Uploaded by Trâm Trịnh

CC24.2P.HN 215 TrinhNgocTram ThichinhCC1

advertisement
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
------------------
BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Chuyên đề: Quy định của pháp luật về đạo đức hành nghề công chứng của
Công chứng viên – Thực tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng
Họ và tên: Trịnh Ngọc Trâm
Sinh ngày 12 tháng 7 năm 1998
Số báo danh: 215
Lớp: P K24.2 Hà Nội
Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2022
1
MỤC LỤC
I.
Mở Đầu
3
II.
Nội dung
5
1. Lý luận về Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
5
2. Thực tiễn thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
8
2.1. Những mặt đạt được
8
2.2. Những mặt hạn chế
9
2.3. Tình huống minh họa
12
3. Nguyên nhân và kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy tắc đạo đức 13
hành nghề công chứng
3.1. Nguyên nhân
13
3.2. Kiến nghị giải pháp
14
III. Kết Luận
17
IV. Danh mục tài liệu tham khảo
18
2
I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu là hệ thống các quy
tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Đạo đức có tác dụng chi phối
hành vi của con người để phù hợp với các lợi ích của xã hội. Như vậy, có thể thấy
việc thực hiện đạo đức có trong mọi hành vi, mọi mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong
từng nghề nghiệp. Hay nói cách khác bất ký công việc nào trong xã hội đều cần
phải có đạo đức nghề nghiệp.
Nghề công chứng lại càng đặc biệt hơn nữa. Như đã biết xã hội loài người, từ
khi bắt đầu hình thành các mối quan hệ giao thương, trao đổi hàng hoá, mua bán
đến nay ngày càng phát triển mạnh, điều này đòi hỏi cần phải có một người trung
gian đứng ra đảm bảo cho những giao dịch đó được thực hiện một cách công bằng,
chính xác. Nghề công chứng từ đó xuất hiện, đó là những người có học thức, có uy
tín, được Nhà nước, xã hội tin tưởng giao phó cho nhiệm vụ làm trung gian đảm bảo
cho các giao dịch trong xã hội. Công chứng viên mặc dù với tư cách là cá nhân
nhưng được Nhà nước bổ nhiệm, trao quyền lực nhằm chứng nhận tính xác thực,
hợp pháp của hợp đồng giao dịch, đảm bảo tính an toàn pháp lý, giảm thiểu rủi ro
cho các giao dịch xã hội qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Tuy nhiên, pháp luật có quy định cụ thể nhưng cùng với sự phát triển không
ngừng của xã hôị, việc tuân theo đạo đức hành nghề công chứng còn phát sinh
nhiều tồn tại và đang có xu hướng xấu dần đi. Vậy thực trạng như thế nào và hướng
giải quyết ra sao? Để làm rõ hơn vấn đề trên tôi xin phép chọn đề tài “Quy định của
pháp luật về đạo đức hành nghề công chứng của Công chứng viên – Thực tiễn
thực hiện và giải pháp hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
Bài báo cáo tổng hợp các quy định của pháp luật, các kiến thức lý luận về quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng và thực tiễn áp dụng quy tắc này. Đánh giá được
3
thực trạng hành nghề của Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, những
mặt tốt và những điểm còn hạn chế. Qua đó, đề xuất các gỉai pháp hoàn thiện quy
định của pháp luật, sự quản lý của Nhà nước góp phần phát triển nghề công chứng
ngày càng đem lại niềm tin cho người yêu cầu công chứng đồng thời thực hiện được
đúng trọng trách mà Nhà nước và xã hội giao phó.
Đối tượng nghiên cứu là quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và thực tiễn
thực hiện quy tắc này trong hoạt động công chứng ngày nay.
3. Cơ cấu bài báo cáo
Nội dung bài báo cáo được chia làm ba phần:
Phần 1: Lý luận về Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
Phần 2: Thực tiễn thực hiện thực hiện Quy tắc đạo đức trong hành nghề công
chứng những mặt đạt được và hạn chế
Phần 3: Nguyên nhân, kiến nghị giải pháp hoàn thiện Quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng
4
II. NỘI DUNG
1. Lý luận về Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
Quy tắc đạo đức hành nghề được ban hành kèm theo Thông tư 11/2012/TT-BTP
ngày 30/10/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 20/12/2012, có nội dung gồm các
vấn đề như sau:
1.1. Quy tắc chung
- Bảo vệ quyền, lợi ích nhà nước, lợi ích của cá nhân, tổ chức. Công chứng viên
có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc, vì lợi ichs nhân dân bằng hoạt động nghề
nghiệp của mình góp phần bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp cúa
cá nhân, tổ chức trong xã hội.
- Nguyên tắc hành nghề công chứng. Công chứng viên phải tuân thủ bốn nguyên
tắc hành nghề công chứng gồm có Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Khách quan,
trung thực; Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; Chịu trách nhiệm
trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng (Điều 4, Luật
công chứng 2014).
- Tôn trọng, bảo vệ uy tín, thanh danh nghề nghiệp. Công chứng viên có trách
nhiệm coi trọng, giữ gín uy tín nghề nghiệp, không được có hành vi làm tổn hại đến
danh dự, uy tín cá nhân, thanh danh nghề nghiệp. Công chứng viên cần phải ứng xử
văn minh, lịch sự trong hành nghề; lành mạnh trong lối sống để nhận được sự yêu
quý, tôn trọng, tin cậy và vinh danh của đồng nghiệp, người yêu cầu công chứng và
toàn thể xã hội.
- Rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Công chứng viên phải không ngừng trau dồi đạo
đức, nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức và nỗ lực tìm tòi để nâng cao chất lượng công việc và phục vụ người yêu
cầu công chứng.
1.2. Quan hệ với người yêu cầu công chứng
- Trách nhiệm nghề nghiệp: Công chứng là một nghề gắn liền với tài sản, nhân
thân của cá nhân, tổ chức, do đó trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên luôn
5
được đặt lên trên hết. Trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên thể hiện ở việc
công chứng viên luôn sẵn sàng tiếp nhận, giải quyết kịp thời các yêu cầu công
chứng khi yêu cầu công chứng đó không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã
hội; Luôn tận tâm với công việc, sử dụng kiến thức, năng lực của mình thực hiện
nhiệm vụ chính là đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng giao dịch; Khi thực
hiện việc công chứng, công chứng viên phải có nghĩa vụ giải thích cho ngừoi yêu
cầu công chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để họ hiểu rõ về quyền,
nghĩa vụ, hậu quả pháp lý khi tham gia giao dịch, đảm bảo giao dịch đó được thực
hiện công bằng và phù hơp với ý chí của các bên; Công chứng viên cũng có trách
nhiệm cung cấp cho người yêu cầu công chứng các thông tin liên quan đến quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của mình trong hành nghề công chứng theo
yêu cầu của người yêu cầu công chứng.
- Bảo mật thông tin, bảo quản hồ sơ công chứng: Công chứng viên phải tuân thủ
nguyên tắc bảo mật thông tin, đây là một trong hành vi bị nghiêm cấm theo quy
định tại khoản 1, Điều 7 Luật công chứng 2014. Nói cách khác công chứng viên
phải tuyệt đối giữ bí mật các thông tin trong hồ sơ yêu cầu công chứng, hồ sơ công
chứng và tất cả các thông tin trong quá trình hành nghề cũng như khi không làm
công chứng viên, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của người yêu cầu công
chứng hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản để phục vụ
công việc giám sát, xét xử, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan
đến việc đã công chứng; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Công
chứng viên phải bảo quản hồ sơ công chứng trong quá trình giải quyết yêu cầu công
chứng và bàn giao đầy đủ hồ sơ để lưu trữ theo quy định. Việc bảo mật thông tin
phải còn phải được đảm bảo thống nhất trong cả tổ chức hành nghề công chứng,
ngay cả những nhân viên giúp việc cho công chứng viên, tổ chức hành nghề công
chứng phải niêm yết nội dung này vào quy chế làm việc của tổ chức, công chứng
viên phải hướng dẫn cho các nhân viên thuộc tổ chức mình tuyệt đối không được
tiết lộ bí mật, thông tin về việc công chứng mà họ biết đồng thời giải thích rõ trách
nhiệm pháp lý của họ nếu tiết lộ thông tin.
- Đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng: Công chứng viên
không được phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch,
6
địa vị xã hội, khả năng tài chính, tuổi tác giữa những người yêu cầu công chứng khi
họ đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật để thực hiện việc công
chứng, bảo đảm đối xử bình đẳng giữ những người yêu cầu công chứng.
- Thu phí, thù lao công chứng đúng, đủ và công khai phí, thù lao công chứng
theo đúng quy định đã được niêm yết.
- Những việc công chứng viên không được làm trong quan hệ với người yêu cầu
công chứng như sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; không
nhận, đòi hỏi bất ký khoản tiền, lợi ích nào khác từ người yêu cầu công chứng ngoài
phí công chứng, thù lao và chi phí khác đã được quy định và thoả thuận, nhận tiền
từ ngừoi thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiễn việc công chứng dẫn tới hậu gây
thiệt hại đến lợi ích chính đáng của người yêu cầu công chứng, sử dụng thông tin
được biết từ việc công chứng để mưu lợi cá nhân, thực hiện công chứng trong
trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái
đạo đức xã hội…. các hành vi vụ lợi hay làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch.
1.3. Quan hệ giữa công chứng viên với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công
chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng, tổ chức, cá nhân khác
Công chứng viên trong mối quan hệ với đồng nghiệp, với tổ chức hành nghề
cônng chứng nơi mình làm việc và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, đạo đức
hành nghề công chứng là thể hiện sự tôn trọng, thân thiện, đoàn kết giúp đỡ nhau
hoàn thành nhiệm vụ, giám sát lẫn nhau, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hành vi
sai trái; khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót thì thẳng thắn góp ý những không hạ
thấp danh dự, uy tín của đồng nghiệp, hướng dẫn giúp đữo đồng nghiệp mới vào
nghề; chấp hành các nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức
xã hội nghề nghiệp công chứng.
Ngoài ra, trong mối quan hệ này công chứng viên không được thực hiện các hành
vi sau: gây tổn hại đên danh dự, uy tín của đồng nghiệp; gây áp lực hoặc thực hiện
các hành vi trái đạo đức và pháp luật để chèn ép đồng nghiệp, dành lợi thế cho
mình; hợp tác với cá nhân, tổ chức có khả năng gây áp lực buộc người yêu cầu công
7
chứng phải đến tổ chức của mình để công chứng; thực hiện quản cáo bản thân và tổ
chức duới mọi hình thức; hoạt động mối giới, nhận tiền hoa hồng và các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh khác….
Đối với người tập sự hành nghề công chứng, công chứng viên phải tận tâm
hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm, không phân biệt đối xử, đòi hỏi vật
chất, tiền bạc từ người tập sự; lợi dụng tư cách là người hướng dẫn để buộc ngừoi
tập sự thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội nhằm đạt
được mục đích cá nhân.
Đối với các cá nhân, tổ chức khác, công chứng viên phải tuân thủ quy định của
pháp luật trong khi làm việc với cơ quan nhà nước, cá nhân tổ chức khác; có thái độ
lịch sự, tôn trọng cá nhân, tổ chức đó trong quá trình thi hành nhiệm vụ.
2. Thực tiễn thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
2.1. Những mặt đạt được
Theo Bộ tư pháp, tính đến năm 2020 cả nước có 2.709 công chứng viên đang
hành nghề tại 1.134 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 118 Phòng công
chứng là đơn vị sự nghiệm công lập thuộc Sở Tư Pháp do Nhà nước thành lập. Từ
khi triển khai Luật Công chứng và thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công
chứng, các phòng công chứng và văn phòng công chứng đã góp phần tạo thuận lợi
cho người dân, cá nhân, doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng, đóng góp hàng nghìn
tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước. Không chỉ tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí đi
lại, giảm tải áp lực cho các cơ quan tư pháp Nhà nước, tạo sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các tổ chức hành nghề công chứng trong lĩnh vực này. Hoạt động công chứng
đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, trở thành nhu cầu giao
dịch thường xuyên, không thể thiếu, góp phần tích cực phát triển kinh tế – xã hội,
giữ vững an ninh, an toàn và ổn định trật tự của đất nước thông qua việc bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên tham giao hợp đồng, giao dịch. (Số liệu theo bài đăng
“Bốn định hướng lớn về chính sách phát triển nghề công chứng” trên báo điện tử
hanoi.gov.vn ngày 06/08/2020).
Cùng với Luật công chứng, Thông tư 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 ra đời
8
giúp cho công chứng viên có được bộ chuẩn mực về quy tắc đạo đức để điều chỉnh
hành vi của mình phù hợp với quy định của pháp luật, là cơ sở để công chứng viên
tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong nghề và trong đời sống xã hội nhằm nâng
cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, nâng cao uy tín của công chứng
viên, từ đó góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội. Nhờ thế nghề công
chứng được coi là nghề cao quý, được người dân xem là chuẩn mực về những hành
vi đúng đắn trong các mối quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà
nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên trên cả nước cũng đã
phát huy được vai trò của mình trong hoạt động thanh kiểm tra, kịp thời phát hiện
những hành vi vi phạm, nhắc nhở, chấn chỉnh, đảm bảo hoạt động công chứng thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời định kỳ tổ chức các hoạt đọng tập
huấn nghiệp vụ, quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ công chứng viên;
tiếp nhận và hướng dẫn giải quyế kịp thời những khó khăn, vướng mắc của các tổ
chức hành nghề công chứng, các công chứng viên.
2.2. Những mặt hạn chế
Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang phát triển theo định hướng kinh tế
thị trường, lĩnh vực công chứng được xã hội hoá, thì cùng với sự phát triển về số
lượng, những yêu cầu về chất lượng thì yếu tố đạo đức của các công chứng viên
buộc phải đặt ra một cách cấp bách và đòi hỏi thực thi một cách triệt để. Chính vì
thế, mặc dù Luật công chứng 2014 ra đời quy định khá đầy đủ về mặt hình thức đối
với điều kiện, tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng công chứng viên nhưng vẫn còn
kèm theo rất nhiều văn bản pháp luật khác quy định về vấn đề này, đặc biệt là thông
tư 11/2012/TT-BTP do Bộ tư pháp ban hành ngày 30/10/2012 chỉ quy định riêng về
vấn đề “Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”. Tuy nhiên, từ quy định cho đến
kết quả thực thi còn là một khoảng cách khá lớn. Trên thực tế, hầu hết các công
chứng viên trên cả nước đang thực hiện rất tốt các quy định của pháp luật về công
chứng cũng như đảm bảo về mặt đạo đức hành nghề. Điều này thể hiện ở chỗ số
lượng công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng ngày càng gia tăng; số
lượng cá nhân, tổ chức biết và tìm đến dịch vụ công chứng nhiều hơn, người dân
ngày càng đặt niềm tin lớn đối với các công chứng viên, coi họ là chuẩn mực cho sự
9
an toàn pháp lý đối với hợp đồng giao dịch mà mình tham gia. Tuy nhiên, bên cạnh
sự phát triển đó cũng xuất hiện nhiều biểu hiện sai phạm về đạo đức hành nghề của
công chứng viên, thậm chí những sai phạm này có xu hướng gia tăng và ngày cành
tinh vi hơn.
Nhiều tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên thực hiện sai trình tự,
thủ tục công chứng, “lách” khỏi các quy định của pháp luật, tối giản quy trình dẫn
đến rủi ro cho giao dịch như thực hiện việc công chứng với những hồ sơ thiếu giấy
xác nhận tình trạng hôn nhân hoặc giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu riêng, sử
dụng riêng đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt đối với các
hợp đồng thế chấp, chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở mà trong Giấy chứng nhận chỉ đứng tên một người. Một số tổ chức hành nghề
công chứng xác định sai đối tượng của hợp đồng đồi với các trường hợp tài sản
thuộc sở hữu hộ gia đình, trong hồ sơ công chứng chỉ có bản sao trang sổ hộ khẩu
có tên vợ, chồng mà không có các trang có tên thành viên khác của hộ hay không có
văn bản xác nhận thành viên hộ do Cơ quan có thẩm quyền cấp. Việc công chứng
văn bản phân chia di sản thừa kế nhưng lại chưa xác định đầy đủ hàng thừa kế thứ
nhất theo quy định của pháp luật dân sự về thừa kế; chưa thực hiện niêm yết hoặc
không niêm yết hết thời hạn theo quy định tại Điều 18 Nghị định 29/2015/NĐ-CP.
Nhiều hồ sơ của tổ chức hành nghề công chứng thiếu chữ ký ở từng trang hợp
đồng hoặc ký chữ ký tắt không giống nhau giữa các trang, thiếu chữ ký của đại diện
bên Ngân hàng; sửa lỗi kỹ thuật không đúng quy định, không ký đóng dấu tại chỗ
sửa, viết đè lên chỗ sửa....
Thực hiện việc chứng thực không đúng quy trình, thông thường quy trình chuẩn
cho một nghiệp vụ sao ý chứng thực tại tổ chức hành nghề công chứng thường là
“Tiếp nhận bản gốc => so bản sao với bản gốc => nếu đủ điều kiện mới tiến hành
chứng thực” nhưng một số tổ chức hành nghề công chứng lại chứng thực bản sao
với bản gốc là bản ảnh được scan, chụp lại, gửi qua mail, hoặc xem trên điện thoại
(không trực tiếp kiểm tra bản gốc).
Một số công chứng viên, có thể do năng lực chuyên môn còn hạn chế hoặc vì tư
lợi cá nhân đã thực hiện công chứng các hợp đồng giao dịch có nội dung vi phạm
pháp luật như công chứng hợp đồng có chủ thể là hộ gia đình nhưng một thành viên
10
trong hộ đã chết không làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế mà vẫn thực hiện các
giao dịch mua bán, chuyển nhượng, thế chấp. Thực hiện chuyển nhượng một phần
diện tích đất nhưng không có đơn xin tách thửa đất theo quy định tại Điều 75, Nghị
định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ. Công chứng di chúc trong
trường hợp người lập di chúc không tự mình yêu cầu hoặc người lập di chúc mắc
các bệnh không làm chủ được nhận thức, hành vi của mình... Hậu quả để lại là rất
nhiều bản bán được đưa ra với nội dung về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu như:
 - Bản án phúc thẩm số 124/2017/DS-PT ngày 26/09/2019 do Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk xét xử với nội dung trích dẫn “ bà P là người yêu cầu công
chứng thời điểm đó đã 90 tuổi, mắt kém, tai điếc, lại không biết chữ nhưng
Công chứng viên không xác minh làm rõ về năng lực hành vi dân sự của bà
P, người làm chứng cũng không phải do bà P mời và không ghi âm, quay
hình hoặc có người trong hàng thừa kế chứng kiến nên văn bản được công
chứng không bảo đảm sự khách quan”
 - Bản án sơ thẩm số 10/2018/DS-ST ngày 11/09/2018 do Tòa án nhân dân
 
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử với nội dung trích dẫn “văn bản
công chứng đã vi phạm về địa điểm công chứng, người ký, điềm chỉ trong
văn bản công chứng không phải là chủ thể quyền sử dụng đất, các giấy tờ
chứng minh chủ thể ký hợp đồng đều là giả.”
- Bản án sơ thẩm số 33/2019/DS-ST ngày 11/07/2019 do Tòa án nhân dân
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử với nội dung trích dẫn “Tại văn
bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 178/2015, quyển số
01/2015TP/CC-SCC/TK ngày 03/9/2015 và Văn bản điều chỉnh ngày
18/5/2016 của Phòng Công chứng A, tỉnh Đồng Nai thể hiện không có sự
tham gia của ông Lai Kim Th1 là bỏ sót người thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của ông Th3- bà T1, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Th1”
Ngoài ra, một số công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng có hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, có các hình thức quảng cáo, trích tiền hoa hồng cho
bên thứ ba hoặc nhận tiền hoa hồng từ bên thứ ba để môi giới ép người yêu cầu
11
công chứng phải sử dụng dịch vụ công chứng của mình hoặc tại tổ chức khác do
mình giới thiệu. Mở các điểm giao dịch ngoài trụ sở để thực hiện tiêu chí “phục vụ
khách hàng mọi lúc, mọi nơi” dù luật không cho phép. Một số tổ chức, cá nhân mở
các địa điểm giao dịch với biển hiệu Văn phòng luật sư, công chứng; Công chứng –
dịch thuật; Tư vấn công chứng... Với những biển hiệu như trên, người dân rất dễ
hiểu nhầm đó là nơi nộp hồ sơ yêu cầu công chứng, chứng thực nhưng thực tế
những người làm việc tại địa điểm đó chỉ tiếp nhận hồ sơ sau đó chuyển lại cho các
tổ chức hành nghề công chứng để công chứng, chứng thực. Chính những sai phạm
này đang làm giảm đi niềm tin của nhân dân, của Nhà nước đối với những người
đang thực hiện chức năng như “Người gác cổng” của công chứng viên, làm giảm uy
tín và ảnh hưởng đến hình ảnh nền công chứng của nước nhà.
2.3. Tình huống minh họa
Tình trạng vi phạm của công chứng viên ngày càng diễn biến xấu khi nhiều công
chứng viên không tuân thủ quy định pháp luật, tuân theo các quy tắc đạo đức hành
nghề mà “làm liều” “làm bừa” dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Gần đây nhất ngay
05/04/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Quảng Nam vừa thi hành các
quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam 4 tháng đối với Bùi Văn Ẩn (67 tuổi,
làm việc tại Văn phòng công chứng Bùi Ẩn, phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam) để điều tra về hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng. Cu thể Ẩn là công chứng viên làm thuê cho ông Phan Đình Tín (GĐ công ty
TNHH Tập đoàn vận tải Tín Rin và Công ty TNHH Du lịch Dinh Dong) nên khi
Tín chuyển hợp đồng chuyển nhượng cho ông Ẩn ký, ông đã không yêu cầu bên
bán và bên mua, người ủy quyền và người được ủy quyền có mặt tại Phòng công
chứng để ông Ẩn chứng kiến việc ký kết hợp đồng. Điều này dẫn đến việc hợp đồng
ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng đã bị Tín giả chữ ký của chủ đất. Chính chữ
ký của ông Ẩn là điều kiện để tín chiếm đoạt 13,7 tỷ đồng từ bị hại. (theo bài viết
“Bắt giam công chứng viên liên quan đến vụ chiếm đoạt 24 tỷ đồng” đăng trên báo
điện tử congan.com ngày 05/04/2021). Như vậy, công chứng viên Bùi Văn Ẩn đã vi
phạm những quy tắc chung tại Điều 1, Điều 2 Thông tư 11/2012/TT-BTP; việc
không trực tiếp chứng kiến các bên hợp đồng nên ông Ẩn cũng không thực hiện
12
việc giải thích về quyền và nghĩa vụ của cho các bên, không thể đảm bảo được ý chí
tự nguyện của các bên tham gia giao dịch, điều này đã vi phạm khoản 3, Điều 5
Thông tư 11/2012/TT-BTP; ông Ẩn đã để lộ thông tin giao dịch với bên thứ ba là
Phan Đình Tín, tạo điều kiện cho Tín thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
vi phạm Điều 6 Thông tư 11/2012/TT-BTP; ngoài ra vì những lợi ích nhận được từ
Tín mà ông Ẩn đã thực hiện việc công chứng gây thiệt hại đến lợi ích chính đang
của người yêu cầu công chứng và các bên liên quan theo khoản 3 Điều 9
Thông tư
11/2012/TT-BTP.
3. Nguyên nhân và kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng
3.1. Nguyên nhân
Theo quy định của Luật công chứng, công chứng viên phải tiếp nhận hồ sơ, xử
lý hồ sơ và thực hiện việc công chứng từ đầu đến cuối do vậy đôi khi công chứng
viên phải chịu sức ép rất lớn về kiến thức pháp luật, về kinh nghiệm áp dụng pháp
luật, sức ép từ các mối quan hệ xã hội, từ cấp trên thậm chí với sự cạnh tranh về số
lượng khách hàng cũng như giá trị hợp đồng, các công chứng viên còn phải chịu áp
lực về doanh số của mình. Bên cạnh đó, luật công chứng có quy định về thời gian
xử lý hồ sơ tối đa là 02 ngày làm việc; đối với giao dịch, hợp đồng phức tạp thì
không quá 10 ngày làm việc, như vậy việc công chứng phải thực hiện gần như tức
thời mà phải đạt hiệu quả cao. Do vậy nếu như công chứng viên thiếu kiến thức,
kinh nghiệm và bản lĩnh nghề nghiệp thì rất dễ bỏ qua quy trình, hồ sơ hoặc cố tình
giảm tải quy trình.
Hiện nay, các tổ chức công chứng phát triển ngày một mạnh mẽ đặc biệt ở Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Năng và các tỉnh, thành phố lớn khác. Kéo theo đó
là số lượng, giá trị các hợp đồng, giao dịch thực hiện tại các tổ chức hành nghề công
chứng cũng tăng nhanh. Sự phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã đáp ứng
nhu cầu của xã hội, giảm tải công việc cho cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, việc tăng
nhanh về số lượng trong khi công tác quản lý nhà nước không theo kịp cùng với sức
ép từ cơ chế thị trường tạo áp lực cho các phòng công chứng phải đa dạng hóa các
13
loại hình dịch vụ, các chiêu trò thu hút khách hàng dẫn đến sự cạnh tranh thiếu lành
mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công chứng. Bên cạnh đó là một số công
chứng viên có biểu hiện suy đồi về đạo đức, vì lợi ích vật chất, đặt lợi ích của bản
thân lên cao nhất dẫn đến tình trạng làm bừa, làm ẩu, thậm chí cố tình vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức hành nghề công chứng.
3.2. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
3.2.1. Quản lý nhà nước nghiêm đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Muốn quản lý được đội ngũ công chứng viên đảm bảo hoạt động theo quy tắc
hành nghề và đạo đức nghề nghiệp trước tiên ta phaỉ kiểm soát được từ tổ chức mà
người công chứng viên đang làm việc.Việc phát triển các tổ chức hành nghề công
chứng để đáp ứng nhu cầu của người dân cũng phải đi đôi với việc siết chặt chản lý
nếu không muốn để xảy ra những hậu quả khôn lường. Hiện nay việc hoàn thiện
quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng đang góp phần vào
việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung, quản lý công chứng nói riêng.
Hiệu quả đầu tiên là việc nâng cao chất lượng phục vụ đối với người dân, kịp thời
phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật của công chứng viên, cải thiện
chất lượng, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hành nghề, đạo đức nghề nghiệp, giúp các
tổ chức công chứng và các công chứng viên hoạt động lành mạnh, đi vào nề nếp và
phát triển theo đúng định hướng của nhà nước. Bên cạnh đó cũng ngăn chặn được
quan hệ lợi ích nhóm, khăc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ
chức hành nghề công chứng, hạn chế tiêu cực xảy ra, đồng thời đảm bảo yêu cầu cải
cách hành chính, cải cách tư pháp.
Cơ quan quản lý nhà nước về công chứng tại các địa phương cũng cần tăng
cường hơn nữa các hoạt động thanh, kiểm tra hoạt động của các tổ chức hành nghề
công chứng tại địa phương để kịp thời phát hiện, xử lý và chấn chỉnh các hành vi vi
phạm pháp luật của công chứng viên cũng như các tổ chức hành nghề công chứng,
đảm bảo việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp đạt hiệu quả cao.
3.2.2. Đồng bộ và siết chặt quy trình giải quyết hồ sơ công chứng
14
Hiện này, việc xử lý hồ sơ công chứng được hướng dẫn thông qua các văn bản
luật, thông tư, nghị định vì vậy việc áp dụng pháp luật công chứng giữa các công
chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau, do đó dẫn tới việc một số
công chứng viên lợi dụng kẽ hở của quy định pháp luật để “lách luật” tạo ra sự tùy
tiện trong quá trình giải quyết hồ sơ, cạnh tranh không lành mạnh, rút ngắn quy
trình, không đảm bảo được an toàn về mặt pháp lý cho hợp đồng giao dịch. Do đó,
cần có quy định pháp luật cụ thể hơn nữa hoặc có hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà
nước quản lý hoạt động công chứng/tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng
viên về trình tự xử lý hồ sơ công chứng rõ ràng từng bước và đặt ra yêu cầu các
công chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng phải đảm bảo trình tự thực
hiện đó.
3.2.3. Nâng cao vài trò quản lý của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên
Hiệp hội công chứng viên Việt Nam, các hội công chứng viên trên toàn quốc
đoàn kết đội ngũ công chứng viên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng
viên, giám sát việc tuân theo pháp luật, thực hiện quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng; cùng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hành nghề và tạo
điều kiện để các công chứng viên trao đổi, học tập kinh nghiệm chuyên sâu về nghề
nghiệp và phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp công chứng; nâng
cao chất lượng hoạt động hành nghề công chứng, góp phần ổn định phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Bên cạnh đó cần có quy định pháp luật cụ thể nêu rõ
trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Hiệp hội và các Hội công chứng trong việc triển
khai, phổ biến các quy định liên quan đến việc thực hiện pháp luật, đồng thời trong
điều lệ của tổ chức cũng cần bổ sung các chế tài để xư lý hành vi vi phạm của hội
viên. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Cơ quan nhà nước và Hội công
chứng viên, đây là căn cứ quan trọng để Hội công chứng viên có thể tham gia các
hoạt động quản lý nhà nước về công chứng. Điều này sẽ giúp việc quản lý được sát
sao, thống nhất, khiến các công chứng viên ý thức được trách nhiệm của bản thân
đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp.
15
3.2.4. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức nghề công chứng
Việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công chứng cần đi đôi với việc bồi
dưỡng về chính trị, tư tưởng để đảm bảo các công chứng viên vừa giỏi về nghiệp
vụ, vừa vững vàng trước những cám dỗ về tiền bạc, quyền lợi từ đó thực hiện các
hành vi vụ lợi, lợi dũng quyền hạn của mình thực hiện việc sai trái. Từ đó, xây dựng
hình ảnh hình ảnh đội ngũ công chứng trong sáng, gương mẫu, khách quan, đủ năng
lực, phẩm chất, uy tín luôn là chuẩn mực cho sự an toàn pháp lý trong lòng người
dân.
16
III. KẾT LUẬN
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển các ngành dịch vụ, dịch vụ công chứng
cũng ngày càng phát triển dẫn chứng là việc số lượng các công chứng viên, tổ chức
hành nghề công chứng ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, số lượng rất cần thiết phải đi
đôi với chất lượng. Thực tế trong lĩnh vực công chứng có rất nhiều công chứng viên
có kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, hết lòng phục vụ nhân dân và được nhân dân
tin tưởng. Những người công chứng viên đó không chỉ am hiểu các quy định của
pháp luật mà họ còn tận tâm với nghề, say mê nghiên cứu và sẵn sàng chia sẻ với
đồng nghiệp, tham mưu cho cơ quan quản lý đưa ra các chủ trương chính sách phù
hợp góp phần vào sự phát triển của nghề công chứng tại Việt Nam. Như vậy, để
nghề công chứng phát triển đồng bộ thì việc đạo đức hành nghề công chứng phải
được mỗi công chứng viên ý thức thực hiện. Bên cạnh đó, cũng cần có sự trợ giúp
từ phía cơ quan quản lý nhà nước cũng như các tổ chức xã hội nghề nghiệp công
chứng. Đó là những hoạt động đào tạo, trao đổi kiến thức, kỹ năng, những quy định
của pháp luật về nghĩa vụ phải thực hiện bộ quy tắc đạo đức hành nghề, xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm, tạo sự răn de.
Đạo đức hành nghề công chứng là vấn đề quan trọng và cốt lõi để phát triển
nghề công chứng hiện nay. Việc nghiên cứu để tìm ra các sai phạm và tồn tại cải
thiện quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này là thực sự cần thiết. Học viên
hy vọng rằng bài báo cáo trên có thể góp một phần nhỏ đưa ra ý tưởng nhằm khắc
phục những hạn chế, bất cập và hoàn thiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng,
góp phần phát triển hệ thống công chứng của nước nhà.
17
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật công chứng 2014.
2. Thông tư 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 , có hiệu lực thi hành từ ngày
20/12/2012, Ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
3. Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/03/2015, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật công chứng.
5. Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014, Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật đất đai.
6. Giáo trình “Kỹ năng hành nghề công chứng” tập 1, NXB Tư Pháp.
7. Bài đăng “Bốn định hướng lớn về chính sách phát triển nghề công chứng” trên
báo điện tử hanoi.gov.vn ngày 06/08/2020.
8. Bài đăng “Bắt giam công chứng viên liên quan đến vụ chiếm đoạt 24 tỷ đồng”
đăng trên báo điện tử congan.com ngày 05/04/2021.
9. Trang điện tử “Thư viện bản án”.
18
Download