Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân I. Lý luận chung về GCCN và các điều kiện quy định SMLS của GCCN 1. Sự ra đời của giai cấp công nhân - GCCN ra đời gắn và phát triển gắn với nền đại công nghiệp. Sự ra đời của nền đại công nghiệp và tư bản chủ nghĩa: Phá sản các tầng lớp dân cư, Mất hết tư liệu sản xuất, Bán sức lao động, Mất hết tính độc lập, Thành vật phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc => Giai cấp công nhân ra đời 2. Quan điểm cơ bản của CN Mác- Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - Bài tập tr 27 3. GCCN và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN hiện nay 3.1. GCCN hiện nay - Giáo trình tr 65 / Bài tập tr 30 - Mác: Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn.có 3 loại hình công nhân tk 19: công nhân công nghiệp truyền thống, công nhân nông nghiệp, công nhân hầm mỏ (trong đó công nhân hầm mỏ bị bóc lột nặng nề nhất) - Hiện tại: GCCN hiện nay là những tập đoàn người tiến hành sản xuất và cung cấp dịch vụ bằng phương thức công nghiệp, tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện nay. ● Cơ cấu công nhân đang thay đổi, số lượng ngày càng tăng ,tính xã hội hóa và quốc tế hóa + Trong tk19 có 3 loại hình công nhân công nhân công nghiệp truyền thống ,công nhân nông nghiệp, công nhân hầm mỏ (trong đó công nhân hầm mỏ bị bóc lột nặng nề nhất) + Ngày nay công nhân hiện đại ngày nay có cơ cấu nghề nghiệp đa dạng phức tạp , Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ) theo trình độ công nghệ .Giai cấp công nhân hiện đại ngày nay có thể xếp loại thành những giai tầng khác nhau như: “công nhân áo trắng”, “công nhân áo vàng”, “công nhân áo xanh” ● “Công nhân áo trắng” là những người làm công ăn lương có trình độ học vấn trên đại học thường làm việc trong lĩnh vực công nghệ kinh tế.Họ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, tỷ lệ lao động trí óc và lao động sáng tạo cao, chủ yếu làm việc trong các văn phòng .Với điều kiện môi trường làm việc tốt cùng với múc thu nhập cao Về vị trí xã hội, “công nhân áo trắng” được xếp vào tầng lớp trung lưu ● công nhân áo vàng” chiếm 70% là những công nhân làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ bao gồm các kỹ thuật viên, phi công, điều khiển viên, y sĩ, y tá.. .Họ có 1 mức lương và đời sống ổn định .Mặc dù vậy họ vẫn đứng lên đấu tranh thực hiện các cuộc biểu tình VD như Phong trào “áo vàng” ở Pháp khởi nguồn là những chỉ trích trên mạng về vấn đề tăng thuế nhiên liệu Vào ngày 18/10/2018 ● “Công nhân áo xanh” là những người lao động làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, công trường xây dựng...và được trả lương theo giờ (trong khi “công nhân cổ trắng” và “công nhân áo vàng” được trả lương theo tháng). Phần lớn “công nhân cổ xanh” có trình độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp hơn so với “công nhân áo vàng”. 1 3.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện nay - Bài tập tr 31 Trên thực tế, đời sống của người công nhân đã được cải thiện, họ đã được hưởng một mức lương cao hơn, có vị trí xã hội, có cổ phiếu.... Dù cơ cấu có sự thay đổi những phương thức lao động và địa vị xã hội của họ không thay đổi, họ vẫn là những người lao động làm thuê . Thế nên, giai cấp công nhân vẫn là vẫn là lực lượng xã hội đảm nhận sứ mệnh lịch sử 4. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam -Bài tập tr 31 4.1. Đặc điểm của GCCN VN 4.2. Thuận lợi khó khăn Tuy nhiên, GCCN Việt Nam hiện nay đứng trước thời cơ phát triển nhưng cũng phải đối mặt với một số những khó khăn, hạn chế vốn có: - Chủ yếu là do hoàn cảnh lịch sử và nguồn gốc xã hội sinh ra - Tâm lý tiểu nông - Tâm lý tư lợi, chỉ lo việc của cá nhân mình theo kiểu “đèn nhà ai nhà ấy rạng”, “việc ai người ấy lo, bè ai người ấy chống”, lo vun vén cho cá nhân, không quan tâm đến những người xung quanh. - Lối sống nông dân, thói quen, tập quán lạc hậu từ truyền thống xã hội nông nghiệp cổ truyền thâm nhập vào công nhân. 5. Liên hệ với GCCN hiện đại ngày nay ở các nước TBCN và các nước XHCN a, Thực trạng của GCCN ở các nước TB phát triển hiện nay GCCN HIỆN ĐẠI NGÀY NAY Ở CÁC NƯỚC TBCN VÀ XHCN Thứ nhất :Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển, có một tỷ lệ thuận giữa sự phát triển của giai cấp công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, đó là những nước công nghiệp phát triển (như các nước thuộc nhóm G7). Cũng vì thế, đa số các nước đang phát triển hiện nay đều thực hiện chiến lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ, chất lượng và quy mô phát triển. Công nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để giai cấp công nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Thứ hai. Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa công nhân là hai mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công nhân và giai cấp công nhân. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ công nhân theo xu hướng này. Đó là “công nhân tri thức”, “công nhân trí thức”, “công nhân áo trắng”, lao động trình độ cao. Nền sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản xuất. Hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ không còn thuần túy là hao phí sức lực cơ bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và văn hóa tinh thần của công nhân ngày càng tăng, phong phú đa dạng hơn và đòi hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao hơn. Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ, với năng lực sáng tạo trong nền sản xuất hiện đại, người công nhân hiện đại đang có thêm điều kiện vật chất để tự giải phóng. Công nhân hiện đại với trình độ tri thức và làm chủ công nghệ cao, với sự phát triển của năng lực trí tuệ 2 trong kinh tế tri thức, trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của xã hội hiện đại. Trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp thế hệ mới (4.0), công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại. Với các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo và Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền. Đó là những biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân thế kỷ XIX. II. Vấn đề ĐCS và vai trò của ĐCS trong quá trình thực hiện SMLS của GCCN 1. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Khi đảng cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của đảng, giai cấp công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt. Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phải luôn luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho đảng vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn. * Mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những người công nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia nhập đảng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho đảng. Trong hàng ngũ của đảng có những đảng viên không phải là công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn luôn phải đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp công nhân. Với một đảng cộng sản chân chính thi sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương lĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm 3 được quan điểm, đường lối của đảng để phổ biến tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương mẫu mà lôi kéo quần chúng và các phong trào cách mạng. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản" . Cán bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng. Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được. Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đấu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng. 2. Liên hệ với ĐCS VN Ngày 03 tháng 02 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Tròn 90 năm qua “Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”1. Đảng Cộng sản Việt Nam - luôn khẳng định là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng ta đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. 4 vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;... “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân”. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” 5. Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên” 6. Vấn đề đặt ra là mọi tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở, cán bộ, đảng viên phải nắm vững toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo. Đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đó là những vấn đề vừa cơ bản vừa cấp thiết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đảng cần kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới. Chương 6: Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội I. Lý luận về dân tộc 1. Định nghĩa dân tộc - Giáo trình tr 196 2. Hai xu hướng của phong trào dân tộc : Bài tập tr51 3. Nội dung cương lĩnh dân tộc (và theo quan điểm của chủ nghĩa mác lênin) -bài tập tr51 4. Đặc điểm của dân tộc Việt Nam? (Thùy Dương) ● Đặc điểm dân tộc Việt Nam: - Có sự chênh lệch về dân số giữa các dân tộc. - Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau. - Các dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở những địa bàn có vị trí chiến lược. - Các dân tộc có trình độ phát triển không đều. - Các dân tộc có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong một quốc gia dân tộc thống nhất. 5 - Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. ● Liên hệ với tình hình dân tộc ở Việt Nam (các dân tộc thiểu số VN) Việt Nam là một dân tộc đa dân tộc. Theo Tổng cục Thống kê, nước ta có 54 dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh chiếm số đông, vào khoảng 85,4% dân số Việt Nam. 53 dân tộc còn lại được gọi là thiểu số, chiếm khoảng 14,6% dân số cả nước. → Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc luôn luôn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Trong 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thuở ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta nằm trên ngã ba đường giao lưu của Châu Á, nhiều dân tộc ở các nước xung quanh, do nhiều nguyên nhân đã di cư từ Bắc xuống (là chủ yếu), từ Nam lên, từ Tây sang, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến Cách mạng tháng tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta cả sau năm 1945. Đây là những đợt di cư lẻ tẻ bao gồm một số gia đình dòng tộc. Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các DTTS nước ta với dân tộc đa số gắn bó với nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn, ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hóa, thôn tính các DTTS. Do đó cũng không có tình trạng các DTTS chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, dân tộc Kinh cũng như toàn thể các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, lịch sử hình thành, phát triển các dân tộc gắn với lịch sử hình thành, phát triển đất nước Việt Nam. II. Liên hệ với xung đột Nga - Ukraine - Ukraine nằm ở vị trí địa chiến lược trọng yếu trong cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn, nhất là giữa Nga với Mỹ và phương Tây. Hơn nữa, Ukraine cũng là một đất nước rất giàu tiềm năng, lợi thế với nhiều khoáng sản cần thiết cho phát triển và là vựa lúa mì của châu Âu. Chính vì vậy, Ukraine được ví như một cô gái xinh đẹp mà bất kỳ anh lớn nào cũng muốn nhòm ngó. Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ và phương Tây luôn tìm cách lôi kéo Ukraine đi theo mình hòng thu hẹp địa bàn ảnh hưởng cũng như làm 6 suy yếu địa vị kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh của Nga trong không gian hậu Xô Viết. - Trong khi đó, Ukraine và Nga không chỉ là những người láng giềng mà đã từng là những người anh em gắn bó mật thiết suốt hơn 70 năm trong ngôi nhà chung Liên Xô. Hơn nữa, giữa Nga và Ukraine có những mối liên hệ chặt chẽ về lịch sử, văn hóa, chủng tộc và hiện có rất nhiều người gốc Nga hoặc nói tiếng Nga có xu hướng thân Nga sống ở các tỉnh miền Đông Ukraine. Do vậy, Moscow muốn Kiev giữ đường lối trung lập, không tham gia vào khối NATO vì cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh của Nga. Với vị trí địa chính trị nhạy cảm và đặc điểm quốc gia dân tộc như vậy, Ukraine nên giữ chính sách trung lập, hài hòa trong quan hệ với cả Nga và phương Tây. - Tuy nhiên, chính quyền Ukraine ngày càng có xu hướng muốn “thoát Nga”, thân phương Tây. Đặc biệt, chính quyền đương nhiệm của Tổng thống Zelensky có chính sách ngả hẳn về phương Tây được thể hiện qua việc sửa đổi Hiến pháp năm 2019, trong đó đặt mục tiêu đưa Ukraine tham gia vào EU và khối NATO, đồng thời cũng thực hiện một loạt các chính sách nhằm “đoạn tuyệt” với Nga. Hậu quả là, Nga đã can thiệp quân sự ở Ukraine với lí do về lá cờ chủ nghĩa dân tộc và khơi gợi về nguồn gốc dân tộc Nga. Can thiệp vào Ukraine và chi phối cục diện quốc gia này là bước để giúp Nga bảo vệ được phần “biên giới” của họ, giữ được tầm ảnh hưởng của Nga trong khu vực. Vì thật khó có thể chấp nhận được việc một khu vực biên giới ngay sát sườn lại có nguy cơ chĩa súng,đe dọa trong tương lai. Chính sách thân phương Tây và “chống Nga” đã trở thành một nguồn cơn dẫn tới chiến dịch quân sự của Nga hiện nay mà chính đất nước và nhân dân Ukraine đang và sẽ phải gánh chịu những đau thương mất mát không kể xiết. - Trong chiến lược bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước mình, Chính quyền Ukraine đã quá trông đợi vào sự giúp đỡ của Mỹ và Phương Tây. Từ khi chiến tranh bùng nổ, Tổng thống Ukraine có nhiều bài phát biểu kêu gọi sự giúp đỡ từ các nước, đặc biệt từ Mỹ và phương Tây. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Mỹ và NATO chỉ thực hiện những đòn trừng phạt kinh tế đối với Nga và hỗ trợ tiền, vũ khí, đạn dược… cho Ukraine mà không nước nào gửi quân sang chiến đấu bảo vệ đất nước Ukraine vì nước nào cũng ngại đối đầu trực tiếp với Nga. Trong tình cảnh đó, chính Tổng thống Ukraine đã phải ngậm ngùi, cay đắng thốt lên rằng: “Ukraine đang bị bỏ rơi!”. - Từ thực tiễn của Ukraine hiện nay càng thấm thía hơn sự đúng đắn của đường lối độc lập tự chủ trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. Việt Nam có nhiều điểm 7 tương đồng với Ukraine, cũng là một nước với sức mạnh và tiềm lực còn hạn chế, nằm trong khu vực địa chính trị trọng yếu, nơi diễn ra cuộc cạnh tranh và tập hợp lực lượng giữa các cường quốc, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gay gắt, quyết liệt. III. Đường lối quân sự 4 không Thứ nhất, không tham gia liên minh quân sự Việt Nam nhất quán "thêm bạn, bớt thù". Một khi tham gia liên minh quân sự, chúng ta sẽ phải gắn với một bên, phải san sẻ trách nhiệm tài chính, nhân lực; có thể phải nhân nhượng một số lợi ích, sẽ phải hy sinh một phần nhất định chủ quyền quốc gia, có thể phải đối đầu với bên khác, tức là "chuốc" thêm kẻ thù. Do đó, Việt Nam chỉ chọn đứng về hòa bình, lẽ phải, công lý, luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Mặt khác, sau Chiến tranh Lạnh, các nước đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc, mỗi nước phải tự bảo vệ lợi ích quốc gia mình, không thể trông chờ và sẽ không có quốc gia nào bảo vệ lợi ích thay cho nước khác. Bên cạnh đó, Việt Nam cố gắng duy trì quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, đặc biệt trong bối cảnh diễn ra cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực Biển Đông. Thứ hai, không liên kết với nước này để chống nước kia Việc thực hiện nguyên tắc "không liên kết với bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác" trở nên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khu vực hiện nay. Nếu Việt Nam liên minh với bên ngoài, ưu tiên dùng biện pháp quân sự để giải quyết các tranh chấp, bất đồng thì sẽ khó được các nước khác ủng hộ. Nguyên tắc này giúp Việt Nam có vị thế phù hợp để đối thoại với các nước hay tham gia vào các cơ chế đối thoại an ninh, quan sát viên các hội nghị, các cuộc tập trận ở khu vực. Tuy tham gia diễn tập với một số nước, nhưng Việt Nam không đi với đối tác này để chống lại nước thứ ba. Mỗi năm, Việt Nam đón hàng chục tàu chiến nước ngoài, thậm chí năm 2018 và năm 2020, Việt Nam đón tàu sân bay Mỹ vào thăm, nhưng không phải là Việt Nam dùng các chiến hạm nước ngoài để đối phó với các hành động đe dọa chủ quyền của mình ở Biển Đông. Thứ ba, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác Việt Nam khẳng định rõ ràng với thế giới là không chấp nhận cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, sử dụng một phần lãnh thổ Việt Nam để phát động chiến tranh xâm lược nước thứ ba. Với quân cảng Cam Ranh, chúng ta xác định đây là căn cứ riêng của hải quân Việt Nam; đồng thời, Việt Nam đã cho xây dựng cảng quốc tế Cam Ranh để đáp ứng yêu cầu của không ít quốc gia muốn cho tàu chiến được ghé đậu quân cảng này. Như vậy, hoạt động của tàu chiến nước ngoài tại cảng quốc tế Cam Ranh không vi phạm nguyên tắc "không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam chống lại nước khác". Đến nay, Việt Nam đã đón tiếp nhiều tàu hải quân nước ngoài, bao gồm Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Anh, Canada, New Zealand, Nga, Trung Quốc …. đến thăm, ghé đậu tại cảng quốc tế Cam Ranh. Điều đó thể hiện sự kiên định về nguyên tắc và uyển chuyển trong cách thực hiện của Việt Nam. Việc vận dụng thực hiện các chính sách nói trên hoàn toàn tuân thủ luật pháp quốc tế. 8 Thứ tư, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: "Việt Nam chủ trương… không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế". Việc bổ sung điểm thứ tư này làm nổi bật bản chất phòng thủ và hòa bình trong chính sách quốc phòng Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam nỗ lực nâng cao năng lực quân sự của mình. Nguyên tắc không sử dụng vũ lực được đề cập từ Thỏa ước Hội Quốc liên năm 1919 và Hiệp ước Briand-Kellog hay còn gọi là Hiệp ước Paris năm 1928. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế" được ghi nhận trong Điều 2, khoản 4 Hiến chương Liên Hợp quốc và Điều 2, khoản 2, tiết c Hiến chương ASEAN. Do đó, Việt Nam chỉ nhắc lại một nguyên tắc đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi, thể hiện chính sách quốc phòng Việt Nam tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp quốc; đồng thời, góp phần nhấn mạnh tính phi pháp của các hành vi gây hấn, đe dọa, cưỡng ép nước khác phải ngừng hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia. Nhắc lại nguyên tắc "không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực", Việt Nam muốn chuyển tải thông điệp: Mỗi quốc gia cần hành xử có trách nhiệm, tương xứng với trách nhiệm và vị thế quốc tế của mình. Nguyên tắc này không mâu thuẫn với mục đích hiện đại hóa quân đội cũng như nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng vũ trang Việt Nam, đó là bảo vệ đất nước, kể cả bằng cách sử dụng vũ lực khi cần thiết. Nếu đất nước có chiến tranh, người Việt Nam buộc phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ hòa bình. Chúng ta kiên định chính sách quốc phòng "Không liên kết với nước này chống nước kia". Việt Nam không liên minh quân sự, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng nhằm mở rộng sự ủng hộ quốc tế, phát triển năng lực nhận thức, hiểu biết của chúng ta. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 viết: "Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế". Điểm này tạo cho Việt Nam sự linh hoạt, chủ động ứng phó trong những tình huống phức tạp hoặc khi có yêu cầu cấp thiết bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần "Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc", Việt Nam có thể cân nhắc, tham gia một số hoạt động phối hợp bảo vệ chủ quyền vùng biển theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 trên các diễn đàn khu vực, quốc tế. Hiện nay quan hệ ngoại giao nhà nước Việt Nam đã "phủ sóng" tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng ngày càng rộng mở với trên 80 quốc gia thuộc cả 5 châu lục, đặc biệt Việt Nam có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Đây là thuận lợi chưa từng có, là cơ hội để Việt Nam ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và quân đội trên trường quốc tế. Lịch sử dân tộc ta trải qua mấy nghìn năm, công cuộc dựng nước luôn đi đôi với giữ nước. Chính sách quốc phòng "bốn không" được đúc kết từ truyền thống giữ nước đó và ngày càng chứng minh sự đúng đắn, phù hợp với Việt Nam. 9 Cũng như nhiều gia đình Việt Nam khác, gia đình tôi có truyền thống quân ngũ. Cha tôi là chiến sĩ Cứu quốc quân năm xưa, còn tôi cầm súng lên đường chiến đấu khi mới tốt nghiệp phổ thông, chưa đầy 18 tuổi. Những năm sau này, tôi được tham gia công tác đối ngoại và nghiên cứu về quốc phòng. Từng là người lính, nên tôi luôn mong đất nước ta mãi bình yên, người dân được sống trong hòa bình, hòa hiếu với các dân tộc. Xây dựng chiến lược hiện đại hóa quân đội lâu dài và thực hiện chính sách quốc phòng "bốn không" sẽ góp phần bảo vệ hòa bình vững chắc, để chiến tranh không xảy ra thêm lần nữa, nhưng vẫn bảo vệ được toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của đất nước. Chương 7: Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1. Khái niệm, vị trí - Bài tập tr 58 * Vị trí - Bài tập tr Gia đình là tế bào của xã hội (Điều này chúng ta luôn luôn khẳng định và dù trong hoàn cảnh nào, xã hội nào nó vẫn luôn luôn đúng. Nó nói lên mối quan hệ mật thiết giữa gia đình và xã hội, quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống của cơ thể. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hòa của xã hội. Trong mối quan hệ ấy, trình độ phát triển về mọi mặt của xã hội quyết định đến hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô của gia đình.) C.Mác nhiều lần lưu ý rằng: tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật…chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung của sản xuất. Và thực tế cũng cho ta thấy, gia đình lần lượt biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. - Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân mỗi thành viên Trong gia đình, mỗi cá nhân được đùm bọc về mặt vật chất và giáo dục về tâm hồn; trẻ thơ có điều kiện được an toàn và khôn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động có điều kiện để phục hồi sức khỏe và thoải mái tinh thần…Ở đó, hàng ngày diễn ra các mối quan hệ thiêng liêng giữa vợ – chồng, cha – con, anh – em,…những người đồng tâm, đồng cảm, nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời. Khi đó, gia đình thực sự là một tổ ấm thực sự của mỗi con người. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội Nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hoàn cảnh gia đình của người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội, mà còn thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người; nghĩa vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự hợp tác chung của các thành viên trong gia đình. Qua đó ý thức công dân được nâng cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã hội có ý nghĩa thiết thực. 2. Chức năng cơ bản của gia đình ● Đầu tiên là chức năng tái sản xuất ra con người Đây là chức năng đặc thù nhất của gia đình. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tự nhiên, mà còn mang ý nghĩa lớn lao cho xã hội, đó là cung cấp những công dân mới, đảm bảo cho sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người, đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của XH. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt đời sống xh. Chúng quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của 1 quốc gia. Vì vậy, 10 tùy từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu xã hội, chức năng đc thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. VD: Theo Điều 10 Pháp lệnh dân số 2003 (được sửa đổi bởi Điều 1 Pháp lệnh 08/2008/PL-UBTVQH12), quy định về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình là chỉ sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định. -> Như vậy, phụ thuộc vào nhu cầu xh, Chính phủ sẽ điều chỉnh mức sinh nhằm tạo cơ cấu dân số hợp lý về giới tính, độ tuổi. ● Thứ hai là chức năng nuôi dưỡng, giáo dục Đây là chức năng xh hết sức quan trọng, vì làm tốt chức năng này sẽ góp phần trong việc đào tạo thế hệ trẻ nói chung, duy trì và phát triển truyền thống đạo đức, văn hóa dân tộc. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, và cũng là trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức và lối sống của mỗi người. Ngoài ra, gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục , mỗi thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục. Giáo dục gia đình cũng gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục gia đình ko gắn liền với giáo dục xã hội thì mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt hiệu quả cao nếu ko gắn liền với giáo dục gia đình. Do vậy cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược lại. ● Tiếp theo cta sẽ nói về chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng Đây là chức năng mà gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Ngoài ra, gia đình còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu xs, và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối Thực hiện chức năng này, nhằm tạo thu nhập cho gia đình, đảm bảo nhu cầu thiết yếu của các thành viên trong gia đình. Qua đó, gia đình có cơ sở tổ chức đời sống vật chất, tinh thần, nuôi dạy, giáo dục con cái, đồng thời đóng góp to lớn cho sự phát triển xã hội. ● Và cuối cùng là chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên , đảm bảo cân bằng tâm lý, bảo vệ,chăm sóc sức khỏe cho người thân. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm, nơi nương tựa về mặt tinh thần cho con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi tình cảm quan hệ rạn nứt, tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ. Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chính trị,,,. Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc. Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước. 3. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Bài tập tr 59 3. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 3.1. Sự biến đổi của gia đình VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH * Biến đổi quy mô kết cấu của gia đình 11 - Gia đình VN đang ở bước quá độ từ xã hội nông nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại, do đó cấu trúc gia đình truyền thống (đa thế hệ) sang gia đình hạt nhân (2 thế hệ) => Quy mô gia đình có xu hướng thu nhỏ, số lượng thành viên trong gia đình ít đi - Sự bình đẳng nam nữ, đặc biệt là nữ quyền được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư được tôn trọng, tránh những mâu thuẫn trong gia đình truyền thống - Hạn chế: tạo sự ngăn cách không gian giữa các thành viên trong gia đình; khó khăn, trở ngại trong việc giữ gìn tình cảm, các giá trị văn hóa truyền thống của gia đình ● Biến đổi về các chức năng của gia đình - Chức năng tái sản xuất ra con người: Với những thành tựu của y học hiện đại, hiện nay việc sinh đẻ được các gia đình tiến hành một cách chủ động. Hơn nữa, việc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hội của Nhà nước ( chính sách kế hoạch hóa gia đình), và tùy theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao động của xã hội dẫn đến các tỉ lệ về sinh đẻ, nam nữ, và độ tuổi ngày càng có sự thay đổi rõ rệt. ➢ Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán và nhu cầu sản xuất nông nghiệp, gia đình Việt Nam truyền thống: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi ➢ Thì ngày nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ nữ, giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp vợ chồng (biểu hiện ở chỗ 113 trẻ trai/ 100 bé gái năm 2022, giảm đi so với năm 2019 là 120 bé trai/ 100 bé gái). Đối với gia đình truyền thống, chức năng sinh sản là chức năng đầu tiên và quan trọng nhất, tuy nhiên, hiện nay chức năng này không phải quan trọng nhất, thực tế cho thấy ở địa phương này, mức sinh giảm nghiêm trọng ở các cặp vợ chồng. Nguyên nhân của vấn đề này do áp lực của cuộc sống công nghiệp, công việc, kinh tế gia đình… làm xuất hiện xu hướng kết hôn muộn, sinh con muộn, sinh ít và không muốn sinh con ngày càng gia tăng. Chính vì vậy có thể nói, chức năng kinh tế đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các gia đình hiện đại. - Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: xét một cách khái quát thì đến nay kinh tế gia đình đã có 2 bước chuyển rõ rệt: Thứ nhất là chuyển từ sản xuất tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Thứ hai, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng đến đáp ứng nhu cầu ngoài nước. - Và với thu nhập ngày càng tăng, gia đình thực sự trở thành một đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hội. Vai trò gia đình trong tổ chức lao động ở các vùng nông thôn ngày càng bị hạn chế trong những điều kiện dân số ngày càng đông, đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp. Sự dôi dư lao động ngày càng nhiều đã đẩy một tỷ lệ lớn những người trong độ tuổi lao động đi tìm kiếm công việc ở bên ngoài, đi tới các khu công nghiệp hay ra thành phố. Ở thành phố Hà Nội hiện nay, ước tính có khoảng 8085.000 phụ nữ từ các vùng nông thôn ra làm nghề giúp việc gia đình. Từ đó, gia đình dần mất đi vai trò của đơn vị sản xuất và vai trò là đơn vị tiêu dùng ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. - Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình: trong gia đình hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm sinh lý và tình cảm đang tăng lên, cùng với việc coi trọng tự do cá nhân hơn ở mỗi thành viên, đã và đang làm biến đổi chức năng này. Đặc biệt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn ● Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng ngày càng gia tăng. 12 ● Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi quan niệm truyền thống về giới tính trong gia đình. Nó đòi hỏi phải hình thành những chuẩn mực mới, đảm bảo sự hài hòa lợi ích giữa các thành viên trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hội. - Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục (xã hội hóa): việc đầu tư cho nuôi dưỡng, giáo dục con cái của gia đình đang tăng lên; không chỉ giáo dục con cái về đạo đức, ứng xử, kỹ năng mà còn giáo dục tri thức khoa học công nghệ, ngoại ngữ, và hướng đến hòa nhập quốc tế. ● Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế hiện nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. ● Những hiện tượng tiêu cực trong nhà trường và xã hội gia tăng làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội trong việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. ● Những tác động trên đây làm giảm đi đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục trẻ em ở nước ta thời gian qua và điều này đã gây ra những hậu quả khá đáng buồn: Quan hệ tình dục trước hôn nhân ở tuổi vị thành niên: Theo bản Điều tra Quốc gia về “Vị thành niên và thanh niên Việt Nam” cho thấy, có tới 36% số thanh, thiếu niên ở nhóm tuổi từ 14 - 17 đã quan hệ tình dục. Cá biệt, có những em từ 10 - 12 tuổi cũng đã biết quan hệ tình dục và điều đáng nói quan hệ hoàn toàn tự nguyện. *Biến đổi về quan hệ gia đình - Biến đổi về quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng, biến đổi quan hệ giữa các thế hệ với các giá trị chuẩn mực văn hóa khác nhau. - Mặt tích cực: Trong gia đình Việt Nam hiện nay, mô hình người chủ gia đình cũng đang thay đổi. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì còn có ít nhất hai mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ -người vợ làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình. - Mặt tiêu cực: Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức, biến đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa... khiến các gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng -gia đình lỏng lẻo, gia tăng tỷ lệ ly hôn, ngoại tình,...Đồng thời xuất hiện nhiều bi kịch như thảm án gia đình, xâm hại tình dục… Ngoài ra, sức ép từ cuộc sống hiện đại cũng khiến hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người trong xã hội. 3.2. Phương hướng xây dựng và phát triển gia đình VN trong thời kỳ quá độ lên XHCN - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về xây dựng và phát triển gia đình. - Đẩy mạnh các công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức gia đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế gia đình, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia đình, có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình chính sách, gia đình có công với đất nước, gia đình thuộc dân tộc thiểu số, hộ nghèo, sống ở vùng sâu vùng xa. - Kế thừa các giá trị gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu các giá trị gia đình tiến bộ của nhân loại khi xây dựng gia đình. - Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới. 13 4. Vấn đề cần làm gì để có 1 gia đình hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay 1. Sức khỏe đủ đầy Sức khỏe là món quà vô giá của mỗi người. Có sức khỏe chính là có hạnh phúc. Khi cơ thể khỏe mạnh, bạn có thể làm được nhiều việc, vun vén và chu toàn cho cuộc sống của gia đình rất dễ dàng. Ngược lại, khi chẳng may ốm đau bệnh tật, người mệt mỏi không chỉ có mình bạn, mà còn cả những người thân trong gia đình. Nếu bạn là người trụ cột, áp lực tài chính sẽ còn đè nặng lên vai các thành viên còn lại, cuộc sống cũng vì thế mà trở nên khó khăn hơn. Do vậy, ngay từ bây giờ, bản thân mỗi người nên có ý thức tự chăm sóc sức khỏe, cho chính mình và cho gia đình. Bạn có thể nâng cao sức khỏe thông qua việc thăm khám định kỳ, mua bảo hiểm sức khỏe, ăn uống lành mạnh, tập luyện thể thao, thay đổi thói quen sống tích cực... 2. Quan tâm và chia sẻ Đời sống tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình cũng là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng hạnh phúc. Sự quan tâm, chia sẻ, động viên là cách để kết nối tình cảm, gắn kết mọi người lại gần với nhau và củng cố sự đoàn kết trong gia đình. Không chỉ vậy, việc giải bày tâm sự về những điều trong cuộc sống, công việc còn giúp bạn thấu hiểu, có sự cảm thông và yêu thương gia đình của mình nhiều hơn. Ngày nay, khi cuộc sống quá bận rộn và bị chi phối bởi công việc, các mối quan hệ xã hội đã khiến cho nhiều gia đình không còn sự gắn kết như trước. Để gia tăng tình cảm với mọi người trong nhà, bạn nên dành thời gian rảnh rỗi để ăn bữa cơm với gia đình, tặng quà vào những dịp đặc biệt, thường xuyên gọi điện hỏi thăm hoặc đi du lịch cùng với mọi người. 3. Tôn trọng lẫn nhau Trong bất kỳ một mối quan hệ nào, kể cả với gia đình, sự tôn trọng là rất cần thiết để giữ gìn hạnh phúc. Một lời nói ra, dù chỉ là câu nói bâng quơ hay là lời nói trong lúc nóng giận cũng có thể gây tổn thương cho người khác. Sự tổn thương về thể xác thì có thể lành lại, nhưng vết thương lòng thì mãi ở đó, in sâu vào trong tâm trí và chẳng thể nào quên. Mọi người trong gia đình đều cần được tôn trọng, dù là vợ chồng hay con cái. Không còn tư tưởng trọng nam khinh nữ, ai cũng có quyền lên tiếng và quyết định các sự việc trong gia đình. Luôn tôn trọng ước mơ, suy nghĩ, cảm xúc và chấp nhận những mặt hạn chế của các thành viên thay vì lớn tiếng phản đối, trách mắng hay chê bai. Chính sự tin tưởng, tôn trọng từ những người thân yêu là nguồn sức mạnh to lớn để bạn vững tâm trước cuộc sống đầy biến động này. 4. Tài chính vững vàng Tài chính là cũng là một yếu tố quan trọng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Ở mỗi giai đoạn của cuộc sống sẽ có nhiều sự thay đổi khác nhau, chẳng hạn như con cái vào đại học/kết hôn/lập nghiệp, gia đình muốn mở rộng kinh doanh, xây nhà... Để làm được điều này, đòi hỏi gia đình phải có tài chính vững chắc, nhằm ứng biến kịp thời trước các thay đổi và giữ gia đình hạnh phúc. Quản lý tài chính gia đình tốt là biết cách chi tiêu, sử dụng nguồn tiền hợp lý, phân chia tiết kiệm và đầu tư gia tăng tài sản. Có như vậy, tương lai của con cái, gia đình sẽ ngày càng tươi sáng, rộng mở, vững bền và không phải lo cảnh thiếu trước hụt sau. Để xây dựng tài chính vững mạnh, bạn có thể lập kế hoạch tiết kiệm qua ngân hàng, mua bảo hiểm nhân thọ, lập tính kỷ luật tài chính, kiếm thêm nguồn thu nhập, đầu tư bất động sản… Trong đó, bảo hiểm nhân thọ là giải pháp tài chính tối ưu được nhiều người tin chọn hiện nay. 14 Bảo hiểm nhân thọ cung cấp nhiều quyền lợi, vừa có thể là yếu tố bảo vệ kết hợp cùng tích lũy hoặc đầu tư gia tăng tài sản. Người tham gia sẽ được bảo vệ toàn diện trước các rủi ro bệnh tật, tai nạn, tích lũy khoản dự phòng dùng cho tương lai khi đáo hạn và đầu tư với lãi suất hấp dẫn, tăng sinh lợi nhuận. Bên cạnh sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính, bạn có thể tham gia các gói bảo hiểm bổ trợ để nâng cao quyền lợi và mở rộng phạm vi bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và tạo dựng nguồn tài chính bền vững cho cả gia đình chỉ trong 1 hợp đồng. 5. Làm tròn trách nhiệm của bản thân Mỗi thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng. Với các con phải có nghĩa vụ đi học, ngoan ngoãn, hiểu thảo với ông bà, bố mẹ. Vợ và chồng cùng nhau làm việc, chăm sóc, nuôi dạy con cái, báo hiếu cha mẹ. Nếu mỗi thành viên trong gia đình đều làm tốt trách nhiệm của mình thì những người còn lại mới có thể yên tâm để phát triển những việc khác. Hãy nghĩ đơn giản như việc con cái ngoan ngoãn, học giỏi thì cha mẹ mới toàn tâm toàn ý phát triển sự nghiệp để mang lại cho con một cuộc sống đầy đủ hơn. Ngoài ra, mỗi thành viên trong gia đình đều phải biết cách tự chăm sóc bản thân. Khi làm được điều đó, bạn sẽ biết cách trân trọng những giá trị của mình, tự tin, yêu đời hơn và lan tỏa niềm hạnh phúc đến những người xung quanh. Hãy dành thời gian nhiều hơn để quan tâm đến sức khỏe, tinh thần của mình bằng cách tích cực tham gia các hoạt động xã hội, làm đẹp, tập thể dục... Chỉ khi nào bạn yêu thương, trân trọng chính mình thì bạn mới nhận được sự trân trọng của người khác. 15