Phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế của Ấn Độ cổ đại kéo dài gần ba thiên niên kỷ, từ thế kỷ XXV TCN cho đến thế kỷ thứ II TCN. Nó được chia thành ba thời kỳ: 1. Từ thế kỷ XXV TCN đến thế kỷ XVII TCN (thời kỳ văn hóa Harappa). Đây là nền văn hóa đồ đồng mang tính chất đô thị của xã hội đã vượt qua chế độ công xã nguyên thủy đang chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ này, xã hội Ấn Độ cổ đại đã có sự phân chia thành giai cấp, nghề thủ công mỹ nghệ khá phát triển, đã có đường phố thẳng tắp, nhà hai tầng, đã có nhà nước và chữ viết. 2. Thời kỳ văn hóa Vêđa được tính từ thế kỷ XVI TCN đến thế kỷ VII TCN. Đây là thời kỳ xâm nhập của người Arya từ phía Bắc Ấn Độ tràn vào xâm chiếm lãnh địa của người Dravida. Người Arya với ngữ hệ Ấn - Âu có kinh nghiệm khá phong phú và kế thừa nền văn hóa Harapa đã tạo nên nền văn hóa rực rỡ làm cơ sở cho toàn bộ nền văn hóa Ấn Độ sau này. Người Arya xây dựng nhà nước mới, phát triển nền kinh tế nông nghiệp - thủ công nghiệp - kỹ thuật làm khối lượng hàng hóa tăng lên và nhờ đó làm xuất hiện việc trao đổi hàng hóa. Trong thời kỳ này, ngành kinh tế quan trọnh nhất là chăn nuôi. Gia súc rất được coi trọng nhất là bò. Bởi vậy, trong ngôn ngữ lúc bấy giờ “tù trưởng bộ lạc” có nghĩa là kẻ chiếm hữu bò cái”, “chiến sĩ” có nghĩa là “người chiến đấu vì bò cái”. Ấn Độ cổ đại bắt đầu chuyển biến từ chế độ công xã thị tộc sang chế độ công xã nông thôn. 3. Từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ II TCN là thời kỳ cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các tiểu vương quốc đã vào giai đoạn quyết liệt dẫn đến sự hình thành quốc gia lớn Mauya, tạo điều kiện cơ bản cho sự phát triển tri thức khoa học, phát triển lực lượng sản xuất và phát triển nền kinh tế. Thời kỳ này, dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Alecxandrơ (Macxêđoan), Hy Lạp đã thôn tính đế quốc Ba Tư, xâm lược một vùng Ả rập rộng lớn và cả một phần đất Ấn Độ. Ngoài mặt trái của nó, cuộc chiến tranh này đã tạo gạch nối cho sự giao lưu văn hóa Đông - Tây và nhờ đó sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa mà đặc biệt là vùng Bắc Ấn Độ phát triển nhanh. Nhìn chung, Ấn Độ cổ đại có sự tồn tại lâu dài và phổ biến của mô hình kinh tế - xã hội “công xã nông thôn”. Đó là mô hình kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín và trì trệ. Trong số các nước Phương Đông, Ấn Độ là nơi công xã nông thôn tồn vững chắc và lâu dài nhất. Cơ sở của sự tồn tại vững chắc của công xã nông thôn gồm hai mặt chủ yếu: - Ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước. - Nền kinh tế tự cấp tự túc (cũng gọi là kinh tế tự nhiên), trong đó chủ yếu là sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp. Trên cơ sở toàn bộ ruộng đất thuộc về nhà nước, ở các địa phương ruộng đất được giao cho các làng quản lý. Như vậy, các làng có quyền chiếm hữu tập thể ruộng đất của làng. Ngoài phần đất đai như bãi cỏ, rừng, ao hồ v.v… mọi người trong làng được sử dụng chung, đất canh tác được định kỳ (thường là ba năm) chia cho các hộ nông dân cày cấy. Một đặc điểm khác rất nổi bật làm cho công xã nông thôn tồn tại vững chắc là sự tự cấp tự túc về kinh tế. Sự tự cấp tự túc ấy biểu hiện ở hai mặt: + Trong từng gia đình, có sự kết hợp chặt chẽ giữa nghề nông và nghề dệt vải. Do vậy hai nhu cầu cơ bản của người nông dân là ăn và mặc đều tự túc được. + Trong công xã có một số thợ thủ công như thợ rèn, thợ mộc, thợ gốm v.v…chuyên sản xuất các sản phẩm thuộc nghề của mình để thõa mản các nhu cầu của mọi thành viên trong công xã. Do vậy, công xã hầu như hoàn toàn đóng kín, sự trao đổi hàng hoá giữa công xã này với công xã khác và giữa nông thôn với thành thị không đáng kể, có chăng chỉ là một số thứ mà công xã không thể sản xuất được như muối, sắt v.v… mà thôi. Nông dân sống trong công xã là những người nông dân tự do. Tuy vậy, cày cấy ruộng đất công, nông dân công xã phải nộp thuế cho nhà nước. Mức thuế dao động từ 1/12 đến 1/6 thu hoạch. Ngoài ra nông dân công xã còn phải làm 1 số công việc như đắp đê, làm đường, đào kênh v.v… Sự tồn tại lâu dài và vững chắc của công xã nông thôn đã bảo đảm cho nông dân Ấn Độ ai cũng có ruộng đất để canh tác, do đó đã hạn chế sự phá sản của nông dân, hạn chế sự phát triển của quan hệ nô lệ. Sự tồn tại của công xã nông thôn còn làm cho nông dân sống gắn bó với nhau, tối lửa tắt đèn có nhau, tình làng nghĩa xóm đậm đà. Nhưng mặt khác, công xã nông thôn cũng có nhiều hạn chế như: - Nền kinh tế tự cấp tự túc của công xã nông thôn đã làm cho kinh tế hàng hóa chậm phát triển, hệ thống đường giao thông hầu như không cần thiết. Nhu vậy sự tồn tại của công xã nông thôn đã kìm hãm sự phát triển nhanh chóng của xã hội. - Cuộc sống biệt lập của các công xã làm cho nông dân không biết gì hơn ngoài xóm làng nhỏ bé của mình, do đó họ thờ ơ với tình hình chính trị của đất nước. - Do sự hiểu biết hạn chế ở trong các công xã, những tập tục cổ hủ, những thói mê tín dị đoan càng có điều kiện duy trì và nảy nở.