NHỮNG EO BIỂN CỦA THƯƠNG MẠI Và để chống lại những người này, những kẻ thù lớn nhất của chúng ta, vốn thiếu tính tổ chức và bị chính vận may của họ bội phản, hãy để chúng ta bước vào cuộc chiến với những trái tim mang cơn thịnh nộ; hãy để chúng ta tin rằng khi đối phó với kẻ thù thì việc giành quyền xoa dịu tâm hồn giận dữ bằng sự trả thù quân xâm lược là công bằng và chính thống, và cũng như vậy, theo ngạn ngữ, chúng ta có được những niềm vui thích nhất chính là ở sự trả thù quân địch. - Gylippus, chỉ huy người Sparta, trước khi lực lượng hải quân Athens bại trận tại cảng Syracusé1 Hễ ai khống chế được Malacca là coi như đã đặt được tay lên yết hầu của Venice. - Tomé Pires2 Hiếm có câu chuyện cổ nào lại khuấy động tâm hồn hiện đại như sự kiện xảy ra vào thời kỳ Chiến tranh Peloponnese, khi quân Athens bị tiêu diệt trong cuộc viễn chinh tới Sicily. Về phía đông cảng Syracuse của người Sicily, trên những đồng bằng vùng thượng và bến tàu vùng hạ, đội quân do người Sparta dẫn đầu từ những tiền đồn xa xôi thuộc về nền văn minh Hy Lạp đã lần lượt bắn hạ từng người lính Athens, từng con tàu Athens.Thucydides, một quan sát viên tỉ mỉ vốn không quen khoa trương đã chẳng ngần ngại thốt lên, “Đây là… trận đánh vĩ đại nhất chúng ta từng biết trong lịch sử Hy Lạp - là chiến thắng rực rỡ nhất của người thắng cuộc, là thất bại nặng nề nhất của kẻ thua cuộc.”3 Nhưng Chiến tranh Peloponnese thì quan hệ gì tới lịch sử thương mại? Thực ra là liên quan rất lớn, bởi lý do khiến Athens muốn nắm quyền kiểm soát hoàn toàn lại xuất phát trực tiếp từ việc buôn bán thứ hàng hóa cơ bản nhất - lương thực - ở khu vực đặc thù của cái nôi văn minh Tây phương thuộc về Hy Lạp. Hơn nữa, chính những nền tảng văn hóa và thể chế của văn minh Tây phương đã ra đời tại Hy Lạp cổ đại, cũng như ám ảnh của phương Tây hiện đại đối với việc kiểm soát những tuyến đường biển trọng yếu và những điểm chốt hàng hải chiến lược bắt nguồn từ cấu tạo địa hình và nông nghiệp đặc thù của Hy Lạp, khiến nơi đây phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu. Sức mạnh khiến Anh và Mỹ lần lượt kiểm soát các tuyến vận chuyển của thế giới trong thế kỷ 19 và 20 xuất phát từ nhu cầu của Hy Lạp cần nguồn cung thực phẩm từ lúa mì và lúa mạch nhập khẩu.4 Câu hỏi vì sao một Athens kiêu hãnh lại để nhu cầu vượt quá khả năng cũng như nguồn lực của mình, và chịu thất bại tại vùng bờ biển Sicily xa xôi, đã khuấy động giới sử gia phương Tây kể từ khi Thucydides, vị tướng bị trục xuất người Athens, viết cuốn sử ký nổi tiếng đầu tiên của mình. Không phải tình cờ mà mối quan tâm ngày nay đối với cuộc xung đột cổ đại này lại trở nên mạnh mẽ, khi các siêu cường hùng mạnh nhất trong lịch sử bị sa lầy nhiều hơn vào cuộc chiến tại Trung Đông. Chẳng khó khi liên hệ những người ủng hộ chính sách đối ngoại quốc gia ngày nay với những nhân vật chính của Athens: kiêu căng, tài giỏi, và xảo trá kiểu diều hâu như Alcibiades, hay cẩn trọng và trung thành kiểu bồ câu như Nicias, đã bị người Syracuse bắt giữ và hành quyết. Nhưng điều tiên quyết nào đã khiến Athens muốn trở thành đế chế? Hy Lạp cổ đại bao gồm trên dưới cả trăm thành phố tự trị nhỏvà độc lập dàn theo thế liên minh, đa dạng và thay đổi liên tục, gần như không ngừng chiến tranh với nhau. “Hy Lạp” là một khái niệm mang tính văn hóa và ngôn ngữ, không phải một quốc gia. Chỉ những mối hiểm nguy to lớn từ bên ngoài, như cuộc xâm lược của người Ba Tư vào đầu thế kỷ 5 TCN, mới có thể đưa những người anh em bướng bỉnh này vào một thể thống nhất, dù chỉ trong thời gian rất ngắn ngủi. Quan sát bản đồ khu vực Aegea một cách sơ lược, có thể mường tượng ra địa hình này. Bờ biển Hy Lạp dài ngoằn ngoèo, như tấm thảm dệt với vô vàn đảo, bán đảo, lạch, vịnh, và những con kênh. Địa hình phức tạp, cùng với cảnh quan tương đối nhiều đồi núi của Hy Lạp, đã thúc đẩy việc hình thành hầu hết các tuyến thương mại bằng đường biển. Cùng với địa lý, yếu tố đóng vai trò chính yếu khác trong thương mại Hy Lạp là hầu hết các thành phố ở đó đều gặp tình trạng đất đai cằn cỗi và sinh sống khó khăn do nạn đói. Những nền văn minh đầu tiên của loài người xuất phát từ vùng đất giữa sông Tigris và sông Euphrates, cũng như vùng đất dọc theo đôi bờ sông Nile trù phú, là hai khu vực trồng trọt tốt nhất thế giới. Hy Lạp nhiều núi, nhưng lại thiếu những thung lũng được phù sa bồi đắp màu mỡ không như của hai xã hội lâu năm hơn kia, và có mỗi lớp đất đá vôi mỏng được tưới tắm bằng lượng mưa trung bình chỉ khoảng 400 millimét/năm. Do các tiềm năng nông nghiệp hạn chế, nên dân cư nơi này tập trung ở vùng bờ biển, tiến hành đánh bắt cá, sản xuất thủ công, và thương mại. Một trang trại Hy Lạp truyền thống có thể không trồng đủ lương thực cho nhu cầu của chính mình, nhưng lại làm ra đủ rượu vang và dầu ô liu để đổi lấy thừa mứa lúa mì và lúa mạch nhập khẩu. Vì thế nông dân Hy Lạp lệ thuộc vào thương mại không chỉ để nuôi gia đình, mà còn để kiếm thêm thu nhập đủ bù đắp cho nguồn lực cần thiết trong khoảng thời gian tham gia hội đồng và đơn vị quân đội cơ bản tại địa phương, bộ binh trang bị vũ khí nặng.5Cùng thời gian, một số thành phố tự trị tại Hy Lạp lần đầu tiên hình thành chế độ dân chủ vào thời kỳ đầu thiên niên kỷ 1 TCN, họ cũng bắt đầu sử dụng quá mức nguồn cung lương thực. Thậm chí ởHy Lạp, đất đai Attica - vùng lãnh thổ do Athens cai quản - đặc biệt nghèo nàn. Theo Thucydides, đất đai cằn cỗi khiến Athens không hấp dẫn những đội quân xâm lược, vì thế tạo ra môi trường chính trị ổn định cho nơi đây. “Tình trạng ổn định của những mảnh đất cằn” này, theo ông, đã thu hút sự giàu có, sức mạnh, và trí tuệ từ những thành phố tự trị giàu hơn, mạnh hơn, nhưng cũng ương ngạnh.6 Nguồn cung lúa mạch của Hy Lạp có thể đủ đáp ứng cho nhu cầu sinh sống ít nhất là thời kỳ đầu, nhưng theo thời gian, khẩu vị ngày càng giàu sang và tinh túy của Hy Lạp đòi hỏi phải có lúa mì. Trồng lúa mì yêu cầu tưới nước đúng lúc để mọc mầm, đặc biệt khó đáp ứng trong điều kiện khí hậu có lượng mưa ít và không ổn định. Cùng với nhân vật anh hùng dân gian của Anh thời trung cổ John Barleycorn, loại bánh mang tính nghi lễ cúng tế của cả Hy Lạp và thành Rome là bánh làm từ lúa mạch, dễ trồng hơn nhiều trong điều kiện khí hậu khô và đất cằn. Trước khi thương mại lương thực diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ 6 TCN, người ta chỉ ăn bánh mì vào những ngày lễ của Hy Lạp.7 Những người nội trợ Hy Lạp khó tính có được bột mì từ đâu? Trước thế kỷ 6 TCN, chủ yếu là từ Ai Cập, vựa thóc của Địa Trung Hải. Herodotus ghi lại rằng, pharaoh Amasis8 đã trao thành phố Naucratis nằm bên nhánh Canopic của châu thổ sông Nile cho Hy Lạp để làm đô thị thương mại cho các nhà buôn từ nhiều thành phố Hy Lạp.9 Hy Lạp cũng thuộc địa hóa Sicily nhằm tận dụng đất đai màu mỡ từ nham thạch quanh núi lửa Etna trên bờ biển phía đông. Điểm cực nam của Syracuse chính là do thực dân người Corinth, đối thủ mạnh mẽ từ Athens ở ngay phía tây nam của Syracuse, đặt nền móng vào cuối thế kỷ 8 TCN. Nhưng có thể nói, Hy Lạp được lợi chính là ở vùng nội địa rộng lớn và màu mỡ trên bờ bắc biển Đen. Cũng vào khoảng thời gian những người nông dân Corinth lập nên Syracuse, các thành bang Aegea bắt đầu đưa số lượng lớn những thực dân tới vùng thung lũng cực kỳ màu mỡ ở các con sông Bug và Dnieper, nay thuộc phía nam Ukraine (từ đây trở đi sẽ được gọi là “Pontus”, thay cho Greek Pontus Euxine - biển Đen ngày nay). Khi các công dân Hy Lạp bắt đầu thu được lương thực từ những vùng thuộc địa ở Pontus và Sicily, địa hình đơn giản nơi đây đã thúc đẩy một nhóm thành bang - gồm Athens và những đồng minh trên các đảo Aegea - đưa tàu đi theo hướng tây bắc tới Pontus để tìm thêm nguồn cung lương thực. Nó cũng khiến nhóm thứ hai - gồm Sparta, Corinth, và Megara (nằm trên đường giữa Athens và Corinth) cùng các đồng minh - nhắm về phía tây tới Sicily. Các con tàu của Corinth và Megara có thể tới Sicily bằng cách đi thẳng từ phía tây ra khỏi vịnh Corinth, hoặc theo hành trình dài hơn bằng cách đi về phía nam quanh Peloponnese. Cả hai lộ trình trên đều qua các cung đường thủy hẹp, và vì thế dễ bị các thành bang đối thủ hoặc cướp biển tấn công. Ví dụ, tàu từ Corinth và Megara khi tới vịnh Corinth và trên đường về đều dễ bị chặn ở lối vào phía tây, nơi bề rộng chỉ khoảng 1,6 km. Hành trình phía nam tới Sicily cũng dễ gặp các thành bang kẻ thù và cướp biển do phải đi qua eo biển rải rác các đảo nằm giữa phía nam vùng đất Hy Lạp rộng lớn - Peloponnese, bao gồm cả Sparta - và đảo của Crete. Nguồn cung lương thực của người Athens và các đồng minh Aegea thậm chí cũng dễ bị đe dọa. Hành trình tới vựa lúa của họ ở Pontus không chỉ phải len qua một mà là hai hành lang nhỏ hẹp giữa biển Aegea và biển Đen: Dardanelles (Hellespont - “cây cầu của người Hy Lạp”) và Bosphorus thậm chí còn hẹp hơn nằm ngay phía bắc. Hơn nữa, giao thông đường biển tới và về từ Piraeus, thành phố cảng của Athens, phải sử dụng tuyến đường qua những eo biển nằm giữa các đảo hình thành nên lối ra vịnh Saronic. Vào thời kỳ giữa thế kỷ 7 TCN, nguồn cung thực phẩm cho một Athens tăng trưởng nhanh từ vùng thung lũng màu mỡ của Attica chiếm tỉ trọng nhỏ hơn bao giờ hết. Thành bang này tự thấy mình ngày càng phụ thuộc vào lúa gạo nhập khẩu có được do trao đổi hàng thủ công tinh xảo và nông sản thương mại - gốm, nguyên liệu dệt, dầu ô liu, và rượu vang.Vì thế, sự sống còn của Athens lệ thuộc vào một trong những tuyến đường cung ứng mong manh nhất hành tinh. Tệ hơn, bão tố và mây bao phủ đã “đóng cửa” đại dương phần lớn thời gian trong năm, co hẹp mùa ra khơi chỉ còn từ đầu tháng Năm tới cuối tháng Chín bốn tháng rưỡi.10 (Trước khi phát minh ra la bàn, bầu trời đầy mây là cản trở lớn đối với hành trình ra khơi, đặc biệt vào ban đêm.) Khi dân số Hy Lạp ngày càng đông, cạnh tranh về nguồn cung lương thực trước tình trạng khan hiếm gia tăng cùng với điều kiện địa chính trị khó khăn đã tập hợp và phân chia các thành bang thành hai nhóm đối lập: một do Athens lãnh đạo, một do Sparta lãnh đạo. Hai liên minh này kèn cựa liên miên, và kết quả xung đột là Chiến tranh Peloponnese thảm khốc. Ngay từ năm 700 TCN, “Cuộc chơi Vĩ đại” của Hy Lạp, cuộc chiến giành quyền kiểm soát Hellespont và lương thực biển Đen đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Khoảng năm 660 TCN, Megara - láng giềng và đối thủ chính của Athens, đồng minh của Sparta - đã thiết lập Byzantium và Chalcedon làm các điểm phòng vệ cho Bosphorus. Không lâu sau, thành bang Mytilene thuộc Tây Aegea đã chiếm đóng Sigeuma, án ngữ Hellespont, chỉ cách tàn tích Troy của Homer vài cây số. Athens phản công bằng cách giành lại Sigeum từ Mytilene vào khoảng năm 600 TCN. Năm 535 TCN, bạo chúa Peisistratus của Athens bắt đầu trên diện rộng một chương trình thuộc địa hóa quanh biển Đen, củng cố các eo biển (cùng với các dự án phát triển khác trong 33 năm trị vì của ông ta, bao gồm hệ thống nước đô thị và thư viện công đầu tiên ở Athens). Peisistratus cũng thắt chặt an ninh ba hòn đảo phía nam Sigeum nhằm tiếp cận Hellespont từ phía tây nam: Tenedos, Imbros, và Lemnos. Năm 506 TCN, Athens chiếm được vùng bờ biển phía tây màu mỡ của đảo Euboea nằm về phía tây Aegea từ thành bang Chalcis; sự thâu tóm này đã mang lại ảnh hưởng kép: tăng cường nguồn cung lương thực, và hoàn thiện “đường cao tốc hàng hải” giúptàu thuyền tự do di chuyển giữa Piraeus và Hellespont. Cũng đôi lần, sự xâm nhập của người Ba Tư vào cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 5 TCN đã làm gián đoạn tạm thời thương mại trên biển Đen. Nhưng Athens chưa bao giờ từ bỏ mối quan tâm của nó, nên cuối cùng đã đập tan sức mạnh của Hoàng đế Ba Tư Xerxes từ Sestos, nằm trong Hellespont, hai năm sau khi đánh bại hải quân của vị vua này tại Salamis (một đảo phía tây nam Athens) vào năm 480 TCN. Vừa thoát khỏi cuộc tấn công của Ba Tư, Athens đã phải sơ tán trong suốt cuộc chiến Salamis. Được cảnh báo từ cơn hoạn nạn này, người Athens đã dựng nên “tường thành” gồm hai thành lũy song song cách nhau độ trăm mét, dài khoảng 6,5 km chạy từ nam thành phố tới cảng Piraeus, giúp Athens sống sót trong cuộc bao vây vô thời hạn trên đất liền nhờ được tiếp tế từ tàu nước ngoài neo tại các vũng tàu. Không may, cuối cùng thì “trường thành” chỉ chuyển dịch điểm yếu của Athens từ trên cạn xuống dưới nước. Năm 476 TCN, Sparta bất ngờ tấn công vào huyết mạch của Athens ở Hellespont và Bosphorus, vị chỉ huy Pausanias của Sparta lần lượt chiếm được cả Sestos và Byzantium. Gần như ngay lập tức, Athens đã đánh đuổi quân Sparta ra khỏi các thành phố này. Trước năm 450 TCN, nhằm đảm bảo an toàn cho các tuyến thương mại, lực lượng mở rộng, hùng hậu của hải quân Athens bắt đầu tuần tiễu biển Đen với cường độ gần như liên tục, một hành động chưa từng có trong thế giới của quân đội và hải quân đương thời dạng dân-lính bán chuyên nghiệp. Chính Pericles đã dẫn đầu một đội tàu chiến nhằm phô diễn sức mạnh trên vùng biển của mình. Trong suốt những năm hòa bình, các nhà buôn Athens đã vận chuyển hàng triệu giạ lương thực qua Hellespont. Vào những thời kỳ đói kém, số lượng lương thực vận chuyển đến Athens tăng lên mức ba triệu giạ mỗi năm. Phần lớn lương thực biển Đen này được đưa lên tàu ở Theodosia, nằm ở phía đông nơi giao nhau của hai con sông Bug và Dnieper.Vùng bờ biển và nội địa của biển Đen cũng cung cấp cho Hy Lạp gia súc, len, cá, và gỗ. Đổi lại, dân cư địa phương vốn giản dị cũng đánh giá hàng hóa sản xuất tại Hy Lạp hơn hẳn đồ Ai Cập phổ thông và nhàm chán. Do các nhà buôn Hy Lạp thu được lợi nhuận từ hàng hóa Pontus cao hơn Ai Cập, nên thương mại dần dịch chuyển về phía bắc. Với việc này, Athens nhận ra rằng chỉ có sức mạnh hải quân thôi thì chưa đủ. Bởi kẻ thù có thể dễ dàng phong tỏa những eo biển hẹp của Aegea, Hellespont, và Bosphorus, nên Athens đã thâu tóm sự kiểm soát chính trị tại những điểm hẹp nhất dọc các tuyến này. Thêm nữa, chỉ đơn giản là chiếm được vài thành phố và cứ điểm phòng thủ là chưa đủ; các thành phố khác trong khu vực cũng lệ thuộc vào những tuyến đường biển và các điểm bị thắt lại tương tự, tất cả đều cần góp sức người sức của cho công cuộc bảo vệ những nơi đó. Cách duy nhất để đạt được mục tiêu này là thông qua một nhóm liên kết, được chỉ đạo tập trung, gồm các thành bang có cùng tư duy mà sau này dần hợp nhất vào đế chế Athens. Cách thức Athens đạt được kỳ tích này - bằng bề ngoài mềm mỏng nhưng bên trong cứng rắn - là hình ảnh quen thuộc mà đáng ngại với độc giả Mỹ hiện đại. Athens hỗ trợ những người bạn của mình ở biển Aegea và biển Đen bằng cách giúp họ chống lại cướp biển và các cuộc tấn công từ “người man di” địa phương - liều mình đòi lại vùng đất đã bị thực dân Hy Lạp lấy mất. Đổi lại, Athens thu nạp đồ cống tế từ những thành phố liên minh này và cũng miễn thuế xuất khẩu lương thực đối với Piraeus. Ngược lại, quyền kiểm soát các tuyến đường biển ở Aegea giúp Athens trừng phạt kẻ thù của mình - Sparta, Corinth, và Megara. Ví dụ, vào thời kỳ đầu Chiến tranh Peloponnese, Athens thiết lập một cơ sở ở Naupactus nằm trên lối hẹp dẫn vào phía tây vịnh Corinth nhằm phong tỏa tàu thuyền tới Corinth và Megara.11 Athens sử dụng đầy đủ những công cụ chính trị và quân sự này để kìm giữ các đồng minh còn do dự, chẳng hạn Rhodes (nằm ngay phía ngoài bờ biển phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ ngàynay), các đảo Chios và Lesbos phía tây Aegea. Thậm chí Athens còn chi phối giá lương thực và duy trì dự trữ để sử dụng cho những lúc bị phong tỏa hay dịch bệnh; bất cứ nhà buôn nào, của Athens hay ngoại quốc, nếu bị bắt gặp vét hàng để đầu cơ thị trường hay tái xuất khẩu lương thực sẽ bị phạt tù chung thân. Tương tự Thế chiến I, Chiến tranh Peloponnese khởi đầu vào năm 431 TCN bắt nguồn từ một mâu thuẫn khá nhỏ, trong trường hợp này là tranh giành giữa nhóm đầu sỏ chính trị và những người theo dân chủ ở thành bang Epidamnus nhỏ xíu (nay là Durres bên bờ biển Albania). Phe dân chủ kêu gọi trợ giúp từ Corcyra (Corfu ngày nay), vốn khai sinh ra Epidamnus và cũng nằm trong liên minh hải quân quyền lực với Athens. Sau khi bị Corcyra từ chối, phe dân chủ đã kêu gọi Corinth điều một hạm đội đến trợ giúp và được toại ý. Người Corcyra, tức giận khi bị người Corinth can thiệp vào nơi từng là thuộc địa của mình, đã đánh bại hạm đội Corinth. Athens bắt đầu e ngại người Corinth có thể tham gia liên minh Sparta để đánh lại hạm đội lớn của Corcyra và làm thay đổi cán cân quyền lực chống lại mình. Điều này dẫn tới xung đột hải quân giữa Athens và Corinth, rồi nhanh chóng bùng nổ thành đại “xung đột toàn cầu” của thế giới Hy Lạp. Lúc đầu, đế chế Athens gặp thuận lợi, với chiến thắng tại Pylos ở phía tây nam Peloponnese và bắt giữ được số lượng lớn quân Sparta. Lúc này, người Sparta, vốn thường xuyên thiếu hụt nhân lực do phần lớn dân số bị ép làm nô lệ, có thể đã thiết lập nền hòa bình hào phóng với Athens nhằm lấy lại số binh lính bị bắt giữ. Thay vì thế, người Athens đã khiến chiến tranh bị kéo dài. Năm 415 TCN, Alcibiades một người trẻ ngông cuồng theo chủ nghĩa bành trướng, và Nicias một chiến binh già kỳ cựu và cẩn trọng, tranh cãi về việc xâm lược Sicily. Alcibiades đưa ra các lợi ích từ lương thực nơi đây đối với Athens; Nicias tranh luận rằng chính sự hào hiệp của đối phương là lý do để nói không với ý định xâm lược;“Lợi thế lớn nhất họ hơn chúng ta… sự thật là họ sản xuất lương thực cho chính mình và không phải nhập khẩu chút nào.”12 Kẻ hiếu chiến đã giành phần thắng, kết quả là đội quân viễn chinh tới Sicily bị tổn thất nặng nề khiến quê nhà thành ra dễ bị tấn công. Đại đô đốc Lysander của Sparta, thay vì tấn công trực tiếp vào Athens, một lần nữa lại nhắm tới vùng yết hầu của đế chế giờ đã bị để ngỏ tại Hellespont. Vị chỉ huy quỷ quyệt chậm rãi tập hợp lực lượng và đợi tới giữa hè năm 405 TCN, khi có nhiều tàu chở lương thực nhất mang theo những hàng hóa quý giá chuẩn bị về phương nam trước khi biển đóng lại. Chọn đúng thời điểm, Lysander đổ bộ vào tàn dư của hạm đội Athens tại Aegospotami, phía trong Hellespont gần Sestos. Quân Sparta đánh chìm hoặc chiếm giữ hầu hết thuyền Athens và thảm sát hàng ngàn phân đội. Con thuyền galley bất khả xâm phạm của Athens sống sót và trở về quê hương mang theo hung tin; khi tin tức thất bại về tới Piraeus, “Những lời than vãn lan rộng… trên trường thành của thành phố, người này báo cho người kia khiến đêm đó ở Athens chẳng ai ngủ nổi.” Vào lúc đó, chẳng còn cần xâm lược Athens, bởi lưỡi gươm ác nghiệt của đói kém đã đánh bại Athens hiệu quả và rẻ hơn cả đội quân trang bị vũ khí nặng đáng sợ của Sparta. Trong thỏa thuận hòa bình bẽ bàng, Athens vẫn giữ được độc lập, nhưng chỉ hạn hẹp; phải từ bỏ hạm đội còn lại, san bằng các công sự ở Piraeus và kéo đổ “trường thành” mà cho tới bấy giờ vẫn giúp Athens chống lại các cuộc bao vây. Và điều nhục nhã cuối cùng, Athens buộc phải trở thành đồng minh của Sparta. Athens rồi đây sẽ vùng dậy lần nữa, và thậm chí giành được địa vị thống trị thương mại biển Đen từ lực lượng hải quân Sparta đã suy yếu, nhưng không bao giờ lấy lại được vị thế quyền lực và tầm ảnh hưởng như trước. Thử thách tiếp theo là Thebes, đã nắm quyền kiểm soát các eo biển vào năm 360 TCN, dù bị Athens tái chiếm ba năm sau đó. Chẳng bao lâu sau, Philip từ Macedon, cha của Alexander Đại đế, tấn công Hellespont ở Perinthus (một thành phốnhỏ bên Propontis, vùng biển nội địa giữa Hellespont và Bosphorus) và sau đó là chính Byzantium. Một lần nữa, người Athens, dưới sự tập hợp của nhà hùng biện Demosthenes, đã cầm cự được. Athens một lần nữa giữ được dây cứu sinh, dù hạn chế. Alexander bảo đảm tự do trên biển cho tàu thuyền Hy Lạp, mặc dù lời hứa này không ngăn ông thi thoảng cho giữ lại một con tàu chuyên chở đi riêng lẻ nhằm biểu thị việc ai mới là người thực sự kiểm soát những tuyến đường biển này. Trong những thế kỷ tiếp theo, Athens tiếp tục duy trì độc lập trên danh nghĩa, không còn kiểm soát được dây cứu sinh hay số phận của mình nữa. Và với việc Athens cho ra đời nhiều tổ chức hoạt động về tri thức, nghệ thuật, và các thể chế Tây phương, thì đồng thời cũng làm nên một truyền thống kém vẻ vang. Trong các thế kỷ sau Chiến tranh Peloponnese, Athens đứng đầu trong một hàng dài các đế chế Tây phương già nua đối mặt với sự chuyển dịch ê chề từ quyền lực toàn cầu sang các công viên giải trí ngoài trời, có tiếng tăm chỉ nhờ nghệ thuật, kiến trúc, học thuật, và quá khứ. Nếu Hy Lạp là cái nôi của văn minh Tây phương, thì chắc hẳn đặc điểm địa hình mang tính chiến lược đặc biệt của nó đã định hình phần lõi của chiến lược hải quân phương Tây, trong đó nhấn mạnh tính an toàn của các tuyến đường biển. Venice, rồi Hà Lan, và Anh, lần lượt trở thành những Athens của thế kỷ 13, 17, và 19 - các nước đã phát triển nhanh hơn cả nguồn cung thực phẩm nội địa, với thịnh vượng và tồn vong gắn với khả năng kiểm soát các tuyến đường biển và những điểm chốt chiến lược xa xôi như Kattegat (eo biển nằm giữa Jutland và Thụy Điển), eo biển Anh, Suez, Aden, Gibraltar, Malacca, và lại một lần nữa, Hellespont và Bosphorus. Ngày nay, với sản lượng dầu ngày càng tăng từ các mỏ khổng lồ ở Ả-rập Saudi, Iraq, và Iran đi qua vịnh Ba Tư, các bộ quốc phòng ở Washington, London, New Delhi, và Bắc Kinh không cần tới sự nhắc nhở về tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải qua những vùng nước hẹp ở quốc gia mình. Mặt khác, các cường quốc thươngmại châu Á thời trung cổ bị ru ngủ với địa lý mở của Ấn Độ Dương thì lại chưa bao giờ học được điều đó. Trong nhiều thế kỷ, quân Hồi giáo thực sự có khả năng loại bỏ các quốc gia châu Âu yếu ớt và lạc hậu ra khỏi trung tâm thương mại đường dài thế giới tại Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn do việc họ chinh phục vùng đất rộng lớn ở Trung Đông, khiến cho châu Âu không thể tiếp cận “cửa sau” của Ấn Độ Dương tại vịnh Ba Tư và Bab el Mandeb. Ví dụ, Caliphate Abbasid hùng mạnh ở Baghdad chỉ nỗ lực chút ít cho việc bảo vệ yếu điểm sống còn của mình trên vịnh Ba Tư tại Hormuz, khiến cướp biển nở rộ nơi đây. (Các đế chế Ả-rập thời kỳ đầu cũng không xem xét tới chuyện đưa việc xây dựng và bảo trì đường sá vào quy định.) Trong khi Mông Cổ và nhà Minh của Trung Hoa tiến hành nhiều đột kích đường biển nhắm tới Nhật Bản, Indonesia, và Ấn Độ Dương, thì họ lại nỗ lực khá ít trong việc bảo đảm an toàn cho eo Malacca, có vai trò kiểm soát thương mại tới tất cả các điểm phía tây. Người Hồi giáo Ấn Độ kiểm soát tất cả nhưng lại bỏ qua các tuyến đường biển cho tới khi người Bồ Đào Nha xuất hiện, đó là lúc Malik Ayaz, thống đốc Hồi giáo của thành phố Gujarati thuộc Diu trên bờ biển phía tây Ấn Độ, điên cuồng kêu gọi các chỉ huy Mamluk của Ai Cập giúp đánh đuổi người Bồ Đào Nha. Năm 1508, liên quân Mamluk-Ấn Độ bất ngờ tấn công một đội tàu nhỏ của Bồ Đào Nha ở cảng Chaul (ngay phía nam Mumbai ngày nay), và gây ra một thất bại nhức nhối cho người châu Âu. Năm sau, Bồ Đào Nha đưa một hạm đội lớn hơn tới ngoài khơi của Diu và đảo ngược thất bại trước đây, mở ra cánh cửa để châu Âu thống trị thương mại gia vị trọng yếu, trước đây do người Hồi giáo độc quyền. Vai trò của sức mạnh và chiến lược hàng hải trở nên nhỏ bé khi hai đợt gió mùa có thể thổi hàng hóa từ Basra vượt Ấn Độ Dương tới Malacca mà không gặp trở ngại gì. Địa hình mở và dễ chịu của Ấn Độ Dương khiến các cường quốc thương mại Hồi giáo đã chuẩn bị không đầy đủ trước cuộc tấn công dữ dội của châu Âu.Uy thế của phương Tây ở Ấn Độ Dương không hề ồn ào; vì người Hồi giáo đã hiện diện ở Chaul, họ không dễ dàng bị đuổi đi như thổ dân châu Mỹ ở Tân Thế giới. Vài năm sau thất bại tại Diu, một hạm đội được tái lập của Ai Cập đã cầm chân người châu Âu ở Aden, và lực lượng của Nhà tiên tri giành lại quyền kiểm soát Bab el Mandeb chiến lược cho tới khi người Anh cuối cùng cũng lấy được cảng từ Ottoman vào năm 1839. Nhưng bất chấp sự man rợ và pha tạp của hải quân Hồi giáo, rốt cuộc họ cũng đã không cho thấy sự tương thích nào với đội ngũ cựu học sinh từ những ngôi trường thô bạo của Hellespont, Kattegat, Gibraltar, và eo biển Anh. Không khó để bắt gặp bóng ma của nỗi ám ảnh Athens cùng với Hellespont phản chiếu trong sự hiện diện của Hải quân Mỹ ở Bab el Mandeb và các eo Gibraltar, Hormuz, Malacca, hay thất bại nhất thời của Bồ Đào Nha tại Chaul đã tái hiện qua cuộc tấn công vào chiến hạm USS Cole của Mỹ ở Aden. Nhưng chúng ta đã đi đủ xa cho câu chuyện của mình. Gần một thiên niên kỷ kể từ Chiến tranh Peloponnese tới sự sụp đổ của thành Rome, và lại một thiên niên kỷ khác tính từ sự lụi tàn của thành Rome tới bình minh của bá quyền Tây phương, được tuyên ngôn bởi sự hiện diện của người Bồ Đào Nha ở Ấn Độ Dương. Trong hầu hết thời gian kể từ khi thành Rome sụp đổ, những người trung thành với tôn giáo độc thần mới hùng mạnh đã thống trị thương mại đường dài trung cổ trọn vẹn như phương Tây thống trị nó ngày nay; di sản của sự thống trị xưa kia vẫn còn hiện hữu khá rõ.