Suy nghĩ về phạm vi mà những nhược điểm đó có thể hiện hữu ở bạn. Đã có ai đó, đặc biệt là người bạn đời của bạn, nói rằng bạn có những nhược điểm ấy? Giả sử rằng những nhược điểm ấy là sự mô tả chính bạn. Bạn sẽ như thế nào hoặc sẽ cư xử ra sao nếu bạn không có những nhược điểm ấy? Mô tả con người bạn nếu như không có những nhược điểm ấy – ở ô vuông góc trên bên phải. Viết ngắn gọn với cung cách tích cực bắt đầu bằng chữ “Tôi …” . Ví dụ : “Tôi nồng nhiệt”, “Tôi có trách nhiệm”. “Tôi có giáo dục …” … 4. Ở ô vuông giữa bên trái, bạn ghi những ưu điểm của người nuôi dưỡng bạn và người bạn đời. Có thể một số trong những ưu điểm đó là sự mô tả bản ngã bị mất của bạn, một phần của chính con người bạn đã bị đề nén ở tuổi ấu thơ. Đặt tên cho ô này là “Bản ngã bị mất của tôi”. Hãy tự hỏi: phải chăng cha mẹ bạn, người bạn đời của bạn đã đòi hỏi bạn phát triển những ưu điểm ấy? Cứ xem như những ưu điểm ấy là những khía cạnh bị đè nén của chính con người bạn, bạn sẽ như thế nào hoặc sẽ cư xử ra sao nếu bạn có những ưu điểm ấy? Bạn hãy viết những câu trả lời vào ô vuông giữa bên phải, cũng ngắn gọn, với cung cách tích cực và ở thì hiện tại. Ví dụ: “Tôi lãng mạn”, “Tôi sống nội tâm”, “Tôi tỉnh táo”… 5. Bạn suy nghĩ về những ưu điểm mà bạn đã phát triển để có được hay giữ được tình cảm của cha mẹ bạn, đồng thời nghĩ về những gì mà bạn làm hiện nay để khiến người khác hài lòng về bạn. Lập danh sách những điểm đó ở ô vuông bên dưới góc trái. (Ví dụ: “Tôi cố gắng trở nên hoàn hảo”, “Tôi ngoan ngoãn”, “Tôi rất có trách nhiệm”, “Tôi thuần tính” …). Đặt tên cho ô này là “Bản ngã giả tạo của tôi”. Bây giờ bạn nghĩ xem mình sẽ như thế nào và cư xử ra sao nếu như bạn không phải gò mình vào những tính cách thích ứng như thế? Lập danh sách những điểm đó ở ô vuông góc phải bên dưới. Cũng dùng những cách trình bày đơn giản và tích cực, như: “Tôi quyết đoán”, “Tôi có thể biểu lộ sự giận dữ”, “Tôi có thể thoải mái và không cần phải cố để hoàn hảo”… 6. Ở trên đỉnh của cả 3 ô vuông bên phải, bạn ghi “Bản ngã đích thực của tôi”. Ba ô vuông này mô tả tiềm năng đích thực của bạn. Đọc lại những điều mô tả này mỗi tuần một lần. Khi đọc, chú ý ghi nhận những gì mà sự mô tả này không trùng khớp với con người hiện thực của bạn lúc này. Bạn tự hình dung ra sự thay đổi đã khiến sự mô tả này trở nên sai lệch. Bài tập 16: Tưởng tượng về Tình yêu Thời gian : Ba lần mỗi ngày – mỗi lần một phút. Mục đích : Bài tập này khuếch đại những biến đổi tích cực mà bạn đã làm trong mối quan hệ hôn nhân thành những sức mạnh gợi mở của trí tưởng tượng. Chú thích : Bạn hãy trầm tư, suy ngẫm bài tập này mỗi ngày. Chỉ dẫn : 1. Ba lần mỗi ngày, bạn làm như sau: Nhắm mắt, thở sâu và tưởng tượng về người bạn đời. Làm rõ dần hình ảnh đó đến khi bạn thấy người bạn đời của mình như một thực thể toàn vẹn và sống động, đó là người đã chịu những tổn thương mà giờ đây bạn biết rõ. Giữ hình ảnh ấy trong tâm trí và tưởng tượng rằng tình yêu của bạn sẽ chữa lành những vết thương của người bạn đời. 2. Bây giờ, bạn hãy tưởng tượng rằng dòng năng lượng của tình yêu mà bạn vừa chuyển đến người bạn đời đang quay trở lại và chữa lành những vết thương của chính bạn. Bạn tưởng tượng rằng dòng năng lượng ấy chảy ngược lại và cứ thế dao động liên tục không ngừng nghỉ giữa bạn và người bạn đời của bạn. Một phút trôi qua, bạn mở mắt và lại tiếp tục những gì bạn đang làm. Phần kết: TÌM KIẾM SỰ TRỢ GIÚP CHUYÊN MÔN Một số cặp vợ chồng muốn đào sâu hiểu biết của mình về mối quan hệ hôn nhân và thu nhập những kỹ năng bổ sung qua quá trình tham vấn ở một bác sĩ tâm lý. Điều đáng tiếc là, tham vấn hôn nhân đã bị khá nhiều tai tiếng trong những năm trước đây. Thời gian vừa qua, chỉ những người nào gặp nỗi bất hạnh lớn lao hoặc có đủ can đảm mới tìm đến các chuyên gia tâm lý hôn nhân. Nhưng giờ đây, ngày càng nhiều cặp vợ chồng quyết định tìm kiếm sự trợ giúp trước những nỗi hiểm nguy không né tránh được trong hôn nhân. Những người này mong muốn nâng cao chất lượng cuộc sống của mình và nhận thức được rằng không có gì quan trọng đối với họ hơn là mối quan hệ yêu đương đầu tiên…Họ dứt khoát tìm đến một chuyên gia tâm lý hôn nhân như thể tìm đến một người thầy có thể khuyên bảo họ, bởi lẽ bạn sẽ học hỏi nhanh hơn và tốt hơn nếu có sự hướng dẫn của một chuyên gia. Một lợi ích chính yếu của việc tìm đến bác sĩ tâm lý là bạn sẽ thúc đẩy quá trình hợp nhất những gì còn tán loạn trong cõi vô thức. Một bác sĩ tâm lý sẽ giúp bạn khoanh vùng những khu vực mù lòa trong tâm trí bạn, thâm nhập vào cõi vô thức và sau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, bạn có thể hợp nhất với đời sống sâu thẳm của chính mình. Kết quả là, bạn sẽ đỡ tốn phí quá nhiều thời gian để khởi động cỗ máy tâm lý của tình yêu. Một lý do tích cực nữa để tìm kiếm sự trợ giúp của bác sĩ tâm lý là bạn sẽ có thêm một thước đo về sự an toàn và tin cậy. Khi bạn nhận thức trên một nền tảng mới, bắt đầu trải nghiệm một vài nỗi lo âu, bác sĩ tâm lý sẽ giúp bạn hiểu đúng những gì làm bạn sợ hãi. Có được sự an tâm và sáng suốt, bạn sẽ có khả năng tiến lên phía trước thay vì tìm cách thoái lui về một vị trí “an toàn”. Điều này tỏ ra đặc biệt có giá trị cho những đôi vợ chồng đang gặp những trục trặc lớn. Lý do cuối cùng để bạn tìm kiếm một sự tham vấn chuyên môn là nó cung cấp cho bạn một môi trường thich hợp cho quá trình trưởng thành. Nếu như bạn có ít thời gian rảnh hoặc nhu cầu không thúc bách lắm, những đợt chữa trị hàng tuần cũng có thể khích lệ bạn rất nhiều. Nếu bạn thật sự muốn tham vấn ở một bác sĩ tâm lý, tôi có thể đưa ra vài lời khuyên. Thứ nhất, bạn hãy tìm đến một bác sĩ tâm lý chuyên về tư vấn hôn nhân, không phải là một nhà tâm lý ở lãnh vực khác, vì như vậy, bạn sẽ tìm được một chuyên gia sành sỏi về những điều phức tạp trong quan hệ yêu đương. Thứ hai, đó phải là một bác sĩ tâm lý có khả năng gắn bó với bạn trong quá trình chữa trị được gọi là quá trình “kết nối”. Bởi nếu như bạn tìm đến một bác sĩ tâm lý không có những phẩm chất trên, bạn có thể chú trọng đến những tiêu điểm sai lạc và bạn sẽ trở nên tự cô lập hơn thay vì hòa hợp hơn trong quan hệ hôn nhân. Nói tóm lại, việc tìm không đúng chỗ có thể chẳng có tác động được gì tới mối quan hệ hôn nhân của bạn, và tất nhiên sẽ chẳng thể giúp bạn củng cố mối quan hệ ấy. Một khi, hai vợ chồng cùng nhau đến một bác sĩ tâm lý, cả hai sẽ nhìn nhận rõ ràng hơn những vấn đề cá nhân của mỗi người tác động tới tình trạng hôn nhân như thế nào, và cả hai vấn đề, cá nhân cũng quan hệ hôn nhân, có thể cùng được giải quyết. Vậy bạn chọn một nhà chữa trị tâm lý như thế nào? Một nhà chữa trị tâm lý có thể là một tu sĩ, một nhà tâm lý học, một nhà phân tâm học, một nhà hoạt động xã hội, một nhà giáo dục, hoặc trong một số trường hợp, đơn giản chỉ là một người có quan điểm rất sáng suốt về vấn đề hôn nhân. Sau nhiều năm làm việc, các bác sĩ tâm lý có thể trở nên rất khác nhau nếu so với lúc mới tốt nghiệp. Hầu hết các trường hợp, một bác sĩ tâm lý chuyên nghiệp phải có sự chứng nhận đầy đủ về văn bằng cũng như giấy phép hành nghề. Do đó, bạn cần có sự hướng dẫn đúng đắn khi muốn tìm một sự trợ giúp chuyên môn về tâm lý hôn nhân. Khi đã tìm được một nhà tâm lý bước đầu làm bạn tin tưởng, bạn nên có một cuộc thảo luận sơ bộ để xem liệu hai bên có thấy thoải mái khi làm việc với nhau hay không. Bạn hãy tìm hiểu quan điểm chung về hôn nhân của bác sĩ tâm lý. Điểm quan trọng bậc nhất là bạn hãy trông cậy vào bản năng của mình. Bạn có thể tìm được một người nhiệt tình, cẩn thận, nhạy cảm sẽ mang lại cho bạn cảm giác an toàn và tin cậy. Ngay cả khi đã tìm được một nhà tâm lý như mong muốn, bạn cũng vẫn nên tham khảo một vài người khác để có được một cơ sở so sánh cần thiết. ––– GHI CHÚ CUỐI SÁCH ––– Một cuộc hôn nhân ý thức được sáng tạo bởi việc đưa vào quá trình nhận thức những định hướng vô thức và những mục tiêu của một cuộc hôn nhân tình yêu và lãng mạn. Một hôn nhân tình yêu được xác định như một liên kết tự giác của hai cá thể đặt cơ sở trên sự hấp dẫn lãng mạn là điều bị chi phối bởi những nhu cầu vô thức có cỗi rễ trong các vấn nạn tuổi thơ không được giải quyết. Hôn nhân tình yêu tồn tại trong lịch sử loài người, nhưng không có được hình thái văn hóa ưu thế cho đến tận nửa sau thế kỷ 19. Những quan hệ lãng mạn được ghi nhận trong hầu hết huyền thoại và văn chương nhưng thường là ngoài hôn nhân. Có những chỉ dẫn lịch sử về xu hướng hòa hợp lãng mạn và hôn nhân, ở phương Tây sau thời đại Phục Hưng, khi xuất hiện khái niệm về quyền cá nhân và các thiết chế dân chủ cũng như sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ, hôn nhân đã dần dần trở nên một nguồn gốc của thỏa mãn cá nhân và bắt đầu đảm nhận chức năng một thành tố vững chắc của xã hội. Khởi đầu kỷ nguyên hiện đại, từ thế kỷ 16 cho tới ngày nay, hình thái ưu thế của hôn nhân (trong thế giới Phương Tây) là hôn nhân được sắp đặt, dựa trên những cơ sở kinh tế, chính trị, vị trí xã hội và phục vụ cho việc duy trì một thực tại xã hội đặc thù. Hình thái hôn nhân này cũng vẫn chiếm ưu thế trong các xã hội ngoài phương Tây cho đến nay. Hình thái thứ hai của hôn nhân cũng tồn tại xuyên suốt lịch sử, là hôn nhân lệ thuộc, mà người phối ngẫu, thường là người phụ nữ, được mua bởi người đàn ông với những “vật đổi chác” trong nền văn hóa đó như: tiền, gia súc… Người vợ được mua ấy có nhiệm vụ sinh đẻ và nuôi con, làm tất cả việc nhà, không được sở hữu tài sản, không có quyền trong gia đình, thậm chí có thể bị bán đi nếu người đàn ông muốn hoặc vì lý do cần thiết nào đó. (Trong chuyến khảo sát gần đây tại bộ lạc Dani ở vùng Irian Jaya, tôi đã ghi nhận việc một người vợ được mua với giá 5 con heo và người Batak ở Sumatra mua vợ với giá 5 con trâu, tính ra theo giá thị trường là vào khoảng 5.000 đô la). Quan hệ yêu đương có thể và thực sự đã tồn tại trong tất cả các nền văn hóa, nhưng hôn nhân đặt cơ sở trên tình yêu và lựa chọn lẫn nhau đòi hỏi tự do và bình đẳng nam nữ. Dẫu sao, tự do cũng chỉ là tương đối, hầu hết các cuộc hôn nhân vẫn được sắp đặt và người phối ngẫu vẫn được chọn lựa theo “giá trị” của họ. Việc chọn người phối ngẫu trong một xã hội dân chủ hơn được thu xếp bởi vô thức và giá trị của người vợ hay người chồng được quyết định bởi những phán đoán vô thức, tùy theo khả năng của họ cung ứng sự thỏa mãn tâm lý cho những nhu cầu cảm xúc riêng biệt. Hôn nhân tình yêu và lãng mạn bị tác động, thậm chí được quyết định bởi các bậc cha mẹ, dẫu rằng các bậc cha mẹ, và cả người phối ngẫu, không nhận thức được điều đó. Nhưng trong trường hợp này, sự chọn lựa không phải là do mệnh lệnh của các bậc cha mẹ mà là do sự kém cỏi của họ với tư cách những người nuôi dưỡng. Dù sao, hôn nhân lãng mạn là một hôn nhân vô thức với những mục tiêu vô thức. Đó cũng là chủ đề của cuốn sách này, bi kịch ngầm ấy cần phải được đưa vào vùng ý thức, tiếp đó là sáng tạo ra hôn nhân ý thức, một khi những mục tiêu tinh thần được thực hiện. Khi nhìn nhận những mục tiêu này một cách tích cực và xây dựng, đưa chúng vào vùng ý thức, chủ động nối kết với chúng trong một phương thức chữa trị sáng suốt và toàn diện, chúng ta có thể thỏa mãn những khát khao sâu thẳm và phổ quát nhất của mình. … “Ở buổi bình minh của lịch sử, hôn nhân có thể là vũ đài của sự trưởng thành nhân cách, từ những cuộc thi tài, dâng hiến lễ vật cho đến những hình thức khác của cứu rỗi cá nhân như chữa trị tâm lý, giới luật tôn giáo, cách mạng xã hội…” (C.G. Jung – “Hôn nhân như một quan hệ tâm lý) ––– VỀ TÁC GIẢ Tiến sĩ Harville Hendrix bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà tâm lý điều trị tại Đại học Chicago, nơi ông trình luận án tiến sĩ về tâm lý và tôn giáo. Ông còn tốt nghiệp cử nhân thần học tại Viện Thần học liên hợp, nơi ông giảng dạy về tham vấn hôn nhân, và tốt nghiệp cử nhân văn chương tại Đại học Mercer. Ông là thành viên nhiều hiệp hội và tổ chức tư vấn tâm lý tại Hoa Kỳ. Sau nhiều năm giảng dạy đại học ở Dallas, ông khởi sự các nghiên cứu thực nghiệm về hôn nhân sau khi xảy ra đổ vỡ trong đời sống gia đình của chính ông. Phát triển lý thuyết về “hôn nhân ý thức”, ông xuất bản cuốn sách này và thành lập Viện Nghiên cứu tham vấn hôn nhân để huấn luyện và hỗ trợ chuyên môn cho các nhà tâm lý trị liệu. TPHCM 26 – 1 – 97 ––– VÀI LỜI GỚI THIỆU (ghi chú: vài lời giới thiệu trên bìa bản in tiếng Anh của nhà xuất bản Owl Books, Hoa Kỳ, 2001. Phần này do Halkirkwa thêm vào và xin tạm phỏng dịch, không có trong bản dịch gốc) ––– “I know of no better guide for couples who genuinely desire a maturing relationship” – M. Scott Peck, author of The Road Less Travelled Tôi chưa biết có hướng dẫn nào tốt hơn (cuốn sách này) dành cho các cặp vợ chồng thực sự mong muốn một mối quan hệ trưởng thành. *** “Getting the Love You Want provides a road map for partners seeking a path to intimacy and passionate friendship. This is the most practical book I have seen on the understanding of intimate relationships.” – Marion Solomon, Ph.D. Getting the Love You Want cung cấp một lộ trình cho các đôi lứa đang tìm kiềm con đường đạt đến sự gần gũi và một tình bạn đam mê. Đây là cuốn sách thực tế nhất trong kho hiểu biết về các mối quan hệ mật thiết mà tôi từng được đọc. *** “Getting the Love You Want is a remarkable book – the most incisive and persuasive I have ever on the knotty problems of marriage relationships.” – Ann Roberts, former president, Rockefeller Family Fund Đây là cuốn sách nổi bật – sâu sắc và thuyết phục nhất mà tôi từng biết – về những vấn đề gai góc của quan hệ hôn nhân. *** “Harville Hendrix offers the best program I’ve seen for using the love-hate energy in marriage to help a couple heal one another to become whole together.” – T. George Harris, editor in chief, American Health magazine Harville Hendrix cống hiến một liệu pháp tốt nhất mà tôi từng biết hầu sử dụng những năng lượng yêu và ghét trong hôn nhân để chữa lành nhau và trở nên thành toàn cùng nhau. *** “Originally published in 1988, Getting the Love You Want has helped thousands of couples attain more loving, supportive, and deeply satisfying relationships. In this groundbreaking book, Dr. Harville Hendrix shares with you what he has learned about the psychology of love during more than thirty years of working as a therapist and helps you transform you relationship into a lasting source of love and companionship.”