Uploaded by nhan.trandtblight

08 L12 BTL

advertisement
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
(QUA NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐẢNG PHÁT ĐỘNG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (12/1946) VÀ CHỐNG MỸ (1959))
LỚP L12--- NHÓM 08 --- HK 222
NGÀY NỘP 20/03/2023
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Bích Hồng
Sinh viên thực hiện
Dương Nguyễn Nguyên Nghĩa
Trương Thanh Nghĩa
Nguyễn Việt Nguyên
Nguyễn Hoàng Nam
Trần Quốc Nhẩn
Nguyễn Nguyên
Mã số sinh viên
2011672
1914328
2013931
2013824
2010483
2013918
Thành phố Hồ Chí Minh – 2023
Điểm số
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM
STT
Họ và tên
1. Dương Nguyễn Nguyên Nghĩa
MSSV
2011672
2.
3.
Trương Thanh Nghĩa
Nguyễn Việt Nguyên
1914328
2013931
4.
5.
6.
Nguyễn Hoàng Nam
Trần Quốc Nhẩn
Nguyễn 20139182013918
Nguyên
2013824
2010483
2013918
Nhiệm vụ
Mở đầu, kết luận, tài
liệu tham khảo, tổng
hợp, chỉnh sửa báo cáo.
Chương 2 phần 2.2.
Chương 3, tiểu kết
chương 3.
Chương 1 phần 1.2.
Chương 1 phần 1.1.
Chương 2 phần 2.1.
Kết quả
100%
Chữ ký
100%
100%
100%
100%
100%
NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)
Dương Nguyễn Nguyên Nghĩa
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.…………………………………………………………………..1
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………...3
Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
VỚI PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN
TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)……...3
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành
động hiếu chiến của thực dân Pháp………………………………………………3
1.1.1. Bối cảnh thế giới……………………………………………..……………..3
1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp………...4
1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp và nội dung
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp……………………………………7
1.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Pháp…...…………………………7
1.2.2. Nội dung và giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp ….10
Tiểu kết Chương 1……………………………………………………………….13
Chương 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
VỚI MỸ TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG
(01/1959)…………………………………………………………………………..14
2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký Hiệp định Giơnevơ và những hành
động hiếu chiến của Mỹ………………………………………………………….14
2.1.1. Bối cảnh thế giới…...………………………………………………………14
2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ.………….15
2.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Mỹ và nội dung Nghị
quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959)….………………………………………18
2.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Mỹ………………………………18
2.2.2. Nội dung và giá trị của Nghị quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959)……21
Tiểu kết Chương 2……………………………………………………………….24
Chương 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY……………...……………………………………25
3.1. Chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc………………………………………………………………….25
3.1.1. Tình hình biển Đông……………………………………………………….25
3.1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước…………………………………………27
3.2. Kết quả quá trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam……………29
3.2.1. Thành tựu, nguyên nhân của thành tựu………………………………….29
3.2.2. Một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế..……………………………...31
3.3. Đề xuất một số giải pháp của nhóm……………………………………...33
Tiểu kết Chương 3……………………………………………………………….35
PHẦN KẾT LUẬN.………………………………………………………….…..36
TÀI LIỆU THAM KHẢO.………………………………………………………38
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trước kia, khi thế giới còn cục bộ, nhiều bè phái, một quốc gia có thể tồn tại chỉ
dựa vào khả năng sản xuất nhỏ lẻ, bao quát của bản thân để tồn tại là điều rất dễ dàng.
Thế nhưng thời thế đã thay đổi, trong thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, nếu không
thể giao thương, trao đổi hàng hoá thì một quốc gia không thể nào phát triển, giàu
mạnh được. Và đặc biệt, con đường giao thương quan trọng nhất chính là đường thuỷ,
vì không có con đường giao thương nào rẻ, nhanh và hiệu quả hơn đường thuỷ. Nên có
thể nói, giao thương đường thuỷ chính là cánh cửa thiết yếu của một quốc gia đến với
sự phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng của đất nước.
Do thấy được điều đó, Việt Nam ta trong 3 thập kỷ qua đã rất chú trọng tới chủ
quyền biển đảo đặc biệt với tình hình biển đảo hiện nay có nhiều tranh chấp, phức tạp,
yêu cầu cần có biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, đảm bảo lợi
ích quốc qua dân tộc, nhưng vẫn giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, để tập trung
cho phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế. Để làm được những điều này cần rất nhiều
biện pháp ngoại giao, an ninh, vừa mềm dẻo vừa cứng rắn để phù hợp với nhu cầu
thực tiễn.
Trong thực tiễn Đảng của chúng ta đã và đang thực hiện công cuộc bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của đất nước và đạt được nhiều thành công, tuy nhiên vẫn còn một số
hạn chế cần khắc phục.
Thêm vào đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách tận dụng
vấn đề chủ quyền biển đảo của nước ta để tiến hành chống phá nhà nước, chia rẽ đoàn
kết dân tộc. Chúng luôn yêu cầu Đảng ta phải có những động thái mạnh mẽ hơn trong
việc giải quyết vấn đề biển đảo với Trung Quốc, thúc ép Việt Nam phải tiến hành
những hoạt động quân sự nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Để có được giải pháp hiệu quả trong việc giải quyết những căng thẳng trên biển
Đông, việc nghiên cứu thực tiễn Đảng giải quyết xung đột với các nước lớn như Pháp,
Mỹ trước khi quyết định sử dụng bạo lực cách mạng để đối phó, từ đó đề xuất một số
giải pháp cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay là hết sức cần
thiết.
Với những lý do trên, nhóm chúng em quyết định thực hiện đề tài “GIẢI PHÁP
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY (QUA NGHIÊN
CỨU THỰC TIỄN ĐẢNG PHÁT ĐỘNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP (12/1946) VÀ CHỐNG MỸ (1959))” làm bài tập lớn kết thúc môn học
nhằm nghiên cứu thực tiễn Đảng giải quyết xung đột với các nước lớn như Pháp, Mỹ
trước khi quyết định sử dụng bạo lực cách mạng để đối phó, từ đó đề xuất một số giải
pháp cho việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước.
1
Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
và những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng bước giải
quyết xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (19/12/1946).
Hai là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Hiệp định Gionevơ và
quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Mỹ trước khi quyết định sử dụng
bạo lực cách mạng (01/1959).
Ba là, làm rõ tình hình biển Đông, chủ trương của Đảng, Nhà nước và những kết
quả đạt được trong bảo vể chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Bốn là, trên cơ sở thực tiễn Đảng giải quyết xung đột với Pháp và Mỹ trước khi
quyết định sử dụng bạo lực cách mạng, nhóm đề xuất một số giải pháp góp phần bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI PHÁP
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946)
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành
động hiếu chiến của thực dân Pháp
1.1.1. Bối cảnh thế giới
Vào giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai, ba nguyên thủ các cường
quốc Liên xô, Mĩ và Anh là Xta-lin, Ru-dơ-ven và Soc-sin đã có cuộc gặp gỡ tại I-anta thuộc Liên Xô từ ngày 4 đến ngày 11/02/1945. Hội nghị đã thông quá các quyết
định quan trọng về việc phan chia khu vực ảnh hưởng giữa hai cường quốc Liên Xô và
Mĩ:
Ở châu Âu, Liên Xô chiếm đóng và kiểm soát vùng Đông nước Đức à phía
đông châu Âu, vùng Tây Đức và Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hửng của Mĩ và Anh.
Ở châu Á, duy trì nguyên trạng Mông Cổ trả lại cho Liên Xô phía nam đảo
Xa-kha-lin, trao trả cho Trung Quốc những đát đai đã bị Nhật chiếm đóng trước đây,
thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc gồm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung
Quốc.
Triều Tiên được công nhận là một quốc gia độc lập nhưng tàm thời quân đội
Liên Xô và Mĩ chia nhau kiểm soát và đóng quân ở Bắc và Nam vĩ tuyến 38. Các vùng
còn lại ở châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nươc phương Tây.
Toàn bộ những thỏa thuận quy định trên đã trở thành khuôn khổ của một trật tự
thế giới mới, mà lịch sử gọi là Trật tự hai cực I-an-ta do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi
cực. Hội nghị I-an-ta còn có một quyết định quan trọng khác là thành lập một tổ chức
quốc tế mới là Liên hợp quốc. Nhiệm vụ chính của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình
và an ninh thế giới, phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền của các dân tộc, thực hiện sự hợp tác quốc tế vè kinh tế, văn
hóa, xã hội và nhân đạo.
Cuộc gặp tại Potsdam là hội nghị thứ ba giữa các nhà lãnh đạo nhóm Tam Cường
gồm Liên Xô, Mỹ và Anh. Tại hội nghị Potsdam này, vấn đề cấp bách nhất là số phận
thời hậu chiến của nước Đức. Liên Xô muốn một nước Đức thống nhất, nhưng họ
cũng khăng khăng rằng Đức phải hoàn toàn giải giới. Truman (tổng thống Mỹ lúc
này), cùng với số lượng ngày càng tăng các quan chức Hoa Kỳ, đã có những nghi ngờ
sâu sắc về ý định của Liên Xô tại châu Âu. Quân đội Liên Xô đông đảo đã chiếm đóng
phần lớn Đông Âu. Một nước Đức mạnh mẽ có thể là trở ngại duy nhất trên con đường
thống trị của Liên Xô trên toàn châu Âu. Cuối cùng, nhóm đã đồng ý chia nước Đức
3
thành ba khu vực chiếm đóng (một khu vực cho mỗi quốc gia) và trì hoãn các cuộc
thảo luận về việc thống nhất nước Đức cho đến một thời điểm sau này.
Ngay khi đến hội nghị, Truman được thông báo rằng Hoa Kỳ đã thử nghiệm
thành công quả bom nguyên tử đầu tiên. Với hy vọng sử dụng vũ khí này làm đòn bẩy
trước Liên Xô thời hậu chiến, Truman đã vờ đề cập một cách tình cờ với Stalin (đại
diện Liên Xô) rằng Hoa Kỳ hiện đang sở hữu một loại vũ khí có sức tàn phá khủng
khiếp. Vị tổng thống đã phải thất vọng khi nhà lãnh đạo Liên Xô chỉ trả lời rằng ông
hy vọng Mỹ sẽ sử dụng nó để đưa cuộc chiến với Nhật kết thúc nhanh chóng. Hội nghị
Potsdam kết thúc trong không khí ảm đạm.
Với ý đồ quay lại Đông Dương, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang trong
giai đoạn kết thúc, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch quay trở lại nơi mà
chúng vốn coi là "lãnh địa" của mình. Trong tình hình đó, ngày 17/07/1945, Hội nghị
Potsdam nhóm họp và ra quyết định đưa quân đội Đồng minh vào Đông Dương giải
giáp quân đội Nhật. Quyết định của Hội nghị Potsdam đã dẫn tới sự có mặt của một
lực lượng lớn quân đội nước ngoài thuộc các thế lực thù địch, luôn nuôi dã tâm chống
phá, lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ, vừa mới ra đời. Đây là một
sự chênh lệch lớn về cán cân lực lượng, hết sức bất lợi cho chính quyền cách mạng còn
trứng nước.
1.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp
Bối cảnh trong nước
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã
phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế
lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Bên cạnh đó cũng có những
mặt thuận lợi nhất định.
Thuận lợi về phía quốc tế là sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng.
Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, chính
quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được kiến lập có hệ thống
từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực
lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng
hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị
lãnh tụ tối cao của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân
tộc thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Khó khăn trên thế giới là phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia
lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới,
trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn, không có
nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lí của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm tỏng vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao
4
vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Các mạng ba nước Đông Dương nói
chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử
thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Khó khăn trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập còn
rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức
nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình
đốn, nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nên tài chính ngân khố
kiệt quệ, kho bạc chống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa
được khắc phục, 95 % dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945
làm 2 triệu người dân chết đói. Các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại
Việt ráo riết hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng.
Chúng quấy nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số
người đi theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm
thời và các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản
động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt nhiều thù
trong, giặc ngoài như lúc này. Ngoài ra thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này
là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp.
Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội
Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân
Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ
đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử
phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ,
chống lại cách mạng.
Những hành động hiếu chiếu của Pháp
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, như vậy Pháp
mất Đông Dương vào tay Nhật, mọi ký giữa Pháp và Triều định phong kiến Việt Nam
hết hiệu quả. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị, một cao trào cách mạng đã xuất hiện ở
nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh được thành lập kêu gọi đồng bào dũng
cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cuối tháng 08/1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam, gần 20
vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra
làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai phản động
trong hai tổ chức "Việt quốc" và "Việt cách". Vào Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch
còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính
quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng
5
là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế độ "uỷ trị", một trá hình
của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Ngày 2/9/1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít ting mừng
ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-chợ lớn. Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh
với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho
thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Ngày 23/09/1945, được quân Anh giúp sức, thực
dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số
quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường
cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Đầu năm 1946, các nước đế quốc dàn xếp, mua bán quyền lợi với nhau để cho
thực dân Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay quân đội của Tưởng. Ngày
28/02/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết ở Trùng Khánh. Theo đó, Pháp nhân
nhượng một số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để Pháp
được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Tưởng nhân nhượng với Pháp để rút quân về
nước đối phó với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Việc dàn xếp giữa hai kẻ thù
Pháp và Tưởng được Đảng dự đoán sớm. Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (ngày
25/11/1945) vạch rõ: "trước sau, Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về
tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tàu nhiều quyền lợi quan trọng".
Sau khi ký Tạm ước 14/9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và khủng bố
nhân dân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm ở miền Bắc
nước ta. Đảng nhận định: "Tạm ước 14/9 là nhân nhượng cuối cùng của Đảng và
Chính phủ ta, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền lợi
cao trọng của dân tộc". Mặc dù thực dân Pháp bội ước, nhưng thực tế lịch sử đã chứng
minh tính đúng đắn và cần thiết của các hiệp định này. Chúng ta hoà để từng bước
củng cố nền độc lập vừa mới giành được.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy mạnh sản
xuất, ổn định đời sống, tích trữ lương thực, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các
chiến khu, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, chính quyền nhân dân được củng cố
vững chắc hơn, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội
thông qua; tích cực tuyên truyền trong nước và quốc tế về cuộc đấu tranh chính nghĩa
của dân tộc ta. Qua lãnh đạo đấu tranh và xây dựng, Đảng đã lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng. Từ 5.000 đảng viên khi Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, đến
tháng 12/1946, Đảng ta có trên 20.000 đảng viên. Nội bộ của Đảng được củng cố,
thống nhất, đội ngũ cán bộ của Đảng được đào tạo và phát triển. Cuộc kháng chiến của
quân và dân ta ở miền Nam có điều kiện phát triển thuận lợi hơn.
Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh
thần quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
6
tranh chống giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng còn non trẻ
đã đêm thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hõa
tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
1.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp và nội dung
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
1.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Pháp
Cách mạng Việt Nam đang phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách
hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Ở trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non
trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều,
công nghiệp đình đốn, nông nghiệp bị hoang hóa, 50 % ruộng đất bị bỏ hoang, nền tội
chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu tệ nạn
xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944,
đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất
lúc này là âm mưu quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Cụ
thể:
Từ tháng 09/1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam
Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ sử dụng đội quân Nhật giúp sức quân
Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng
sáng ngày 23/09/1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân
Pháp ở Việt Nam. Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ
của Việt Nam trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn
đói, nạn dốt và thù trong giặc ngoài.
Ngày 03/09/1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt là diệt giặc đói, diệt
giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc, nhận định tình hình và định hướng con đường di lên của cách mạng Việt
Nam sau khi giành được chính quyển.
Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng.
Nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này là “dân tộc giải
phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, mọi hành động phải
tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt là phải củng cố chính quyền, chống thực
dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Chỉ thị cũng đề
7
ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời của cách
mạng Việt Nam. Trong đó nêu rõ cần:
Xúc tiêu bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức lập ra
Hiến pháp, động viên lực lượng toàn dân, kiên trị kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến
lâu dài kiên định nguyên tác độc lập về chính trị về ngoại giao
Đặc biệt chú ý “làm cho nước mình ít hê thủ và nhiều bạn đồng minh hơn
hết”, đối với Thu Tưởng nhu chủ trương Hoa - Việt thân thiện, đối với Pháp “độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Về tuyên truyền hết sức kêu gọi đoàn chống chủ
nghĩa thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt chống mọi mưu mô phá hoại chia rẻ của bọn
Việt Nam Quốc dân Đảng.
Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc đã đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt
Nam, có tác dụng định hướng tư tưởng trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy
khó khăn, phức tạp này. Cụ thể:
Ngày 02/09/1945 ở Sài Gòn, thực dân Pháp ráo riết thực hiện mưu đồ xâm
lược Việt Nam. Đêm 22 rạng ngày 23/09/1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây hấn
đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn (Nam Bộ).
Ngày 25/10/1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái
Bè (Mỹ Tho) quyết định những biện pháp cấp bách nhằm củng cố lực lượng vũ trang,
xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bị mật trong nội đô; tổ chức và phát động toàn
dân kháng chiến, kiên quyết đẩy lùi cuộc tấn công của quân Pháp. Ngăn chặn bước
tiến của chúng.
Ngày 26/09/1945, những chi đội đầu tiên ưu tú nhất của quân đội, được trang
bị vũ khí tốt nhất, đã lên đường Nam tiến chi viện cho Nam Bộ.
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và
Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp
ước Hoa - Pháp, ngày 28/02/1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân
đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, thay thế cho 20 vạn quân
Tưởng rút về nước, hạn cuối cùng là ngày 31/08/1946. Đổi lại Pháp sẽ nhượng lại cho
Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam.
Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp lên nền độc
lập của Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp miền Bắc.
Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng nguy hiểm, phải
cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng.
Ngày 14/09/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Marius Moutet (M Mutê) đại diện Chính phủ Pháp, bản Tạm ước 14/09 tại Mácxây (Marseill), đồng ý nhân
8
nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở Việt Nam hai bên cam kết
đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán.
Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm
Hải Phỏng, Lạng Sơn, chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương; tấn công vào các
vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ hậu thuẫn cho lực lượng phản động
xúc tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ” và triệu tập Hội nghị Liên
bang Đông Dương.
Trong các ngày 16 và 17/12/1946, quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên lấn
công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta, bắn đại bác
gây ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.
Ngày 18/12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ
với Chính phủ Việt Nam, dưới liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giáp giải
tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát gìn giữ an
ninh, trật tự của thành phố .
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bảo! Chúng ta phải đứng lên!”. Quán triệt đường lối,
chủ trương của Đảng kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực
hiện mệnh lệnh của Chính phủ, bắt đầu từ 20 giờ ngày 19/12/1946, dưới sự chỉ đạo của
các cấp ủy đảng, quân và dân Hà Nội và ở các đô thị từ bắc vĩ tuyến 16 trở ra đã đồng
loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Nhận xét chung:
Về phía thực dân Pháp
Với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, nên sau khi được tăng cường lực lượng,
chúng mở rộng vùng chiếm đóng, ráo riết thực hiện đòn tấn công quyết định để sớm
kết thúc chiến tranh.
Về phía Việt Nam
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946),
tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh (08/1947),...
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập,
tự do, thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế
giới... Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dẫn, lực dân, động viên toàn
dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước,
đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo
dài mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho
toàn dân đánh giặc.
Nhận định về quyết định phát động cuộc chiến tranh của Đảng
Chuyển đất nước vào thời chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
9
Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là
chính; vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giành thắng lợi vẻ vang.
1.2.2. Nội dung và giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Nội dung đường lối kháng chiến
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám,
“Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện
và lâu dài”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: đánh địch về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao. Trong đó:
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự
do, hòa bình.
Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận
động chiến, đánh chính quy.
Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung
phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp
với dân tộc Pháp, chống pharn động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài (trường kỳ) là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh
của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển
hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh
thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn
phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ
tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định
thắng lợi.
10
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng
đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về
chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc
bấy giờ.
Giá trị của đường lối kháng chiến
Kết quả của việc thực hiện đường lối:
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức,
tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền năm cấp được
củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ
binh, một đại đoàn công binh – pháo binh. Thắng lợi các chiến dịch Trung Du. Đường
18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào…đã tiêu diệt được nhiều sinh lực
địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam
và cho cách mạng Lào… Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07/05/1954 được ghi vào
lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ
XX.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27/12/1953, Ban
Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng
chiến đến thắng lợi cuối cùng”.
Ý nghĩa lịch sử:
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở
rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở
Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm
niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng
thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
11
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng hòa bình,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.
12
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Sau Cách mạng tháng Tám, tình hình thế giới đã hình thành 1 trật tự thế giới 2
cực sau hội nghị I-an-ta do Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi cực. Bên cạnh đó hội nghị
Potsdam kết thúc trong không khí ảm đạm đã ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình chính
trị của Việt Nam.Với ý đồ quay lại Đông Dương, khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
đang trong giai đoạn kết thúc, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch quay trở
lại nơi mà chúng vốn coi là "lãnh địa" của mình. Thực dân Pháp đã có những hành
động hiếu chiến, khiêu khích, không muốn hòa bình với chúng ta lúc này.
Cách mạng Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn, thử thách khi hệ thống
chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về
nhiều mặt; đất nước đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi vừa một lúc phải
đối phó với giặc đói, giặc dốt và thù trong, giặc ngoài. Đảng đã kiên trì thực hiện hòa
hoãn với Pháp và bày tỏ thiện chí hòa bình, nhân nhượng để tìm kiếm con đường hòa
bình. Tuy vậy, với bản chất hung hăng, hiếu chiến, thực dân Pháp vẫn ráo riết thực
hiện những cuộc tấn công đánh chiếm Nam Bộm, thêm vào đó, việc chính phủ Pháp và
Trung Hoa dân quốc ký bản Hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/02/1946 càng cho thấy dã
tâm xâm lược của Pháp khi muốn hợp pháp hóa hành động gây chiến ở miền Bắc.
Những điều trên đã chứng tỏ rằng thực dân Pháp không chấp nhận hòa hoãn mà sẽ chỉ
dừng lại cho đến khi Việt Nam lại trở thành thuộc địa của chúng thêm một lần nữa.
Trước tình hình đó Đảng đã phát động toàn quốc kháng chiến, đề ra đường lối đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày
đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, tự lực cánh sinh là chính. Đó là xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc
chiến.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nước ta không chỉ đánh dấu công
cuộc dành độc lập, giải pháp cho miền Bắc, tạo điều kiện cho miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội; mà cũng đánh dấu cho việc lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa
nhỏ bé đã đánh bại một nước thuộc địa hùng mạnh, tạo động lực để khơi dậy các cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc ở trên toàn thế giới.
13
Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI MỸ
TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG BẠO LỰC CÁCH MẠNG (01/1959)
2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau khi ký Hiệp định Giơnevơ và những hành
động hiếu chiến của Mỹ
2.1.1. Bối cảnh thế giới
Cuối năm 1953 và đầu 1954, khi chiến tranh lạnh đến đỉnh cao, thế giới xuất hiện
xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải quyết hòa bình các cuộc
chiến tranh khu vực. Biểu hiện rõ nhất của xu thế hòa hoãn này là các nước lớn Mỹ,
Anh, Pháp và Liên Xô triệu tập Hội nghị ngoại trưởng bốn nước tại Béc-lin tháng 2
năm 1954 bàn về vấn đề Đức - Áo. Do bất đồng quá lớn trong việc giải quyết các vấn
đề chính trị tồn tại sau chiến tranh lạnh, Hội nghị thất bại nên chuyển sang bàn về vấn
đề Biển Đông. Ngày 18/02/1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước ra tuyên bố cuối
cùng, trong đó Hội nghị sẽ xem xét vấn đề Đông Dương. Điều này đã mở ra một
hướng mới cho khả năng kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Đông Dương thông qua
biện pháp thương lượng hòa bình. Tình thế lúc bấy giờ tạo điều kiện cho Cách Mạng
Việt Nam, mở ra cơ hội thương lượng để giảm thương vong. Tuy nhiên cũng tiềm ẩn
nhiều nguy cơ khi tham vọng của Mỹ ngày càng bộc lộ rõ và mâu thuẫn giữa hai
cường quốc trong khối xã hội chủ nghĩa có thể ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển
Cách Mạng. Phong trào cách mạng quốc tế và tình hình những năm 1954-1960 Cách
mạng Cuba thắng lợi (1959) đưa Cuba gia nhập phe XHCN. Hệ thống XHCN mở rộng
sang cả Tây bán cầu. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Á,
châu Phi và Mỹ Latin, nhiều quốc gia non trẻ giành được độc lập dân tộc ở những mức
độ khác nhau. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tan rã từng mảng lớn. Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân sau một số năm tạm lắng nay lại bùng nên mạnh
mẽ. Điều này đã cổ vũ cho cách mạng ở Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh đó, các lực lượng đế quốc tăng cường tấn công vào cách mạng. Đối với các nước
xã hội chủ nghĩa châu Âu, họ thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình; còn đối với
Cuba và Việt Nam thì bao vây, khiêu khích hoặc xâm lược và thực hiện chủ nghĩa thực
dân trá hình ở khu vực Á - Phi - Mỹ Latin. Trong tình hình như thế, những thế lực cơ
hội, xét lại đang nắm quyền ở một số Đảng Cộng sản lại đưa ra đường lối “chung sống
hòa bình’’, thỏa hiệp giai cấp vô nguyên tắc và trong phong trào cộng sản quốc tế lại
xuất hiện một trào lưu mới hết sức nguy hại - chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa biệt
phái. Mâu thuẫn giữa hai Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đã nảy nở từ 1945,
dịu bớt vào những năm 1950, nhưng từ sau Hội nghị Moscow (1957), mối quan hệ
giữa hai đảng lại trở nên xấu đi. Nhận xét Có thể thấy giai đoạn 1954 – 1960 là khoảng
thời gian mà thế giới đang trong thời kỳ chiến tranh lạnh gay gắt, bên cạnh đó sự tham
14
vọng của Mỹ trong việc làm bá chủ thế giới ngày càng bộc lộ rõ điều đó đã được thể
hiện thông qua các mục tiêu mà Mỹ đã đề ra. Xu hướng hòa hoãn của thế giới và việc
mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã gây không ít khó khăn đối với cách mạng
Việt Nam. Bên cạnh đó phong trào giải phóng dân tộc vẫn diễn ra sôi nổi trên khắp thế
giới, những điều này đã làm cho cách mạng Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn
nhất định buộc ta phải cần phải có những thích nghi cũng như thay đổi chiến lược của
mình để phù hợp tình hình cũng như xu hướng thế giới và phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam.
2.1.2. Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Mỹ
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, tạo thế vững vàng
cho đoàn Việt Nam bước vào Hội nghị Giơ-ne-vơ với thế thắng, thế mạnh nhờ có
thắng lợi quân sự khắp chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên do tương quan lực lượng,
hội nghị đã bị các nước lớn chi phối, song chúng ta vẫn kiên trì đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ. Ngày 21/07/1954, Việt Nam đã ký kết hiệp định Genève với những
nội dung cơ bản sau
Những nội dung cơ bản của hiệp định Giơnevơ
Các nước tham dự cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của 3 nước Đông
Dương, không can thiệp vào công việc nội bộ của 3 nước. Điều mà chúng ta phải thực
hiện đầu tiên đó là đòi lại các quyền dân tộc cơ bản, giành lại quyền tự quyết cho dân
tộc, đây là thứ mà nhân dân ta đánh đổi cả xương máu để giành lấy
Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông
Dương.Điều này nhằm giảm thiểu nhiều sự hy sinh vô ích, giữ gìn lực lượng
Các bên tham chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, ở
Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời... Điều này nhằm phân bố
khu vực chuyển giao khu vực nắm quyền của nhân dân ta, tuy ta phải nhượng bộ
không giành được miền Nam thống nhất đất nước nhưng đây xem như một bước nghỉ
để ta ở miền Bắc phát triển lực lượng, phát triển kinh tế hỗ trợ nhân dân miền Nam
giành được độc lập thống nhất đất nước.
Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Các
nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Trước sự chứng kiến của
quốc tế điều này được đưa ra nhằm tránh phải những âm mưu chiếm đóng nước ta như
Pháp, tạo cho ta một khoảng thời gian ổn định để xây dựng được nhà nước, các lực
lượng quân sự và ổn định kinh tế.
Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tuyển cử tự do vào tháng 07/1956. Làm
cho thế giới thấy được nước ta cũng là một quốc gia chính thức, có nhà nước, chính
quyền, cũng như quân đội. Ngoài ra cũng là nguồn cổ động nhân dân ta, đây là kết quả
xứng đáng có được của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cho thấy con đường cách
mang chúng ta đang theo là đúng đắn.
15
Trách nhiệm thi hành Hiệp định thuộc về những người kí Hiệp định và những
người kế tục họ. Để có được sự xác nhận của cộng đồng quốc tế, sự ràng buộc về mặt
pháp lý những quốc gia tham gia kí kết hiệp định không được làm trái những điều trên.
Ngoại trừ Mĩ nêu ra quan điểm chỉ ủng hộ chứ không kí kết, ngay sau hiệp định với
âm mưu to lớn là làm bá chủ thế giới Mĩ đã hất cẳng Pháp và chiếm lấy miền Nam
Việt Nam, đẩy nhân dân ta vào một cuộc chiến mới
Đặc điểm của Việt Nam sau tháng 07/1954
Trong thời điểm này đặc điểm chưa có tiền lệ lịch sử là đất nước ta bị chia làm
hai miền, có chế độ chính trị, xã hội khác nhau.
Ở Miền Bắc: Miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng, cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành và bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội.Ở Miền Bắc ta đã bước đầu xây dựng được bộ máy chính quyền nhà nước
của riêng dân tộc Việt Nam ta, nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều khó khăn
trong quá trình xây dựng bộ máy nhà nước. Vì nước ta vừa trải qua một cuộc chiến dài
và khó khăn, hơn nữa nước ta là lần đầu tiên bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội nên không tránh khỏi chúng ta còn nghèo nàn, lạc hậu thiếu kinh nghiệm
trong quá trình xây dựng bộ máy chính quyền, phạm phải nhiều sai lầm trong quá trình
quản lý đất nước, điều này khiến quá trình phát triển về nhiều mặc ở Miền Bắc bị
chậm lại do ta phải tốn thời gian giải quyết những sai lầm. Ngoài ra Miền Bắc còn phải
thực hiện một nhiệm vụ nữa là hỗ trợ Miền Nam kháng chiến chống Mĩ, điều này cũng
làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế ở Miền Bắc.
Ở Miền Nam: Từ năm 1954, lợi dụng thất bại và khó khăn của Pháp, đế quốc Mĩ
đã nhảy vào thay chân Pháp thống trị Miền Nam. Âm mưu xâm lượt của Mĩ là biến nơi
đấy thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài Việt Nam; xây dựng miền Nam thành
một căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía
Đông Nam khi có điều kiện; biến miền Nam thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ
quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng
này. Ta có thể thấy được Mĩ đã có âm mưu từ trước khi không kí hiệp định Giơnevơ,
chúng thay thế Pháp chiếm đóng Miền Nam Việt Nam, đẩy nhân dân ta vào một cuộc
chiến mới và càng làm quá trình giải phóng dân tộc trở nên khó khăn hơn, nhân dân
Miền Nam tiếp tục phải chịu sự áp bức bốc lột của Mĩ. Ngoài ra Mĩ còn có âm mưu
biến Miền Nam thành một căn cứ quân sự, thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ
quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Điều này
cho thấy được có một phần ảnh hưởng của tình hình chiến tranh lạnh trên thế giới, khi
chúng ta và các nước Xã hội chủ nghĩa trở thành mục tiêu xâm lượt của Mĩ
Những biện pháp trong việc thực hiện chia cắt lâu dài nướcViệt Nam và
những hành động hiếu chiến của Mỹ
16
Đầu tiên Mĩ đã thiết lập bộ máy chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa do Ngô
Đình Diệm làm Tổng thống, xây dựng lực lượng quân đội gần nửa triệu người cùng
hàng vạn cảnh sát, công an, mật vụ được trang bị, vũ khí phương tiện chiến tranh hiện
đại của Mỹ. Ta có thể thấy được âm mưu thâm độc của Mĩ khi thành lập chính quyền
do Ngô Đình Diệm đứng đầu, Mĩ không trực tiếp quản lý mà thực hiện kế hoạch người
Việt cai trị người Việt. Âm mưu này nhằm mục đích chiếm đóng lâu dài Miền Nam
chúng ta, thu hút thêm nhiều thành phần bán nước theo Mĩ tập trung phát triển lực
lượng, đàn áp người dân Miền Nam không cho ta theo cách mạng, rồi tiếp tục thực
hiện âm mưu tiến công miền Bắc chiếm toàn bộ Việt Nam
Tiếp đến Mĩ vừa dụ dỗ lừa bịp vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ đoạn thâm
độc, dã man, ráo riết thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu
dinh điền” nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ,
thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp
nhân dân. Mĩ tiếp tục thực hiện nhiều âm mưu hiểm độc, trực tiếp dùng bạo lực, đàn
áp giết chóc để cai trị, chống lại chúng chỉ có cái chết. Thi hành thêm nhiều chính sách
phản lại cách mạng nhằm chia rẽ sự đoàn kết giữa nhân dân ta, tiêu diệt nhiều nhà cách
mạng yêu nước nhằm làm vững chắc thêm chính quyền mà Mĩ xây dựng Cuối cùng
Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã xé bỏ Hiệp định Geneve, cự tuyệt tổng tuyển
cử thống nhất đất nước. Ngày 13/05/1957, Ngô Đình Diệm thăm Mỹ và tuyên bố:
“Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”. Đây là một lập trường và hành động bán
nước trắng trợn của chính quyền Ngô Đình Diệm, điều này cho thấy ý định chiếm
đóng miền Nam một cách trắng trợn của Mĩ, không cho Việt Nam được thống nhất,
hoàn toàn không thừa nhận hiệp định Giơnevơ, chúng quyết tâm chiếm được Miền
Nam
Những yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn đặt ra đòi hỏi Việt Nam cần giải quyết
Tháng 07/1954, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã phân tích tình hình cách
mạng nước ta, xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam.
Tháng 09/1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình
trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển
sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ
phân tán chuyển đến tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 03/1955) và lần thứ tám (tháng 08/1955) Trung
ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố
miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Ở Miền Bắc: Nhiệm vụ quan trọng nhất bây giờ là phải xây dựng được chính
quyền xã hội chủ nghĩa, tập trung phát triển kinh tế nâng cao đời sống người dân, tuy
17
còn nhiều yếu kém lạc hậu nhưng cũng phải cố gắng giải quyết những vấn đề này.
Miền Bắc đang là chỗ dựa tinh thần, là nguồn hỗ trợ to lớn đối với miền Nam. Miền
Bắc xây dựng được nhà nước càng phát triển thì cuộc cách mạng của nhân dân miền
Nam càng ít thêm những khó khăn.
Ở Miền Nam: Ta phải xác định rõ được kẻ thù trước mắt là Mĩ, tin tưởng vào
đường lối cách mạng của Đảng, kiên định trước những âm mưu của Mĩ nhằm chia rẽ
nhân dân ta. Tháng 08/1956, tại Nam Bộ đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đường lối cách
mạng miền Nam, xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực
cách mạng, “Ngoài con đường cách mạng không có một con đường khác". Tháng
01/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều
lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trang ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền
Nam. Trung ương Đảng nhận định: "hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh
đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy
tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là
giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả
nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam
ở miền Nam là ''giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc phong kiến, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam". "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân". Đó là con đường "lấy sức mạnh của
quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực
lượng vũ trang đế đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính
quyền cách mạng của nhản dân". "Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn
có khả năng hòa bình, phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần
thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng: Khả năng đó hiện nay
rất ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó.
2.2. Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Mỹ và nội dung Nghị
quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959)
2.2.1. Quá trình Đảng giải quyết xung đột với Mỹ
Giai đoạn 1954 - 1956
Tại hiệp định Giơnevơ, Mỹ ra sức phá hoại nhưng bất thành. Sau hiệp định Mỹ
tiếp tục âm mưu can thiệp vào Đông Dương, thông qua việc đẩy mạnh thành lập “khối
phòng thủ Đông Nam Á” và “khối liên minh phòng thủ sông Cửu Long” (bao gồm
Thái Lan, Lào và Cao Miên) với mục đích phá hủy hòa bình ở Đông Dương.
Đứng trước những khó khăn thách thức đặt ra ở trong việc kiến thiết xã hội miền
Bắc và đấu tranh chống âm mưu phá hoại hòa bình đến từ Mỹ, nhiệm vụ chung của
Đảng ta là: “Đoàn kết và lãnh đạo đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, đề phòng
18
và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình và ra
sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây
dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh của đấu tranh
chính trị của nhân dân ở miền Nam, đặng củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.”
Thực hiện đình chiến, củng cố hòa bình: Trước tình hình mới đầy biến đổi, Đảng
đặt ra việc không tiếp tục sử dụng chính sách cũ. Thay khẩu hiệu “Kháng chiến đến
cùng” bằng khẩu hiệu mới là “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”. Chủ trương
nắm vững lá cờ hòa bình, tránh để đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp kéo dài và mở rộng
chiến tranh Đông Dương. Đảng cũng có sự thay đổi về chính sách: “Trước ta tịch thu
tài sản của đế quốc Pháp, nay đã đàm phán thì có thể theo nguyên tắc bình đẳng, hai
bên cùng có lợi, mà giữ lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp ở Đông Dương”. Đảng
chấp nhận đàm phán và chủ động đàm pháp với Pháp, tạo điều kiện để chấm dứt chiến
tranh thông qua việc “điều chỉnh khu vực”.
Công tác miền Nam: Sau khi đình chiến, ở miền Nam, phương châm chiến đấu
có sự thay đổi, “từ đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị”. Nhiệm vụ
được Đảng đặt ra trong giai đoạn này thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa
bình, thực hiện tự do dân chủ. Đồng thời, Đảng cùng với nhân dân dấu tranh chống
những hành động khủng bố, đàn áp, bắt bớ cán bộ và quần chúng nhân dân… Thay
chủ trương tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền để thống nhất bằng “chính sách khoan đãi,
dung cách toàn quốc tuyển cử để đi đến thực hiện thống nhất toàn quốc”. Thực hiện
thống nhất do đôi bên thỏa thuận tiến hành tổng tuyển cử, bầu ra chính phủ liên hợp
thống nhất. Bên cạnh đó còn cùng nước Pháp điều chỉnh mối quan hệ, bảo hộ lợi ích
dân tộc Việt Nam, chống lấy danh nghĩa dân tộc độc lập dân tộc cấu kết với đế quốc
Mỹ, bán rẻ lợi ích của nhân dân Việt Nam.
Giai đoạn 1957 - 1958
Từ sau hội nghị Giơnevơ đến nay, tình hình nước ta có nhiều thay đổi lớn. Đế
quốc Mỹ trực tiếp can thiệp ngày một sâu vào Đông Dương.
Đảng vẫn tiếp tục chọn giải pháp hòa bình và thực hiện nhiệm vụ: “đoàn kết và
lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục
mọi âm mưu phá hoại hiệp định đình chiến, để củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải
cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân
dân, để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân
dân miền Nam; nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân
chủ trong toàn quốc”. Để làm rõ các nhiệm vụ Đảng đã trình bày một số ý kiến về các
nhiệm vụ theo trật tự dưới đây:
19
Tiếp tục đấu tranh để thi hành hiệp định đình chiến: Hội nghị đề nghị rút thực
hiện rút quân ra miền Bắc, thực hiện đúng như trong điều Hiệp định để chuẩn bị tổng
tuyển cử. Chống đưa miền Nam Việt Nam tham gia bất cứ một khối liên minh quân sự
nào và sử dụng miền Nam Việt Nam để gây lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một
chính sách xâm lược. Chống trả thù, phân biệt đối xử hoặc bóp nghẹt quyền tự do Dân
Chủ và tính mạng tài sản của nhân dân. Bên cạnh đó còn tuyên truyền giáo dục cho
toàn Đảng, toàn dân nhận rõ kẻ thù trước mắt của nhân dân hiện nay là đế quốc Mỹ và
tay sai của đế quốc Mỹ. Chính quyền và đồng bào hai miền phải cố gắng trong việc lập
lại và phát triển quan hệ, cố gắng của chính quyền và cố gắng của quần chúng kết hợp
với nhau, bổ sung cho nhau. Đồng bào miền Nam càng ra sức đấu tranh đòi đặt lại
quan hệ với miền Bắc, kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của nhân dân miền Bắc.
Giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của đồng bào miền nam: Tình
hình trong nước còn nhiều khó khăn trong công tác quản lý tại miền Bắc và tiến hành
rút quân Việt Nam ra khỏi miền Nam, tạo điều kiện để Pháp rút quân. Bên cạnh đó
hình thế giới giai đoạn này, sau chiến tranh ở Triều Tiên và Đông Dương, đang có xu
hướng hòa bình hóa. Thế giới không muốn phải chia lại bản đồ sau chiến tranh thế giới
thứ hai, bên cạnh đó về phía đồng minh của ta là Liên Xô thì chuyên tâm phát triển
Đông Âu, còn Trung Quốc thì chưa ổn định và đang xảy ra những mâu thuẫn với Đảng
Cộng Sản Liên Xô. Chính vì vậy mà dù Mỹ đã dùng Ngô Đình Diệm lập nên Việt
Nam Cộng Hòa với mục đích chia cắt nước ta, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, thẳng tay
đàn áp các cuộc biểu tình đòi dân chủ,… Nhưng Đảng vẫn chỉ đạo đồng “giữ vững và
đẩy mạnh đấu tranh chính trị” và “Thực hiện mở rộng mặt trận thống nhất dân tộc ở
miền Nam, duy trì và phát triển phong trào bảo vệ hòa bình trong Nam”. Tuy nhiên
như vậy, Đảng chỉ đạo đào tạo cán bộ, và chuyển ông tác một số cán bộ vào Nam để
củng cố công tác quản lí và có thể thực hiện phản công.
Giai đoạn 1959 - 1960
Đầu năm 1959, Mỹ - Diệm đã tăng cường sử dụng bạo lực phát xít, thẳng tay đàn
áp, bắt giam và sát hại quần chúng cách mạng. Hành động khủng bố thâm độc và tàn
bạo của Mỹ - Diệm chẳng những không khuất phục được nhân dân ta, không dập tắt
được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng cách mạng miền Nam, mà còn phơi bày bản
chất xâm lược và bán nước của chúng.
Tháng 01/1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành trung ương Đảng đã quyết
định để nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền Mĩ Diệm. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
20
mạnh”. Về phương pháp cách mạng, Nghị quyết chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản
của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân
dân”. Hội nghị lần thứ 15 của Đảng cũng nhận định khả năng phát triển của tình hình:
“Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc
khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ
trang trường kỳ… và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.
Những quan điểm của Nghị quyết 15 tạo ra bước ngoặt chiến lược về đường lối,
phương pháp cách mạng miền Nam. Được ánh sáng Nghị quyết 15 soi đường, phong
trào ấu tranh của nhân dân miền Nam vốn đã âm ỉ, dồn nén, nay bùng nổ dữ dội và
ngày càng lan rộng, dâng cao bằng nhiều hình thức, diễn ra mạnh mẽ theo phương
châm “hai chân, ba mũi”, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, giữa chính trị, quân sự và binh vận, đập tan từng mảng lớn bộ máy
chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn, giải phóng
khoảng 5,6 triệu dân khỏi ách áp bức, kìm kẹp của địch.
Nhận xét chung
Về phía Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa dùng nhiều thủ đoạn tàn ác, lừa bịp xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để phá
hoại Hiệp định Giơnevơ và sử dụng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp hòa bình thống
nhất đất nước điều đó cho thấy rõ bộ mặt cướp nước và bán nước của chúng.
Về phía Việt Nam, trước những hoàn cảnh khó khăn chồng chất đó, Đảng luôn
kiên quyết thực hiện Hiệp định đình chiến, bất chấp mọi thủ đoạn gây hấn đến từ Mỹ,
chấp nhận thương lượng. Không chỉ dừng lại ở đó, Đảng còn thực hiện nhiều chính
sách khoan đãi. Từ đó có thể thấy nỗ lực giữ vững lá cờ hòa bình của Đảng trước âm
mưu chống phá của Mỹ. Đảng luôn tôn trọng Hiệp định đình chiến, sẵn sàng bảo vệ
mục tiêu hòa bình, không hiếu chiến kích động.
Về quyết định sử dụng bạo lực cách mạng của Đảng, trong những năm 1954 1959, cuộc đấu tranh vũ trang tự vệ diệt ác, trừ gian được đẩy mạnh, nhiều đơn vị vũ
trang đã lần lượt ra đời. Càng trải qua đấu tranh, cán bộ và đồng bào miền Nam càng
được tôi luyện, phong trào được giữ vững, nên đã khiến Mỹ - Diệm dần lâm vào cuộc
khủng hoản sâu sắc. Đảng đã nhận thấy thời cơ chín muồi và đã ra quyết định đúng
đắn, hợp lý để chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công.
2.2.2. Nội dung và giá trị của Nghị quyết Trung ương 15 (khóa II) (1959)
Nội dung Nghị quyết Trung ương 15
21
Về mâu thuẫn xã hội, trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình cách mạng ở miền
Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm
lược và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm và mâu thuẫn giữa nhân dân, trước hết là
nông dân với địa chủ phong kiến.
Về lực lượng tham gia cách mạng, Nghị quyết xác định gồm giai cấp công nhân,
nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản lấy liên minh công - nông làm cơ sở.
Về đối tượng của cách mạng bao gồm đế quốc Mỹ, tư sản mại bản, địa chủ
phong kiến và tay sai của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là giải phóng miền Nam thoát khỏi
ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Nhưng trên con đường dài thực hiện nhiệm vụ cơ bản ấy, cách mạng miền Nam
phải đi từng bước từ thấp đến cao.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là “đoàn kết toàn dân đánh đổ tập
đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc, dân
chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở
Đông Nam Á và thế giới”.
Đồng thời, Nghị quyết cũng nhấn mạnh con đường phát triển cơ bản của cách
mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, giành chính quyền về
tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường
đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ
yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và
phong kiến, dựng lên cơ quan cách mạng của nhân dân.
Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc khởi nghĩa của quần chúng,
Hội nghị dự đoán: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên những điều kiện
nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc
đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục
diện mới là: chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về
ta.
Giá trị của Nghị quyết Trung ương 15 đối với cách mạng miền Nam
Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của
lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa
châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V
nhất tề đứng lên. Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của
22
phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát
triển nhanh chóng. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào chế
độ Mỹ - Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến
lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu
bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân
đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” chính là “biểu hiện cụ thể, sinh động của
sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và
nhân dân miền Nam, đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách
mạng miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến
lược quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến” góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Sau khi kí hiệp định Giơnevơ (7/1954), nước ta tạm thời chia làm hai miền Nam
– Bắc thông qua vĩ tuyến 17. Quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút
khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay
miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại, nghiêm cấm quân đội nước ngoài
xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Mỹ đã thay Pháp thực hiện chiến lược “lấp chỗ trống” ở
miền Nam, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống, lập ra chính quyền tay sai, quyết
tâm thúc đẩy quá trình Mỹ thay thế Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Đế quốc Mỹ
can thiệp ngày càng sâu vào Đông Dương, vừa giúp Pháp, vừa tìm cơ hội để hất cẳng
Pháp. Chỉ riêng về ngân sách chiến tranh, viện trợ của Mỹ tăng dần từ 20% (năm
1950) lên 50% (năm 1952) và 80% (năm 1954). Mỹ ra sức xây dựng các đô thị miền
Nam, tạo ra bộ mặt kinh tế phồn vinh. Nhưng thực chất, chúng muốn tranh giành đất,
giành dân ở miền Nam. Từ đó, tạo bước đệm cho các cuộc chiến tranh xâm lược miền
Bắc, sang các nước láng giềng Lào và Campuchia.
Trước hoàn cảnh khó khăn chồng chất đó, Đảng kiên quyết thực hiện Hiệp định
đình chiến, bất chấp mọi thủ đoạn gây hấn đến từ Mỹ, chấp nhận thương lượng và chủ
động thương lượng với Pháp, thừa nhận quyền lợi kinh tế của Pháp tại Việt Nam.
Nhân dân miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, đòi thi
hành các hiệp định sau đó phát triển lên đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, chống
các chính sách khủng bố.
Đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 – 1960) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội
nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1960, đó là đường lối chiến tranh toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, và được tập trung trên những nội
dung chủ yếu: xác định mục đích, đối tượng, nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc.
24
Chương 3
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc
3.1.1. Tình hình biển Đông
Vùng biển và hải đảo Việt Nam là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, là
chủ quyền quốc gia, là cửa ngõ giao lưu quốc tế, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là vị trí chiến lược về quốc
phòng, an ninh, tuyến phòng thủ phía Đông của đất nước và là không gian quan trọng
để kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ đất liền. Hiện nay, diện tích biển Việt Nam vượt
quá 1 triệu km vuông, chiếm khoảng 29% diện tích Biển Đông (3,5 triệu km vuông) và
gấp ba lần diện tích đất liền (332.000 km vuông), vùng biển Việt Nam có đường biên
giới với 07 quốc gia: Trung Quốc, Philipines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Campuchia
và Thái Lan. Hiện nay, Việt Nam đã đàm phán phân định ranh giới biển với các quốc
gia xung quanh Biển Đông. Nước ta hiện có 28 tỉnh, thành phố giáp biển, chiều dài bờ
biển khoảng trên 3.260 km, từ Móng Cái đến Hà Tiên, gần 3.000 đảo lớn, nhỏ, trong
đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều cảng biển quan trọng, nhiều danh
lam thắng cảnh và khu du lịch nổi tiếng. Hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước đều gắn liền với biển, như: du lịch, dầu khí, thủy sản, giao thông vận tải, công
nghiệp tàu thủy… Bởi vậy, an ninh biển, đảo có tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt
Nam, tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
bảo vệ môi trường hòa bình của đất nước .
Trong thời gian qua, trên Biển Đông có những vấn đề lớn liên quan đến chủ
quyền lãnh thổ cần được khẩn trương giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa cho 5
nước và 6 bên, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Brunei và Đài
Loan; phân định ranh giới các vùng biển theo công ước của Liên hợp quốc về vùng
biển năm 1982 và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Trong đó, Trung Quốc với chính sách hướng biển cực kỳ quyết liệt đã, đang và sẽ
đe doạ nghiêm trọng chủ quyền các nước trên Biển Đông. Chủ thể Trung Quốc là
nguồn cơn nảy sinh các vấn đề tranh chấp xung quanh Biển Đông khi đòi hỏi những
quyền lợi phi lý như đường lưỡi bò 9 đoạn. Đường lưỡi bò bắt nguồn từ vịnh Bắc Bộ
của Việt Nam, kéo dài về phía nam, đi qua vùng biển của Malaysia và Philippines và
kết thúc ở phía đông nam của Đài Loan. Do đó, nếu mô tả ranh giới là đường lưỡi bò
25
thì hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa hoàn toàn là lãnh thổ của Trung Quốc, điều
này mâu thuẫn với tất cả các sử liệu ghi lại từ trước đến nay. Việc Trung Quốc tung ra
hình ảnh bản đồ có “đường lưỡi bò” đã vấp phải nhiều phản đối và chỉ trích của dư
luận quốc tế. Bởi theo bản đồ, các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei
và Indonesia chỉ chiếm 25% diện tích Biển Đông, còn Trung Quốc chiếm 75% còn lại.
Ngoài ra Trung Quốc còn xâm nhập trái phép lãnh thổ nhiều nước, gia tăng sức
mạnh quân sự và dùng chiến thuật gây chia rẽ các nước ASEAN nhằm đơn phương
kiểm soát Biển Đông.
Bên cạnh đó, Trung Quốc còn có những hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến chủ
quyền biển đảo của Việt Nam như:
Ngày 01/05/2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương – 981
vào sâu bên trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Động thái trên của Trung
Quốc vấp phải làn sóng phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam và bạn bè quốc tế. Không
những vậy, Trung Quốc tiếp tục có các động thái, hành vi hung hăng, thách thức khi
dùng màn che pháo nhằm đe doạ, phun nước vào tàu của Việt Nam, thậm chí đâm, làm
hư hại cho tàu Việt Nam và đánh trọng thương nhiều ngư dân. Đỉnh điểm vào ngày
26/05/2014 tàu Trung Quốc đã bao vây và đâm chìm một tàu cá của ngư dân Đà Nẵng
cách giàn khoan 17 hải lý ở khu vực phía Nam Tây Nam, đây là ngư trường truyền
thống nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Việt nam đã liên
tục tuyên truyền và giải thích rõ ràng quan điểm của mình cũng như thông báo diễn
biến trên thực địa với cộng đồng thế giới, giúp dư luận hai bên thấy được những hành
động của Trung Quốc trong khu vực quyền kinh tế của Việt Nam. Cộng đồng thế giới
ã có nhiều phản đối mạnh mẽ về lối ứng xử của Trung Quốc trên Biển Đông. Một loạt
những nước bao gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Philippines, Indonesia hay Ấn Độ đã lên án
các hành vi thách thức pháp luật quốc tế, gây rối mất trật tự và làm leo thang xung đột
trong vùng của Bắc Kinh. Tháng 7/2019, Trung Quốc đã cho tàu Hải Dương Địa Chất
8 cùng nhiều tàu hải cảnh và tàu dân quân biển xâm phạm vùng biển Việt Nam hơn
100 ngày. Ngày 02/04/2020, Trung Quốc tiếp tục thực hiện hành vi tuyên bố chủ
quyền trái pháp luật khi dùng vòi rồng xua đuổi và đâm chìm một tàu cá của Việt Nam
ở biển Đông. Hơn thế nữa, Trung Quốc còn bắt giữ ngư dân Việt Nam trái phép 15
tiếng đồng hồ.
Ngày 18/04/2020, Trung Quốc ngang nhiên thành lập huyện Tây Sa và huyện
Nam Sa trực thuộc thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam. Trụ sở của cái gọi là huyện đảo
Tây Sa sẽ đặt tại tỉnh Phú Lâm trực thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trụ sở
của cái gọi là huyện đảo Nam Sa sẽ đặt tại đá chữ thập thuộc quần đảo Trường Sa của
Việt Nam. Dù tuyên bố không quân sự hóa ở Biển Đông nhưng những gì Trung Quốc
đã và đang thực hiện lại cho thấy điều hoàn toàn ngược lại.
26
Những hành động nêu trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm trực tiếp chủ uyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm nghiêm rọng
chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam tại nhiều khu vực của Việt Nam; không Thoả
thuận những nguyên tắc căn bản về quản lý tranh chấp trên biển mà Việt Nam và
Trung Quốc kí tháng 10/2011; trái với nội dung Tuyên bố cách ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao tổng kết 10 năm DOC, khiến cho tình hình
Biển Đông trở nên căng thẳng.
3.1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước
Kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của
biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo. Quản lý, khai thác đi đôi với bảo vệ vững
chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, làm cho đất nước
giàu mạnh là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Thứ nhất, đấu tranh giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp hòa
bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.1
Là thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như cam kết của một số
bên trong Tuyên bố hành xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam nhất quán tuân thủ
những chuẩn mực của luật pháp thế giới; kiên trì con đường giải quyết mọi loại tranh
chấp theo phương thức hoà bình, trên nguyên tắc đối thoại và hiểu biết lẫn nhau; thông
qua đàm phán, tham vấn, để tìm giải pháp căn bản, lâu dài, đáp ứng nguyện vọng
chung của tất các bên liên quan về độc lập, tự do, chủ quyền thiêng liêng của đất nước,
vì an ninh, ổn định khu vực và toàn cầu. Theo nguyên tắc trên, những vấn đề nào đang
bất đồng, tranh chấp riêng rẽ thì giải quyết song phương; những vấn đề phức tạp ảnh
hưởng của từng nước cần xử lý chung và phải hết sức rõ ràng, sòng phẳng với các
quốc gia có liên quan. Trong lúc cố gắng tháo gỡ những vụ việc phức tạp ở Biển Đông
thông qua biện pháp ngoại giao thì cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh vì bảo vệ quyền
lợi chính đáng của chúng ta trên biển với quyết tâm “Việt Nam sẽ không cho phép một
tấc đất, thước nước nào khác xâm hại”; tích cực tìm một giải pháp lâu dài và kêu gọi
các bên hữu quan kiềm chế, không có hành động gây căng thẳng hơn tình hình, không
dùng đến hay đe doạ sử dụng bạo lực, tôn trọng chủ trương giải quyết theo phương
thức hoà bình dựa trên tinh thần các quy định của luật pháp Liên hợp quốc, UNCLOS
và 05 nguyên tắc chung sống hoà bình, tăng cường đối thoại tạo niềm tin, phối hợp
Báo chính phủ, Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình (27/7/2019), truy cập từ
https://baochinhphu.vn/viet-nam-chu-truong-giai-quyet-tranh-chap-tren-bien-bang-bien-phap-hoa-binh-102259311.html,
ngày truy cập 04/03/2023.
1
27
song phương trong lĩnh vực hàng hải, nghiên cứu chiến lược, phòng chống khủng bố;
cùng Trung Quốc tuân thủ nghiêm chỉnh DOC, hướng tới ký kết Bộ nguyên tắc cơ bản
COC đưa Biển Đông thực sự là vùng biển hoà bình, an toàn, ổn định để phát triển và
thịnh vượng. Tại những khu vực không còn là tranh chấp mà vẫn thuộc lãnh thổ và sự
quản lý của nước ven bờ thì Việt Nam có trách nhiệm sử dụng mọi công cụ cần thiết,
đúng với qui định của UNCLOS nhằm đảm bảo quyền và lợi ích quốc gia.
Thứ hai, xây dựng lực lượng quốc phòng an ninh quản lý, bảo vệ biển, đảo vững
mạnh về mọi mặt.2
Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động
kinh tế biển, nhất là lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển
và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là yêu
cầu bức thiết hiện nay. Trong đó, hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên
trách hoạt động trên biển, giữ vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các
vùng biển, đảo của tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại hóa
và có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực lượng thường xuyên tuần tra trên
biển và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách
quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ
chức, biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài. Bộ đội biên phòng cần được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật,
phương tiện cơ động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu
nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ biển được
xây dựng theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân
hoạt động và dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy doanh
nghiệp nhà nước, hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của
từng địa phương, bảo đảm thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lượng hoạt
động trên biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức
năng, nhiệm vụ, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu thuyền nước
ngoài; hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trò quan trọng trong đấu tranh
bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Tổ quốc.
Thứ ba, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, biển, đảo và vùng trời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển quốc
gia.3
Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 (22/10/2018), tầm nhìn đến năm 2045 Ban Chấp
hành Trung ương – Nghị quyết số 36-NQ/TW H. 2018, tr. 02.
2
Báo chính phủ, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, truy cập từ https://baochinhphu.vn/kien-quyet-kien-tri-dau-tranh-bao-ve-vung-chac-doc-lap-chu-quyen-thong-nhat-vatoan-ven-lanh-tho-cua-to-quoc-102295149.html, ngày truy cập 04/03/2023.
3
28
Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn
dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, bảo
vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Kiên quyết thể hiện quyết tâm dứt khoát, sự
đồng thuận cao hơn trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về yêu cầu bảo vệ chủ
quyền, lợi ích của đất nước; kiên quyết giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, bảo
vệ đến cùng lợi ích quốc gia - dân tộc, với quyết tâm cao nhất. Chúng ta xác định, giải
quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện pháp
hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tôn trọng
lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thứ tư, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.4
Với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước,
chúng ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa.
Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động
hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay
các nước lớn. Bên cạnh đó, chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp
phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.
3.2. Kết quả quá trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
3.2.1. Thành tựu, nguyên nhân của thành tựu
Mặc dù trong tình hình phức tạp như hiện nay, nước ta vẫn đạt được nhiều thành
tựu trong quá trình bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Một là, Việt Nam đã nỗ lực áp dụng hiệu quả các biện pháp đấu tranh giành chủ
quyền biển đảo bằng biện pháp hòa bình.
Đảng và Chính phủ rất cố gắng thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả Công ước
Luật Biển 1982 khi giải quyết những bất đồng liên quan đến biển với một số nước
khác, qua đó cũng nêu cao tinh thần bình đẳng để đưa ra giải pháp hợp lý, như là: Việt
Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về phân định biển ngày 9/8/1997; ký với Trung
Quốc Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Bắc Bộ
ngày 25/12/2000; ký với Indonesia Hiệp định về phân định thềm lục địa ngày
26/6/2003.
Thế Anh, Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, 14/12/2021, truy cập
từ https://tuyengiao.vn/thoi-su/nhat-quan-duong-loi-doi-ngoai-doc-lap-tu-chu-vi-hoa-binh-huu-nghi-hop-tac-va-phat-trien137082, ngày truy cập 04/03/2023.
4
29
Hai là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ chủ
quyền biển đảo.
Ðảng ta rất coi trọng công tác tăng cường, xây dựng và mở rộng tình đoàn kết
dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp,
tín ngưỡng hay tôn giáo đã tập hợp lại nên một sức mạnh đoàn kết dân tộc và là nguồn
lực to lớn trong quá trình xây dựng nước nhà, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh
biên giới quốc gia. Bằng chứng là những cuộc biểu tình đòi chủ quyền biển Đông sau
khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 vào sâu bên trong
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Hay trên nhiều diễn đàn mạng xã hội, rực sắc đỏ
sao vàng của Việt Nam được các thành viên facebook tung đi; những bài thơ, ảnh,
video clip… về tình yêu đất nước, vùng biển, hải đảo quê hương bùng nổ như là nguồn
động lực mạnh, kết nối giữa tình yêu Tổ quốc, trách nhiệm với chủ quyền lãnh thổ của
dân tộc.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển với
xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên biển.
Đảng và nhà nước đã thực hiện chính sách dân sự hóa biển đảo. Đây cũng là điều
kiện để nước ta khai thác có hiệu quả các tiềm năng trên đất liền, đồng thời là cơ sở để
nước ta hình thành, phát huy và phát huy các nguồn lực trong nước trong chiến lược
quốc phòng an ninh vùng biển. Đảng ta đã khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020: “Thực hiện quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư,
tổ chức sản xuất và khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ
nhân dân ra định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các khu
quốc phòng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của Tổ quốc”.
Chính sách này đã và đang được thực hiện nhằm đáp ứng tăng trưởng kinh tế - xã hội
đi đôi với củng cố quốc phòng và an ninh, giữ vững chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Các quần đảo có tầm quan trọng chiến lược về kinh tế và chính trị như quần đảo
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa… quá trình dân sự hoá đã được triển khai có kết quả,
gây nhiều hiệu ứng tích cực cho đông đảo người dân trong và ngoài nước. Cơ sở hạ
tầng trên các đảo ở Trường Sa được đầu tư ngày một khang trang. Đời sống của người
dân dần bước đi vào ổn định. Bên cạnh đó, lực lượng biên phòng cũng trong tâm thế
tích cực quản lý hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy hải sản của người dân trên địa
bàn và tham gia làm công tác tìm kiếm, cứu nạn trên biển để kịp thời kiểm tra, phát
hiện, đấu tranh, ngăn ngừa những hành vi kinh doanh thuỷ sản bất hợp pháp của nước
ngoài trên vùng biển của Việt Nam.
Nguyên nhân
30
Đảng và Nhà nước nhận thức rõ tầm quan trọng của hòa bình. Là một quốc gia,
dân tộc đã trải qua bao cuộc chiến tranh để bảo vệ nền độc lập và trọn vẹn lãnh thổ.
Việt Nam luôn cam kết đặt nền tảng cho hòa bình bằng việc thúc đẩy quan hệ hữu
nghị, hòa hợp và hiểu biết lẫn nhau giữa các nước. Việt Nam cũng nhất quán chủ
trương giải quyết hòa bình các xung đột, tranh chấp, tuân thủ và thực thi luật pháp
quốc tế.
Học tập và làm theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết
tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi
chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước”.5
Đảng đã nỗ lực trong công cuộc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp Nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và
hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định
đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Có sự lãnh
đạo của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết
tâm “mang sức ta giải phóng cho ta”, nỗ lực mang lại độc lập tự do cho toàn dân tộc.
Xây dựng tiềm lực quốc phòng an ninh toàn dân là một nội dung trọng tâm để
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, công tác then chốt, thường xuyên của cả hệ thống
chính trị, toàn Đảng và toàn quân. Nhận thức sâu sắc điều trên nên mấy năm nay,
nhiệm vụ trọng tâm này đã được Đảng, Chính phủ và nhiều cơ quan, ban, ngành trung
ương, địa phương, lực lượng vũ trang thường xuyên chỉ đạo, phối hợp triển khai, tiến
hành nghiêm túc, thu được hiệu quả thiết thực. Cùng với đẩy mạnh phát triển tiềm lực
thì thế trận quốc phòng toàn dân được tăng cường, xây dựng ngày một vững vàng, đặc
biệt trên những khu vực trọng điểm như biên giới, vùng biển, hải đảo và gắn chặt với
bảo vệ an ninh Tổ quốc, biên phòng toàn dân. Thực hiện gắn kết giữa kinh tế - xã hội
với quốc phòng, quân sự, ngoại giao đảm bảo đồng bộ, vững chắc qua đó thể và lực
mới cho nền quốc phòng toàn dân ở các địa bàn, đơn vị cơ sở trên phạm vi cả nước đã
xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ bao đời nay.
3.2.2. Một số hạn chế, nguyên nhân của hạn chế
Một là, việc nhận thức về thực trạng chủ quyền vùng biển và hải đảo Việt Nam
vẫn chưa đầy đủ, ý chí quyết giữ gìn trọn vẹn lãnh thổ của nhiều bạn trẻ chưa cao.
5
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia, tập 12, tr.672
31
Thực tế trong thời gian qua, các đợt tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo chưa
nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của thanh niên, thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh
viên còn thờ ơ với chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Trong cuộc cách mạng công
nghệ lần thứ tư cộng với sự bùng nổ của Internet đã tác động lên các thành phần trong
đời sống xã hội nhất là độ tuổi thanh thiếu niên. Đây cũng là thời điểm mà nhiều thế
lực thù địch lợi dụng hệ thống thông tin đại chúng và mạng xã hội “gieo rắc” tư tưởng
độc hại trong lớp trẻ, nhằm làm suy đồi đạo đức, lối sống, nhân cách của thanh thiếu
niên để dễ rủ rê, lôi kéo họ vào các hành động chống phá nhà nước. Để thu hút thanh
niên và tri thức trẻ, các thế lực thù địch tăng cường tiếp cận những du học sinh, nghiên
cứu sinh đang học tập, làm việc ở nước ngoài, sử dụng nhiều chiêu trò: Cấp visa, trao
học bổng; liên kết đào tạo... mục đích gợi tưởng tượng về sự hào nhoáng của xã hội tư
bản qua đó đã kích động và nuôi nấng nhiều tri thức “chệch hướng”, với mưu đồ sẽ là
thế lực gây biến đổi thể chế chính trị ở Việt Nam trong nay mai. Thực tiễn mấy năm
qua cũng đã có không ít thanh niên, học sinh, sinh viên “mắc” cái “bẫy” của nhiều đối
tượng xấu khi tham gia tụ tập gây rối an ninh trật tự tại một số địa phương và chia sẻ,
lan truyền các thông tin, bài viết bịa đặt, xuyên tạc trên mạng xã hội. Không những
thế, một số thanh niên trẻ tuổi, bị kẻ xấu dụ dỗ, lôi kéo và “đào tạo” đi theo các hội
nhóm nhằm chống đối chính quyền, như: Trần Minh Nhật (SN 1988, ngụ tại xã Đạ
Đờn huyện Lâm Hà) hay mới đây, đối tượng Phan Tấn Gia Thịnh (sinh 1986, tạm trú
tại Phường 7 - Đà Lạt) cũng là những người có bằng đại học nhưng bị ngộ nhận đã
thành lập nhiều tài khoản facebook để phát tán hàng loạt bài viết xuyên tạc, chống phá
Đảng, Nhà nước trên mạng xã hội. Những đối tượng trên đã lôi kéo hàng chục học
sinh, sinh viên để thành lập nhiều nhóm và “đội chống phá mới”.
Hai là, công tác bảo vệ an ninh, an toàn trong vùng biển, đảo nước ta còn
nhiều bất cập, dẫn đến việc chưa đảm bảo được môi trường bình ổn cho nhân dân ở
các vùng ven biển, đảo.
Thực tế cho biết cũng có nhiều trường hợp tàu, thuyền của một số nước láng
giềng xâm phạm phi pháp vào lãnh hải nước ta, làm cản trở nghiêm trọng việc đánh ắt
của ngư dân Việt và uy hiếp đến quốc phòng, an ninh. Trong 10 năm vừa qua, lực
lượng Vùng Cảnh sát biển 2 đã tổ chức 318 đợt với 414 lượt/chuyến tàu thực hiện tuần
tra trên tuyến và xua đuổi 1348 lượt/chiếc tàu nước ngoài xâm phạm vùng biển Việt
Nam. Cụ thể, đã tiến hành ngăn chặn 315 tàu thuyền nước ngoài hoạt động bất hợp
pháp trên vùng biển Việt Nam và bắt giữ, lập biên bản xử lý 7 tàu cá Trung Quốc, gồm
2 tàu Hải giám có số hiệu SH 74, 84; 1 tàu thăm dò số hiệu F8138; 1 tàu Ngư chính số
32
hiệu SH 311; 1 tàu hộ vệ tên lửa số hiệu SH 568, 1 tàu tuần tra nước ngoài vi phạm
vùng biển Việt Nam.6
Xác minh 11 lượt/chiếc tàu cá của tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định bị nước ngoài
bắt. Điều này đã ít nhiều làm ảnh hưởng đế ý chí chiến đấu vì an ninh Tổ quốc của một
bộ phận người dân sống nhờ vào nghề cá và tác động đến việc khai thác tài nguyên
vùng biển, hải đảo của đất nước chúng ta.
Nguyên nhân
Do đang còn tồn tại những hạn chế trong công tác giáo dục, rèn luyện để phát
huy tiềm năng, trí lực của thanh niên đối với nhiệm vụ giữ gìn chủ quyền biển đảo
Việt Nam. Thanh niên Việt Nam đã và đang chứng tỏ mình là trụ cột của dân tộc, là
lực lượng tiên phong trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, vì
không có thông tin và ít kỹ năng sống nên thanh niên cũng là đối tượng dễ bị một thế
lực xấu, thù địch tiếp xúc, tuyên truyền, vận động, thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” để chống phá sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Biển Đông là khu vực có vị trí thuận lợi về kinh tế, chính trị và quân sự, là nơi
vẫn còn diễn ra sự tranh chấp phức tạp giữa các bên. Tình hình quốc tế, khu vực diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và
tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt,
iềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Ở trong nước, sự phối hợp, thống nhất nhận
thức và hành động về chủ quyền biển, đảo của một bộ phận nhân dân chưa cao, dễ dẫn
đến phản ứng sai lầm đối với các chủ trương của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó,
Việt Nam hiện tại vẫn là nước đang phát triển, nguồn ngân sách không đủ lớn để có
thể đầu tư xây dựng được ngay các lực lượng quản lý, bảo vệ biển đủ mạnh, trang thiết
bị, phương tiện còn hạn chế, dẫn đến khó duy trì sự hiện diện thường xuyên, liên tục
trên toàn bộ vùng biển rộng lớn.
3.3. Đề xuất một số giải pháp của nhóm
Một là, thế hệ học sinh – sinh viên cần nắm vững kiến thức, nâng cao nhận thức
cho thanh niên về vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
bằng những hình thức khác nhau như tổ chức các cuộc hội thảo thanh niên, tham gia
tình nguyện vào các chương trình tuyên truyền trong cộng đồng… Nhà trường cần
tuyên truyền, giáo dục cho học sinh, sinh viên hiểu về những ý nghĩa thiêng liêng của
chủ quyền biển, đảo và giá trị to lớn của chủ quyền được hun đúc bằng xương máu của
Đông Phú, (05/03/2014), cảnh sát biển đuổi nhiều tàu lạ xâm nhập lãnh hải Việt Nam, truy cập từ
https://stnmt.quangbinh.gov.vn/3cms/canh-sat-bien-duoi-nhieu-tau-la-xam-pham-lanh-hai-viet-nam.html, ngày truy cập
04/03/2023
6
33
các bậc tiền nhân. Đồng thời, cần hưởng ứng và tích cực tham gia các diễn đàn pháp
luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, khẳng định chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam, lên án và đấu tranh mạnh mẽ các hành vi vi phạm chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam. Cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền trong toàn dân. Nhà nước cần có
đưa ra các thông tin cụ thể, minh bạch về các chủ trương, chính sách trên mọi phương
tiện truyền thông đại chúng, không chỉ dừng lại ở các kênh thông tin truyền thống như
thời sự hay báo, tạp chí. Các cơ quan, đoàn thể, tổ chức tích cực cung cấp các thông tin
đúng, đủ, minh bạch về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong vấn
đề biển đảo.
Hai là, tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động
kinh tế biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự vệ
biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh.
Đây là lực lượng nòng cốt giúp ta có “lực” để bảo vệ được lợi ích chính đáng,
duy trì được chủ quyền và quyền chủ quyền đối với vùng lãnh hải Việt Nam. Bên cạnh
đó, cần kết hợp chặt chẽ với công tác đối ngoại quốc phòng, tuân thủ tốt chủ trương
kiên trì giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp hòa
bình và tôn trọng luật pháp quốc tế. Ngoài ra, cần tích cực các biện pháp tuyên truyền,
củng cố tinh thần yêu nước của toàn dân, nhất là bộ phận người dân sống ven biển,
trên các đảo, có nguồn thu nhập kinh tế gắn liền với biển. Mỗi người dân đều có vai
trò quan trọng trong việc giám sát tàu thuyền trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền
biển đảo quốc gia.
34
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong suốt chiều dài lịch sử, tình hình biển đảo đã có nhiều căng thẳng và hiện
nay vẫn còn có những vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyển lãnh thổ bên cạnh
các yếu tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh biển đảo…Những vấn đề
này vẫn chưa được giải quyết triệt để và cần có thời gian để xử lý. Và để giải quyết tốt
vấn đề biển đảo đang là vấn đề giải quyết mâu thuẫn với các nước lớn và các nước
láng giềng trong điều kiện, xu hướng chung vẫn là hòa bình và phát triển. Cần phải
đưa ra những biện pháp phù hợp vừa đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc vửa đảm bảo
môi trưởng để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Đảng và nhà nước đã có những chính sách như giải quyết bằng biện pháp hòa
ình các tranh chấp biển đảo; xây dựng lực lượng bảo vệ, quản lý biển đảo toàn diện,
hùng mạnh; bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước cũng như kiên định đường lối đối
ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, bảo đảm lợi ích cao nhất của
quốc gia trên nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Những chủ trương của Đảng và nhà nước đã tạo nên sức mạnh khối đại đoàn
kết dân tộc, phát triển lực lượng quốc phòng an ninh trên biển để bảo vệ lãnh thổ
thiêng liêng của tổ quốc. Bên cạnh đó còn giúp giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp
trên cơ sở hòa bình và hữu nghị. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập trong công tác
quản lí và bảo vệ biển đảo dẫn đến sự thiếu sót trong suy nghĩ, tư tưởng của một vài
thanh thiếu niên về vấn đề biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc. Qua đó cần tăng cường
công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò, trách nhiệm đối
với chủ quyền biển, đảo và xây dựng các lực lượng vững mạnh giữ gìn, bảo vệ biển
đảo.
35
PHẦN KẾT LUẬN
Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc mở ra một giai đoạn phát triển mới của
tình hình thế giới. Cùng lúc đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam chính
thức trở thành quốc gia độc lập, tự do đã đưa lịch sử nước nhà sang một trang mới.
Tuy vậy nền độc lập và chính quyền cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế “như
ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và thù trong,
giặc ngoài, và nguy hiểm nhất là thực dân Pháp. Trước tình hình đó Đảng đã phát
động toàn quốc kháng chiến, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn
lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng
chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là
chính. Đó là xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc chiến.
Trong giai đoạn từ tháng 07/1954 đến năm 1960, sự mưu mô và tham vọng của
Mỹ đối với thế giới với tham vọng làm bá chủ thế giới của mình, Mỹ đã nhận thấy
chiến trường miền Nam Việt Nam là một nơi đầy thuận lợi nên đã nhảy vào thay Pháp.
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước ta đã bị tàn phá nặng nề, kệt quệ về kinh tế,
bên cạnh đó Việt Nam lại bị chia cắt tạm thời thành hai miền, điều này lại làm tình
hình trở nên khó khăn hơn. Đảng ta đã xác định kẻ thù chính là đế quốc Mỹ và bọn tay
sai Ngô Đình Diệm và đã vạch ra một cách đúng đắn hai chiến lược cách mạng, phải
đồng thời tiến hành trên hai miền Nam - Bắc nhằm giải phóng miền Nam. Có thể thấy
Đảng ta không phải thực hiện một nhiệm vụ cùng lúc mà là hai nhiệm vụ trong cùng
một thời điểm hết sức khó khăn.
Do những tiềm năng to lớn về kinh tế chính trị, Biển Đông trở thành mục tiêu
của nhiều nước, đặc biệt là Trung Quốc đã nhiều lần xâm phạm chủ quyền biển đảo
Việt Nam. Qua thời gian, mâu thuẫn trên biển ngày càng trở nên phức tạp với sự can
thiệp của nhiều nước lớn bằng những biện pháp khác nhau. Trong tình thế đó, Việt
Nam vẫn luôn duy trì quan điểm tự lực tự cường, không dựa dẫm vào bất kỳ thế lực
nào đồng thời không nóng vội, không bị kích động mà kiên trì giải quyết mâu thuẫn
bằng biện pháp ngoại giao, hòa bình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã có những thành tựu nhất định trong
quá trình bảo vệ chủ quyền biển đảo, tranh thủ được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh đó, nước ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế, điều kiện vật
chất vùng đảo còn thiếu thốn; các thế lực thù địch liên tục chống phá và lợi dụng sự
thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân để tiến hành chia rẽ dân tộc.
Để có thể bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của dân tộc, ta cần
phải kiên trì và cố gắng hơn. Áp dụng những bài học kinh nghiệm cũ kết hợp với tình
hình mới để đưa ra phương hướng giải quyết xung đột. Một số biện pháp trước mắt
gồm khắc phục yếu điểm trong truyền thông, tiếp tục đầu tư cho kinh tế biển, an ninh
quốc phòng, tiếp tục phát huy năng lực ngoại giao.
36
Mỗi cá nhân, tổ chức, mỗi con người Việt Nam đều có trách nhiệm giữ vững chủ
quyền quốc gia. Tình yêu nước của mỗi chúng ta cần được thể hiện đúng cách, trong
quá trình tiếp thu thông tin phải có sự chọn lọc kỹ càng, tránh bị các thế lực chống phá
lợi dụng. Mỗi người đều có nhiệm vụ tuyên truyền, thể hiện quan điểm đúng đắn của
Việt Nam, mỗi người đều phải nỗ lực xây dựng đất nước, củng cố sức mạnh tổng hợp
của quốc gia để nâng cao vị thế khi đấu tranh. Trong nhiệm vụ nặng nề nhưng đầy vẻ
vang đó, thế hệ trẻ chính là lực lượng xung kích, do đó càng phải quan tâm đến vấn đề
biển đảo, không ngừng tự hoàn thiện bản thân và phải luôn sẵn sàng phục vụ tổ quốc.
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 90
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban tuyên giáo Trung ương (03/02/2018), Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?tabid=1292&Group=219&N
ID=4395&cach-mang-thang-tam-nam-1945--su-kien-vi-dai-trong-lich-su-dan-toc-vietnam. . Ngày truy cập 05/03/2023.
4. Ban Tuyên giáo Trung ương (01/12/2016), Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 70
năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2016),
https://www.thanhuytphcm.vn/van-ban/de-cuong-tuyen-truyen-ky-niem-70-nam-ngaytoan-quoc-khang-chien-19-12-1946-19-12-2016-1480559312
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản VN (18/12/2017), Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông
Dương, https://www.angiang.dcs.vn/Lists/TuLieuVanKien/DispForm.aspx?ID=15
7. Hồng Loan (02/08/2019), 02/08/1945: Hội nghị Potsdam kết thúc,
https://nghiencuuquocte.org/2019/08/02/hoi-nghi-potsdam-ket-thuc/ . Ngày truy cập
17/03/2023.
8. ThS. Nguyễn Thị Hiền (14/05/2020), Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của hội nghị
Giơnevơ (1954), https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-traodoi/tim-hieu-hoan-canh-lich-su-cua-hoi-nghi-gionevo-1954-56.html
38
Download