Uploaded by Nguyễn Thắng

Lịch sử triết học phương đông và phương tây 856329

advertisement
CHƯƠNG I
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
1. Triết học là gì.
Xã hội loài người xuất hiện cách đây khoảng
gần 4 triệu năm, nhưng triết học mới xuất hiện
cách đây vào khoảng hơn hai nghìn năm, vào thời
kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ ở cả phương Ðông và
phương Tây.
Triết học xuất hiện đầu tiên ở một số trung tâm văn
minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hy
Lạp. Vì vậy, theo người Trung Quốc, triết học có ý nghĩa
là Trí bao hàm sự hiểu biết, sự nhận th ức sâu sắc c ủa
con người về thế giới.
Theo tiếng Hy Lạp, thuật ngữ triết h ọc được cấu t ạo
bởi hai từ là Philos và Sophia. Philos có nghĩa là tình
bạn, tình yêu, là khát vọng để vươn tới. Còn Sophia là
sự khôn ngoan, hiểu biết, là sự thông thái. Như vậy theo
người Hy Lạp thì triết học là Philosophia nghĩa là yêu
mến sự thông thái.
Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin:
“Triết học là một hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí vai trò
của con người trong thế giới ấy.”
2. Vấn đề cơ bản của triết học, các
trường phái triết học và các
phương pháp triết học.
2.1 Vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức (hay tồn
tại và tư duy). Ph.Ăngghen định nghĩa:
“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học;
đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Như vậy, vấn đề cơ bản của
triết học có hai mặt, mỗi mặt phải
trả lời cho một câu hỏi lớn.
- Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức thì cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào ?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không ?
Hai mặt nói trên trong vấn đề cơ bản của
triết học có mối liên hệ chặt chẽ thống nhất
với nhau.
Việc giải quyết vần đề cơ bản của triết học là
cơ sở để xác định tính chất của các trường phái
triết học xem đó là duy vật hay duy tâm.
VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIÊT HỌC
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA
VC & Ý THỨC
2. CON NGƯỜI NHẬN THỨC ĐƯỢC
THẾ GIỚI HAY KHÔNG
2.2 Các trường phái triết học
+ Ðối với mặt thứ nhất vần đề cơ bản của
triết học:
– Trường phái triết học nào cho rằng vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức thì được gọi chung là chủ nghĩa duy vật.
CNDV chất phác
• CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CNDV siêu hình
CNDV biện chứng
-Trường phái triết học nào cho rằng ý
thức có trước, vật chất có sau, ý thức
quyết định vật chất thì được gọi chung là
chủ nghĩa duy tâm. Trong chủ nghĩa duy
tâm được chia thành hai phái là: Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm
khách quan.
Ngoài chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm nói trên gọi là các trường phái
nhất nguyên luận, còn có một trào lưu
khác gọi là trường phái nhị nguyên luận.
Tiêu biểu là Ðềcác (1596-1650). Trường
phái này cho rằng: Vật chất và ý thức là
hai thực thể đầu tiên song song tồn tại,
không cái nào quyết định cái nào.
+ Ðối với mặt thứ hai trong vần đề
cơ bản của triết học: Con người có
thể nhận thức được thế giới hay
không?
Trả lời câu hỏi nói trên tuyệt đại đa
số các nhà triết học (cả duy vật và
duy tâm) đều thừa nhận khả năng
nhận thức của con người
Bên cạnh quan điểm của chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm nói trên,
chủ nghĩa hoài nghi lại nghi ngờ khả
năng nhận thức của con người về thế
giới.
Họ cho rằng : muốn biết sự vật có tồn
tại hay không là vấn đề nan giải, về
nguyên tắc thì không thể nhận thức được
bản chất của sự vật.
Tóm lại: Việc giải quyết vần đề cơ bản
của triết học đã hình thành các trường
phái khác nhau, đó là chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Trong đó chủ nghĩa
duy vật, nhất là chủ nghĩa duy vật biện
chứng là thế giới quan khoa học, nó đem
lại cho con người sự nhận thức ngày càng
đúng đắn về thế giới.
2.2 phương pháp triết học.
Trong lịch sử Triết học đã hình
thành hai phương pháp nhận thức
đối lập nhau đó là phương pháp
biện chứng và phương pháp siêu
hình.
+ Phương pháp siêu hình
Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức
đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời không liên hệ,
vận động, phát triển.
Phương pháp siêu hình được hình thành từ thời kì
cổ đại nhưng biểu hiện rõ nét nhất là ở thế kỉ 17-18.Vì
vậy chủ nghĩa duy vật thời kì này được gọi là chủ
nghĩa siêu hình.
Phương pháp siêu hình làm cho con người chỉ nhìn
thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy. Do đó, phương
pháp siêu hình phản ánh không đúng bức tranh sinh
động của thế giới khách quan.
+ Phương pháp biện chứng.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận
thức đối tượng trong mối liên hệ vận động phát triển
không ngừng.
Phương pháp biện chứng được hình thành từ thời
cổ đại mà người khởi xướng là nhà triết học duy vật
có tên là Hêraclit.
Ông cho rằng :Các sự vật hiện tượng của thế giới
nằm trong quá trình vận động biến đổi như dòng chảy
của con sông.ông nêu lên luận điểm nổi tiêng:Người
ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông.
-> Cùng với sự phát triển của tư duy
con người, phương pháp biện chứng đã
thể hiện dưới ba hình thức lịch sử:
PHÉP BC CHẤT PHÁC (TK CỔ ĐẠI)
PHÉP BIỆN CHỨNG
PHÉP BC DUY TÂM (TH HÊ-GHEN)
PHÉP BC DUY VẬT(MÁC- A- LÊNIN)
Như vậy, phương pháp biện
chứng thể hiện tư duy mềm dẻo
linh hoạt về hiện thực. Nhờ vậy
nó trở thành công cụ hữu hiệu
giúp con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
3. Đối tượng của lịch sử triết học.
Đối tượng của lịch sử triết học là
nghiên cứu quá trình hình thành, phát sinh
và phát triển của các học thuyết triết học
trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình.
Với tư cách là một khoa học, lịch sử triết
học không dừng lại ở mô tả nội dung các
học thuyết các phương pháp mà nhiệm vụ
của nó là :
“Thông qua di sản của các nhà tư
tưởng,lịch sử triết học tìm ra bản chất của
các học thuyết và xác định chỗ đứng của
nó trong các trường phái triết học. Đánh giá
được những cống hiến, những hạn chế
của các học thuyết, các phương pháp triết
học trong từng bối cảnh lịch sử cụ thể.”
II.PHÂN KỲ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
(Giáo trình tr5).
1. Những nguyên tắc phương
pháp luận của sự phân chia các
thời kỳ lịch sử triết học.
2.Những thời kỳ lớn của lịch sử
triết học
–Triết học thời kỳ cổ đại.
–Triết học thời trung đại.
–Triết học thời phục hưng.
–Triết học thời cận đại.
–Triết học thời cổ điển Đức.
–Triết học thời Mác-Lênin.
–Những trào lưu triết học tư sản thời
hiện đại.
III. Những nguyên tắc cơ bản
của việc nghiên cứu lịch sử triết
học.
1. Nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc biện chứng
3. Nguyên tắc tính đảng, tính giai cấp.
CHƯƠNG II
TRIẾT HỌC ẤN ÐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm
của triết học Ấn Độ cổ, trung đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học
Ấn Độ cổ, trung đại.
* Điều kiện tự nhiên
Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya
hùng vĩ, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh
mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có
sông Hằng chảy về phía Đông tạo nên những
vùng đồng bằng trù phú màu mỡ.
Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc
nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những
tư tưởng tôn giáo triết học.
* Điều kiện kinh tế - xã hội.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội của
xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và
kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình
“công xã nông thôn” mà đặc trưng của nó là:
- Ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước.
- Gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân
trong công xã.
- Quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là quan
hệ cơ bản.
- Xã hội được phân chia thành các đẳng cấp.
Xã hội được phân chia thành 4
đẳng cấp lớn là:
• Tăng lữ: những người làm công việc
tôn giáo.
• Quý tộc: gồm vương công, tướng
lĩnh, võ sĩ.
• Bình dân tự do: gồm thương nhân,
thợ thủ công và dân chúng của công
xã.
• Nô lệ cùng đinh.
Sự phân chia đẳng cấp đó đã
làm phức tạp thêm các quan hệ
xã hội, tạo ra những mâu thuẫn
gay gắt giữa nông dân, thợ thủ
công, nô lệ với các đẳng cấp khác
trong xã hội.
*Điều kiện về khoa học và văn hoá.
+ Về khoa học: ngay từ thời kỳ cổ
đại, người Ấn Độ đã đạt được
những thành tựu về KHTN. Đặc biệt
là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y
học…
+Văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại:
được chia làm ba giai đoạn:
– Giai đoạn thứ nhất: Khoảng thế kỷ
XXV-XV tr.CN gọi là nền văn minh sông
Ấn.
– Giai đoạn thứ hai: Từ thế kỷ XV – VII
tr.CN gọi là nền văn minh Vê đa.
– Giai đoạn thứ ba: Từ thế kỷ VI – I tr.CN.
Đây là thời kỳ hình thành các trường
phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ
thống đối lập nhau là chính thống và
không chính thống. trong đó có 6 trường
phái triết học chính thống và 3 trường phái
triết học không chính thống. Tiêu chuẩn
của chính thống và không chính thống là
có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo
Bàlamôn hay không.
Tóm lại: Tất cả những đặc điểm
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói
trên là cơ sở cho sự nảy sinh và
phát triển những tư tưởng triết học
của Ấn Độ thời cổ, trung đại với các
hình thức phong phú đa dạng.
2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ
cổ, trung đại
-Triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo rất khó
phân biệt. Trong các quan niệm triết học, kể cả
các quan niệm duy vật đều ẩn sau các lễ nghi
tôn giáo huyền bí, và các nhà triết học cũng là
những người làm công việc tôn giáo.
-Triết học Ấn Độ ít có những cuộc cách
mạng lớn, chủ yếu có tính cải cách; các trường
phái triết học đi sau thường không đặt ra mục
đích tạo ra một thứ triết học mới mà thường là kế
thừa, bảo vệ, làm rõ quan điểm của các trường
phái đi trước.
-Trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại,
quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm
thường đan xen vào nhau trong quá trình
vận động phát triển.
-Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đặc biệt
chú ý đến vấn đề con người. Hầu hết các
trường phái triết học đều tập trung giải
quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con
đường “giải thoát” cho con người khỏi nỗi
khổ đau trong đời sống trần tục.
II. SỰ PHÁT SINH PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Triết học Vê đa.
Vêđa theo nghĩa đen của từ này là tri
thức, là sự hiểu biết, tương tự như
Philosophia tức là yêu mến sự thông
thái của Hy lạp.
Trong nghĩa cụ thể, Vêđa là những tác
phẩm văn học tập hợp những câu ca dao, vịnh
phú, thần thoại, diễn ca, những tư tưởng quan
điểm về tập tục lễ nghi được sáng tác bằng
phương thức truyền miệng trong một thời gian
khá dài.
Đến khoảng thế kỷ thứ X tr.CN, các tác
phẩm đó mới được ghi lại bằng tiếng Phạn
(Sancrit) thành bộ sách gọi là thánh kinh Vêđa
làm cơ sở giáo lý cho đạo Bàlamôn và chế độ
phân chia đẳng cấp. Các tác phẩm này còn lại
tới ngày nay dưới dạng 4 tập chính là:
Rigveda,
Samaveda,
Atharvaveda,
Yajurveda
• Rigveda: Là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ bao
gồm 1028 khúc hát dùng để ca ngợi công đức
của các vị thánh thần và cầu nguyện cho con
người có sức khoẻ, có thức ăn, có gia súc, có
mưa thuận gió hoà.
• Samaveda: Là tuyển tập các đoạn trong
Rigveda, dùng để ca chầu trong khi tiến hành
nghi lễ.
• Atharvaveda: Là bộ kinh gồm 731 bài văn vần
có tính chất huyền bí dùng để khẩn cầu những
điều tốt đẹp cho con người.
Yajurveda:
Là bộ kinh gồm hai bộ phận là
Yajurveda trắng và Yajurveda đen.
Yajurveda trắng gồm các câu thần
chú để sử dụng trong nghi lễ, còn
Yajurveda đen nêu lên các ý kiến về
nghi lễ và thảo luận các ý kiến đó.
Tóm lại: Triết học Vêđa là hình thức
tôn giáo cổ nhất Ấn Độ, nó thể hiện thế
giới quan của người Ấn Độ lúc bấy giờ
đang tự nhận thức mình và nhận thức giới
tự nhiên. Nhưng họ chưa phân biệt được
sự khác nhau căn bản giữa mình với tự
nhiên. Chính vì vậy, đối với họ các hiện
tượng tự nhiên đều có linh hồn và được
nhân cách hoá thành các vị thần.
2. Sáu trường phái triết học
chínhthống.
2.1. Trường phái Samkhya.
Trường phái Samkhya lúc đầu là duy
vật họ không thừa nhận thần Brahman
sáng tạo ra thế giới. Họ cho rằng thế giới
vật chất do một dạng vật chất đầu tiên
cấu tạo nên là Prakriti. Prakriti là một loại
vật chất đặc biệt tiềm ẩn không thể nhận
thức được bằng giác quan.
Nhưng về sau, trường phái này
cũng rơi vào QĐ duy tâm thừa
nhận có linh hồn (Purusa) tồn tại
song song bên cạnh bản nguyên
vật chất (Prakriti).
2.2. Trường phái Mimansa.
Trường phái này lúc đầu là duy vật họ
không thừa nhận sự tồn tại của thần linh.
Họ cho rằng không chứng minh được sự
tồn tại của thần, cảm giác không nhận ra
thần.
Nhưng về sau họ lại rơi vào quan điểm
duy tâm thừa nhận có thần và bảo vệ uy
tín của kinh Vêđa và triết lý của đạo
Bàlamôn.
2.3. Trường phái Vedanta.
Vedanta là một trường phái hoàn
toàn duy tâm, họ không thừa nhận sự
tồn tại của thế giới vật chất, theo họ
vật chất là không chân thực.
Họ thừa nhận Brahman là tinh
thần vũ trụ sáng tạo ra muôn loài.
Atman là linh hồn cá biệt, là một bộ
phận của Brahman, nhưng nó có thể
nhập vào hết người này đến người
khác theo luật luân hồi. Chỉ khi nào
con người khổ công tu luyện đạt đến
sự giác ngộ thì khi đó linh hồn được
giải phóng nó bay trở về đồng nhất
với Brahman
2.4. Trường phái Yoga.
Yoga là một trường phái triết học
chính thống do đạo sĩ Patanjali sáng
lập. Nội dung cơ bản của học thuyết
triết học Yoga là đề cập đến những
phương pháp tu luyện nhằm giải thoát
linh hồn khỏi sự ràng buộc của thể
xác và đạt đến sức mạnh siêu nhiên.
•
•
•
•
•
•
•
•
Để đạt được điều đó, trường phái này đưa
ra tám phương pháp (bát bảo tu pháp) tu luyện
sau đây:
1) Chế giới: Phải có tình thương yêu rộng rãi.
2) Nội chế: Phải tự kiềm chế (tự ức chế).
3) Tọa pháp: Giữ thân thể ở vị trí nhất định.
4) Điều tức pháp: Điều khiển sự thở cho hợp lý.
5) Chế cảm pháp: Điều khiển cảm giác tư duy.
6) Tổng trì pháp: Chú ý vào một điểm.
7) Tĩnh lự pháp: Giữ tâm thống nhất (thiền
định).
8) Tam muội pháp: Thiền cao độ khi đó hoàn
toàn làm chủ được tâm, sẽ đạt tới tuệ bằng sự
bừng sáng tư duy.
• Tóm lại: Trường phái Yoga là một tôn
giáo còn có quan điểm duy tâm là
thừa nhận có thần hay thượng đế,
thừa nhận con người có linh hồn và
thể xác. Tuy nhiên trường phái này đã
đưa ra được các phương pháp rèn
luyện sức khoẻ cho con người mà
hiện nay vẫn được nhiều nước sử
dụng.
2.5. Trường phái Nyaya và
Vaisesika.
Đây là hai trường phái độc lập
nhau nhưng về sau thống nhất thành
một trường phái, có những quan điểm
giống nhau và có đóng góp trên ba
phương diện: thuyết nguyên tử, lý
luận nhận thức và logic học.
* Về nguyên tử luận:
Hai trường phái này đều thừa nhận
sự tồn tại của thế giới vật chất, thế
giới ấy được tạo nên bởi nguyên tử.
Nguyên tử là những hạt vật chất vô
cùng nhỏ bé, không phân chia được
và tồn tại vĩnh viễn.
Họ còn cho rằng, sự kết hợp khác
nhau của các nguyên tử tạo nên sự
phong phú và đa dạng của các vật
thể.
* Về lý luận nhận thức:
Hai trường phái này đều thừa nhận
khả năng nhận thức của con người về
thế giới. Họ thừa nhận tính khách
quan của khách thể nhận thức. Họ
cho rằng, nhận thức có thể tin cậy
được. Tiêu chuẩn của sự tin cây là sự
phản ánh trung thành với đối tượng.
*Về logic học:
Trường phái này cho rằng, để đi
đến kết luận một vấn đề cần phải trải
qua 5 bước suy luận gồm có: luận đề,
nguyên nhân, chứng minh bằng ví dụ,
suy đoán, kết luận.
Ví dụ:
•
•
•
•
•
1.Trên đồi có lửa
2. Vì trên đồi có khói.
3. Ở đâu có khói là ở đó có lửa, như ở
trong bếp lò.
4. Trên đồi đang bốc khói.nhất định trên
đồi có lửa.
5. Do đó, trên đồi có lửa.
Nhưng về sau hai trường phái này
lại rơi vào quan điểm duy tâm họ thừa
nhận có thần, có linh hồn. Họ cho
rằng thầndùng nguyên tử để cấu tạo
nên thế giới.
3. Ba trường phái triết học không
chính thống.
*Trường phái Jaina.
Jaina là một trường phái tôn giáo nhưng
có quan điểm duy vật và tư tưởng biện
chứng về thế giới. Họ thừa nhận thế giới vật
chất tồn tại vĩnh viễn, còn các dạng cụ thể
của TG nằm trong quá trình vận động biến
đổi không ngừng.
Nhưng hạn chế của họ là ở chỗ họ thừa
nhận có linh hồn
3.2 Trường phái Lokayata
Đây là trường phái duy vật tương đối triệt để
trong triết học Ấn Độ cổ trung đại. Trường phái
này cho rằng thế giới xung quanh ta là thế giới
vật chất. Thế giới vật chất là do 4 yếu tố đầu tiên
là: địa, phong, thủy, hỏa tạo thành.
Cả con người và sinh vật cũng do 4 yếu tố
vật chất nói trên tạo nên.
Họ không thừa nhận thần Brahman sáng tạo
ra con người và thế giới.
3.3. Trường phái phật giáo.
*Thân thế, sự nghiệp của Phật
Thích Ca.
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất
hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI tr.CN .Người sáng
lập ra phật giáo là Tất Đạt Đa (Siddharta),họ là
Gôtama,dòng họ này thuộc bộ tộc Sakya.Ông là
thái tử của vua Tịnh Phạn,vua một nước nhỏ ở
Bắc Ấn Độ lúc đó (nay thuộc đất Nêpan) sáng lập.
Về năm sinh của phật hiện nay
có nhiều tài liệu khác nhau nhưng
nhìn chung nhiều ý kiến cho rằng
phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông
sinh ngày 8/4 năm 563 tr.CN nhưng
theo truyền thống phật lịch thì tính
là ngày 15/4 ( rằm tháng tư )gọi là
ngày phật đản
Mặc dù sinh ra trong gia đình qúy tộc dòng
dõi Đế Vương, nhưng trước bối cảnh xã hội phân
chia đẳng cấp khắc nghiệt,với sự bất lực của
con người trước những khó khăn của cuộc đời và
xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc
đời giàu sang phú quý để đi tìm đạo lí cứu đời.
Vì vậy năm 29 tuổi người đã rời bỏ hoàng
cung xuất gia tu đạo ,đến năm 35 tuổi người đã
đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở thành người sáng
lập ra tôn giáo mới gọi là phật giáo.
Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá
đạo lí của mình, sau này ông được suy tôn
với nhiều danh hiệu khác nhau: đ ức ph ật
(Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca mâu ni (sakyamuni),Thánh thích ca (v ị
thánh dòng họ thích ca )
Xét về mặt triết học, phật giáo được coi là triết lí
thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi
mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con
người,phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm
và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động.nó
đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong
đạo đức truyền thống của cácdân tộc Châu Á.
Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ
phận gọi là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh,
Tạng luật,Tạng luận.
* Quan điểm về thế giới quan của
phật giáo.
Quan điểm về thế giới quan
của phật giáo được thể hiện tập
trung ở nội dung của ba phạm trù
là: vô ngã, vô thường, và duyên.
Vô ngã (không có cái tôi)
Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả
con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra
mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố là
vật chất và tinh thần. Trong đó vật chất gọi là sắc,
tinh thần gọi là danh.
Sắc (v.chất) + danh (thụ, tưởng, hành, thức)
= 5 yếu tố (ngũ uẩn)
Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên sự vật và con
người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời,
thoáng qua không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi
mãi. Do đó không có cái tôi chân thực.
Vô thường
(vận động biến đổi không ngừng).
Phật giáo cho rằng mọi sự vật hiện
tượng đều nằm trong quá trình vận động
biến đổi không ngừng theo chu trình bất
tận là sinh, trụ, dị, diệt. Do đó không có
cái gì là trường tồn bất định, chỉ có sự vận
động biến đổi không ngừng. Đó là quan
điểm DVBC về thế giới.
Duyên
(Điều kiện giúp nguyên nhân thành KQ).
Phật giáo cho rằng mọi sự vật,hiện tượng trong
quá trình vận động đều chịu sự chi phối của luật
nhân duyên.
Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên
nhân trở thành kết quả. Kết quả lại trở thành nguyên
nhân cho một quá trình mới tạo thành kết quả
mớicũng cần phải có điều kiện.Cứ như vậy tạo nên
sự vận động biến đổi không ngừng của các sự vật.
VD:
duyên( đất, nước,ánh sáng…)
hạt lúa
(nguyên nhân)
cây lúa
(kết quả)
duyên
cây lúa
(nguyên nhân)
những hạt lúa…
(kết quả)
Như vậy, thông qua các phạm trù vô
ngã, vô thường, duyên, triết học phật giáo
đã bác bỏ quan điểm duy tâm cho rằng
thần Brahman sáng tạo ra con người và
thế giới.
Phật giáo cho rằng con người và sự
vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất
và tinh thần, các sự vật của thế giới nằm
trong quá trình biến đổi không ngừng.
Đó là quan điểm duy vật biện chứng
về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc
mạc nhưng rất đáng trân trọng.
*Về triết lý nhân sinh của phật
giáo.
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được
thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” tức
là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người
phải nhận thức được.
Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con
người là bể khổ.
Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên
nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ của
con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra 12
nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị
nhân duyên”.
1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật
chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác
(mắt, tai , mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của
thế giới xung quanh vào các giác quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung
quanh sinh ra cảm giác.
7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự
tác động của thế giới bên ngoài.
8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn
dục vọng do cảm thụ thế giới bên ngoài.
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ
lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã
chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn
tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
– Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng
mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái niết bàn.
– Bốn là đạo đế: Là con đường tu
đạo để hoàn thiện đạo đức cá
nhân, đó cũng là con đường giải
thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh
phúc.
Phật giáo đưa ra
đường chân chính
chính đạo).
ra tám
gọi là
con
(bát
• 1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ
diệu đế.
• 2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
• 3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
• 4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách
đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm
việc thiện.
• 5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng
đắn.
• 6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng
hướng, không biết mệt mỏi.
• 7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng
vững chắc vào sự giải thoát.
• 8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư
tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu đế,
về vô ngã, vô thường.
* Ngoài tám con đường chính để diệt
khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều răn để
mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem
lại lợi ích cho mình và cho mọi người.
Đó là: bất sát (không được sát sinh);
bất dâm (không được dâm dục); bất vọng
ngữ (không được nói năng thô tục, bậy bạ);
bất ẩm tửu (không được rượu trà); bất đạo
(không được trộm cướp).
Liên hệ vai trò Phật giáo ở nước ta.
Phật giáo truyền vào nước ta từ những
năm đầu công nguyên, với bản chất từ bi,
bác ái, phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ
đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên
mảnh đất này.
Từ khi vào Việt Nam đến nay phật giáo
tồn tại và phát triển phù hợp với truyền
thống Việt Nam. Phật giáo trở thành quốc
giáo ở các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần, góp
phần bảo vệ chế độ phong kiến Việt Nam
giữ vững nền độc lập dân tộc.
Phật giáo có công đào tạo tầng lớp trí thức cho
dân tộc trong đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư đức
độ tài cao giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu,
Vạn Hạnh,Pháp Nhuận…
Vào các thời kì hưng thịnh, phật giáo là nền
tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế ,chính
trị ,văn hóa ,giáo dục, kiến trúc,hội họa…Và đã để lại
những giá trị mang đậm đà bản sắc dân tộc.Từ cuối
thế kỉ XIII đến nay phật giáo không phải là quốc giáo
nữa. Nhưng tư tưởng tích cực của nó vẫn là nhu cầu,
là sức mạnh tinh thần của nhân dân ta.
CHƯƠNG III
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ,
TRUNG ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết
học Trung Hoa cổ, trung đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung
Hoa cổ, trung đại.
1.1 Sự hình thành các quốc gia chiếm
hữu nô lệ Trung Hoa.
+ Quá trình chuyển hóa của XH công xã
nguyên thủy dẫn đến sự hình thành các
quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Hoa kéo dài
khỏang vài ba ngàn năm trước công
nguyên. Thời kỳ này có ba sự kiện quan
trọng dẫn đến sự ra đời của XH chiếm hữu
nô lệ.
– Toại nhân phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn
và rèn ra công cụ sản xuất.
– Phục Hy phát minh ra lưới để săn thú, bắt cá và
thuần dưỡng gia súc.
– Thần Nông phát minh ra cách trồng lúa nước và
làm ra lưỡi cày đặt nền móng cho sự ra đời của
nghề nông.
Những phát hiện nói trên làm cho LLSX phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự ra của chế độ chiếm
hữu tư nhân về TLSX, phân hóa xã hội thành
những giai cấp dẫn đến sự ra đời của chế độ
chiếm hữu nô lệ Trung Hoa.
XH chiếm hữu nô lệ Trung Hoa phát triển qua các
triều đại Nhà Hạ, Nhà Ân ( Thương) và đạt đến sự
phát triển hòan thiện ở triều đại Nhà Chu.
+ Đặc điểm thời kỳ Nhà Chu:
Do kế thừa được kinh nghiệm SX của lịch sử để
lại, do thiên nhiên thuận lợi cùng với sự quản lý xã
hội chặt chẽ làm cho XH Nhà Chu phát triển mạnh
mẽ.
-Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà Chu quản lý ruộng đất
theo phương pháp tĩnh điền.
-Trong lĩnh vực XH: Nhà Chu tổ chức theo các quy
tắc chặt chẽ ( vua, chư hầu...); xã hội phân chia
thành các đẳng cấp.
1.2.Thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc (770 – 221 TCN).
Thời kỳ này có những đặc điểm như sau:
- Do sự phát triển của SX mà đặc biệt là SX
nông nghiệp tạo điều kiện cho sự chuyên môn hóa
ngày càng sâu sắc các ngành thủ công nghiệp dịch
vụ dẫn đến sự hình thành các đô thị PK.
- Phân hóa XH diễn ra sâu sắc dẫn đến chiến
tranh liên miên giữa bảy nước (Tề, Tần, Sở, Hàn,
Ngụy, Triệu,Yên) làm cho thời đại Xuân Thu chuyển
thành thời đại Chiến Quốc.
Trong sự chuyển mình dữ dội của lịch sử,nhiều
trường phái triết học ra đã đời tạo thành hệ thống
triết học khá hòan chỉnh.
2. Đặc điểm của triết học Trung
Hoa cổ, trung đại.
Thứ nhất là nền triết học nhấn mạnh tinh thần
nhân văn. Trong tư tưởng triết học Trung Hoa cổ,
trung đại, tư tưởng liên quan đến con người như
triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học
chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học
tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai là các triết gia Trung Hoa đều tập trung vào
lĩnh vực luân lý đạo đức, xem việc thực hành đạo
đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của
một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh
hoạt xã hội.
Thứ ba là triết học Trung Hoa ít có những
cuộc cách mạng lớn, chủ yếu là có tính
cải cách; các trường phát triết
học đi
sau thường kế thừa và phát triển tư tưởng
của các trường phái đi trước.
Thứ tư là trong lịch sử triết học Trung Hoa,
tư tưởng duy vật và tư tưởng duy tâm
thường đan xen vào nhau trong quan
điểm của một trường phái triết học.
II. Các trường phái triết học
Trung Hoa cổ, trung đại
1. Thuyết Âm- Dương , Ngũ Hành.
1.1. Tư tưởng triết học về Âm- Dương.
Theo quan niệm của Triết học Trung Hoa cổ
đại: âm và dương là khái niệm chỉ hai khuynh
hướng đối lập nhau, nhưng lại liên hệ tác động lẫn
nhau, thống nhất với nhau tạo nên sự vận động
phát triển của sự vật.
VD:
Dương: mặt trời (nóng), sáng , cao, giai
cấp thống trị,Quân tử, giống đực,chồng…
Âm: trái đất (lạnh), tối , thấp, giai cấp bị
trị, Tiểu nhân, giống cái, vợ…
Tóm lại, bằng quan niệm âm dương
triết học Trung Hoa cổ đại đã thừa nhận
các mặt đối lập tồn tại khách quan.Chính
sự liên hệ tác động của các mặt đối lập
đã thúc đẩy sự vận động phát triển của
sự vật. Đó là quan điểm duy vật biện
chứng sơ khai về thế giới.
1.2. Tư tưởng triết học về Ngũ hành.
Thuyết ngũ hành cho rằng thế giới vật
chất là do kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo
thành.
 Kim (kim loại) tượng trưng cho tính
chất: trắng, khô, cay, phía Tây.
 Thuỷ (nước) tượng trưng cho tính
chất: đen, mặn, phía Bắc.
 Mộc (gỗ) tượng trưng cho tính chất:
xanh, chua, phía Đông.
 Hoả (lửa) tượng trưng cho tính chất:
đỏ, đắng, phía Nam.
 Thổ (đất) tượng trưng cho tính chất:
vàng, ngọt, ở giữa.
• Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt
đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh
- khắc với nhau theo hai nguyên tắc sau:
•
+ Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ
sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc,
Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ,...
•
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ
khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim,
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ...
Tóm lại: bằng quan niệm ngũ hành, triết
học Trung Hoa cổ đại thừa nhận thế giới
xung quanh ta là thế giới vật chất, các sự
vât, hiện tượng của thế giới có sự liên hệ
tác động lẫn nhau tuân theo quy luật. Quan
điểm nói trên về thế giới tuy còn mộc mạc
chất phác nhưng rất đáng trân trọng.
2. Trường phái triết học Nho Gia.
2.1. Khổng Tử (551- 479 tr.CN).
*Thân thế và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử là người mở đầu khai sinh
ra trường phái Nho gia. Ông tên thật là
Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra tại
nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông Trung
Quốc.
Ông sinh ra trong gia đình quý tộc
nhưng đã bị sa sút. Cha Khổng Tử đã
từng làm quan võ của nước Lỗ, có lúc
làm quan đại phu của nước Lỗ.
Nhưng khi Khổng Tử ra đời cha đã
về hưu (cha có ba vợ: vợ đầu có chín
con gái, vợ hai có một con trai nhưng
bị bệnh. Năm 70 tuổi cha cưới vợ ba
sinh ra Khổng Tử,đến năm 73 tuổi thì
cha mất).
Khổng Tử là người thông minh, ôn
hòa,nghiêm trang, khiêm tốn và hi ếu học.
Với ông (học không biết chán, dạy không
biết mỏi). Ông là người đầu tiên mở
trường học ở Trung Quốc.
Khổng Tử từng làm quan nhưng
không được trọng dụng.Cuộc đời ông
không thành đạt trong quan trường
nhưng lại rực rỡ trong lĩnh vực triết học
nhân sinh. Khổng Tử mất vào năm 73
tuổi.
Khổng Tử viết nhiều tác phẩm (8 tác phẩm)
* Quan điểm triết học của Khổng Tử về chính
trị xã hội
+ Quan niệm về đức nhân
Theo Khổng Tử, đức nhân có nhiều nghĩa,
nhưng nghĩa chính là thương người, là nhân đạo
đối với con người. Nhân cũng là đức hạnh của
người Quân tử.
Theo Khổng Tử, đức nhân dựa trên hai nguyên
tắc:
- Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người
khác “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.
- Mình muốn đứng vững thì giúp người khác đứng
vững, mình muốn lập thân thì giúp người khác lập
thân “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân”.
Trên cơ sở hai nguyên tắc này ông cụ thể hóa
thành các tiêu chuân đạo đức đối với các tầng lớp
xã hội
Đặc biệt là đối với tầng lớp Quân tử.
Ông cho rằng, đối với người làm chính trị
quản lý xã hội, muốn có đức nhân phải có
năm điều:
Một là kính trọng dân.
Hai là khoan dung độ lượng với dân
Ba là giữ lòng tin với dân
Bốn là mẫn cán (tận tụy trong công
việc.)
Năm là đem lòng nhân ái đối sử với
dân.
+ Quan niệm về lễ:
Khổng Tử cho rằng để đạt được đức nhân
phải chủ trương dùng lễ để duy trì xã hội.
Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng,
tế, lễ; lễ là kỷ cương, trật tự xã hội, là
những quy định có tính pháp luật đòi hỏi
mọi người phải chấp hành. Ai làm trái
những điều quy định đó là trái với đạo đức.
Như vậy lễ là biện pháp để đạt đến đức
nhân.
+ Quan niệm về chính danh
Quy định rõ danh phận của mỗi người
trong xã hội.
Khổng Tử cũng như các nhà nho đều
có hoài bão về một xã hội có kỷ cương.
Thời đại Không Tử là thời đại xã hội rối
loạn vì vậy điều căn bản của việc làm
chính trị là xây dựng xã hội chính danh để
mỗi người, mỗi đẳng cấp xác định rõ
danh phận của mình mà thực hiện.
- Chính danh gồm có hai bộ phận danh
và thực:
* Danh là tên gọi, là địa vị, là thứ bậc
của con người.
* Thực là quyền lợi mà con người
được hưởng phù hợp với danh. Khổng Tử
cho rằng danh và thực phải thống nhất
với nhau.
•
•
•
•
•
Từ đó ông chia xã hội thành năm mối quan hệ
gọi là ngũ luân:
Vua – tôi (Quân thần): vua nhân – tôi trung
Chồng – Vợ (phu phụ): chồng biết điều – vợ
nghe lẽ phải
Cha – Con (phụ tử): Cha hiền – con thảo
Anh – em (huynh đệ): anh tốt – em ngoan
Bạn – bè (bằng hữu): chung thủy.
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người, mỗi đẳng
cấp thực hiện đúng danh phận của mình thì xã
hội có chính danh và xã hội có chính danh là xã
hội có kỷ cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.
* Quan điểm triết học của Khổng
Tử về thế giới:
- Trong quan điểm về thế giới thì Khổng Tử có
sự giao động giữa lập trường duy vật và lập trường
duy tâm. Bởi vì khi thì ông tin có mệnh trời, ông cho
rằng; tử sinh có mệnh, sống chết tại trời, không thể cải
được mệnh trời.
- Không Tử cho rằng người Quân tử có ba điều
sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh
nhân. Trong đó sợ nhất là sợ mệnh trời. Nhưng có khi
Khổng Tử lại không tin có mệnh trời, ông cho rằng: trời
chỉ là lực lượng tự nhiên không có ý trí, không can
thiệp vào công việc của con người.
Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường
thế giới quan duy tâm bảo thủ nhằm bảo
vệ trật tự xã hội nhà Chu suy tàn, nhưng
triết học của Khổng Tử có nhiều yếu tố
tiến bộ ở chỗ đề cao vai trò đạo đức kỷ
cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục
đào tạo con người, trọng người hiền tài,
nhân đạo đối với con người và những
quan điểm tiến bộ của ông nhằm xây
dựng xã hội thái bình thịnh trị.
2.2. Mạnh Tử (327 – 289 tr.CN)
Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự là
Dư,sinh tại nước Lỗ , nay thuộc tỉnh Sơn
Đông Trung Quốc. Ông là người kế thừa
và phát triển tư tưởng của trường phái
Nho Gia . Quan điểm triết học của Mạnh
tử thể hiện ở 3 nội dung :
* Quan điểm của Mạnh Tử về thế
giới :
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh”
của khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới đỉnh
cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng
không có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời ,
mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính
đáng ấy . Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học thuyết “
vạn vật đều có đủ trong ta , nên chỉ cần tự tĩnh
nội tâm là biết được tất cả ”nghĩa là không phải
tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu
dưỡng nội tâm là biết được tất cả .
* Quan điểm về bản chất con
người :
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là
thiện , tính thiện đó là do thiên phú chứ không phải
là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ
gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm,
nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng
mai một đi thì con người càng thêm nhỏ nhen, ti
tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó Mạnh Tử kết luận : bản chất con người là
thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác. Đó là
do xh rối loạn , luân thường đạo lí bị đảo lộn. Cho
nên để thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải
trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối
chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
* Quan điểm về chính trị xã hội :
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng
của ông về “Dân quyền”, tức đề cao vai trò của quần
chúng nhân dân .
Ông cho rằng trong một QG quí nhất là dân rồi
mới tới vua , đến của cải xã tắc “ dân vi quí ,quân vi
khinh, xã tắc thứ chi ”.
Với tinh thần ấy Mạnh Tử chủ trương xây dựng
một chế độ bảo dân , dưỡng dân tức là phải chăm
lo , bảo vệ nhân dân, ông yêu cầu người trị vì đất
nước phải quan tâm đến dân , phải tạo cho dân có
nhà cửa , ruộng vườn , tài sản bởi vì họ “ hằng sản
mới hằng tâm”.
Ông là người chủ trương khôi phục chế
độ tĩnh điền để cấp đất cho dân .
Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm
chi tiêu , thu thuế của dân có chừng mực.
Đó là những quan điểm hết sức mới mẻ
và tiến bộ của ông khiến ông mạnh dạn
đưa vào đường lối chính trị của trường phái
Nho Gia hàng loạt vấn đề mới mẻ toát lên
tinh thần nhân bản theo con đường lấy dân
làm gốc .
2.3 Tuân Tử (298 – 238 tr CN).
• Tuân Tử thường gọi là Tuân Huống, Tự là
Tuân Khanh; ông sinh tại nước Triệu. Ông
là người kế thừa, phát triển tư tưởng của
trường phái Nho gia. Ông được coi là nhà
triết học duy vật kiệt xuất trong lịch sử
Triết học Trung Hoa Cổ trung đại.
Quan điểm triết học của ông được
thể hiện ở những nội dung sau:
• Quan điểm về thế giới:
Ông có quan điểm duy vật tương đối triệt để về thế
giới. Khác với quan điểm của Mạnh Tử và Khổng Tử
vừa duy vật, vừa duy tâm. Tuân tử cho rằng, vũ trụ
gồm có 3 bộ phận đó là: Trời có 4 mùa, Đất có sản
vật, Người có văn tự.
+ Theo ông, trời chỉ là một bộ phận của vũ trụ như
những bộ phận khác, trời không có linh hồn, không có
ý chí, không can thiệp vào công việc của con người,
song trời có đạo của trời. Đạo trời ở đây được hiểu là
quy luật của tự nhiên, nó hoạt động không phụ thuộc
vào ý chí con người.
+ Theo Tuân Tử, đạo trời diễn ra theo lẽ tự nhiên
nhất định, không liên quan đến đạo người. Đạo
trời chi phối sự biến đổi của vạn vật, sự thay
đổi của vũ trụ không phụ thuộc vào sự sáng
suốt hay ngu muội của con người.
Như vậy, với cách hiểu về trời và đạo trời như
vậy, Tuân Tử đã phủ nhận vai trò quyết định
của thiên mệnhđối với vận mệnh xã hội và con
người, đồng thời ông cũng thừa nhận tính
khách quan của quy luật tự nhiên.
Quan điểm về lý luận nhận thức.
• Trong triết học của mình, Tuân Tử đã xây dựng học
thuyết về nhận thức trên nền tảng của chủ nghĩa duy
vật. Ông khẳng định rằng: con người có khả năng
nhận thức được thế giới và quy luật của nó. Trong đó,
đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan.
• Ông thấy rằng, quá trình nhận thức của con người bắt
đầu từ kinh nghiệm do cảm quan (giác quan) đưa lại;
mỗi giác quan đều có tính năng riêng biệt phản ánh
một mặt nào đó của sự vật bên ngoài. Do vậy, muốn
nhận thức đúng, nhận thức sâu sắc về sự vật còn phải
dựa vào một “khí quan đặc biệt” là tư duy mà ông gọi
là “Tâm”.
• Ông cho rằng, chỉ có qua sự suy lý của tư duy
thì mới có thể phân biệt hoặc phán đoán đúng
được tính chất của sự vật do các cơ quan cảm
giác phản ánh. Nhưng hoạt động của tư duy
(tâm) cũng phải lấy hoạt động của các cơ quan
cảm giác làm cơ sở.
•
Như vậy, Tuân Tử đã khái quát được những
vấn đề cơ bản của quá trình nhận thức, ông đã
giải quyết đúng mối quan hệ giữa cảm giác và
tư duy, trong quá trình nhận thức và coi tri th ức
là kết quả của quá trình nhận thức.
Quan điểm về con người.
• Tuân tử là người đi sâu nghiên cứu con người, ông coi
con người là một bộ phận của thế giới, ông tin ở khả
năng con người. Ông cho rằng, việc trị hay loạn, lành
hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời.
Từ đó Tuân Tử khuyên con người hãy tin ở mình, biết
làm chủ mình. Theo ông, chỉ cần ra sức sản xuất nông
nghiệp và tiết kiệm tiền của thì trời sẽ không để cho
con người nghèo đói và nếu giữ gìn thân thể khỏe
manh, ăn ở điều độ thì trời sẽ không để cho con người
ốm đau bệnh tật. Với tinh thần ấy, Tuân Tử mạnh dạn
đề ra học thuyết “con người có thể cải tạo được tự
nhiên bằng trí khôn của mình” .
• Như vậy, so với quan điểm của Khổng Tử và
Mạnh Tử thì Tuân Tử đã đánh giá cao vai trò
của con người trong thế giới. Con người trong
triết học của Khổng – Mạnh là nạn nhân của
số phận, của thiên mệnh; trong khi đó, con
người của Tuân Tử là con người chống lại định
mệnh, cải tạo số phận của chính mình và cải
tạo giới tự nhiên (đây là quan điểm mới mẻ về
con người của ông).
Quan điểm về bản chất con người
• Trong triết học của Tuân Tử, quan điểm về bản chất
con người đối lập với quan điểm của Mạnh Tử. Nếu
Mạnh Tử cho rằng, bản chất của con người là thiện thì
Tuân Tử cho rằng bản tính của con người là ác. Nghĩa
là con người sinh ra đã có sẵn bản tính ác.
• + Sở dĩ bản tính của con người là ác vì con người sinh
ra vốn có lòng ham lời và dục vọng. Để thỏa mãn
những ham muốn và dục vọng đó, con người phải
hành động thuận theo tính tự nhiên của mình. Điều đó,
ắt dẫn đến sự tranh giành, cướp bóc, chiếm đoạt của
nhau. Nghĩa là dẫn đến những điều ác.
• Ông cho rằng, “Người ta sinh ra là có sự hiếu
lợi, thuận theo tính ấy mà có sự phản tặc mà
mất lòng trung tín. Người ta sinh ra là có cái
dục của tai mắt, có cái đam mê âm thanh và
màu sắc”. Thuận theo tính ấy nên sinh ra dâm
loạn mà mất lễ nghĩa.
• Do đó, xã hội phải được tổ chức thành khuôn
mẫu và dùng chuẩn mực pháp lý để giáo hóa
con người, đưa con người trở về với cái thiện.
(Đó là xuất phát điểm của đường lối pháp gia
sau này).
Quan điểm về chính trị xã hội.
• Trong quan điểm chính trị xã hội, Tuân Tử kế thừa
những tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử, Mạnh Tử, đồng
thời ông bổ sung phát triển thêm những quan điểm
mới.
• Tuân Tử cho rằng, trị nước chỉ có đạo đức và lễ nghĩa
không thôi có lẽ chưa ổn. Đạo đức và lễ nghĩa nặng về
phần xây, nhẹ về phần chống. Theo ông, đường lối
chính trị tốt nhất là phải kết hợp cả hai mặt đó. Có
nghĩa là phải kết hợp cả lễ trị và pháp trị. Nói cách
khác là phép trị nước phải kết hợp cả lễ giáo và hình
phạt.
• Tuân Tử cho rằng, đối với những người đến với ta với
ý tốt thì ta dùng lễ mà đối xử với ho, đối với người đến
với ta với ý xấu thì ta dùng hình phạt để đối xử với họ.
• Mặt khác, Tuân Tử là người kế thừa và
phát triển tư tưởng đề cao vai trò quần
chúng nhân dân của Mạnh Tử; ông kêu
gọi người đứng đầu đất nước phải quan
tâm đến dân, phải chăm lo sản xuất nông
nghiệp, tích trữ của cải, phát triển sản
xuất, tiết kiệm tiêu dùng; chăm lo cho dân
có cái ăn, cái mặc, có công việc từ mùa
đông đến mùa hè, làm sao cho trên dưới
cùng giàu có.
• So với Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử là người đã
thấy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân
dân.Ông cho rằng, “Vua là thuyền, dân là nước, nước
chở thuyền và nước cũng lật thuyền”. Đó là những
quan điểm hết sức tiến bộ cuả ông về vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử.
• Tóm lại, so với Khổng Tử và Mạnh Tử, triết học của
Tuân Tử là một trình độ phát triển cao và có nhiều
quan điểm mới. Vì vậy, triết học của Tuân Tử là triết
học duy vật tiến bộ. Học thuyết của Tuân Tử là tập đại
thành các học thuyết đời trước, được phê phán, kế
thừa, phát triển những quan điểm tiến bộ, đồng thời
mở màn cho trường phái pháp gia sau này.
3. Trường phái Đạo gia
Đạo gia là một trường phái triết học lớn
trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại,
nó có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đến
tư tưởng mà cả truyền thống văn hóa cuả
hầu hết các dân tộc Châu Á.
Đạo gia gắn liền với tên tuổi của Lão Tử
và Trang Tử, vì vậy còn gọi là đạo Lão –
Trang.
3.1 Triết học của Lão Tử (Sinh
khoảng TK VI – V trước CN):
a. Thân thế và sự nghiệp của Lão Tử
• Lão Tử được lịch sử Trung Hoa coi là ông tổ của
Đạo gia. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được
đời sau viết lại mang nhiều tính huyền thoại.
• Nhưng theo “sử ký” của Tư Mã Thiên, Lão Tử là
người sống cùng thời với Khổng Tử. Ông họ Lý,
tên Nhĩ, tự là Bá Dương, người đời gọi ông một
kính trọng là lão Đam.
• Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, làng
Lệ, xóm Khúc Nhân (thuộc tỉnh Hồ Nam –
Trung Quốc ngày nay), ông đã từng làm
quan sử giữ kho sách cho nhà Chu.
• Lão Tử là người đọc nhiều, hiểu rộng, đi
nhiều nơi, song thích sống ẩn dật. Toàn bộ
tư tưởng của ông được trình bày ngắn gọn
trong tác phẩm “đạo đức kinh”. Những quan
điểm triết học của ông mang tính chất gợi
mở và đạt đến độ thâm trầm sâu sắc. Tư
tưởng của Lão Tử được thể hiện ở những
nội dung sau đây:
b. Nội dung tư tưởng triết học của
Lão Tử
Tư tưởng về Đạo:
• Tư tưởng về Đạo là điểm xuất phát đồng thời
cũng là hạt nhân trong triết học của Lão Tử.
Trong khi trình bày tư tưởng về Đạo, Lão Tử đã
bộc lộ rõ thế giới quan duy vật và phép biện
chứng tự phát.
• + Trong triết học Trung Hoa, Đạo lúc đầu là
con đường, dần dần về sau Đạo còn được bao
hàm nội dung bản thể luận và quy luật.
• Theo quan điểm của Lão Tử, Đạo là nguồn gốc, là bản
chất sâu kín của vạn vật, theo ông đạo là khối hỗn
độn, không có hình thể, không có tính chất, mập mờ
thấp thoáng, ….không biết đặt tên gì nên đặt tên Đạo.
• Lão Tử cho rằng, Đạo thể hiện ở hai tính chất: Tự
nhiên thuần phác và trống không.
• Tính tự nhiên của Đạo được hiểu như là tính khách
quan vốn có của sự vật, nó tồn tại không phụ thuộc
vào ý chí con người. Tuy nhiên, tính tự nhiên khách
quan của Đạo không thể hiểu như khái niệm tồn tại
khách quan của triết học phương Tây. Bởi vì, Đạo
chứa đựng và hòa đồng cả cái tồn tại và cái không tồn
tại, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái tương đối và
cái tuyệt đối. Nghĩa là nó tồn tại tự nhiên, nhưng không
phải tồn tại có định tính hình thái, mà là trạng thái chứa
đựng tất cả…
• Như vậy xét về bản chất, Đạo trước hết được
hiểu là nguồn gốc của vũ trụ, là bản thể đầu
tiên của vũ trụ, sinh ra cả trời, đất, thần linh.
• + Mặt khác, trong triết học của Lão Tử, Đạo
không chỉ được hiểu là nguồn gốc của vũ trụ
mà còn theo nghĩa là quy luật vận hành của vũ
trụ. Lão Tử cho rằng không ở đâu là không có
Đạo, không ở đâu là không theo Đạo, Đạo là
cái vô hình nhìn không thấy, đón không gặp,
đuổi không được nhưng ở đâu cũng có Đạo.
Ông cho rằng, trời có Đạo mà trong, đất có
Đạo mà yên, thần có Đạo mà linh.
• Từ đó Lão Tử rút ra kết luận: Đạo có hai tính
chất cơ bản đó là tính phổ biến, gọi là đạo
thường và tính khách quan gọi là Đạo Vô Vi
(nghĩa là Đạo hoạt động không phụ thuộc vào
ý chí con người). Lão Tử cho rằng, không cần
ai ra lệnh, Đạo tự mình làm, Đạo vốn tự nhiên
lạnh lùng trước con người, nó không vì rét mà
dẹp bỏ mùa đông, không vì nóng mà bỏ mùa
hè.
• Như vậy, thông qua phạm trù Đạo, Lão Tử vừa
thừa nhận nguồn gốc của thế giới là vật chất,
đồng thời ông cũng thừa nhận sự tồn tại khách
quan của quy luật chi phối sự vận động của tự
nhiên và xã hội.
3.2 Tư tưởng về phép biện chứng
Triết học của Lão Tử bao hàm nhân tố đặc sắc
về phép biện chứng chất phác.
+ Phép biện chứng của Lão Tử là sự phát triển
tư tưởng về sự biến dịch trong “kinh dịch” của
triết học Trung Hoa. Ông cho rằng: Toàn bộ
thế giới là cuộc đại chuyển tiếp không ngừng.
Sự vận động biến đổi của vạn vật không phải
là hỗn loạn mà tuân theo những qui luật tất
yếu. Đây là những qui luật nghiêm ngặt, không
sự vật nào đứng ngoài qui luật kể cả trời đất,
thần linh.
+ Theo Lão Tử: Toàn thể vũ trụ bị chi phối bởi 2
qui luật phổ biến: Đó là qui luật quân bình và
qui luật phản phục.
• Luật quân bình: luôn giữ cho sự vận động
được thăng bằng không để cho cái gì thái quá,
thiên lệch hay bất cập. Nghĩa là, cái gì khuyết
sẽ được tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng,
cái gì vơi sẽ được bù đắp cho đầy, cái gì cũ sẽ
đổi mới lại. Đó là đạo tự nhiên.
Lão Tử viết “Khuyết tắc toàn, cong thì ngay,
trũng lại đầy, cũ thì lại mới”- Đạo đức kinh,
thượng thiên chương 22.
• Ví dụ: Biểu tượng của luật quân bình là nước,
nước có bản tính mềm mại, gặp chỗ trống thì
nhảy vào, gặp chỗ đầy dư thì chảy ra, lánh chỗ
cao, tìm chỗ thấp. Vì thế nó ngày đêm chảy
mãi không ngừng. Lên trên thành thành mưa
thấm nhuần vạn vật, xuống dưới thành sông
lạch, tưới mát muôn loài. Chính nhờ luật quân
bình mà vận vật tồn tại biến đổi không ngừng
theo một trật tự tự nhiên nhất định.
• Quá trình biến đổi của vạn vật còn tuân theo
luật phản phục nghĩa là phát triển tới cực điểm
sẽ trở thành cái đối lập với chính nó.
• Luật phản phục của Lão Tử có hai ý nghĩa:
- Phản phục có nghĩa là vạn vật biến hóa trao
đổi cho nhau theo một vòng tuần hoàn đều
đặn, kế tiếp, nhịp nhàng bất tận như 4 mùa
xuân, hạ, thu, đông thay đổi qua lại.
- Phản phục còn có ý nghĩa là trở về với Đạo tự
nhiên Vô vi. Nghĩa là trở về với chính bản tính
tự nhiên của mình, không thái quá, không bất
cập. Theo Lão Tử nếu không trở về với đạo tự
nhiện Vô vi, có tính can thiệp vào cái bản tính
tự nhiên của tạo hóa là chuốc lấy thất bại. Ông
cho rằng nếu trời không trong sẽ vỡ, đất không
yên sẽ lở, hang không đầy sẽ cạn.
Như vậy sự trở về với Đạo có nghĩa là sự hòa
nhập, đồng nhất với cái tĩnh lặng, mộc mạc,
thuần phác, tự nhiên của Đạo.
+ Trong phép biện chứng của mình Lão Tử đã đi
sâu lí giải về nguồn gốc của sự vận động biến
đổi. Theo ông mỗi sự vật là một thể thống nhất
của hai mặt đối lập. Hai mặt này vừa xung
khắc đối lập, lại vừa liên hệ ràng buộc bao
hàm lẫn nhau và không thể thiếu được nhau.
Lão Tử viết trong vạn vật không vật nào mà
không “cõng âm bồng dương” hai mặt này vừa
nương tựa phụ thuộc vào nhau lại vừa xung
khắc với nhau trong sự vật.
Ở đây Lão Tử đã vạch ra được bản chất của
mối quan hệ là thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập trong bản thân sự vật, đó là
nguồn gốc của mọi sự biến đổi.
- Theo Lão Tử, các mặt đối lập trong sự vật trong
quá trình đấu tranh có thể chuyển hóa lẫn
nhau, khi sự phát triển đạt đến cực điểm thì sẽ
trở thành mặt đối lập với chính nó do đó họa là
chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa.
Gió to không suốt sáng, mưa lớn không suốt
ngày…
• Tuy nhiên theo Lão Tử, sự đấu tranh chuyển
hóa của các mặt đối lập không theo khuynh
hướng phát triển dẫn đến xuất hiện cái mới mà
theo vòng tuần hoàn của luật “phản phục”.
Hơn nữa Lão Tử không chủ trương giải quyết
mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập
mà chủ trương lấy cái tĩnh, cái mềm, cái Vô vi,
cái điều hòa để tạo thành sự chuyển hóa (đây
là mặt hạn chế trong phép biện chứng của
ông).
3.3 Tư tưởng về Đạo Vô vi
Vô vi là một khái niệm triết học đạo đức của
người Trung Hoa cổ đại để chỉ phương pháp
sống tự nhiên mộc mac, thuần phác không bị
cưỡng chế gò ép.
Khái niệm Vô vi của Lão Tử: cũng xuất phát từ
ý nghĩa này nhưng cốt lõi thực sự của nó là
nghệ thuật sống của con người trong sự hòa
nhập với tự nhiên, thuận theo bản tính tự nhiên
của con người.
Khái niệm Vô vi của Lão Tử có ba ý nghĩa
chính.
• Một là, vạn vật đều có bản tính tự nhiên của
mình, chúng tồn tại, vận động, biến hóa theo lẽ
tự nhiên không cần biết đến ý nghĩa mục đích
của bản thân chúng.
Ví dụ: bản tính tự nhiên của cá là bơi lội dưới
nước, chim là bay trên trời.
Vì vậy không nên can thiệp vào quá trình vận
hành của các sự vật, biết chấp nhận, thích ứng
với mọi hoàn cảnh, môi trường.
• Hai là, Vô vi còn có nghĩa là tự do “tuyệt đối”
không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng, dục
vọng, đam mê, ham muốn nào.
Theo Lão Tử nếu trong đời sống người ta cố
chạy theo những nhu cầu ham muốn trái với
khả năng, bản tính tự nhiên của mình sẽ đánh
mất chính bản thân mình. Chính những ham
muốn dục vọng làm con người mất tự do.
• Ba là, Vô vi còn có nghĩa là luôn bảo vệ, giữ
kín bản tính tự nhiên của mình, biết ngăn chặn,
bài trừ những gì làm hại đến bản tính tự nhiên.
Như vậy thực chất của Vô vi không phải là thụ
động, bất động hay không hành động mà Vô vi
là hành động theo bản tính tự nhiên của Đạo.
+ Từ quan điểm Vô vi Lão tử rút ra những điểm
căn bản trong nghệ thuật sống của con người
đó là những đức tính: Từ ái, cần kiệm, khiêm
nhường, khoan dung, tri túc….theo tư tưởng
này cần phải từ bỏ những gì là nhân tạo, phi
đạo pháp tự nhiên. Tinh thần ấy dẫn Lão Tử
đến chỗ quan niệm một cuộc sống, một phong
cách sống theo Đạo đến mức chối bỏ truyền
thống nhân tạo.
+ Trong đường lối trị nước an dân, Lão Tử nhất
trí với Khổng Tử là người đứng đầu nhà nước
phải là một thánh nhân.
Nhưng nếu Khổng Tử chủ trương, thánh nhân
trị vì thiên hạ bằng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín thì
Lão Tử chủ trương thánh nhân trị vì thiên hạ
bằng Đạo Vô vi. Nghĩa là trong mô hình xã hội
của Lão Tử ông chủ trương xóa bỏ hết mọi
ràng buộc của con người bởi các qui phạm đạo
đức pháp luật, tri thức, công nghệ… để trả lại
con người cái bản tính tự nhiên nguyên thủy
vốn có của nó (Đây là mặt hạn chế của ông)
• Kết luận:
Tư tưởng của Lão Tử về Đạo cũng như phép
biện chứng và chủ nghĩa Vô vi là rất sâu sắc
và độc đáo. Với trình độ tư duy lí luận cao,
những quan điểm ấy của Lão Tử đã đóng góp
đáng kể vào sự phát triển tư tưởng triết học
phương Đông. Tuy nhiên Lão Tử trong tư tưởng
triết học của ông vẫn còn những hạn chế bởi
điều kiện lịch sử khi giải quyết những vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận hay phép biện
chứng. Nhưng dù sao về phương diện lịch sử
chúng ta cũng phải nghiêng mình trước di sản
tài hoa và sắc sảo của ông.
CHƯƠNG IV
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học
Hy Lạp cổ đại.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Hy Lạp
cổ đại.
- Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao
gồm miền nam bán đảo Ban Căng thuộc Châu
Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê và cả miền ven
biển của bán đảo Tiểu Á. Điều kiện địa lý thuận
lợi cho nên từ rất sớm các ngành nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại
đã phát triển.
- Về mặt xã hội, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy
Lạp thịnh hành một cách phổ biến vào khoảng từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIII tr.CN. Đây là thời kỳ xã hội đã
phân chia thành hai giai cấp cơ bản: chủ nô và nô lệ.
- Thời kỳ này cũng diễn ra mâu thuẫn gay gắt giữa
tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Trong đó
chủ nô dân chủ là phái chủ nô tiến bộ, đứng về phía
NDLĐ, còn chủ nô quý tộc đại biểu cho xu hướng
phản động muốn duy trì một xã hội độc tài. Cuộc đấu
tranh đó có tác động tích cực tới việc phát triển LLSX.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất thúc đẩy sự phân công lao
động xã hội. Do đó, thời kỳ này lao động
trí óc đã tách khỏi lao động chân tay, xã
hội đã hình thành một bộ phận trí thức
chuyên nghiên cứu triết học và khoa học.
Điều này góp phần vào việc phát sinh các
ngành khoa học, trong đó có triết học.
Do nhu cầu của hoạt động thực tiễn, nhất là
nhu cầu phát triển thương mại và hàng hải ở
Hy Lạp đã quyết định sự phát sinh và phát
triển của những tri thức về thiên văn, khí
tượng, toán học, vật lý, ...
Vì vậy thời kỳ này ở Hy Lạp đã xuất hiện
sớm một số ngành khoa học tự nhiên, nhưng
các ngành khoa học này chưa đủ sức để trở
thành những ngành khoa học độc lập. Lúc này
tất cả các khoa học tự nhiên nằm chung trong
triết học.
Do đó, triết học lúc đó gọi là triết học
tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ này
cũng là những nhà khoa học tự nhiên.
Qua đó thấy triết học Hy Lạp cổ đại
ngay từ khi mới ra đời đã gắn chặt với nhu
cầu của thực tiễn, gắn liền với những
thành tựu của khoa học tự nhiên.
2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ
đại
- Triết học Hy lạp cổ đại có đặc điểm
riêng độc đáo của nó. Đó là nền triết học
phong phú rực rỡ, nhiều màu sắc, nhiều
trường phái với nhiều triết gia tiêu biểu.
Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “ Từ các
hình thức muôn hình muôn vẻ của tư
tưởng triết học cổ Hy Lạp đã có mầm
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các
loại thế giới quan sau này”.
- Triết học Hy Lạp cổ đại hình thành phát
triển gắn liền với sự phát triển của khoa
học tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ
này đồng thời cũng là những nhà khoa học
tự nhiên.
- Trong lịch sử triết học Hy lạp cổ đại, chủ
nghĩa duy vật có đặc điểm là mộc mạc,
chất phác, gắn liền với phép biện chứng
sơ khai, tự phát.
II. Một số triết gia tiêu biểu.
1. Hêraclit (520 – 460 tr.CN).
Hêraclit vừa là nhà triết học vừa là nhà
vật lý. Ông là nhà triết học duy vật có tư
tưởng biện chứng về thế giới.
Quan điểm triết học của ông thể hiện ở
những nội dung sau đây.
* Quan điểm về thế giới:
Hêraclit thừa nhận thế giới là
vật chất mà cơ sở đầu tiên, duy
nhất của nó là Lửa. lửa là nguồn
gốc, là cái có trước, là bản chất
của mọi sự vật và là cơ sở của
mọi sự biến đổi.
Ông cho rằng, dưới tác động của lửa,
đất biến thành nước, nước biến thành
không khí và ngược lại giống như hàng
hoá trao đổi thành vàng và vàng thành
hàng hoá.
Theo Hêraclit, mọi sự vật luôn ở trạnh
thái vận động biến đổi chuyển hoá không
ngừng giống như dòng chảy của con
sông.
Ông nêu lên luận điểm bất hủ rằng:
“Người ta không thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông”.
Nguồn gốc của sự vận động biến đổi của
sự vật, theo ông là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật. Thông qua “đấu tranh” bản chất sự vật
bộc lộ ra và nhờ đó con người nhận thức
đúng về sự vật.
Theo Hêraclit Sự vận động và phát triển
của sự vật tuân theo quy luật (ông gọi là
Logos). Người nào thấu hiểu được Logos và
làm đúng theo Logos thì người đó là người có
trí tuệ.
* Quan điểm về lý luận nhận thức:
Hêraclit cho rằng, nhiêm vụ của
nhận thức là phải hiểu biết sâu sắc về
tự nhiên. Con người nhận thức tự
nhiên bằng cả cảm giác và tư duy.
Trong đó tư duy có vai trò cực kỳ quan
trọng. Nhận thức chân thực là nhận
thức Logos của sự vật, song chân lý
phải là cụ thể.
Quan điểm về chính trị- xã hội:
Hêraclit đứng trên lập trường của chủ nô
quý tộc chống lại phái chủ nô dân chủ. Ông đề
cao vai trò của những cá nhân “ưu tú” và tỏ ra
khinh miệt quần chúng nhân dân lao động. Ông
coi một người ưu tú sánh với hàng vạn người
khác.
Tóm lại: Hêraclit có rất nhiều đóng góp về
mặt triết học cả vấn đề thế giới quan cũng như
nhận thức luận, đặc biệt là phép biện chứng. Tuy
còn mộc mạc, chất phác, nhưng về cơ bản
những quan niệm đó là đúng đắn.
2. Đêmôcrit (460 – 370 tr.CN).
Đêmôcrit là nhà triết học duy vật vĩ đại
trong thế giới cổ đại.
Ông là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực và nắm được hầu hết những kiến thức
đương thời: triết học, logic học, toán học, vũ
trụ học, vật lý học, sinh vật học, tâm lý học,
giáo dục học, đạo đức học, mỹ học, ngôn
ngữ học.
Vì vậy, ông được coi là người có bộ óc
bách khoa đầu tiên trong người Hy Lạp.
quan điểm duy vật của ông được thể hiện ở
những nội dung sau.
*Quan điểm về thế giới:
Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu
tạo nên mọi sự vật là nguyên tử. Nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia
được nữa, không nhìn thấy được, không âm
thanh, không màu sắc, không mùi vị và tồn
tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Đêmôcrit, các sự
vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau
tạo nên. Tính đa dạng của nguyên tử làm nên
tính đa đạng của thế giới các sự vật. Nguyên
tử tự thân vận động nhưng khi kết hợp với
nhau thành vật thể làm cho vật thể và thế giới
vận động không ngừng.
Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit
nêu lên khái niệm không gian, theo ông
không gian là khoảng trống mà ở đó các
nguyên tử vận động liên kết lại với nhau.
Ông là người đã thấy được mối liên hệ
giữa vật chất, vận động và không gian. Ở
đây Đêmôcrit đã thể hiện lập trường duy
vật về tự nhiên.
*Quan điểmvề lý luận nhận thức:
Đêmôcrit là người có công lớn trong
việc xây dựng lý luận nhận thức của
chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Ông cho
rằng đối tượng của nhận thức là vật
chất, là thế giới xung quanh con người
và nhờ vào sự tác động của đối tượng
nhận thức vào giác quan nên con
người mới nhận thức được sự vật.
Đêmôcrit chia nhận thức thành 2
dạng là: nhận thức mờ tối và nhận thức
chân lý.
Nhận thức mờ tối là nhận thức do các
giác quan đem lại.
Nhận thức chân lý là nhận thức do sự
phân tích sâu sắc sự vật để nắm bản chất
bên trong của nó. Hai dạng nhận thức trên
có mối liên quan chặt chẽ với nhau, trong
đó nhận thức chân lý sâu sắc hơn vì nó
phản ánh được bản chất bên trong của sự
vật.
Đêmôcrit còn là người đặt nền móng
cho sự ra đời của logic học với tư cách là
khoa học của tư duy. Ông là người đầu
tiên trong lịch sử viết tác phẩm “ Bàn về
logic học” ông coi logic học là một công
cụ để nhận thức các hiện tượng của tự
nhiên. Ông là người nhấn mạnh phương
pháp quy nạp. Tức là phương pháp đi từ
cái riêng đến cái chung nhằm vạch ra bản
chất của sự vật.
* Quan điểm về chính trị xã hội:
Đêmôcrit là người phê phán mạnh mẽ tôn giáo.
Ông cho rằng những thần thánh của tôn giáo Hi Lạp
chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự
nhiên hay thuộc tính của con người.
Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng
lớp chủ nô dân chủ chống lại bọn chủ nô quý tộc,bảo
vệ chế độ dân chủ nô, ông coi chế độ Nô Lệ là hợp
lý .
Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ
về mặt đạo đức. Theo ông phẩm chất con
người không phải ở lời nói mà ở việc làm.Con
người cần hành động có đạo đức, còn hạnh
phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở
khả năng tinh thần nói chung,và đỉnh cao
của hạnh phúc là trở thành nhà thông thái.
Tóm lại những quan điẻm triết học của
Đêmôcrit tuy còn mộc mạc chất phác, song
đã đưa triết học duy vật Hi Lạp cổ đại lên
bước tiến mới,đóng góp cho kho tàng triết
học của nhân loại những thành quả vô giá.
3. Platon (427 – 347 tr.CN).
Platon là nhà triết học duy tâm khách
quan, quan điểm triết học của ông đối lập
với triết học duy vật của Đêmôcrit.
Quan điểm triết học của ông được thể
hiện ở những nội dung sau đây
* Quan điểm về thế giới:
Platon coi ý niệm là thế giới chân thực,
có trướcvà sinh ra thế giới các sự vật. Còn
thế giới các sự vật là không chân thực. Bởi
vì ở đó các sự vật không ngừng biến đổi.
Do đó, không có cái gì là ổn định vĩnh viễn.
Như vậy, khi giải quyết vấn đé cơ bản
của triết học Platon đã đứng trên lập trường
của chủ nghĩa duy tâm khách quan.
*Quan điểm về lý luận nhận thức
Platon cũng có tính chất duy tâm. Theo ông, nhận
thức của con người không phải là phản ánh các sự
vật của thế giới khách quan mà chỉ là quá trình nhớ
lại, hồi tưởng lại của linh hồn về thế giới ý niệm, về
những điều mà linh hồn đã bắt gặp khi còn ở thế giới
ý niệm, khi chưa trú ngụ vào thể xác con người.
Trên cơ sở đó, Platon phân hai loại tri thức: tri
thức hoàn toàn đúng đắn tin cậy và tri thức mờ nhạt.
Loại thứ nhất là tri thức ý niệm, tri thức của linh hồn
trước khi nhập vào thể xác và có được nhờ hồi
tưởng. Loại thứ hai lẫn lộn đúng sai, là tri thức nhận
được nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó không có
chân lý.
* Quan điểm về chính trị xã hội
Platon chủ trương cần phải duy trì các
hạng người trong xã hội, cũng có nghĩa là
duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người.
Theo ông Nhà nước ra đời cũng là để đáp
ứng những nhu cầu đó. Ông đưa ra mô
hình “Nhà nước lý tưởng”.
Trên cơ sở phê phán các hình thức nhà
nước đã có trong lịch sử Platon đưa ra mô
hình Nhà nước lý tưởng dựa trên cơ sở phân
chia xã hội thành ba đẳng cấp dựa vào đặc
trưng đạo đức:
-Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học,
các nhà thông thái giữ vị trí lãnh đạo xã hội.
- Đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách
nhiệm bảo vệ Nhà nước lý tưởng.
- Đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do,
thợ thủ công có nhiệm vụ sản xuất ra của cải
vật chất để đảm bảo cuộc sống cho nhà
nước.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước lý
tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật
chất, sự phân công các ngành nghề và giải
quyết mâu thuẩn giữa các nhu cầu xã hội. Sự
vinh quang của nhà nước phụ thuộc vào các
phẩm chất: Sự thông thái, sự dũng cảm, sự
chính nghĩa và phong độ duy trì chuẩn mực xã
hội. Trong đó sự thông thái là tri thức cao nhất
và là niềm vinh quang của riêng nhà triết học.
Tóm lại: Platon là nhà triết học duy
tâm khách quan đã đề cập một cách có
hệ thống nhiều vấn đề của triết học. Tuy
còn nhiều hạn chế, song Platon đã đóng
góp công lao to lớn vào việc nghiên c ứu
những vấn đề về hình thái ý thức xã hội,
về tư duy lý luận.
CHƯƠNG V
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC
HƯNG (THẾ KỶ XV – XVI)
Hoàn cảnh ra đời của triết học Tây Âu thời kỳ
Phục hưng.
Thời kỳ Phục hưng ở các nước Tây Âu là từ thế kỷ
XV đến XVI. Gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là
thời kỳ này có sự khôi phục (làm sống lại) và phát triển
những giá trị văn hoá thời cổ đại.
Xét về mặt hình thái kinh tế - xã hội, đây là thời kỳ
các nước Tây Âu đang chuỷên dần từ XHPK lên XHTB.
Trong thời kỳ này, nhiều công cụ lao động đã được cải
tiến và hoàn thiện, đã tạo ra điều kiện cho các công
trường thủ công tư bản từng bước nâng cao năng suất
lao động.
I.
Những phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ
và đường hàng hải sang Ấn Độ và Trung
Quốc qua châu Phi, đã mở rộng giao lưu hàng
hoá giữa các nước, giữa Đông và Tây. Nhờ
đó, sản xuất và thương nghiệp phát triển,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình
thành, phát triển nhanh chóng.
Giai cấp tư sản mới hình thành là giai cấp
tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự
nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển sản xuất
và cần có CNDV làm vũ khí tư tưởng để
chống lại thế giới quan DT của GCPK.
Từ những đặc điểm KT,CTXH nói trên
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tư
tưởng triết học. Do đó triết học thời kỳ này
có đặc điểm là gắn bó chăt chẽ với
KHTN; các nhà KHTN thời kỳ này không
những là những người khổng lồ về mặt trí
tuệ mà còn là những người có bản lĩnh
dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống
CNDT tôn giáo để bảo vệ chân lý khoa
học.
II. Một số triết gia tiêu biểu.
1.Nicôlai Côpécnic (1473 – 1543).
Nicôlai Côpécnic là nhà thiên văn học và triết
học người Ba Lan. Ông là người đầu tiên đã đưa ra
thuyết Nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm, trái đất và
các hành tinh khác đều quay quanh mặt trời.
Thuyết “Nhật tâm” của ông có ý nghĩa rất lớn
về triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ. Nó bác
bỏ thuyết địa tâm của Ptôlêmê và do đó đã giáng một
đòn quyết định vào chính nền tảng của thế giới quan
tôn giáo và đánh dấu sự giải phóng khoa học tự nhiên
khỏi thần học và tôn giáo.
Phát minh của Côpécníc là “một cuộc cách
mạng trên trời”, báo trước một cuộc cách mạng trong
các quan hệ xã hội.
2. Gióocđanô Brunô
(1548 – 1600).
Brunô là nhà triết học đồng thời là một nhà
khoa học tự nhiên vĩ đại, ông cũng là tu sĩ
nghiên cứu thần học ở Italia.
Brunô là người kế thừa và phát triển thuyết
“Nhật tâm” của Côpécníc. Ông cho rằng: xung
quanh trái đất có một bầu không khí và nó
cùng xoay với trái đất. Theo ông có vô vàn thế
giới giống như thái dương hệ của chúng ta, thế
giới chúng ta đang sống cũng như thế giới “nhà
trời” đều do vật chất tạo nên.
Brunô cũng có đóng góp quan trọng trong
sự phát triển phép biện chứng. Ông đã có tư
tưởng biện chứng “về sự phù hợp của các
mặt đối lập”.
Theo ông, trong tự nhiên, mọi cái đều liên
hệ với nhau và đều vận động, cái này mất đi
thì cái khác ra đời. Các mặt đối lập cũng
chuyển hóa lẫn nhau: tình yêu chuyển thành
căm thù và ngược lại; chất độc có thể trở
thành bài thuốc tốt nhất và ngược lại…
Tư tưởng biện chứng của ông đã vượt xa
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vì ông đã dựa
trên thành tựu của toán học và cơ học thời
đại của mình.
Về mặt nhận thức luận, khi xây dựng
phương pháp mới của khoa học, Brunô đòi hỏi
khoa học tự nhiên phải dựa trên thực nghiệm.
Đồng thời, khi đề cao vai trò của thực nghiệm
và kinh nghiệm, ông cũng hết sức coi trọng tư
duy lý tính trong quá trình nhận thức.
Ông cho rằng, mục đích cao nhất của tư
duy là nắm bắt quy luật của tự nhiên. Theo
ông, con đường nhận thức là từ cảm giác đến
lý trí và cuối cùng là trí tuệ.
Với những tư tưởng tiến bộ nói trên,
Brunô đã bị toà án tôn giáo kết án tử hình và
thiêu sống tại La Mã.
3. Galilêô Galilê (1564 – 1642).
Galilê là nhà toán học, nhà thiên văn học,
nhà vật lý và là nhà triết học cuối thời Phục
hưng ở Italia, là người mở đầu cho sự phát
triển của khoa học thực nghiệm.
Galilê đã có nhiều đóng góp cho cơ học,
đặc biệt là quy luật quán tính, lực rơi và gia
tốc trọng trường. Ông cũng đã chế ra kính
viễn vọng để quan sát bầu trời, phát hiện ra
các vệ tinh, quan sát mặt trời, mặt trăng…
Các phát minh khoa học của ông có ý
nghĩa triết học sâu sắc. Nó giúp cho ông có cơ
sở để khẳng định tính thống nhất vật chất của
toàn bộ vũ trụ và chứng minh thuyết “nhật
tâm” của Côpécnic.
Do ảnh hưởng của các quan niệm “hai
chân lý” đang thịnh hành thời đó, ông cho rằng
kinh thánh và khoa học đều cần cho con
người. Kinh thánh gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của con người, dạy cho con người điều
hay lẽ phải; còn khoa học giúp cho con người
khám phá được các quy luật của giới tự nhiên,
nhận thức được bản chất đích thực của
Đề cao nhận thức trí tuệ của con người
trong việc nhận thức thế giới. Ông cho rằng
khả năng nhận thức của con người là vô hạn,
cảm giác là bước đầu của nhận thức còn
bước cuối là hoạt động của lý trí, ở bước này
kinh nghiệm được kiểm tra lại và những yếu tố
rời rạc của tri thức được liên kết lại. Không có
chân lý cuối cùng.
Galilê có nhiều phát minh vĩ đại, có vai trò lớn
cho sự phát triển của khoa học và triết học. Nhưng nó
lại là mối nguy hiểm cho chủ nghĩa kinh viện và giáo
hội La Mã lúc bấy giờ. Vì vậy Giáo hoàng La Mã ra
lệnh truy tố và bỏ tù ông, tòa án tôn giáo đã quản thúc
một cách nghiêm ngặt cho tới khi ông qua đời.
Triết học vào thời kỳ Phục hưng
đã tạo ra một bước ngoặt trong sự
phát triển của triết học sau đêm
trường Trung cổ. Nó tạo tiền đề
cho triết học tiếp tục phát triển
vào thời kỳ cận đại.
CHƯƠNG VI
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI
(Thế kỷ XVII – XVIII)
I. Hoàn cảnh lịch sử của triết
học Tây Âu thời kỳ cận đại.
Từ cuối thế kỷ XVI–XVIII ở các nước Tây
Âu là TK nổ ra các cuộc CMTS. Đầu tiên là
CMTS Hà Lan (1560–1570), sau đó là CMTS
Anh (1642–1648), rồi đến CMTS Pháp
(1789–1794). Trong đó CMTS Pháp là triệt
để nhất.
Đây là thời kỳ PTSX tư bản được xác lập
và trở thành PTSX thống trị, nó tạo ra những
vận hội mới cho KHKT phát triển mà trước
hết là KHTN.
Do đó thời kỳ này các ngành khoa học
đã dần tách ra khỏi triết học để trở thành
khoa học độc lập .Đặc biệt là các ngành
cơ học, vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế
học ra đời và phát triển. Từ những thay
đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và
những thành tựu mới trong KHTN, triết
học thời kỳ này đã có một bước phát triển
mới. Trong đó nổi bật là CNDV Anh TK
XVII và CNDV Pháp TK XVIII.
II.Những nền triết học với những
triết gia tiêu biểu.
1. Triết học Anh thế kỷ XVII.
1.1. Phranxi Bêcơn (1561 - 1626).
Bêcơn sinh ra trong một gia đình quý tộc,
là con một quan chức cao cấp nước Anh. Sau
khi tốt nghiệp đại học, ông làm nhiều công
việc khác nhau: ngoại giao, tư pháp, thượng
thư báo chí, bầu vào nghị viện, thủ tướng
Anh, được phong bá tước.
Bêcơn là người sáng lập chủ nghĩa duy
vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại.
Bắt đầu từ Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu
bước sang một giai đoạn mới.
*Quan điểm của Bêcơn về vai trò,
nhiệm vụ của triết học và khoa
học.
Theo Bêcơn thì nhiệm vụ của triết học là cải
tạo lại toàn bộ các tri thức mà con người đã đạt
được ở thời đại đó, nhằm “nắm bắt trật tự của
giới tự nhiên”.Theo ông, tri thức là sức mạnh để
con người chinh phục tự nhiên. Muốn chinh phục
tự nhiên thì con người phải nhận thức các quy
luật của nó và vận dụng các quy luật ấy vào
trong đời sống. Từ đó, Bêcơn cho rằng sự phát
triển của triết học và khoa học là nền tảng canh
tân đất nước.
*Quan điểm về thế giới
Bêcơn đứng trên lập trường DV trên cơ sở kế thừa,
phát triển quan điểm DV thời kỳ cổ đại. Đặc biệt là
quan điểm của Đêmôcrit về nguyên tử.
Theo Bêcơn, sự tồn tại của thế giới vật chất khách
quan là không thể tranh cãi được, khoa học không thể
biết cái gì ngoài thế giới vật chất cả. Và ông khẳng
định vật chất không tách rời vận động, nhận thức bản
chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng.
Bêcơn đã tiến hành phân loại các hình thức vận động.
Ông nêu ra 19 hình thức vận động của vật chất. Ở đây
ông đã thấy được mối quan hệ vật chất và vận động.
*Quan điểm về lý luận nhận thức
Lý luận nhận thức của Bêcơn nêu lên và
giải quyết những vấn đề dưới đây:
Theo Bêcơn, không có tri thức bẩm sinh,
mọi tri thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm và
thực hiện sự “chế biến” những kinh nghiệm
đó thành một hệ thống, nhờ đó ta biết được
bản chất, của sự vật.
Từ đó, Bêcơn phê phán những người kinh
nghiệm luận máy móc giống như Con Kiến
chỉ biết tha nhặt những cái lẻ tẻ, vụn vặt và
sử dụng chứ không biết chế biến chúng.
Còn những người giáo điều thì giống như
Con Nhện dùng lý trí của mình giăng những
cái mạng vô hình, vô nghĩa.
Đối với những nhà khoa học chân chính,
theo ông phải như Con Ong, vừa biết góp
nhặt nhụy hoa vừa biết tạo ra “Mật khoa
học” cho đời.
Trên cơ sở đó, Bêcơn cho rằng phương
pháp tốt nhất để nhận thức bản chất của
sự vật là phương pháp quy nạp. Tức là trên
cơ sở những kinh nghiệm do nhận thức
cảm tính mang lại, phải biết phân tích, tổng
hợp, chế biến thông tin để rút ra kết luận
về bản chất của sự vật
Tuy nhiên, trong lý luận nhận thức,
Bêcơn không đứng vững trên lập trường
vô thần, khi thừa nhận chân lý có tính hai
mặt: khoa học và thần học. Ông cho rằng
khoa học và thần học không nên can
thiệp vào công việc của nhau. Khoa học
nghiên cứu cái mà thần học không thể có
được. Thần học nghiên cứu cái mà khoa
học không thể vươn tới.
*Quan điểm chính trị xã hội
Bêcơn chủ trương xây dựng nhà nước tập
quyền mạnh, bảo vệ lợi ích xã hội tư bản,
chống lại đặc quyền của bọn quý tộc. Ông
khẳng định sự phát triển công nghiệp và
thương nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhất
trong đời sống xã hội. Bêcơn mơ ước xây dựng
một xã hội phồn vinh bằng con đường giáo dục
và bằng các phát minh kỹ thuật.
Tất cả những tư tưởng đó phù hợp với lợi
ích và nguyện vọng của giai cấp tư sản đang
lên và tầng lớp quý tộc mới ở nước Anh vào
thế kỷ thứ XVII
Tóm lại: Bêcơn là người sáng tạo
ra CNDV Anh, mang trong mình mầm
mống của sự phát triển tòan diện.
Mặc dù còn dưới hình thức mộc mạc,
song những quan điểm DV đó có tác
dụng tích cực đối với sự phát triển
của triết học và khoa học
1.2. Tômát Hốpxơ (1588 -1679).
Hốpxơ là một triết gia nổi tiếng, đại
biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật Anh
thế kỷ XVII. Ông là người hệ thống hoá
chủ nghĩa duy vật của Bêcơn.
Quan điểm duy vật của ông được thể
hiện những nội dung sau đây:
*Quan điểm về thế giới
Hôpxơ đứng trên lập trường duy vật. Ông
cho rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan,
không do thần thánh sáng tạo ra và cũng
không phụ thuộc vào ý thức con người .
Theo ông, thế giới vật chất là thế giới của
các vật thể, cùng với những quan hệ số
lượng cơ học, toán học của nó. Quan niệm
của Hốpxơ về thế giới vật chất là quan niệm
duy vật siêu hình. Tất cả đều được quy về
quan hệ số lượng, quan hệ toán học và vận
động theo quy luật cơ học. Cả con người
cũng được ông giải thích như một cổ máy.
*Quan điểm về lý luận nhận thức
Về cơ bản lý luận nhận thức của Hôpxơ
thuộc về phái cảm giác luận. Ông coi cảm
giác là cơ sở của nhận thức. Nhưng ông chưa
giải quyết được mối quan hệ giữa nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính, giữa cái chung
và cái riêng. Do đó, ông cho rằng chỉ có
những sự vật cảm tính mới tồn tại khách
quan, còn các khái niệm chỉ là những cái tên,
những ký hiệu do con người tùy tiện đặt ra.
Như vậy, lý luận nhận thức của ông bị chủ
nghĩa duy danh chi phối.
*Quan điểm về nhà nước và xã hội.
Vấn đề nhà nước là một phần quan trọng trong
học thuyết của Hốpxơ. Lý luận này được ông trình
bày trong tác phẩm “về công dân”.
Ông cho rằng, con người là một thực thể thống
nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Về bản tính tự
nhiên, mọi người sinh ra đều như nhau. Nhưng con
người ai cũng có khát vọng, nhu cầu riêng của mình.
Đó là những tiền đề cho con người làm điều ác.
Để khắc phục tình trạng trên, cần phải xây dựng
“một khế ước xã hội” như bản hợp đồng, giao kèo
giữa nhà nước và công dân. Trên cơ sở đó, hình
thành những đạo luật để mọi công dân có nghĩa vụ
tuân theo và nhà nước dựa vào đó để quản lý XH.
1.3. Gióocgiơ Béccli (1684 - 1753).
Béccli sinh ra trong một gia đình quí
tộc ở miền Nam Ailen; học ở Trường
Tổng hợp Đublin. Ông say mê nghiên cứu
thần học, toán học và triết học. Béccli là
nhà triết học duy tâm, vị linh mục. Quan
điểm triết học của ông thể hiện nội dung
sau:
*Quan điểm về thế giới
Ông phủ nhận sự tồn tại khách quan của
thế giới vật chất. Ông cho rằng khái niệm vật
chất chỉ là sự trừu tượng trống rỗng.
Theo ông, “vật thể trong thế giới quanh ta
là sự phức hợp của cảm giác”. Ví dụ, cái bàn,
đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ
là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu
sắc. Hương vị của hoa quả cũng chỉ do cảm
giác của con người nhận biết, chúng không
tồn tại thật.
Ông giải thích: “Tôi nhìn thấy quả anh
đào này, sờ thấy nó, nếm nó... nó có thật.
Gạt bỏ cảm giác mềm dịu, mát, đắng,
màu đỏ... đi tức là tiêu diệt quả anh đào”.
Tóm lại, theo Béccli, mọi vật chỉ tồn tại
trong chừng mực mà người ta cảm biết
được chúng. Tồn tại có nghĩa là được
cảm biết.
*Quan điểm về lý luận nhận thức
Beccli cũng đứng trên lập trường duy tâm.Từ
chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới
vật chất, Béccli đã đi tới phủ nhận chân lý
khách quan. Ông cho rằng: tìm chân lý không
phải là trong sự phù hợp của tri thức với sự
vật bên ngoài, mà là sự so sánh các quan niệm
trong ý thức con người, là tính rõ ràng các tri
giác cảm tính, là sự đơn giản và dễ hiểu của
các quan niệm, là sự phù hợp với ý chúa.
2. Triết học khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII.
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
Xã hội Pháp vào nửa cuối thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu
thuẫn sâu sắc. Giai cấp phong kiến Pháp đứng đầu là vua Lu-i
XVI đã thâu tóm vào tay mình những quyền lực vô hạn. Ch ỗ
dựa xã hội của nhà vua là các đẳng cấp đặc quyền và chiếm
số ít trong dân cư: quí tộc và tăng lữ. Đời sống của đại đa s ố
nhân dân lao động, trước hết là nông dân hết sức khốn kh ổ,
nạn đói do mất mùa hoành hành, những cuộc nổi dậy của
nông dân chống chế độ phong kiến xảy ra thường xuyên. T ất
cả cái đó là nguyên nhân kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng
tư sản Pháp (1789 – 1794). Các nhà duy vật Pháp th ế kỷ XVIII
là những người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng
về chính trị sôi động đó.
Thế kỷ XVIII ở Pháp, với những đặc
điểm kinh tế - xã hội, chính trị của nó
cũng đồng thời tạo những tiền đề cho sự
ra đời của những tư tưởng triết học và tư
tưởng văn hoá nói chung.
Triết học thời kỳ này được gọi là triết
học khai sáng (ánh sáng) nghĩa là coi
trọng trí tuệ, đề cao trí tuệ của con người.
2.2. Một số triết gia tiêu biểu.
a). Giulen Ôphrơ La Mettri (1709 – 1751).
La Mettri sinh ra trong một gia đình
thương nhân giàu có. Sau khi tốt nghiệp
trung học, ông nghiên cứu y học và trở thành
bác sĩ, đồng thời say mê nghiên cứu triết học
và khoa học. La Mettri là một trong những
nhà triết học duy vật điển hình của triết học
khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông cùng với các
nhà Bách khoa toàn thư Pháp chuẩn bị về
mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản
Pháp năm 1789.
*Quan điểm về thế giới.
La Mettri đã có những bước tiến quan
trọng trong quan điểm về bản chất thế
giới so với những nhà triết học khác cùng
thời đại. Theo ông, thực thể vật chất là
thống nhất ba hình thức của nó trong giới
tự nhiên như: giới vô cơ, thực vật, động
vật (bao gồm con người).
Ông cho rằng, trong thế giới chúng ta
không có gì khác ngoài vật chất đang vận
động vĩnh viễn. Nguyên nhân sự vận
động của vật chất không phải do lực
lượng bên ngoài mà “Vật chất chứa đựng
một lực lượng làm nó sống động, và là
nguyên nhân trực tiếp của mọi qui luật
vận động”.
Theo La Mettri, vật chất không chỉ có
thuộc tính không gian và vận động mà
còn có năng lực cảm giác. Nhưng năng
lực cảm giác không phải xuất hiện ở bất
cứ dạng vật chất nào, mà chỉ xuất hiện ở
các “vật thể có tổ chức đặc biệt” đó là giới
sinh vật. Cơ thể con người là khí quan vật
chất của tư duy và ý thức của anh ta. Mọi
tư tưởng, suy nghĩ của con người đều bị
qui định bởi cấu trúc cơ thể của anh ta và
chịu sự tác động của môi trường và các
điều kiện sống.
*Quan điểm về lý luận nhận
thức.
La Mettri có những đóng góp có giá trị cho lý
luận nhận thức duy vật. Ông cho rằng mọi
nhận thức đều bắt đầu từ cảm giác, tiến lên tư
duy trừu tượng - đó là phán đoán và suy lý.
Phán đoán là so sánh, kết hợp các biểu tượng
có được nhờ trí nhớ ghi lại các cảm giác của
con người trong đời sống hàng ngày. Còn suy
lý là sự so sánh, kết hợp các phán đoán với
nhau nhằm khẳng định hay phủ định một vấn
đề nào đó.
Quan niệm của La Mettri về quá trình
nhận thức, không chỉ là quan điểm duy
vật mà còn có những yếu tố biện chứng.
Tuy nhiên lý luận nhận thức của ông vẫn
mang tính trực quan, siêu hình, quá nhấn
mạnh vai trò cơ chế tâm sinh lý trong
nhận thức...
*Quan điểm về xã hội.
La Mettri chủ trương thực hiện quyền sở
hữu tài sản. Chủ trương một xã hội được quản
lý theo pháp luật, bảo đảm quyền tự do chính
trị, quyền công dân, tự do buôn bán...
Là người có tư tưởng khai sáng, La Mettri
cho rằng, thông qua giáo dục, truyền bá tư
tưởng tiên tiến cho mọi người thì sẽ giải quyết
được mọi sự tiến bộ xã hội.
Ông cho rằng đối với người làm khoa học
thì không cần đến tôn giáo. Nhưng đối với đại
đa số nhân dân không có học, nghèo khổ thì
họ lại cần tôn giáo.
b). Đêni Điđrô (1713 - 1784).
Điđrô là nhà triết học duy vật điển hình
ở Pháp thế kỷ XVIII, là nhà văn, nhà lý
luận nghệ thuật, đại biểu phái khai sáng,
người chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư”,
của Pháp- một trong những di sản văn
hóa vĩ đại của nước Pháp và Châu Âu thế
kỷ XVIII.
*Quan điểm về thế giới
Điđrô đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Béccơli và tính không triệt để của chủ nghĩa
duy vật Anh.
Theo ông, trong vũ trụ chỉ có một thực thể
duy nhất, đó là vật chất; nó là cơ sở của mọi
sự vật, hiện tượng.
Vật chất là toàn bộ các vật thể có quảng
tính, có hình thức và luôn luôn vận động. Vận
động là một thuộc tính của vật chất. Nguyên
nhân của sự vận động là sự tự thân vận động
của vật chất.
Điđrô cho rằng, chính trong quá trình
vận động và phát triển, giới tự nhiên sẽ
loại bỏ những cái không thích nghi và
chọn lọc những gì giúp cho nó ngày càng
hoàn thiện.
Do vậy, kết cấu và trạng thái của sinh
vật là kết quả của quá trình tiến hoá lâu
dài của giới tự nhiên. Với quan niệm này,
Điđrô là bậc tiền bối của học thuyết
Đácuyn về chọn lọc tự nhiên.
Những quan niệm về bản thể luận trên
đây của Điđrô rất gần với quan điểm duy
vật hiện đại.
*Quan điểm về lý luận nhận
thức.
Điđrô xây dựng lý luận nhận thức trên
lập trường duy vật.
Theo ông, cảm giác là nguồn gốc của
mọi sự hiểu biết, là giai đoạn thứ nhất trong
nhận thức; còn lý trí, tư duy là giai đoạn thứ
hai.
Trên cơ sở cảm giác mà xuất hiện tư
duy; cảm giác là bằng chứng, lý trí là quan
tòa, dùng lý trí để kiểm soát cảm giác. Dùng
thí nghiệm và quan sát để kiểm tra những
luận điểm về lý luận.
Đề cao vai trò đặc biệt của quá trình
nhận thức đối với sự phát triển của xã
hội, Điđrô đưa ra tư tưởng biện chứng
khẳng định tính vô cùng tận trong sự phát
triển của tự nhiên, cũng như quá trình
nhận thức của con người.
Mặc dù khả năng nhận thức của mỗi
cá nhân là hữu hạn, nhưng nhân loại về
nguyên tắc có thể nhận thức toàn bộ thế
giới, mặc dù quá trình đó là vô cùng tận.
Có thể nói, nhận thức luận của Điđrô đã
tiến đến gần nhận thức luận duy vật biện
chứng.
*Quan điểm về chính trị - xã hội.
Trên cơ sở khẳng định vật chất là thực thể
duy nhất của mọi vật, Điđrô phủ nhận sự tồn
tại của Thượng đế, coi đó chỉ là sự thần
thánh hóa các điều kiện sống hiện thực của
con người. Vì thế, không phải tôn giáo sáng
tạo ra con người, mà chính con người sáng
tạo ra tôn giáo.
Khoa học thì hướng tới vũ trang cho
chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm
cho con người lớn mạnh thêm, còn tôn
giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng,
làm cho con người mềm yếu đi.
Tuy nhiên, ông chỉ nhìn nguồn gốc của
tôn giáo ở yếu tố tâm lý sợ chết của con
người chứ chưa nhìn thấy cơ sở kinh tế xã hội của sự tồn tại tôn giáo.
c). Pôn Hăngri Điđrich Hônbách
(1729 – 1789).
Hônbách là đại biểu xuất sắc của chủ
nghĩa duy vật và vô thần thế kỷ XVIII, nhà
tư tưởng của giai cấp tư sản cách mạng
Pháp, là cộng tác viên tham gia soạn thảo
“Bách khoa toàn thư” do Điđrô đứng đầu.
*Quan điểm về thế giới .
Hônbách đã đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật và dựa vào các thành tựu
của khoa học tự nhiên khẳng định tính vật
chất của thế giới.
Theo ông: “vật chất là tất cả những gì
tác động bằng một cách nào đó vào các
giác quan của chúng ta, còn các đặc tính
mà chúng ta gán cho các chất khác nhau
thì dựa trên những cảm giác khác nhau
hay những biến đổi khác nhau do chúng
gây ra trong chúng ta”.
Những đặc tính chủ yếu của vật chất
là: quảng tính (độ dài - khoảng cách), vận
động, tính có thể phân chia, tính chắc
chắn, trọng lực...
Theo Hônbách, vật chất tồn tại vĩnh
viễn, không ai sáng tạo ra và cũng không
mất đi. Vật chất hoạt động là do sức
mạnh của tự bản thân nó và không cần có
sự thúc đẩy bên ngoài.
Công lao lớn nhất của Hônbách thể
hiện ở chỗ ông thừa nhận vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất.
Nhưng vì là nhà duy vật siêu hình và
do hạn chế của điều kiện lịch sử, nên ông
quan niệm vận động chỉ là vận động cơ
giới, là sự đổi chỗ giản đơn của các vật
thể trong không gian.
*Quan điểm Về nhận thức luận .
Lý luận nhận thức của Hônbách dựa trên
cảm giác luận duy vật.
Theo ông, vật chất là tính thứ nhất, các
hình thức ý thức là tính thứ hai. Khi giải quyết
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học,
Hônbách cho rằng trí tuệ con người có khả
năng nhận biết được thế giới và các quy luật
của nó.
Song lý luận nhận thức của Hônbách
còn hạn chế là chưa thấy được quan hệ
biện chứng giữa nhận thức cảm tính với
nhận thức lý tính, chưa vạch ra được tính
tích cực của ý thức và vai trò của thực
tiễn xã hội trong nhận thức.
*Quan điểm về xã hội.
Quan điểm xã hội của Hônbách mang tính chất
duy tâm, ông coi sự phát triển xã hội như một quá
trình định mệnh chi phối.
Là nhà triết học trong phái khai sáng, ông quả
quyết rằng loài người có thể thoát khỏi ách phong
kiến bằng việc phổ cập giáo dục, làm cho lý tính
thắng chủ nghĩa ngu dân thời Trung cổ.
Hônbách mong muốn có sự quá độ hòa bình từ
chế độ phong kiến sang xã hội tư bản bằng con
đường lập pháp “hoàn thiện”. Ông sợ phong trào
cách mạng của quần chúng, mà muốn có “cách
mạng từ trên xuống”.
CHƯƠNG VII
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết
học cổ điển Đức.
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ
điển Đức.
-Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia,...
đã hoàn thành cuộc cách mạng tư sản và
thiết lập chủ nghĩa tư bản.
Tình hình đó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ.
-Trong khi đó nước Đức vẫn còn là một
quốc gia phong kiến lạc hậu cả về kinh tế
lẫn chính trị.
Nông nghiệp bị đình đốn, công nghiệp
không phát triển (năm 1822, cả nước Đức
mới chỉ có 2 máy hơi nước).
Vào đầu thế kỷ XIX nước Đức có
khoảng 300 công quốc khác nhau. Mỗi
công quốc giống như tiểu vương quốc tách
biệt gây trở ngại cho sự phát triển đất
nước.
- Đặc biệt, triều đình vua Phổ vẫn ngoan
cố tăng cường quyền lực để duy trì chế độ
phong kiến thối nát cản trở đất nước phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
- Mặc dù lạc hậu về kinh tế và chính trị,
nhưng nước Đức lại có những bước phát triển
mới về triết học, văn hóa, nghệ thuật.
Điều này thể hiện sự phát triển của ý thức
tư tưởng có lúc không hoàn toàn phụ thuộc
một chiều vào điều kiện về kinh tế.
- Do ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp
cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật của
thế giới lúc bấy giờ tác động làm cho giai cấp tư sản
Đức và những nhà tư tưởng thấy được những hạn
chế của phương pháp tư duy siêu hình.
Vì vậy, cần phải có sự cải cách, cần phải thay
thế bằng phương pháp tư duy biện chứng.
Do đó, ở nước Đức thời kỳ này có sự phát triển
mạnh mẽ về mặt triết học. Sự phát triển đó trở thành
màn giáo đầu cho cuộc cách mạng về chính trị sau
này.
2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
- Một là, triết học cổ điển Đức thời kỳ này biểu hiện
khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng về tư tưởng với
sự bảo thủ cải lương về lập trường chính trị xã hội của
các nhà triết học.
- Hai là, trước đây triết học phương Tây chủ yếu bàn
về những vấn đề thuộc về bản thể luận, nhận thức luận,
thì triết học cổ điển Đức bàn đến con người, coi con
người vừa là kết quả của quá trình hành động của mình
vừa là chủ thể của quá trình ấy. Đó là một thành tựu mới
đáng được khẳng định.
- Ba là, triết học cổ điển Đức có một cách nhìn mới,
biện chứng về thế giới hiện thực. Nếu gạt bỏ những yếu
tố duy tâm thì cách nhìn này là một đóng góp lớn cho tri
thức nhân loại.
Với những lý do nói trên triết học cổ
điển Đức được coi là giai đoạn phát triển
rực rỡ nhất của triết học phương Tây
cận đại và là nguồn gốc lý luận trực tiếp
cho sự ra đời của triết học Mác sau này.
II. Một số triết gia tiêu biểu.
1. Cantơ ( 1724-1804).
• Cantơ là nhà triết học mở đầu cho nền triết
học cổ điển Đức, ông sinh ra trong một gia
đình quý tộc Phổ ở Kennixbec, và học ở
trường đại học tổng hợp Kennixbec. Sau
đó giảng dạy môn triết học và các môn
khoa học tự nhiên ở đây.
• Cantơ là người nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực: toán học, logíc học, mỹ học, triết
học.Triết học của Cantơ được chia làm hai
thời kỳ gắn liền với sự chuyển biến tư
tưởng của ông.
*Thời kỳ trước phê phán (1746-1770).
Thời kỳ này Cantơ chú trọng nghiên cứu các vấn đề
khoa học tự nhiên với những phát minh nổi tiếng:
- Cantơ là người đầu tiên đã khám phá ra ảnh hưởng,
của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng đối với các
hiện tượng thuỷ triều. Ông cho rằng, do sức hút của
mặt trăng và trái đất đưa tới hiện tượng nước thuỷ
triều lên xuống và đã ảnh hưởng tới tốc độ xoay vòng
của trái đất. Cantơ cho rằng vòng xoay của trái đất
sẽ bị chậm lại là do sự ma sát khi nước thuỷ triều lên
gây ra.
Trong tác phẩm “ lịch sử tự nhiên phổ
thông và lý thuyết bầu trời” viết năm 1755,
Cantơ đã nêu lên giả thuyết có giá trị về sự
hình thành vũ trụ bằng các cơn lốc và kết tụ
của các khối tinh vân.
Như vậy ông thừa nhận các hiện tượng
trong thế giới có mối liên hệ vận động phát
triển. Trái đất, bầu trời cũng như toàn vũ trụ
có quá trình sinh thành, biến đổi.
Những phát minh về KHTN nói trên chứng
tỏ rằng Cantơ là người có quan điểm duy vật
biên chứng về thế giới.
*Thời kỳ phê phán (1770 trở đi).
-Nếu thời kỳ trước phê phán, triết học của
Căntơ thể hiện tính chất duy vật biện chứng
về thế giới thì thời kỳ phê phán triết học của
ông lại mang tính chất duy tâm, bất khả tri về
thế giới.
-Trước hết Cantơ thừa nhận sự tồn tại của
thế giới vật chất ở bên ngòai con người, thế
giới đó có thể nhận thức được bằng cảm giác.
Về điểm này ông là nhà duy vật.
Nhưng ông lại cho rằng nhận thức của con
người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài , không
xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật
thì khi đó ông lại là người duy tâm bất khả tri.
Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ
còn thể hiện ở chỗ ông coi không gian, thời gian,
các quy luật của tự nhiên không phải Là sản phẩm
của giới tự nhiên mà là sản phẩm của lý trí tiên
nghiệm
Tóm lại triết học của Cantơ là sự dung hòa
giữa CNDV Và CNDT và sự kết hợp hai khuynh
hướng đó trong một hệ thống triết học.
2. Hêghen (1770-1831).
2.1. Tóm tắt tiểu sử và tác
phẩm.
Hêghen sinh ra trong một gia đình quan chức cao
cấp ở Đức. Thời trẻ ông học khoa học triết học và
thần học ở trường Đại học Tubingen.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Hêghen làm giáo sư
dạy tư trong các gia đình, về sau ông được bổ nhiệm
làm giáo sư hiệu trưởng trường trung học và sau đó
làm giáo sư ở trường Đại học Hayđenbéc; cuối đời
ông là giáo sư ở trường Đại học Béclinh.
Hêghen là nhà triết học duy tâm khách
quan, là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học
của ông là “tập đại thành” của triết học cổ
điển Đức.
Đúng như Ph.Ăngghen đã từng đánh
giá “Hêghen không chỉ là một thiên tài
sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri
thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực,
ông xuất hiện ra là một người vạch thời
đại”.
Như vậy, đủ biết Hêghen giữ vai trò
như thế nào trong lịch sử phương Tây nói
chung và lịch sử triết học cổ điển Đức nói
riêng.
Các tác phẩm lớn của Hêghen gồm:
• - Hiện tượng học tinh thần (1807) trình
bày quá trình phát sinh phát triển của
nhận thức cá thể và nhận thức loài.
• - Khoa học logic học (1812-1814) trình
bày những quy luật và phạm trù của phép
biện chứng.
• - Bách khoa toàn thư các khoa học triết
học (1817) là các bài giảng về lịch sử triết
học, triết học pháp quyền, triết học mỹ
học, tôn giáo do học trò của Hêghen tập
hợp lại xuất bản.
2.2. Nội dung quan điểm triết
học của Hêghen.
* Hêghen là triết học duy tâm khách quan.
- Trong hệ thống triết học của mình, Hêghen
coi ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền
tảng. Theo ông, ý niệm tuyệt đối là thực thể
sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao
sáng tạo ra giới tự nhiên và xã hội. Mọi sự vật
hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là sản
phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của ý niệm
Theo Hêghen, con người cũng sản
phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của
ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và
cải tạo thế giới của con người chính là công
cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính
bản thân mình và trở về chính bản thân
mình.
Như vậy, khi giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học, Hêghen đứng trên lậo trường
của CNDT khách quan.
Từ quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen xây
dựng hệ thống triết học của minh gồm 3 phần chủ
yếu:
Phần thứ nhất: Hêghen trình bày ở cuốn “logic
học” ông hình dung “ý niệm tuyệt đối” còn hoạt động
trong dạng nguyên chất của tư duy thuần tuý.
Phần thứ hai: Là học thuyết duy tâm về tự nhiên
được Hêghen trình bày trong “ Triết học tự nhiên”. Ở
đây giới tự nhiên được hiểu là “sự tồn tại khác” của
tinh thần hay ý niệm đã trở thành kẻ sáng tạo ra giới
tự nhiên.
Phần thứ ba: là lý luận duy tâm về đời sống xã
hội, phần này được Hêghen trình bày chủ yếu trong “
Triết học tinh thần”. Trong phần này, Hêghen trình
bày lịch sử của con người và sự nhận thức của con
người dưới hình thức duy tâm.
Như vậy, xét toàn bộ thì hệ thống triết
học của Hêghen là chủ nghĩa duy tâm
khách quan mang nặng tính chất thần bí
phục vụ đắc lực cho tôn giáo.
Tuy nhiên nếu nghiên cứu kỹ toàn bộ
hệ thống triết học này, đặc biệt là logic
học của Hêghen ta có thể tìm thấy những
“hạt nhân hợp lý”, những tư tưởng thiên tài
về phép biện chứng đó chính là chỗ mà
ông vượt xa các tiền bối của mình.
* Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là
một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
Hêghen là nhà biện chứng duy tâm. Ông là
người có công trong việc phê phán tư duy siêu
hình và cũng là người đầu tiên trình bày toàn
bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng
một quá trình. Nghĩa là, trong sự liên hệ, v ận
động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Trong khuôn khổ hệ thống triết học
duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình
bày các phạm trù như: chất, lượng, phủ
định, mâu thuẫn mà ông còn là người diễn
đạt được các quy luật của phép biện chứng
như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược
lại”, “phủ định của phủ định” với tư cách là
sự phát triển diễn ra theo hình “xoáy ốc” và
quy luật mâu thuẫn với tư cách là nguồn
gốc của động lực của sự phát triển.
- Như vậy, những vấn đề cốt lỗi nhất của
phép biện chứng đã được Hêghen đề cập một cách
bao quát nhất. Nhưng khi trình bày các quy luật của
phép biện chứng Hêghen lại cho rằng, tất cả những
quy luật đó chỉ là sản phẩm của sự vận động và
sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
Do đó, phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm, hệ thống triết học của ông là
hệ thống triết học duy tâm.
- Mác-Ănghen đã phê phán một cách triệt để
tính chất duy tâm trong PBC của Hêghen. Đồng thời
các ông đã tiếp thu, kế thừa, phát triển những hạt
nhân hợp lý trong phép biện chứng ấy để XD nên
PBCDV và các ông coi Hêghen là người có nhiều
công lao trong việc phát triển PBC.
+ Quan điểm về xã hội của Hêghen.
Trong các quan điểm về xã hội, Hêghen
đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa cải
lương,bảo thủ, đề cao dân tộc Đức, miệt thị
các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân
của tinh thần “vũ trụ mới”.
Chế độ nhà nước phổ đương thời được
Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát
triển của nhà nước và pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng bảo
thủ nói trên, Hêghen đã nêu ra nhiều tư tưởng
biện chứng quý báu về sự phát triển của đời
sống xã hội. Trong đó, ông đặc biệt quan tâm
nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất
của nhà nước.
Hêghen tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu
thuẫn xã hội, ông còn cho rằng: “nhà nước
không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn là
tổng thể các quy chế kỷ cương, chuẩn mực
và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính
trị, văn hóa … của xã hội, nhờ đó mà xã hội
được phát triển bình thường.
Tóm lại:
Tuy cón có nhiều nhược điểm là mâu
thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách
mạng với hệ thống duy tâm có tính chất
bảo thủ, nhưng triết học của Hêghen thật
sự là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ nhất trong
lịch sử trước Mác nói chung và trong triết
học cổ điển Đức nói riêng.
3.Phơ-Bách(1804-1872).
3.1. Tóm tắt tiểu sử và tác
phẩm.
Phơ-Bách sinh năm 1804 trong một gia đình luật
sư nổi tiếng ở Đức. Thời trẻ ông theo học trường
Đại học Béclinh, tham gia phái Hêghen trẻ. Về
sau ông tách khỏi phái này, phê phán hệ thống
triết học của Hêghen, và xây dựng hệ thống triết
học riêng của mình, gọi là CNDV Phơ-Bách.
Công lao của Phơ-Bách là đã làm sống lại chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII và làm phong phú
một cách sáng tạo thế giới quan duy vật.
Ông viết khá nhiều tác phẩm:
• Luận văn tiến sĩ (1828) với đề tài: “Về lý
tính vô hạn duy nhất và phổ quát.
• Những ý nghĩ về cái chết và sự bất tử
(1830). Trong đó ông khẳng định: Chỉ có
những hành động vĩ đại của lý tính con
người mới bất tử còn cá nhân con người thì
không bất tử.
• Góp phần phê phán triết học Hêghen
(1839). Đây là tác phẩm giải quyết một cách
duy vật vấn đề cơ bản của triết học.
• Bản chất đạo thiên chúa (1841), tiếp
tục phê phán chủ nghĩa duy tâm nói
chúng và trực tiếp là chủ nghĩa duy tâm
Hêghen.
• Những quan điểm cơ bản của triết học
tương lai (1842) đây là lời nhắn nhủ các
nhà triết học tương lai.
3.2. Một số tư tưởng triết học duy
vật của Phơ-Bách.
* Quan điểm về thế giới của Phơ-Bách
Phơ-Bách là người có công trong
việc phát triển chủ nghĩa duy vật. Ông
thừa nhận giới tự nhiên (bao gồm cả
con người ) tồn tại khách quan. Cơ sở
tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay
trong lòng giới tự nhiên, chứ không
phải giới tự nhiên là “sự tồn tại khác”
của tinh thần.
Ông cho rằng, ý thức của con
người là sản phẩm của bộ óc người,
một dạng vật chất đặc biệt có khả
năng phản ánh thế giới vật chất.
Từ đó cho phép khẳng định mối
quan hệ khắng khít giữa vật chất và ý
thức.
Quan niệm nói trên đã khắc phục
được quan điểm nhị nguyên luận về
sự tách rời giữa tinh thần và thể xác.
Phơ-Bách khẳng định: không gian và thời
gian tồn tại khách quan, không có v ật ch ất
tồn tại bên ngoài không gian và thời gian.
Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của
các quy luật tự nhiên, tính khách quan của
quan hệ nhân quả, thừa nhận sự vận động và
phát triển của giới tự nhiên, diễn ra một cách
khách quan, trong những điều kiện nhất định
dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ và
xuất hiện con người.
Quan điểm về lý luận nhận thức
Phơ-Bách đứng trên lập trường duy vật,
ông khẳng định đối tượng của nhận thức nói
chung và của triết học nói riêng là giới tự
nhiên và con người.
Phơ-Bách phê phán hệ thống duy tâm
khách quan của Hêghen coi đối tượng của tư
duy không có gì khác với bản chất của tư
duy và do đó mà hệ thống duy tâm khách
quan không thoát khỏi giới hạn của tư duy và
vẫn xa lạ với hiện thực.
Phơ-Bách thừa nhận con người có khả
năng nhận thức được giới tự nhiên, khả năng
đó đối với mỗi người là có hạn, nhưng đối với
toàn bộ loài người là vô hạn.
Phơ-Bách là người thấy được mối quan hệ
chặt chẽ giữa trực quan cảm tính và tư duy lý
tính. Ông cho rằng, chúng ta đọc cuốn sách
tự nhiên bằng giác quan nhưng chúng ta
không dùng giác quan để hiểu nó được.
Có thể nói, đặc điểm của thế giới quan
duy vật của Phơ-Bách là lòng tin vào sức
mạnh của lý trí con người.
Hạn chế trong lý luận nhận thức
của Phơ-Bách là chưa thấy được vai
trò của thực tiễn, cho nên chủ nghĩa
duy vật của Phơ-Bách về toàn bộ vẫn
nằm trong khuôn khổ của chủ nghĩa
duy vật siêu hình.
+ Về chủ nghĩa duy vật nhân
bản của Phơ-Bách.
- Phơ-Bách là người đi sâu nghiên cứu
con người, ông coi con người là đối
tượng cao nhất của triết học vì vậy chủ
nghĩa duy vật của ông được gọi là chủ
nghĩa duy vật nhân bản.
-Trong quá trình đi sâu nghiên cứu con
người ông cho rằng con người có 2 nguồn
gốc: con người vừa có nguồn gốc tự nhiên
vừa có nguồn gốc xã hội.
Bởi gì con người là sản phẩm của quá
trình tiến hóa lâu dài của sinh vật, con người
là thực thể tự nhiên.
Đồng thời con người sống thành cộng
đồng do đó con người có bản chất xã hội là
tình yêu thương.
Ông lấy tình yêu thương nam và nữ làm
kiểu mẫu của bản chất yêu thương của con
người.
Tuy nhiên, ông đã không thấy được
phương diện xã hội của con người. Con
người mà ông quan niệm là con người
trừu tượng, bị tách khỏi những điều kiện
kinh tế-xã hội và lịch sử của con người.
Bởi vậy, khi Phơ-Bách nghiên cứu
những vấn đề về đời sống xã hội, ông
đã rơi vào quan điểm duy tâm.
+ Quan điểm về xã hội và tôn giáo.
- Phơ-Bách là người phê phán mạnh mẽ
tôn giáo, theo ông tôn giáo là sản phẩm của
tâm lý cá nhân và bản chất con người dưới
hình thức thần bí, tôn giáo thể hiện sự mềm
yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề
về tự nhiên và xã hội.
- Những quan niệm nói trên của Phơ-Bách
về cơ bản đã vạch ra được nguồn gốc
tâm lý con người đối với tôn giáo, đồng
thời cho thấy nội dung nhân bản trong các
quan niệm thần thánh.
Tuy nhiên do chưa hiểu được vai trò
của thực tiển, nên ông chưa đề cập đến
những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà
tư tưởng trước Mác trong việc lý giải
nguồn gốc và bản chất tôn giáo.
- Mặt khác, tuy đòi hỏi xóa bỏ tôn giáo cũ, nhưng
ông đã tuyên bố một thứ tôn giáo mới “ không có
chúa”, tôn giáo tình yêu. Vì theo ông chỉ có tín
ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi
những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người.
- Phơ-Bách là nhà duy vật trong tự nhiên, nhưng
ông lại là nhà duy tâm trong những vấn đề xã hội.
Ông khẳng định rằng, những thời kỳ lịch sử của loài
người sở dĩ khác nhau chỉ là do những thay đổi các
hình thức tôn giáo.
Như vậy, ông đã rơi vào thuyết duy tâm và
không tưởng trong các quan niệm về xã hội. Ông
không thấy được vai trò của thực tiễn, của sản xuất
vật chất quyết định sự vận động và phát triển của xã
hội loài người.
Tóm lại:
Tuy còn những hạn chế nhất định
như đã phân tích trên, nhưng với
những thành tựu to lớn và toàn diện
của mình, chủ nghĩa duy vật của
Phơ-Bách cùng với phép biện chứng
của Hêghen được coi là một nguồn
gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời của
triết học Mác.
CHƯƠNG VIII
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I. Những tiền đề xuất hiện triết
học Mác
Triết học Mác ra đời là sản phẩm tất
yếu của thời đại, dựa trên cơ sở những
điều kiện lịch sử-xã hội nhất định cùng với
những tiền đề lý luận và khoa học sau đây.
1.Tiền đề kinh tế - xã hội của
triết học Mác
C.Mác (1818-1883)
Ph. Ăngghen(1820-1895)
- Triết học Mác ra đời vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, do Karl Marx
(1818-1883) và Engels (1820 – 1895)
xây dựng nên.
- Vào thời gian này ở các nước,
Anh, Pháp, Đức, chủ nghĩa tư bản đã
phát triển mạnh mẽ trên cơ sở nền
sản xuất bằng cơ giới do cuộc cách
mạng công nghệ tạo ra.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
cũng làm lộ rõ thêm mâu thuẫn cơ bản vốn
có của nó, đó là mâu thuẫn giữa một bên là
tính chất xã hội hóa và trình độ phát triển
ngày càng cao của lực lượng sản xuất
(LLSX) với một bên là quan hệ sản xuất
(QHSX)Tư Bản chủ nghĩa ( TBCN ).Mâu
thuẫn này được biểu hiện về mặt xã hội, đó
là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản (GCVS)
và giai cấp tư sản (GCTS).
- Đặc biệt khi giai cấp tư sản đã xác lập được sự
thống trị chính trị của mình thì họ trở thành lực lượng
bảo thủ làm cho mâu thuẫn giai cấp giữa GCVS và
GCTS ngày càng gay gắt hơn. Do vậy ở thời kỳ này
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh mẽ và đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa
như:
+Cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Li-ông (Pháp)
nổ ra năm (1831- 1834).Cuộc nổi dậy của công nhân
TP Pari năm 1832.
+Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xi-Lê-Di (Đức)
năm1844.
+Ở Anh đã ra đời phong trào quần chúng đầu
tiên của công nhân và được gọi là “Phong trào hiến
chương” năm (1835-1848).
- Như vậy, trên vũ đài lịch sử đã suất hiện một
lực lượng chính trị xã hội mới mẻ mặc dù còn mang
tính tự phát, nhưng ngày càng mạnh mẽ, trở thành
nhân tố quan trọng của đời sống chính trị - xã hội,
đó là giai cấp vô sản cách mạng.
- Trong bối cảnh lịch sử ấy, các học thuyết xã
hội chủ nghĩa không tưởng phê phán của Xanh-XiMông, Phu-ri-ê, Ô-Oen lại không đáp ứng được yêu
cầu của phong trào vô sản, không thể hiện được
những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong sự
nghiệp giải phóngnhân dân lao động khỏi chế độ Tư
bản chủ nghĩa.
- Phong trào đấu tranh của g/c vô sản còn
mang tính tự phát và thiếu tổ chức, do đó
cần phải có một lý luận tiên phong hướng
dẫn và giác ngộ cho g/c công nhân về vai
trò sứ mệnh lịch sử của mình.
- Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận trước
kia, và trực tiếp tham gia vào phong trào đấu
tranh của g/c công nhân, Mác và Ăng Ghen
đã khái quát kinh nghiệm đấu tranh của g/c
công nhân, sáng tạo ra lý luận cách mạng
của phong trào vô sản; dẫn đến sự ra đời của
triết học Mác.
- Có thể nói g/c vô sản đã tìm thấy ở triết học
Mác vũ khí tinh thần của mình, cũng giống
như triết học Mác đã tìm thấy giai cấp vô sản
như là vũ khí vật chất của mình.
2.Tiền đề lý luận của triết học Mác
-
Triết học Mác ra đời do nhu cầu của sự khái
quát tri thức nhân loại.
- Với tư cách là một khoa học, triết học Mác đã
kế thừa tất cả những tinh hoa di sản lý luận
quý báu mà loài người đã đạt được. Đặc biệt
Mác-Ăng Ghen đã kế thừa chủ nghĩa duy vật
(CNDV) của Phơ-Bách và phép biện chứng
của Hê-Ghen trong triết học cổ điển Đức.
KẾ THỪA TRIÊT
́ HOC
̣ CỦA HÊ-GHEN VÀ PHƠ- BÁCH
HÊ GHEN (1770- 1831)
PHƠ -BÁCH (1804- 1872)
- Công lao của Hê-Ghen là ở chỗ ông là
người đã phê phán mạnh mẽ phương pháp
tư duy siêu hình.
Ông là người đầu tiên đã diễn đạt được
những quy luật của phép biện chứng với tư
cách là hệ thống lý luận.
Nghĩa là ông coi toàn bộ giới tự nhiên,
lịch sử và tinh thần nằm trong quá trình
liên hệ, vận động, phát triển tuân theo quy
luật. (Quy luật mâu thuẫn, QL lượng–chất,
QL phủ định của phủ định).
- Nhưng khi trình bày các quy luật của phép biện
chứng, Hê-Ghen lại cho rằng: các quy luật ấy cũng
chỉ là sản phẩm của sự sáng tạo của ý niệm tuyệt
đối. Do đó phép biện chứng của Hê-Ghen là phép
biện chứng duy tâm. Hệ thống triết học của HêGhen là hệ thống triết học duy tâm.
- Vì vậy để xây dựng nên phép biện chứng duy
vật Mác,Ăng-Ghen đã phê phán tính chất duy tâm
trong phép biện chứng của Hê-Ghen, các ông đã kế
thừa, tiếp thu những mặt tiến bộ trong phép biện
chứng ấy để hình thành phép biện chứng duy vật.
- Như vậy: Phép biện chứng của Mác không
những là hình thức phát triển cao nhất của phép
biện chứng mà còn đối lập với phép biện chứng của
Hê-Ghen.
+ Chủ nghĩa duy vật của Phơ-Bách đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành thế
giới quan khoa học của Mác, Ăng-Ghen.
->Các ông đã đánh giá cao Phơ-Bách trong
việc phê phán tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm.
Đặc biệt là khi đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm, Phơ-Bách đã khôi phục lại vị trí
xứng đáng cho triết học duy vật. Nhưng chủ
nghĩa duy vật của Phơ-Bách vẫn mang tính
trực quan siêu hình và duy tâm về xã hội.
Vì vậy, để xây dựng hệ thống triết học
duy vật biện chứng, Mác, Ăng-Ghen đã trực
tiếp kế thừa những quan điểm duy vật tiến
bộ của triết học Phơ-Bách; đồng thời các
ông cũng khắc phục tính trực quan, siêu hình
và duy tâm về lịch sử của nó, thay vào đó
những kết luận có tính khoa học trên cơ sở
khái quát mhững thành tựu của khoa học
đương thời.
Như vậy, Triết học cổ điển Đức trước hết
là phép biện chứng của Hê-Ghen và chủ
nghĩa duy vật của Phơ-Bách là nguồn gốc lý
luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học
* Ngoài sự chín muồi của điều kiện kinh
tế - xã hội, của tiền đề lý luận; để triết học
duy vật biện chứng ra đời còn phải nói đến
vai trò của Mác, Ăng-Ghen, những vĩ nhân có
bộ óc thiên tài. Các ông vừa là những nhà
khoa học có tri thức khoa học sâu sắc, có lý
tưởng cách mạng nồng cháy mà còn là
những người có tài năng về tổ chức thực
tiễn.
- Chính nhờ tham gia trực tiếp vào vào
hoạt động thực tiễn, tổ chức và lãnh đạo
phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân; Mác, Ăng-Ghen đã có bước chuyển
biến quyết định từ chủ nghĩa duy tâm triết
học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Từ lập trường dân chủ cách mạng
sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Đó
cũng là điều kiện để triết học Mác ra đời.
3.Tiền đề khoa học tự nhiên của
triết học Mác
- Để triết học Mác có thể ra đời được ngoài những
điều kiện kinh tế, xã hội còn phải có những tiền đề
về khoa học tự nhiên cho phép khắc phục không
những quan điểm duy tâm mà cả quan điểm siêu
hình về thế giới để hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng.
- Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại, đóng vai trò
quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Ba phát minh đó là:
* Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng.
* Học thuyết về cấu tạo tế bào của cơ thể sống.
* Thuyết Tiến hóa của Đác-Uyn.
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng:
Do nhà vật lý học người Đức là RôBéc May-e phát
minh năm (1842–1845).
Sự phát minh ra định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng đã chứng minh rằng: các hình thức vận
động khác nhau của vật chất không tách rời nhau,
mà giữa chúng có sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau
trong những điều kiện nhất định.
Nghĩa là không có sự mất đi của năng lượng, mà
chỉ có sự chuyển biến không ngừng của năng lượng
từ dạng này sang dạng khác. Định luật này là cơ sở
khoa học cho quan điểm biện chứng về thế giới.
+ Thuyết tế bào:
Chủ yếu do hai nhà bác học người Đức là: SlâyĐen và Sa-Van-Nơ xây dựng năm (1838–1839), đã
xác định rằng: cơ thể thực vật và động vật đều do tế
bào tạo thành.
Học thuyết này chỉ rõ sự thống nhất bên trong
của sinh vật, chỉ ra con đường phát triển, tiến hóa phổ
biến của cơ thể sống.
Vì vậy, nó góp phần quan trọng vào sự khẳng
định quan niệm duy vật biện chứng về tính thống nhất
của sự sống trong những biểu hiện phong phú, đa
dạng, muôn vẻ của nó.
+ Thuyết Tiến hóa:
Do Đác-Uyn, nhà bác học người Anh xây dựng
vào năm 1859.
Thuyết này đã chứng minh một cách khoa học
rằng: thế giới thực vật và động vật là kết quả tất yếu
của một quá trình tiến hóa lâu dài, trong đó các sinh
vật phức tạp bậc cao đã hình thành từ các sinh vật
giản đơn, bậc thấp; không phải theo ý định của
thượng đế mà là do áp lực của quy luật chọn lọc tự
nhiên.
Học thuyết này cũng góp phần khẳng định
quan điểm DVBC về thế giới.
ĐAC
́ -UYN
VÀ HOC
̣ THUYÊT
́ VỀ
SỰ TIÊN
́ HOA
́ CUA
̉
CAC
́ LOAÌ 1859
- Học thuyết nói trên không những khẳng
định mối liên hệ vận động, phát triển của
các dạng vật chất sống mà còn đập tan luận
điểm cho rằng: chúa sáng tạo ra muôn loài,
thượng đế sáng tạo ra con người.
Như vậy: các phát minh khoa học nói
trên đã đặt cơ sở vững chắc cho quan điểm
biện chứng về thế giới. Đồng thời sự phát
triển của khoa học tự nhiên cũng đòi hỏi
phải có những khái quát mới về lý luận triết
học, phải xây dựng phép biện chứng duy vật
với tính cách là một khoa học thật sự, giúp
cho khoa học tự nhiên phát triển.
• Tóm lại:
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác nói chung
và triết học Mác nói riêng là một tất yếu
khách quan, nó bắt nguồn từ những
nguyên nhân kinh tế, xã hội và sự phát
triển của tư tưởng nhân loại trước đó.
Khái quát kinh nghiệm của phong trào
công nhân và những thành tựu của khoa
học tự nhiên, kế thừa có phê phán những
tư tưởng triết học trước đó, Mác và ĂngGhen đã thực hiện bước ngoặt cách mạng
trong triết học, dẫn đến sự ra đời của triết
học Mác
II.GIAI ĐOẠN LÊNIN PHÁT TRIỂN
TRIẾT HỌC MÁC
V.I. Lênin
(22/4/1870 - 21/l/1924)
+ Mác, Ăng-Ghen xây dựng học thuyết
của mình trong thời kỳ CNTB đang phát
triển.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa DVBC, các ông đã có những
tiên đoán khoa học rất cơ bản về một xã
hội mới.
Song là những nhà khoa học Mác,
Ăng-Ghen không có tham vọng phác họa
tất cả những gì chưa có tiền đề lịch sử.
+ Sau khi Mác, Ăng-Ghen mất, thời đại có
nhiều biến đổi lớn lao, đặc biệt có hai biến
đổi:
- Chủ nghĩa Tư Bản đã phát triển thành chủ
nghĩa Đế quốc, dẫn đến những mâu thuẫn
thời đại nảy sinh gay gắt.
- Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên có sự phát
triển rất mạnh mẽ, được gọi là thời kỳ cách
mạng trong khoa học tự nhiên (Tìm ra tia X,
Cấu trúc nguyên tử, Điện tử, Phát hiện ra tính
phóng xạ của nguyên tố)
- Lợi dụng sự thay đổi của thời đại, và sự
phát triển của khoa học tự nhiên, các thế lực
thù địch tập trung công kích vào học thuyết
Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Họ
đòi xét lại học thuyết Mác, họ cho rằng học
thuyết Mác đã lỗi thời.
- Trước tình hình đó, Lênin là người đã
đứng ra bảo vệ xuất sắc học thuyết Mác, và
trong quá trình bảo vệ Lênin đã phát triển
toàn diện học thuyết Mác. -> Vì vậy triết học
Mác được gọi là triết học Mác-Lênin, và chủ
nghĩa Mác cũng được gọi là chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Ngày nay những tư tưởng của
Lênin vẫn đang là hành trang của
chúng ta cùng với chủ nghĩa Mác, Tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận
cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Chuyên đề
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
I. Phạm trù thực tiễn và phạm trù lý luận
1. Phạm trù thực tiễn
a. Quan điểm triết học trước Mác về
thực tiễn.
Các nhà duy vật trước Mác đã có công
lớn trong việc phát triển thế giới quan duy
vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm tôn giáo.
Tuy nhiên lý luận của họ còn nhiều
khuyết điểm, trong đó khuyết điểm lớn
nhất là chưa thấy được vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức.
Phơ Bách (Feuerbach) là nhà triết học duy
vật lớn nhất trong triết học trước Mác; người
đã có công tổng kết và xây dựng tương đối
hoàn chỉnh chủ nghĩa duy vật .
Vì vậy, chủ nghĩa duy vật của ông trở
thành nguồn gốc lý luận cho sự ra đời của
triết học Mác. Nhưng Phơ Bách cũng chưa
thấy được vai trò của thực tiễn. Do đó, chủ
nghĩa duy vật của ông vẫn là chủ nghĩa duy
vật siêu hình và duy tâm về xã hội.
+ Các nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được
mặt năng động của con người, nhưng lại phát
triển một cách trừu tựơng , thái quá vai trò
của ý thức tư tưởng.
Vì vậy họ coi thực tiễn như là hoạt động
tinh thần chứ không phải là hoạt động vật
chất.(Hegel) coi hoạt động thực tiễn chỉ là
hoạt động tinh thần chứ không phải là hoạt
động vật chất .
+ Khắc phục những hạn chế nói trên của
CNDV và CNDT trong lịch sử, triết học MácLênin đưa ra quan niệm đúng đắn về thực
tiễn.
b. Quan điểm triết học Mác-Lênin
về thực tiễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử-xã
hội của con người, nhằm cải tạo tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
Khác với hoạt động tư duy (hoạt động
tinh thần), hoạt động thực tiễn là hoạt động
vật chất, nghĩa là trong quá trình hoạt động,
con người phải sử dụng các công cụ,
phương tiện vật chất tác động vào các đối
tượng của tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất; tác động vào xã hội làm biến đổi xã
hội.
Những hoạt động như vậy được thực
hiện một cách tất yếu khách quan (nghĩa là
không có hoạt động này thì loài người không
thể tồn tại).
Hoạt động thực tiễn không phải hoạt động
của một vài cá nhân riêng lẻ mà là hoạt động
của đông đảo các tập đoàn người trong xã
hội. hoạt động ấy bao giờ cũng diễn ra trong
mối quan hệ xã hội nhất định, xã hội càng
phát triển thì hoạt động thực tiễn càng phong
phú.
Như vậy, bằng hoạt động thực tiễn, con
người làm biến đổi bản thân sự vật trong hiện
thực. Từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh
của sự vật trong nhận thức. Do đó hoạt động
thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng
tạo.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song
có ba hình thức hoạt động cơ bản là :
- Lao động sản xuất nhằm tạo ra của cải
vật chất
- Hoạt động cải tạo xã hội thông qua đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội làm
biến đổi xã hội.
- Thực nghiệm khoa học là cơ sở trực tiếp
cho sự phát triển của nhận thức khoa học.
Trong ba hình thức nói trên thì lao đ ộng
sản xuất là hình thức quan trọng nhất vì nó
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
2. Phạm trù nhận thức và lý luận.
• a.Nhận thức là gì?.
• Theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận th ức là quá trình
phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan vào trong
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn lịch sử xã hội.
• Hiện thực khách quan
B ộ óc ng ười
•
Quá trình phản ánh
Tri
thức.
•
•
Sáng tạo
•
A
A’
•
• (Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người một cách sáng tao trên cơ sở th ực tiễn).
+ Quá trình nhận thức diễn ra không phải giản
đơn, thụ động, máy móc mà là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con
người một cách năng động sáng tạo, biện
chứng.  Đó là quá trình đi từ không biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến
sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở
thành đầy đủ và chính xác hơn.
+ Quá trình nhận thức của con người và loài
người nói chung trải qua hai giai đoạn là
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính (còn
gọi là trực quan sinh động và tư duy trừu
tượng).
- Trực quan sinh động là giai đoạn đầu tiên của quá
trình nhận thức, giai đoạn này phản ánh trực tiếp, cụ
thể sinh động hiện thực khách quan vào các giác
quan và được thực hiên bằng các hình thức cơ bản là:
cảm giác, tri giác, biểu tượng.
- Tư duy trừu tượng là giai đọan cao của quá trình nhận
thức. Giai đoạn này dựa trên những tài liệu của giai
đoạn trực quan sinh động cung cấp, bộ óc con người
tiến hành tổng hợp, khái quát hiện thực. Do đó, giai
đoạn này phản ánh khái quát sự vật và phản ánh
được mối liên hệ bên trong bản chất của sự vật. Giai
đoạn này bao gồm các hình thức là: khái niệm, phán
đoán, suy luận.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu
dẫn đến sự xuất hiện lý luận.
b. lý luận là gì?
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng lý luận là sản
phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng
thời thể hiện như là trình độ cao của nhận thức.
Theo Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri
thức về tự nhiên và xã hội tích lũy lại trong quá
trình lịch sử.
Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những
tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những
mối quan hệ bản chất, những tính qui luật của hiện
thực khách quan.
• Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy
phạm vi phản ánh và vai trò phương pháp
luận của nó.Có thể phân chia lý luận ngành
và lý luận triết học.
• Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy
luật hình thành và phát triển của ngành.Nó là
cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương
pháp luận cho hoạt động của ngành đó.Như
lý luận văn học, lý luận nghệ thuật.
• Lý luận triết học là hệ thống những quan
niệm chung nhất về thế giới và con người, là
thế giới quan và phương pháp luận cho nhận
II. Mối quan hệ biện chứng giữa
lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, giữa lý
luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thống
nhất với nhau trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn. Trong mối quan hệ nói
trên thực tiễn giữ vai trò quyết định đối với lý
luận.
1. Thực tiễn là cơ sở, là động
lực , là mục đích, là tiêu chuẩn
kiểm tra đối với nhận thức nói
chung trong đó có lý luận; Lý luận
hình thành phát triển phải xuất
phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn.
*Thực tiễn là cơ sở của lý luận
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con
người quan hệ với thế giới không phải bắt
đầu bằng lý luận mà bắt đầu bằng hoạt động
thực tiễn .
Trên cơ sở hoạt động thực tiễn tác động vào
giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất, dần dần
con người hiểu được thế giới xung quanh.
Quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài hình
thành ở con người những kinh nghiệm trong
sản xuất và đấu tranh xã hội.
+ Đến một lúc nào đó con người tổng kết
khái quát những kinh nghiệm hoạt động
thực tiễn dẫn đến sự ra đời của các khoa
học, của lý luận.
Vì vậy, có thể nói thực tiễn đã cung
cấp những tài liệu cho nhận thực cho lý
luận, không có thực tiễn thì không có
nhận thức, không có lý luận.
+ Ăng-Ghen cho rằng, ngay từ đầu sự phát
sinh phát triển của các ngành khoa học do
thực tiễn qui định Lịch sử các khoa học
đã chứng minh rằng, các khoa học đều có
nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn.
- Lịch sử Toán học đã chứng minh rằng
Toán học cũng có nguồn gốc từ thực tiễn đo
đạc ruộng đất nhiều lần của nhân dân lao
động từ thời kỳ cổ đại.
- Triết học Mác ra đời cũng có nguuồn
gốc từ thực tiễn đấu tranh giai cấp của
giai cấp công nhân từ đầu thế kỷ xix đòi
hỏi phải có lý luận soi đường.
+ Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin cho
rằng , thực tiễn là cơ sở của nhận thức lý
luận.
* Thực tiễn là động lực thúc đẩy lý
luận phát triển.
+ Nghĩa là do nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi
cần phải có những tri thức mới để khái quát ,
tổng kết bổ sung kinh nghiệm, phát triển lý
luận khoa học. Quá trình đó thúc đẩy các
khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển.
+Chính thực tiễn đã đề ra nhu cầu, nhiệm
vụ, phương hứơng cho nhận thức lý luận,
thực tiễn là động lực thúc đẩy lý luận phát
triển.
+ Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta
đã đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp
đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu: Đó
là những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò
lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ....
Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề
của thực tiễn nói trên lý luận sẽ có những
bước phát triển và chắc chắn sẽ góp
phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới.
* Thực tiễn là mục đích của lý luận:
- Nghĩa là bản thân lý luận khoa học không có mục
đích tự thân, mà lý luận khoa học ra đời chính vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người Nhận
thức lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực
tiễn, hướng dẫn chỉ đạo hoạt động thực tiễn, phải biến
thành hoạt động thực tiễn của quần chúng.
- Lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi được
vận dụng vào thực tiễn, làm biến đổi thực tiễn.
Như vậy, thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý
luận. Đây chính là điểm khác nhau giữa lý luận cách
mạng của Mác và lý luận trước đây.
Mác cho rằng : Các nhà triết học trước kia chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề
là cải tạo thế giới.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Nghĩa là chỉ có qua thực tiễn kiểm nghiệm mới xác
nhận được tri thức đó là đúng hay sai, tri thức ấy có
phải là chân lý hay không.
Vì vậy Mác cho rằng : Vấn đề tìm hiểu xem tư duy,
của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay
không không phải vấn đề lý luận mà là một vấn đề
thực tiễn . (Thực tiễn 20 năm đổi mới vừa qua cho
phép chúng ta khẳng định đường lối của Đảng ở nước
ta là đúng hay sai, có phù hợp với thực tiễn đất nước
hay không ). Đồng thời qua thực tiễn kiểm nghiệm,
thực tiễn lại đặt ra những vấn đề mới làm cho nhận
thức không ngừng được bổ sung phát triển.
2.Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận;ngược
lại lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp
tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng , việc coi
trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý
luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Lý luận tuy
là kết quả của quá trình nhận thức và hoạt
động thực tiễn, nhưng khi đã hình thành ,lý
luận đóng vai trò là kim chỉ nam, định hướng
cho hoạt động thực tiễn , giúp cho hoạt động
thực tiễn có kết quả.
+ Lý luận còn dự báo được khả năng phát
triển cũng như các mối quan hệ của thực
tiễn,dự báo được những hạn chế, những
thất bại có thể có trong quá trình hoạt
động thực tiễn.
+ Lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu
lý tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng
tạo thành sức mạnh to lớn của quần
chúng trong cải tạo tự nhiên và xã hội.
+ Thực chất vai trò của lý luận đối với
thực tiễn là ở chỗ nó đem lại cho thực tiễn
những tri thức đúng đắn về bản chất qui
luật của sự vật, trên cơ sở đó giúp con
người xác định được mục đích , phương
hướng ,giải pháp trong hoạt động thực tiễn .
thông qua tổ chức thực hiện trong thực tiễn
con người làm biến đổi thế giới khách quan.
Như vậy vai trò của lý luận đối với
thực tiễn là ở chỗ nó giúp cho con người trở
nên chủ động, tự giác , hạn chế được tính
tự phát trong hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, đánh giá vai trò và ý nghĩa to lớn
của lý luận đối với thực tiễn lê nin viết : không
có lý luận cách mạng thì không thể có phong
trào cách mạng, chỉ đảng nào có một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong.
Như vậy lý luận và thực tiễn tuy có vai trò
vị trí khác nhau nhưng giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ thống nhất với nhau trong
quá trình nhận thức cũng như trong hoạt động
thực tiễn.
Bởi vì : lý luận mà không gắn với thực
tiễn thì lý luận không có mục đích, không
có sức mạnh, không cải tạo được hiện
thực. Ngược lại thực tiễn mà không có lý
luận chỉ đạo thì hoạt động không nắm
được quy luật, hoạt động sẽ mang tính tự
phát mù quáng.
Vì vậy , chủ nghĩa Mác- lê nin khẳng
định: thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác- lê nin
+ Nói về tính thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn HỒ CHÍ MINH đã viết : thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác-lê nin . Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. lý luận mà không liên
hệ với thực tiễn là lý luận suông.
( Hồ Chí Minh : toàn tập, nhà xuất bản, st Hà
Nội 1987, tập 7,tr 788).
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤTGIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TiỄN TRONG GIAI
ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC
TA.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn có ý nghĩa phương pháp
luận to lớn đặc biệt là đối với sự
nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
Chúng ta có thể rút ra một số vấn đề
chủ yếu sau đây
1. Lý luận phải luôn bám sát thực
tiễn,phản ánh được yêu cầu của thực
tiễn, khái quát được những kinh nghiệm
của thực tiễn.
+ Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng,thực tiễn là
cái được phản ánh, lý luận là cái phải ánh. Để
hiểu được thực tiễn dưới dạng lôgíc, nhất
thiết phải hình thành lý luận.
+ Bản thân thực tiễn luôn luôn vận động
biến đổi không ngừng, do đó để hình thành lý
luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó để
phán ánh đúng nhu cầu của thực tiễn. Nếu
không kịp thời nắm bắt được thực tiễn, phán
ánh đúng thực tiễn thì lý luận sẽ bị lạc hậu bị
thực tiễn bác bỏ.
+Trong quá trình lãnh đạo cách mạng việt
nam, đảng ta luôn luôn bám sát thực tiễn , xuất
phát từ thực tiễn để đề ra đường lối chiến lược
cách mạng đúng đắn.
+Ngày nay, nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
việt nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về
CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam
chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng ta.
+Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta và lịch sử
phát triển của CNXH thế giới , tại Đại hội đại biểu lần thứ
VII, Đảng cộng sản Việt Nam đã thông qua những đặc
điểm cơ bản của CNXH nước ta và khẳng định :” Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN , tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng TBCN.Nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN…. Để phát
triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Đó cũng là yêu cầu của sự phát triển lý
luận ở nước ta hiện nay. Vì vậy Đảng ta xác
định:Vấn đề nghiên cứu tìm tòi để luận chứng
cho lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước
ta vẫn đang tiếp tục. Vì vậy, hội nghị lần thứ 5
ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đánh
giá: “công tác lý luận chưa theo kịp sự phát
triển và yêu cầu của cách mạng” và nhấn
mạnh: “ Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận,góp phần làm rõ hơn nữa con
đường đi lên CNXH ở nước ta” là yêu cầu cấp
bách.
2.Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận
chỉ đạo khi vận dụng lý luậnphải phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
+ Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, lý
luận được hình thành không chỉ là sự tổng
kết thực tiễn mà còn là mục đích cho hoạt
động thực tiễn tiếp theo. Vì lý luận phán
ánh thực tiễn dưới dạng quy luật nên lý
luận có khả năng trở thành phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn.
+ Đánh giá đúng vai trò của lý luận cách
mạng, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn lấy
chủ nghĩa Mác -Lênin làm nền tảng tư tưởng
làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng
của mình. Kiên định lập trường đó, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định:” Đảng và nhân dân ta
quyết định xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tưởng Hồ Chí Minh.”
Thực tiễn chứng tỏ rằng, chỉ có kiên trì chủ nghĩa
Mac -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo
thì Đảng ta mới đưa sự nghiệp đổi mới đến thành
công.
+ Cũng cần phải thấy rằng lý luận cách mạng của
chủ nghĩa Mac- Lênin khi vận dụng vào thực tiễn phải
quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể, do đó khi vận
dụng phải sáng tạo cho phù hợp với đặc điểm của dân
tộc trong từng thời kì cách mạng. Đồng thời chúng ta
cần tiếp thu những thành tựu của tư duy nhân loại
trong xây dựng nền kinh tế thị trường,công nghiệp hóa
đất nước, xây dựng bộ máy nhà nước… để thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
+ Thời gian qua ở một số nước xã hội chủ
nghĩa, do vận dụng lý luận về chủ nghĩa xã hội
thiếu sáng tạo, thậm chí máy móc, giáo điều
làm cho lý luận không được bổ sung phát triển,
không theo kịp yêu cầu của thực tiễn đã dẫn
đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa
xã hội. Sự khủng hoảng về lý luận là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng
của chủ nghĩa xã hội nói chung.
+ Ở nước ta, công cuộc đổi mới do Đảng
khởi xướng đã thu được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên tính
chất khó khăn và phức tạp của sự nghiệp
đổi mới, cũng như chiều sâu và tầm cỡ
của nó đang đặt ra rất nhiều vấn đề lý
luận lớn lao và gay cấn đòi hỏi phải được
giải quyết.
Cho nên có thể nói rằng, chưa bao giờ lý
luận lại cần thiết và có tầm quan trọng to lớn
như hiện nay. Muốn lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới thành công, Đảng ta cần phải tự đổi mới
và tự chỉnh đốn, trước hết phải nâng cao trình
độ lý luận của Đảng. Như Lênin đã chỉ rõ: Chỉ
Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng
dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến
sĩ tiên phong.
+ Lý luận phải trở thành cơ sở khoa
học cho việc hoạch định đường lối chích
sách của Đảng, phải cung cấp nội dung
khoa học cho đổi mới, phải góp phần vào
công tác tư tưởng của Đảng. Đó là trách
nhiệm nặng nề và vẻ vang của lý luận
trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở
nước ta.
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều.
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều là những biểu hiện khác
nhau của sự vi phạm nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn.
* Bệnh kinh nghiệm là gì?
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối
hóa những kinh nghiệm thực tiễn
trước đây và áp dụng một cách máy
móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay
đổi.
Nói cách khác, bệnh kinh nghiệm là
khuynh hướng tư tưởng quá coi trọng
kinh nghiệm thực tiễn, xem thường lý
luận.
+ Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm
là tư tưởng “Kinh nghiệm chủ nghĩa”
theo kiểu “Sống lâu lên lão làng”, thỏa
mãn với những thành tích đã đạt
được.
Trong công việc, chủ yếu dựa vào
những kinh nghiệm đã tích lũy được, chủ
quan, không chịu học tập để nâng cao
trình độ tư duy lý luận. Không thấy được
vai trò quan trọng của giáo dục và khoa
học kỹ thuật; có tư tưởng bảo thủ trì trệ,
không chịu tiếp thu và vận dụng cái mới,
cái tiến bộ vào thực tiễn.
+ Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là
có nguồn gốc từ lịch sử để lại. Đó là,
nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu,
trình độ khoa học và công nghệ thấp, nền
kinh tế chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cổ
truyền được truyền từ đời này sang đời
khác, điều đó dẫn đến phong cách tư duy,
phong cách hoạt động của người Việt
Nam chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
- Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm còn
do nước ta duy trì quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, phân phối bình
quân. Cơ chế này đã làm triệt tiêu tính
sáng tạo của người lao động và tạo nên
tâm lý ỉ lại, trông chờ, dựa dẫm, là một
trong những nguyên nhân của bệnh kinh
nghiệm.
- Mặt khác, do ý thức hệ phong kiến để
lại, các phong tục, tập quán, truyền thống,
thói quen của người dân còn mang những
dấu vết của xã hội cũ. Đó là mảnh đất
thuận lợi để hình thành, tồn tại và phổ
biến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
+ Kinh nghiệm là rất quý, nó đã góp ph ần
thành công trong điều kiện, hoàn cảnh
nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận.
Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm
một nơi, một lúc nào đó, bê nguyên xi kinh
nghiệm của người khác, của nơi khác vào
điều kiện của mình, xem thường lý luận
sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất
bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn
cảnh đã thay đổi. Vì vậy, chúng ta phải
khắc phục bệnh kinh nghiệm.
+ Để khắc phục bệnh kinh nghiệm
có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải:
Thứ nhất, Phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn (không được tuyệt đối hóa mặt
nào).
Thứ hai, phải tăng cường học tập để
nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận
dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.
Mặt khác, phải hoàn thiện cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi
vì, kinh tế thị trường luôn vận động, biến
đổi, nó đòi hỏi mọi thành phần kinh tế,
mọi chủ thể kinh tế phải luôn năng động,
sáng tạo, bám sát thị trường để có những
quyết sách kinh doanh phù hợp. Trong thị
trường không có chỗ cho bệnh kinh
nghiệm tồn tại.
* Bệnh giáo điều là gì?
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tuyệt
đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã
có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm
thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy
móc, không tính toán đến điều kiện lịch
sử cụ thể.
+ Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh kinh
viện, sách vở, xem lý luận, sách vở là cái tuyệt
đối đúng, không cần bổ sung, phát triển. Trong
quá trình học tập lý luận Mác – Lênin thì không
chú ý tới nội dung và bản chất cách mạng của
nó, chỉ chú ý tới câu chữ, hoặc học tập lý luận
Mác – Lênin theo kiểu thuộc lòng, không chú ý
tới những thay đổi đang diễn ra trong cuôc sống.
Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin một cách phiến
diện, vận dụng một cách rập khuôn những mô
hình chủ nghĩa xã hội ở nước ngoài mà không
chú ý tới đặc thù của nước mình.
Ở nước ta, bệnh giáo điều còn biểu
hiện ở chỗ vận dụng những kinh nghiệm
trong chiến tranh cách mạng vào công
cuộc xây dựng hòa bình mà không tính
toán đầy đủ khi điều kiện, hoàn cảnh đã
thay đổi.
+ Bệnh giáo điều có nguyên nhân
sâu xa của nó.
- Trước hết, là do sự yếu kém về lý
luận, hiểu lý luận còn nông cạn, chưa
nắm chắc thực chất lý luận. Do sự yếu
kém về lý luận khiến cho chúng ta không
có nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
nước ta.
- Thứ nữa, do yếu kém về lý luận dẫn
đến vận dụng lý luận vào thực tiễn cách
mạng còn nhiều sai sót, thậm chí chỉ biết
vận dụng lý luận mà không quan tâm đến
thực tiễn, không bổ sung điều chỉnh lý
luận. Vì vậy, lý luận chưa phát huy được
vai trò tiên phong, chưa định hướng cho
sự phát triển, chưa thật sự trở thành
phương pháp luận cho hoạt động thực
tiễn.
+ Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta
phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận
phải luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phải
khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và
không ngừng phát triển sáng tạo cùng với
thực tiễn. Như chủ nghĩa Mác – Lênin đã
khẳng định: Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
BÀI: LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON
ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA LÝ LUẬN ĐÓ.
1. Những tiên đề xuất phát để xây dựng
hình thái kinh tế - xã hội.
+ Trong quá trình lâu dài trước khi triết
học Mác ra đời, chủ nghĩa duy tâm giữ vai
trò chi phối trong đời sống xã hội.
Người ta giải thích đời sống xã hội xuất
phát từ ý thức tư tưởng, từ niềm tin tôn
giáo, từ chính trị…
Chính C.Mác là người đã phê phán triết học
Trên cơ sở đó, họ đã kiến giải, đề xuất
những con đường, biện pháp hướng con
người đến cuộc sống tốt đẹp.
Nhưng do những hạn chế của lịch sử và
phương pháp tiếp cận,do đó các nhà tư
tưởng trước Mác chưa có cái nhìn đầy đủ về
sự tồn tại của con người, cũng như lịch sử
xã hội loài người. Họ mới chỉ nghiên cứu
những biểu hiện từng mặt khác nhau của tồn
tại con người.
Tuy vậy, tất cả những tư tưởng ấy đã hợp
thành dòng chủ lưu của lịch sử văn hóa nhân
loại, đó là chủ nghĩa nhân đạo.
+ Mác và Ănghen đã kế thừa những thành tựu
của những nhà Triết học trước đó trên cơ sở
khắc phục những khuyết điểm của họ, các
ông đã đưa ra tư tưởng duy vật khoa học
trong xem xét lịch sử.
Các ông đã lấy con người làm điểm xuất phát
cho học thuyết của mình, nhưng không phải
là con người trừu tượng, con người trong tình
trạng biệt lập và cố định mà là con người thực
tiễn. Con người trong quá trình phát triển hiện
thực – con người trong sản xuất vật chất.
+ Mác – Ănghen cho rằng: vì cuộc sống
của mình con người phải sản xuất vật
chất, đó là quá trình con người sử dụng
công cụ sản xuất tác động vào các đối
tượng của tự nhiên nhằm tạo ra của cải
vật chất. Đó là hoạt động có mục đích
nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống của
con người.
+ Trong quá trình sản xuất vật chất, con
người thiết lập hai mối quan hệ ( quan hệ
song trùng ). Bởi vì, trong sản xuất vật
chất con người liên hệ với tự nhiên hình
thành nên lực lượng sản xuất (LLSX);
đồng thời trong sản xuất con người phải
liên hệ với nhau hình thành nên quan hệ
sản xuất (QHSX) ; Đây là hai mặt hợp
thành của phương thức sản xuất của xã
hội(PTSX).
Nguyên nhân làm cho phương thức sản xuất
vận động biến đổi là do con người không ngừng cải
tiến công cụ sản xuất nhằm tạo ra những công cụ
sản xuất mới. Mỗi khi công cụ sản xuất mới ra đời
làm cho trình độ sản xuất nâng cao, kinh nghiệm
sản xuất đổi mới, năng xuất lao động nâng lên làm
cho LLSX phát triển không ngừng.
Khi LLSX phát triển đến một trình độ mới lại
thúc đẩy sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Mỗi khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế
phương thức sản xuất cũ dẫn đến sự biến đổi tất
cả các mặt của đời sống xã hội, dẫn đến sự biến
đổi của một hình thái kinh tế - xã hội.
Chính bằng phương pháp tiếp cận đó
(từ con người hiện thực) Mác đã phát hiện
ra quy luật vận động của lịch sử loài
người.
Như vậy, chìa khóa để nghiên cứu lịch
sử loài người phải bắt đầu từ con người
hiện thực, con người gắn với sản xuất vật
chất, với hoạt động thực tiễn.
2 .Khái niệm và kết cấu của hình
thái kinh tế - xã hội
a. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.
Như chúng ta đã biết Mác và Ănghen đã
thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực
triết học, mà một trong những nội dung của
nó là đã đưa quan niệm duy vật vào đời sống
xã hội, xây dựng được học thuyết về chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong đó lý luận hình thái kinh tế - xã
hội được coi là hòn đá tảng. Với quan
điểm đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở
thành triệt để bao quát cả tự nhiên và xã
hội.
Để đưa ra khái niệm hình thái kinh tế xã hội, Mác đã tiến hành phân tích tất cả
các quan hệ giữa người và người trong
đời sống hàng ngày, đó là những quan hệ
xã hội.
Trong tất cả những quan hệ đó ông
làm nổi bật lên quan hệ giữa người với
người trong sản xuất vật chất, coi đó là
những quan hệ cơ bản ban đầu quyết
định tất cả các quan hệ xã hội khác.
Trên cơ sở đó, Mác đã phát hiện ra
mối quan hệ bản chất, những quan hệ có
tính lặp lại trong xã hội, từ đó tìm ra tính
quy luật trong sự vận động phát triển của
xã hội.
Không dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội,
Mác đã đi sâu nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội Tư
bản chủ nghĩa ở một số nước điển hình và rút ra quy
luật vận động của chủ nghĩa Tư bản thế giới.
Trên cơ sở đó Mác chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất
là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác nhau
giữa hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế
xã hội khác; và coi đó là bộ xương của cơ thể xã hội,
hợp thành một cơ sở hạ tầng xã hội, tức là cơ sở hiện
thực trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng
tương ứng bao gồm những quan điểm chính trị, triết
học, đạo đức, nghệ thuật, pháp quyền...cùng với
những thể chế tương ứng với những quan điểm đó.
Như vậy, bằng phương pháp duy vật triệt
để trong quá trình giải phẫu xã hội, Mác đã
xây dựng được phạm trù khoa học của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái kinh
tế - xã hội.
* Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù
của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
b. Kết cấu của hình thái kinh tế xã hội.
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng: hình
thái kinh tế xã hội là một chỉnh thể xã hội
(một hệ thống hoàn chỉnh) có kết cấu phức
tạp, trong đó có các mặt cơ bản là: LLSX,
QHSX, kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có
vai trò vị trí khác nhau, nhưng giữa chúng có
sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo nên
sự vận động của cơ thể xã hội.
Trong các mặt nói trên, LLSX được
coi là nền tảng vật chất kỹ thuật của
một hình thái kinh tế xã hội; Sự hình
thành và phát triển của mỗi hình thái
kinh tế xã hội là do sự phát triển của
LLSX quyết định. LLSX còn đảm bảo
tính kế thừa trong sự phát triển tiếp
nối của các hình thái kinh tế xã hội.
+ Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, QHSX được coi
là quan hệ cơ bản ban đầu quyết định các quan hệ
xã hội khác; QHSX phát triển phù hợp với trình độ
của LLSX và tác động tích cực trở lại LLSX. Mỗi
hình thái kinh tế xã hội có một kiểu QHSX đặc trưng
cho nó; QHSX được coi là tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt bản chât của một hình thái kinh tế xã
hội .
Các QHSX của xã hội liên kết với nhau tạo nên
một cơ sở hạ tầng (hay là cơ sở kinh tế) của xã hội.
+ Trên cơ sở hạ tầng đó được hình thành nên các
quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật, tôn giáo… và các tổ chức thiết chế tương ứng
của nó được gọi là kiến trúc thượng tầng (KTTT),
mà chức năng của nó là duy trì, bảo vệ và phát triển
cơ sở hạ tầng (CSHT).
Ngoài các mặt cơ bản nói trên, các hình
thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ gia đình,
dân tộc và các quan hệ xã hội khác.
+ Quan niệm tổng quát về cấu trúc của hình
thái kinh tế xã hội được triển khai phân tích
bằng hệ thống phạm trù quy luật của chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong lĩnh vực kinh tế của đời sống xã
hội, có các phạm trù: Phương thức sản xuất,
LLSX, QHSX và quy luật QHSX phải phù
hợp với trình độ của LLSX. Thực chất của
quy luật này là sự tác động biện chứng giữa
LLSX và QHSX (Đây là quy luật cơ bản chi
phối sự phát triển của xã hội loài người).
- Trong mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế và
lĩnh vực chính trị, được khái quát bằng các
cặp phạm trù: CSHT, KTTT và mối quan hệ
biện chứng giữa CSHT và KTTT.
- Trong lĩnh vực xã hội có các phạm trù: Giai
cấp, kết cấu giai cấp, đấu tranh giai cấp và
quy luật đấu tranh giai cấp. Trong đó chủ
nghĩa Mác-Lênin cho rằng: Đấu tranh giai cấp
là động lực thúc đẩy xã hội phát triển trong
các xã hội có giai cấp.
Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, thông qua
đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu
thuẫn kinh tế và mâu thuẫn giai cấp.
• Mâu thuẫn kinh tế:
LLSX
><
QHSX
• Mâu thuẫn giai cấp:
Giai cấp bị trị
>< Giai cấp thống trị.
 Mâu thuẫn đó dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh
cao của nó dẫn đến cách mạng xã hội.
Thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã
hội làm cho mâu thẫn kinh tế, mâu thuẫn giai cấp
được giải quyết, phương thức sản xuất cũ bị xóa bỏ,
phương thức sản xuất mới ra đời tiến bộ hơn, dẫn
đến sự ra đời của một hình thái kinh tế xã hội mới.
 Chính sự tác động của hệ thống các quy luật làm
cho hình thái kinh tế xã hội vận động phát triển.
+ Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã
hội được nghiên cứu trong mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội,các cấp độ, các hình thái của ý
thức xã hội và vai trò ngày càng to lớn
của ý thức xã hội trong quá trình phát
triển xã hội.
Tóm lại:
Hình thái kinh tế xã hội là một
phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội
ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định,có tính xác định về chất, là sự
thống nhất của tất cả các yếu tố, một
cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động
thông qua sự tác động biện chứng
giữa LLSX và QHSX, giữa CSHT và
KTTT.
3.Sự phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên.
•
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, các
mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế xã hội
không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ
tác động biện chứng lẫn nhau hình thành nên
những quy luật phổ biến của xã hội. Đó là hệ
thống các quy luật.
• Quy luật QHSX ~ LLSX.
• QL CSHT <-----> KTTT.
• QL Đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp và
các quy luật xã hội khác.
Chính do tác động của các quy luật khách quan đó
làm cho các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như
một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc vào ý
chí, nguyện vọng chủ quan của con người.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, nguồn gốc sâu xa
của sự vận động phát triển của xã hội là do sự phát
triển của LLSX. Chính sự phát triển của LLSX đã
quyết định làm thay đổi QHSX.
 Đến lượt mình QHSX thay đổi sẽ làm cho KTTT
thay đổi theo và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ
được thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội mới cao
hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan của cá nhân nào.
• Sự tác động của các quy luật khách quan
làm cho các hình thái kinh tế phát triển
thay thế nhau từ thấp đến cao, đó là con
đường phát triển chung của lịch sử nhân
loại.
• Cũng cần phải thấy rằng, con đường phát
triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi
phối bởi các quy luật chung mà còn bị tác
động bởi các điều kiện về tự nhiên, về
chính trị, về truyền thống văn
hóa,vv.....Chính sự tác động đó làm cho
lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú đa dạng.
• Vì Vậy, có những dân tộc lần lượt trải qua các
hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao, nhưng
cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số
hình thái kinh tế - xã hội nào đó để tiến lên hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn.
• Ví dụ: Các nước Pháp, Tây Ban Nha, Italia, chế
độ phong kiến được hình thành từ trong lòng chế
độ chiếm hữu nô lệ một cách trình tự. Nhưng ở
một số nước khác như Nga, Ba Lan, Đức, chế
độ phong kiến ra đời lại không trải qua chế độ
chiếm hữu nô lệ. Hay ở Mỹ Chủ nghĩa Tư Bản
hình thành không trải qua chế độ phong kiến.
Như vậy, việc bỏ qua một vài hình thái
kinh tế-xã hội để lên một hình thái kinh tế-xã
hội cao hơn đã có tiền đề lịch sử. Tuy nhiên,
việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã hội
chỉ được coi là phù hợp khi: Hình thái kinh tếxã hội bỏ qua đã lỗi thời, hình thái kinh tế-xã
hội mới được thiết lập là hình thái kinh tế-xã
hội tiến bộ. Đồng thời bỏ qua cũng phải tuân
theo quy luật chứ không phải theo ý muốn
chủ quan.
.
Tóm lại: Quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển
tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua
một hoặc một vài hình thái kinh tế-xã hội
nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể cho phép
4.Giá trị
thuyết
hội.
khoa học của
hình thái kinh tế
học
- xã
Trước khi triết học Mác ra đời chủ
nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong
khoa học xã hội.Sự ra đời của học thuyết
hình thái kinh tế-xã hội đã đưa lại cho
khoa học xã hội một phương pháp nghiên
cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: Sản xuất vật
chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương
thức sản xuất quyết định các mặt của đời
sống xã hội. Cho nên không thể xuất phát
từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của
con người để giải thích các hiện tượng
trong đời sống xã hội mà phải xuất phát
từ phương thức sản xuất. Đây là quan
điểm duy vật trong nhận thức xã hội, thực
chất là vận dụng quan diểm duy vật biện
chứng vào đời sống xã hội.
• Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cũng chỉ rõ: Xã
hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên,
máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sống
sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, QHSX là quan hệ cơ bản, quyết định
các quan hệ xã hội khác, và là tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt các chế độ xã hội.
• Cho nên, muốn nhận thức đúng đắn đời sống xã hội
phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời
sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
• Đặc biệt phải đi sâu phân tích về QHSX thì mới có
thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
Chính QHSX là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ
lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
• Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội còn chỉ ra
rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên; tức là diễn
ra theo các quy luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan của cá nhân nào.Vì vậy
muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi
sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển
của xã hội.
• Với quan niệm đó, Mác đã đánh đổ hẳn quan
niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có tính chất
máy móc, có thể tùy ý biến đổi theo đủ mọi kiểu,
một tổ hợp sinh ra và biến hóa một cách ngẫu
nhiên.
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế-xã
hội của Mác ra đời đến nay, loài người đã có
những bước phát triển hết sức to lớn về mọi
mặt, nhưng học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá
trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học
để nhận thức một cách đúng đắn đời sống xã
hội.
II. SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA.
•
Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội, học
thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế - xã hội
đã vạch ra nguồn gốc động lực bên trong
của sự phát triển xã hội; tìm ra quy luật
khách quan chi phối sự vận động phát triển
của xã hội loài người. Đó là cơ sở khoa học
cho việc nghiên cứu xã hội và chống lại các
quan điểm duy tâm về lịch sử.
• Đối với nước ta, lý luận hình thái kinh tế - xã
hội là cơ sở cho đường lối chiến lược cách
mạng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội nói chung và cho công cuộc đổi mới
hiện nay.
• Ngày nay trong quá trình đổi mới, Đảng ta
khẳng định chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu
xã hội chủ nghĩa vì đi lên chủ nghĩa xã hội
là phù hợp với xu hướng của thời đại và phù
hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng
nước ta.
•
Do tính đặc thù của cách mạng nước ta
là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế
phổ biến là sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ Tư
bản chủ nghĩa, do đó để tạo ra những tiền
đề cần thiết cho chủ nghĩa xã hội chúng ta
phải xây dựng trên tất cả các mặt: Từ LLSX
mới đến QHSX mới, từ CSHT mới đến
KTTT mới.
•
Vì vậy để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, trước hết chúng ta
phải tập trung phát triển mạnh mẽ LLSX
bằng cách đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu đến năm
2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.
+ Cùng với việc phát triển LLSX, hiện đại
hóa đất nước, phải xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần là phù hợp với sự
phát triển của LLSX ở nước ta và cũng là
động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.
+ Cùng với đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Đảng ta chủ trương phải không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, làm cho nhà nước thực sự là
nhà nước của dân, do dân vì đân.
+ Đồng thời nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
+ Đồng thời với sự phát triển kinh tế, phải
phát triển văn hóa nhằm xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, không ngừng nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân. Phát triển mạnh mẽ sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
giải quyết tốt các nhu cầu xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Tóm lại:
Xây dựng chủ nghĩa ở nước ta là
quá trình kết hợp ngay từ đầu xây,
dựng cả LLSX lẫn QHSX, cả kinh tế
lẫn chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội nhằm từng bước tạo ra
tất cả các tiền đề cần thiết cho sự ra
đời một hình thái kinh tế xã hội mới,
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
•
•
•
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Khoa khoa học chính trị
GỢI Ý ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
(CHO CÁC LỚP CAO HỌC)
- Tư Tưởng cơ bản của triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần ở Việt Nam.
- Tư tưởng cơ bản của triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần ở Việt Nam.
- Tư tưởng giáo dục của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với vấn đề
giáo dục đào tạo ở nước ta.
- Nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời
sống đạo đức của nước ta từ truyền thống đến hiện đại.
- Đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong xã hội nước ta.
- Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại trong lịch sử.
- Điều kiện ra đời và bước ngoặt lịch sử trong triết học Mác.
- Tư tưởng triết học của Hê- Ghen trong triết học cổ điển Đức và ảnh
hưởng của nó đối với sự ra đời của triết học Mác.
- Tư tưởng triết học của Phơ- Bách trong triết học cổ điển Đức và ảnh
hưởng của nó đối với sự ra đời của triết học Mác.
10. - Những nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan duy
vật biện chứng, sự vận dụng nguyên tắc đó vào cách mạng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
11. - Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện ch ứng
duy vật và sự vận dụng những nguyên tắc đó vào cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
12. - Phạm trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối v ới nh ận
thức? Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trên.
13. - Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. S ự vận
dụng nguyên tắc này trong lĩnh vực đào tạo ở Việt Nam hiện
nay.
14. - Nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn với việc
nâng cao trình độ nhận thức cho đội ngũ cán bộ công ch ức ở
nước ta hiện nay.
15. - Lí luận hình thái kinh tế- xã hội, vận dụng vào quá trình đ ổi
mới ở nước ta.
16. - Học thuyết kinh tế xã hội với con đường đi lên ch ủ nghĩa ở
Việt nam.
17. - Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, vận dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta.
18. - Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng; vận dụng vào quá trình đổi mới ở n ước ta.
19. - Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong tri ết h ọc MácLênin.
20. - Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
21. - Những nội dung và hình thức đấu tranh giai c ấp trong th ời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
22. - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát huy kh ối đoàn
kết toàn dân tộc ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
23. - Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng và đội
ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay.
24. - Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với việc đào
tạo người lao động trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
25. - Nguồn lực con người trong quá trình công ngiệp
hóa hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
26. - Vấn đề con người và phát huy nhân tố con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay.
27. - Quan niệm Macxit về bản chất con người với việc
xây dựng nhân cách thanh niên Việt Nam hiện nay.
Khoa khoa học chính trị
Download