Uploaded by Phuong Vu

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI (3

advertisement
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÁC CHỨC NĂNG NHÀ
NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện
: Vũ Thị Huy
Lớp
: K65B
Mã sinh viên
: 20061113
Ngày sinh
: 20/02/2002
Giảng viên giảng dạy: PGS. Nguyễn Minh Tuấn
PGS.TS. Dương Đức Chính
1
MỤC LỤC
Tài liệu tham khảo
4
I.
Mở đầu
5
II.
Nội dung
6
1. Khái niệm chức năng nhà nước
6
2. Các chức năng chủ yếu của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 6
2.1.
Chức năng đối nội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Chức năng kinh tế
2.1.1.1.
Những quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước
2.1.1.2.
Khái niệm về chức năng kinh tế
2.1.1.3.
Nội dung cơ bản của chức năng kinh tế
2.1.1.4.
Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng kinh tế
2.1.1.5.
Các giải pháp để thực hiện chức năng kinh tế hiệu quả
2.1.2. Chức năng xã hội
2.1.2.1.
Khái niệm
2.1.2.2.
Những đặc điểm của chức năng xã hội của nhà nước ta hiện
nay
2.1.2.3.
Những phương hướng nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
2.1.3. Một số chức năng khác của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
2.1.3.1.
Chức năng bảo vệ môi trường
2.1.3.2.
Chức năng bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do và lợi ích của
con người và công dân
2.1.3.3.
2.2.
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật
Chức năng đối ngoại
2.2.1. Chức năng bảo vệ tổ quốc
2
2.2.2. Chức năng hội nhập, hợp tác với các nước trên thế giới, không phân
biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau
3. Thực tiễn thực hiện chức năng của nhà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
3.1.
12
Về chức năng đối nội
3.1.1. Kinh tế
3.1.2. Xã hội (văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường)
3.1.3. Bảo vệ, bảo đảm các quyền con người
3.2.
Về chức năng đối ngoại
3.2.1. Bảo vệ Tổ quốc
3.2.2. Hội nhập, hợp tác với các nước trên thế giới
4. Giải pháp chung nâng cao hiệu quả cho việc thực hiện các chức năng của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
III.
Kết luận
16
16
3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Xem Nguyễn Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 45.
[2] Xem Vengerov A.B, Lý luận về nhà nước và pháp luật, xuất bản lần 3, Matxcova.
2000, tr.177.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.253.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sdd, tr.68
[5] Ban chấp hành trung ương Đảng, Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện hiệu quả
tiến trình hội nhâp kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chinh trị- xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
[6] Paul Gordon Lauren (2003), The Evolution of International Human Rights: Visions
Seen, University of Pennsylvania Press, Philadelphia, Pennsylvania, trang 290-291. Dẫn
theo Lê Thị Thúy Hương, Tổ chức phi chính phủ nước ngoài và vấn đề bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam ( Luận văn Thạc sĩ luật học), Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2013, tr 290-291.
* Đại học Quốc gia – Khoa Luật (GS.TS Hoàng Thị Kim Quế chủ biên), Giáo trình Lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Điều 3 Hiến pháp 2013 hiện hành
* Các tài liệu khác từ nguồn Internet
4
I. MỞ ĐẦU
Trong điều kiên hiện nay, trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước
và đặc biệt là yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, việc điều chỉnh và tổ chức thực hiện tốt các chức năng của Nhà nước có ý nghĩa
vô cùng quan trọng cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn. Trong quá trình
thực hiện pháp luật thì việc vi phạm pháp luật là khó có thể tránh khỏi nên nhà nước
phải thực hiện các chức năng để quản lí xã hội, thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong
những năm gần đây, trước sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, đòi hỏi mỗi cá nhân
phải phát triển một cách toàn diện, thì xu hướng chung của các nhà nước là hướng các
hoạt động vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm tạo sự ổn định xã hội, thực hiện tốt chức
năng thống trị của mình. Đặc biệt trong thời kì đổi mới, các chức năng của nhà nước đã
được khẳng định rõ trong Điều 3 Hiến pháp 2013 như sau: “ Nhà nước bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện”. Vì vậy, vấn đề các chức năng của nhà nước đang trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên cả về lý luận và thực tiễn, chức năng của nhà nước vẫn
còn là một vấn đề tương đối mới, cần được nghiên cứu một cách toàn diện để ngày càng
hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính yêu cầu này
là tác nhân trực tiếp thôi thúc người viết lựa chọn đề tài “ Lý luận và thực tiễn thực hiện
các chức năng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm đối tượng nghiên
cứu.
Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác Lênin. Về phương pháp cụ thể, tiểu luận sử dụng
phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quy nạp, diễn dịch. Ngoài ra, tiểu luận
cũng sử dụng các văn kiện, công trình nghiên cứu của các tác giả về nhà nước và pháp
luật làm tài liệu tham khảo.
Nhìn chung chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng chỉ đơn thuần là
những chức năng như:
Căn cứ vào các lĩnh vực cơ bản của nhà nước bao gồm chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại.
Căn cứ vào nguyên tắc phân chia quyền lực bao gồm chức năng lập pháp, chức
năng hành pháp và chức năng tư pháp.
Căn cứ vào ý nghĩa của chức năng nhà nước, có thể phân thành chức năng chủ
yếu và chức năng phái sinh.
Căn cứ vào kiểu nhà nước bao gồm chức năng nhà nước chiếm hữu nô lệ, chức
năng nhà nước phong kiến, chức năng nhà nước tư bản và chức năng nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
5
Tuy nhiên để dễ hiểu người viết sẽ định hướng bài tiểu luận chia chức năng của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với hai chức năng chính là chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại.
II. NỘI DUNG
1.Khái niệm chức năng nhà nước
Về khái niệm chức năng nhà nước, theo quan điểm truyền thống của lý luận nhà
nước và pháp luật, chức năng nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu
của nhà nước để thể hiện các nhiệm vụ được đặt ra đối với nhà nước [1].
Diễn đạt một cách đầy đủ hơn, có thể đưa ra khái niệm về chức năng nhà nước
như sau: “Chức năng nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của nhà
nước, thể hiện bản chất, vai trò xã hội, mục tiêu và các nhiệm vụ của nhà nước, được
thực hiện bằng những hình thức và phương pháp nhất định”.
Chức năng nhà nước có tính khách quan, chịu sự tác động của các điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội...Các chức năng nhà nước định rõ việc nhà nước cần phải
làm gì trong những điều kiện lịch sử, thời kỳ phát triển cụ thể. Và các chức năng ấy
được thực hiện bằng những hình thức, phương pháp pháp lý, tổ chức, kỹ thuật nhất định.
Sự tiến hóa của các chức năng nhà nước bao gồm “sự phát triển và thay đổi chức năng
của nhà nước cả dưới tác động của những đặc trưng hình thức va nội dung của nhà nước
lẫn dưới tác động của môi trường đang phát triển bên ngoài” [2].
Chức năng đối nội là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
phạm vi nội bộ nhà nước đó ( chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng ghi nhận,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, chức năng chính trị...).
Chức năng đối ngoại là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong quan hệ nhà nước đó với các chủ thể khác bên ngoài nhà nước (chức năng quốc
phòng, bảo vệ trật tự, hòa bình thế giới, chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế...).
2. Các chức năng chủ yếu của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Chức năng đối nội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1.1. Những quan niệm về vai trò kinh tế của nhà nước
Nhà nước là một thiết chế đặc biệt của xã hội, có vai trò quan trọng trong việc
duy trì và phát triển xã hội loài người. Từ thời cổ đại, vai trò kinh tế của nhà nước đã
được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như chính trị, luật học, triết học thể hiện
qua các quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc như Aritxtot,
Platon, Mạnh Tử, Khổng Tử... Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn cách mạng
tư sản lật đổ chế độ phong kiến, nhiều lý thuyết kinh tế học chính trị đã đi sâu tìm hiểu
6
về cơ chế tác dụng của nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó tiêu biểu như: A.Smith về
nền kinh tế tự do, lý thuyết của Keynes về nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước, lý
thuyết của A.Samelson về nền kinh tế hỗn hợp. Và lịch sử đã chứng minh các nền kinh
tế thị trường thành công đều không phát triển một cách tự phát mà cần có sự can thiệp
và hỗ trợ từ nhà nước. Với những quan niệm về vai trò kinh tế của các nhà nước trên thế
giới có thể thấy việc xác định rõ vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế hiện đại
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đổi mới nhà nước ta, đặc biệt là trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là cơ sở lý luận và thực tiễn
cho quá trình nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
2.1.1.2. Khái niệm về chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Theo từ điển tiếng Việt, “chức năng” là từ gốc Hán bao gồm hai thành tố “chức”
và “năng”. Thành tố “chức” trong các từ “chức trách”, “chức vụ”. Thành tố “năng”
trong các từ “bản năng”, “năng lực”, “khả năng”. Như vậy, chức năng nhà nước được
hiểu như là hoạt động, khả năng vốn có của nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay để góp phần xác định đầy đủ khái niệm về chức năng
nhà nước, người viết cần tiếp cận phạm trù chức năng nhà nước gắn liền với bản chất,
vai trò của nhà nước đối với xã hội, trong mối quan hệ chặt chẽ với chức năng kinh tế,
chức năng chính trị của nhà nước. Như vậy, từ phạm trù chức năng của nhà nước có thể
hình thành nên khái niệm chức năng kinh tế của nhà nước như sau: “Chức năng kinh tế
là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế nhằm thực
hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng
và đối ngoại trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế và khu
vực”.
2.1.1.3. Nội dung cơ bản của chức năng kinh tế của nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, chức năng tổ chức, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, nhà nước xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về phát triển, quản lí nền
kinh tế theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực. Nội dung và cách thức thực hiện chức năng kinh
tế phải bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo lập môi trường cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; nhằm hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh.
7
Thứ ba, đổi mới việc xây dựng tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường hoạt động kiểm
tra, thanh tra, giám sát đối với các hoạt động kinh tế, minh bạch, công khai, nghiêm
minh và công bằng trong xử lý vi phạm pháp luật. Nội dung các chính sách, pháp luật
và hoạt động áp dụng pháp luật phải đảm bảo thực hiện quyền tự do kinh doanh đối với
những ngành nghề không bị cấm. Xây dựng chính phủ kiến tạo phát triển: ban hành,
thực hiện pháp luật, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp pháp lý ( Luật Hiến pháp, Luật
Doanh nghiệp, Luật đầu tư...).
Thứ tư, ngăn ngừa và khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường như lạm dụng tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, độc quyền, khủng hoảng kinh
tế... Hơn nữa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xác định là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa – điểm khác biệt với nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là phải hạn chế thấp nhất tình trạng bóc lột người, đảm bảo sự bình đẳng xã hội.
Việc phát triển kinh tế không chỉ nhằm mục đích là tăng trưởng kinh tế mà phải lấy mục
tiêu tăng trưởng kinh tế làm cơ sở để phát triển toàn diện con người, giải quyết hài hòa
những vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Thứ năm, Chính phủ có vị trí, vai trò, trách nhiệm đặc biệt quan trọng trong việc hoạch
định các chính sách quốc gia và tổ chức thực hiện chức năng kinh tế. Nâng cao năng
lực, hiệu quả điều hành kinh tế của Chính phủ, phân định rõ thẩm quyền quản lý kinh tế
giữa Trung ương và địa phương.
2.1.1.4. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Về mặt lý luận, các chức năng của nhà nước luôn được thực hiện thông qua những
hình thức và phương pháp nhất định của bộ máy nhà nước. Nhà nước nào cũng sử dụng
pháp luật để quản lý xã hội, do đó Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực
hiện chức năng kinh tế thông qua ba hình thức chủ yếu là xây dựng pháp luật, thực thi
pháp luật, bảo vệ pháp luật; và bằng các phương pháp chủ yếu như phương pháp hành
chính kết hợp với giáo dục ( cưỡng chế kết hợp với răn đe, phòng ngừa), phương pháp
kinh tế (Thông qua lợi ích kinh tế), phương pháp tài phán (xét xử, trọng tài).
2.1.1.5.Các giải pháp để thực hiện chức năng kinh tế hiệu quả
Hoạch định chính sách, đường lối chiến lược phát triển kinh tế quốc gia như đầu
tư vào các ngành trọng điểm, kỳ họp theo quý, năm để hoạch định chính sách. Phải tư
duy lại về ba trụ cột: NHÀ NƯỚC – THỊ TRƯỜNG – XÃ HỘI và nhà nước nhỏ, xã hội
lớn, nhà nước phải tôn trọng quy luật của thị trường, tôn trọng quyền tự do kinh doanh
của người dân, các doanh nghiệp...Nhà nước chỉ là người cầm lái mà không cầm chèo,
nhà nước kiến tạo phát triển, ổn định kinh tế vĩ mô, không làm thay thị trường, doanh
nghiệp. Đề nền kinh tế được hiệu quả phải rõ ràng về trách nhiệm của cá nhân, người
đứng đầu, trách nhiệm tập thể là công khai, minh bạch, giải trình. Trong quá trình hội
8
nhập hiện nay, việc ứng dụng công nghệ trong hoạt động cung ứng dịch vụ công có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế hiện đại.
2.1.2. Chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.2.1. Khái niệm
Chức năng xã hội là phương diện hoạt động chủ yếu, cơ bản của nhà nước trên
đối với xã hội.
Chức năng xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội như giáo dục, khoa
học – công nghệ, lao động, việc làm, y tê, môi trường, an sinh xã hội... Nội dung chủ
yếu trong chức năng xã hội của nhà nước là đảm bảo cho người dân có điều kiện sống
bình thường, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người.
Chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực
hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm
lo một số công việc chung của toàn xã hội. Việc giải quyết có hiệu quản những vấn đề
chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và
giới hạn của giai cấp cầm quyền. Nó là phương thức, là điều kiện để nhà nước thực hiện
vai trò thống trị giai cấp của nó. Nói về mối quan hệ giữa chúng, Ph.Ăngghen viết: “Ở
khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị
cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó” [3].
2.1.2.2. Những đặc điểm của chức năng xã hội của nhà nước ta hiện nay
Thứ nhất, chức năng xã hội của nhà nước ta gắn liền với sự nghiệp cách mạng nước ta,
với mục tiêu giải phóng con người.
Thứ hai, chức năng xã hội của nhà nước ta luôn là chức năng cơ bản, nhất quán của nhà
nước trong toàn bộ lịch sử phát triển của đất nước.
Thứ ba, sự phát triển của chức năng gắn liền với sự phát triển và biến đổi của hai mô
hình kinh tế.
2.1.2.3. Những phương hướng nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng xã hội
của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách, tạo cơ sở pháp lý điều
chỉnh các vấn đề xã hội; thiết lập cơ chế pháp lý thích hợp để tạo chính sách xã hội là
thể hiện rõ vai trò, chức năng xã hội của nhà nước, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội
chủ nghĩa , đảm bảo tính chính trị, tính khả thi, tính chiến lược, toàn diện
Nhà nước phải có kế hoạch đầu tư tổng thể, mang tính chiến lược cùng các kế
hoạch cụ thể để xác định các trọng điểm đầu tư, phân bổ hợp lý. Kết hợp đầu tư để chúng
được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, không hao mòn.
9
Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được
giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện” [4]. Để có thể xây dựng một xã hội thành công như vậy, thứ nhất cần xây dựng va
phát triển sự nghiệp văn hóa, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác.
Thứ hai, đổi mới sự nghiệp giáo dục vì giáo dục là quốc sách hàng đầu để nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đồng thời với đó là việc giáo dục thế giới quan
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn thể nhân dân. Thứ ba, trong công cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định phát triển khoa học
và công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhà nước thực hiện các biện pháp cần thiết để giảm tỉ lệ thất nghiệp, đa dạng hóa
các nguồn lực và phương thức xóa đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế. Nhà nước xây dựng chính sách phát triển y tế, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân, xây dựng chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Nhà
nước đa dạng hóa các dịch vụ công cộng, dịch vụ xã hội, phát triển xanh và bền vững.
Xây dựng chế độ trách nhiệm pháp lý, đảm bảo chế độ kiểm tra, giám sát nhà nước và
xã hội trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chức năng xã hội.
2.1.3. Một số chức năng khác của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.3.1. Chức năng bảo vệ môi trường
Trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, chức năng bảo
vệ thiên nhiên, môi trường ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt đối với mọi quốc gia
mà Việt Nam không là ngoại lệ. Franklin D.Roosevelt đã từng nói: “Quốc gia nào không
biết bảo vệ đất là đang tự tay giết chính mình. Rừng là lá phổi của chúng ta. Nó giúp
làm sạch không khí và tạo ra sức mạnh tươi mới cho tất cả mọi người”.
Nhà nước phải xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện về
bảo vệ thiên nhiên, môi trường theo định hướng phát triển bền vững, sử dụng các nguồn
tài nguyên đất đai, nước, khoáng sản.., khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm
môi trường. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên,
giữ gìn đa dạng sinh học.
2.1.3.2. Chức năng bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do và lợi ích của con người và
công dân
Chức năng bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do và lợi ích của con người bao gồm
nhiều nội dung về thể chế, cơ chế, thủ tục, quy trình, tổ chức bộ máy thực hiện và hoạt
động giám sát của xã hội. Nhà nước xây dựng, ban hành và bảo đảm thực hiện các quyền
10
hiến định, luật định của con người và công dân, kiểm soát việc tuân thủ các quy định
pháp luật về nội dung, thủ tục liên quan đến các quyền con người. Thực hiện có hiệu
quả giáo dục quyền con người cho mọi cá nhân, xử lý công bằng mọi hành vi vi phạm
quyền con người, quyền công dân. Chức năng này đã được liệt kê trong các Hiến pháp
Việt Nam.
2.1.3.3. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bào đảm sự tôn trọng, tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật
Chức năng này được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động cơ bản của nhà
nước về xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật, tính minh bạch, công khai,
trách nhiệm giải trình, trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần của nhà nước đối
với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật.
2.2. Chức năng đối ngoại của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hoạt động đối ngoại của nhà nước là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa
vô cùng to lớn trong việc tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần giải quyết có
hiệu quả các nhiệm vụ trong nước.
2.2.1. Chức năng bảo vệ Tổ quốc
Chức năng bảo vệ Tổ quốc là một trong những chức năng cơ bản quan trọng nhất
của nhà nước. Đặc biệt với nhà nước Việt Nam nói riêng thì bảo vệ Tổ quốc lại càng có
vai trò cấp thiết và luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi vì Tổ quốc là nhân tố then chốt quyết
định sự tồn tại của bất kỳ một nhà nước hay quốc gia nào. Đó là một điều thiêng liêng,
bất khả xâm phạm, là “ nguyên khí” của một quốc gia. Chỉ khi bảo vệ được Tổ quốc
mới có điều kiện để phát triển toàn diện đất nước. Nhìn vào minh chứng lịch sử có thể
nhận thấy rõ, trong thời kỳ đất nước đang trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945-1954) và chống Mỹ (1954-1975) đầy cam go và ác liệt, nền kinh tế của đất nước
chững lại, trì trệ, đời sống nhân dân khó khăn. Tuy nhiên đến năm 1975, khi chúng ta
quét sạch quân thù, nước nhà hoàn toàn độc lập, nhà nước thực hiện nhiều chính sách
phát triển làm cho Việt Nam dần dần khôi phục sau chiến tranh và đạt được những bước
nhảy vọt cả về kinh tế và xã hội.
Trong điều kiện hoàn cảnh ngày nay, bảo vệ Tổ quốc là một điều không hề dễ
dàng. Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quốc phòng, an
ninh, kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Phát triển nền kinh tế tạo sức mạnh và tiềm lực
để từ đó bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh kinh tế tạo nên vị thế của một đất nước. Nhận thức
sâu sắc điều đó, Đảng ta đã có những định hướng đúng đắn nhằm mục đích phát triển
kinh tế đất nước. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân có mục đích duy nhất là
tự vệ chính đáng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ;
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng dự bị động viên,
dân quân tự vệ, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại.
11
2.2.2. Chức năng hội nhập, hợp tác với các nước trên thế giới, không phân biệt chế
độ chính trị và xã hội khác nhau
Nhà nước xây dựng chính sách, chiến lược, pháp luật và tổ chức thực hiện về hợp
tác và hội nhập quốc tế, khu vực trên cơ sở đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hội
nhập quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các nguồn lực từ
bên ngoài phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế song phương và đa
phương trên các nguyên tắc độc lập dân tộc, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hiện nay, cụm từ “hội nhập quốc tế”, hay nói ngắn gọn là “hội nhập”, ngày càng
được sử dụng phổ biến và mang hàm ý rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế, mặc dù các
văn kiện của Đảng và Nhà nước chủ yếu đề cập nội dung hội nhập kinh tế quốc tế[5].
Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia; kết hợp chặt chẽ quá trình hội
nhập kinh tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng. Nhả nước tích cực hợp tác với
các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.
3. Thực tiễn thực hiện các chức năng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
3.1. Về chức năng đối nội
3.1.1. Kinh tế
Các thành tựu trong việc thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam:
Lần đầu tiên tại Việt Nam, hai chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã lần lượt ra
đời trong tiến trình của công cuộc đổi mới, đó là: Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế xã hội 10 năm 1991-2000 và Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa 10 năm 2001-2010. Do có định hướng đúng, nhà nước ta
đã thành công trong việc thực hiện cơ bản mục tiêu thoát khỏi khủng hoảng vào năm
1996.
Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, pháp luật là công cụ quan trọng
thực hiện chức năng nhà nước. Pháp luật quy định chế độ sở hữu mới và cơ cấu lại nền
kinh tế với nhiều thành phần cùng phát triển, cạnh trânh và bình đẳng trước pháp luật.
Pháp luật tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới. Pháp
luật quy định cơ chế xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp trong hoạt
động kinh tế. Để thực hiện chức năng kinh tế, nhà nước đã sử dụng các chính sách tài
chính, tiền tệ qua các công cụ như vốn, thuế, lãi suất, bảo hiểm trợ cấp... dưới tác động
đòn bẩy kinh tế nhằm điều tiết hiệu quả nền kinh tế thị trường. Nhà nước giải quyết thâm
12
hụt ngân sách theo hướng thị trường và mở rộng hoạt động thị trường chứng khoán, đổi
mới nhằm thúc đẩy sản xuất, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát....
Đối với kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhà nước tiến hành quy hoạch tổng thể và chiến
lược quốc gia phát triển hạ tầng nhằm huy động các nguồn lực trong nước và nước ngoài
cho đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, đầu tư phát triển các công trình trọng điểm, ưu tiên.
Đối với kết cấu hạ tầng xã hội, nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích các loại hình
dịch vụ phục vụ trực tiếp cho kết cấu hạ tầng như: dịch vụ tài chính – ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải, y tế....
Có thể thấy, trong mùa dịch Covid-19 hiện nay, Chính phủ đang tích cực hỗ trợ
kịp thời cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất bằng việc nới lỏng
chính sách tiền tệ, hỗ trợ tín dụng cũng như thực hiện một loạt các biện pháp khác. Với
tất cả những nỗ lực đó, hy vọng rằng nền kinh tế sẽ dẩn ổn định và phục hồi.
Thời gian qua, nhà nước đã ban hành và thay đổi nhiều luật thuế mới đảm bảo sự
hài hòa lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động – doanh nghiệp – nhà nước như: Luật
thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật
ngân sách nhà nước.. Một trong những chính sách rõ nét nhằm đảm bảo bình đẳng xã
hội là Nhà nước đã quan tâm đến chính sách xóa đói giảm nghèo và khuyến khích người
dân làm giàu chính đáng, nổi bật là việc giao đất, giao rừng cho người dân, việc cho vay
với lãi suất thấp để người nghèo có vốn tạo ra công ăn việc làm..
Bên cạnh những mặt tích cực thì chức năng kinh tế vẫn còn nhiều bất cập, hạn
chế. Mặc dù đã ban hành rất nhiều luật có tính đặc trưng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh
tế thị trường như luật kinh doanh bất động sản, luật chứng khoán, luật kiểm toán,...
nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, để thi hành được các luật phải cần đến rất
nhiều các nghị định, thông tư, chỉ thị hướng dẫn để thi hành. Các chế tài đối với các
hành vi vi phạm các quy định trong hoạt động kinh doanh, thương mại chưa đủ mạnh
để răn đe; việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh còn kéo dài, gây mất niềm tin và
ảnh hưởng đến tâm lý tuân thủ, chấp hành pháp luật của các cá nhân. Hạn chế trong việc
xác định vị trí, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là chủ thể quản lí kinh
tế, là người giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
3.1.2. Xã hội ( văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường)
Nhà nước ta đã và đang xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội nhằm đảm
bảo cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện các phương thức xóa đói
giảm nghèo, thực hiện có hiệu quả chính sách, pháp luật về an sinh xã hội, bảo hiểm xã
hội; xây dựng hạ tầng cơ sở, các công trình phúc lợi cho người dân, đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội. Nhà nước luôn đề cao và đầu tư phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà, tiếp thu thành tự, công nghệ từ các nền
giáo dục tiên tiến trên thế giới; đầu tư phát triển, tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại.
Để đảm bảo được các chức năng đó, nhà nước đã đề ra một loạt các bộ luật để đáp ứng
13
nhu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của con người như: Luật Giáo dục 2019, Luật bảo
vệ sức khỏe nhân dân 1989, Luật Khoa học – công nghệ 2013, Bộ luật lao động 2012....
Ở địa phương, trên cơ sở Luật Bảo vệ môi trường, dưới sự chỉ đạo, quản lý của
Chính phủ, Bộ Tài nguyên và môi trường, chính quyền địa phương các cấp đã tiến hành
các hoạt động bảo vệ tài nguyên môi trường tích cực theo nhiệm vụ, quyền hạn. Qua
báo cáo của Tổng cục môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, một loạt các tỉnh miền
Tây Nam Bộ ( Bạc Liêu, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ...), các địa phương được sự
phân cấp quản lý của trung ương ngày càng tăng, hoạt động và trách nhiệm trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường đã có nhiều tiến bộ như: cơ chế chính sách, chương trình, kế
hoạch về bảo vệ môi trường; tiến hành các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về bảo vệ môi trường; thực hiện quản lý chất thải, thu phí bảo vệ môi trường...
Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định như công tác tuyên truyền về bảo
vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh còn hạn chế; số lượng các đơn vị
được kiểm tra, xác nhận còn ít; hoạt động thanh tra, kiểm tra bảo vệ môi trường cũng
hạn chế...Việc thực hiện các chính sách xã hội vẫn còn nhiều hạn chế. Tại nhiều địa
phương còn có tình trạng thiếu sự phân tách giữa quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ
(cán bộ chính quyền vừa xét duyệt đối tượng trợ cấp xã hội, vừa thực hiện việc chi trả
trợ cấp). Nguồn tài chính để thực hiện chính sách xã hội chủ yếu là từ ngân sách nhà
nước. Người dân vẫn chưa ý thức được nguyên tắc “có đóng thì có hưởng” trong hoạt
động bảo hiểm. Trong vấn đề việc làm, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn ở
mức cao.
3.1.3. Bảo vệ, bảo đảm các quyền con người
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế
về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí
ở mức tiến bộ; tuy nhiên trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn
tồn tại một số vấn đề nhất định.
Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế,
dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân,
đặc biệt là một số cơ quan công quyền. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác
tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền.
Cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả và sự thiếu hụt các nguồn vật chất
bảo đảm. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu điều kiện để chăm
sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, người vi
phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù...
3.2.Về chức năng đối ngoại
3.2.1 Bảo vệ Tổ quốc
14
Trải qua quá trình dài và kiên trì thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, kết quả đạt
được của nhà nước Việt Nam cũng có những mặt tích cực nhất định. Nhà nước ngăn
chặn được âm mưu của các thế lực phản động trong nước bằng việc thực hiện nghiêm
chỉnh và sát sao những mặt hoạt động liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, ngăn
chặn nhiều âm mưu phản động. Ví dụ về xét xử phúc thẩm 5/2015 về hoạt động nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân của Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Thăng Long,
Nguyễn Tiến Trung là một hồi chuông cảnh báo cho những kẻ có tư tưởng phản động ở
nước ta. Thực tế cho thấy Đảng và Nhà nước ta ngày càng có nhiều biện pháp quyết liệt
cả về nội dung và hình thức để ngăn chặn và đẩy lùi các tổ chức, các cá nhân có tư tưởng
phản động chống phá đất nước.
Nhà nước ta đã ngăn chặn được âm mưu chia rẽ, xâm lược các thế lực thù địch
bên ngoài. Ví dụ như trước sự kiện Trung Quốc đặt trái phép giàn khoan Hải Dương
HD981 vào vùng biển Việt Nam, các lãnh đạo nước ta đã tỏ rõ lập trường không khoan
nhượng nhằm ngăn chặn âm mưu của Trung Quốc
Ngoài ra, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nhà nước ta không thể
tránh khỏi những hạn chế và thách thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Trong điều kiện diễn biến tình hình chính trị khu vực và thế giới ngày càng trở
nên nhạy cảm và căng thẳng, nhiều tổ chức phản động ngày càng tinh vi nhằm chống
phá nhà nước. Một số hành động xâm phạm chủ quyền Tổ quốc mà nhà nước ta đến nay
vẫn chưa đấu tranh được như việc Trung Quốc chiếm giữ một số đảo thuộc hai đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
3.2.2. Hội nhập, hợp tác với các nước trên thế giới
Hiện nay, Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào các tổ chức, diễn đàn và
quan hệ quốc tế, ở cấp độ toàn cầu, khu vực, song phương, đa phương. Nhà nước ta đã
tăng cường sự hợp tác, mở cửa thúc đẩy nền kinh tế, tham gia vào các tổ chức lớn như
ASEAN, APEC, EU...Việc hợp tác quốc tế tác động rất mạnh đến Việt Nam, nhất là
trong các vấn đề toàn cầu hoặc vấn đề xuyên quốc gia. Trong cuốn “Bất ổn trong nền
chính trị thế giới: Lý thuyết về sự thay đổi và tính liên tục, James Rosenau cho rằng: “
Các vấn đề mới nổi như ô nhiễm bầu khí quyển, khủng bố, buôn bán ma túy, khủng
hoảng tiền tệ có tính xuyên quốc gia hơn là quốc gia. Quốc gia không thể đưa ra các giải
pháp cho các vấn đề như vậy”[6]. Chính vì vậy, hợp tác và hội nhập quốc tế là con
đường duy nhất để giải quyết các vấn đề toàn cầu. Hội nhập, hợp tác quốc tế sẽ làm gia
đầu tư sản xuất, kinh doanh, thương mại, học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm....
Bên cạnh những mặt tích cực, hội nhập quốc tế cũng đã nảy sinh những vấn đề
xã hội, đòi hỏi nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, các tệ nạn xã
hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có
nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm
ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi... Những vấn đề đó
đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.
15
4. Giải pháp chung nâng cao hiệu quả cho việc thực hiện các chức năng của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, Nhà nước cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên
chức và người dân về việc xây dựng một nhà nước phát triển toàn diện,
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, điều chỉnh lại pháp luật phù hợp với các quyền
cơ bản của con người, ai ai cũng có thể hiểu, cũng dễ dàng thực hiện.
Thứ ba, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, hội nhập quốc tế để nền kinh tế Việt Nam
ngày một phát triển hơn.
Thứ tư, tăng cường bảo đảm an ninh dân cư, trật tự xã hội, tránh xảy ra các cuộc bạo
động.
III. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, các chức năng nhà nước thể hiện vai trò xã hội của nhà nước
trong mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia. Trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa
đã trở thành xu thế không thể đảo ngược, chức năng của các nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã được xác định với những nội dung mới nhằm đáp ứng vai trò,
nhiệm vụ mới của nhà nước như hợp tác về phòng chống khủng bố, bảo vệ môi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm
nghèo... nhằm tạo cho nhân dân có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển toàn
diện. Với quyết tâm và sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Nhà nước, chúng ta hãy tin
tưởng vào một nền kinh tế phát triển bền vững, con người có điều kiện để phát triển toàn
diện. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, nhà nước có sứ mệnh và vai trò bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công
dân. Là một công dân Việt Nam, cần phải cố gắng học tập, trau dồi kiến thức để góp
phần phát triển đất nước ngày một tốt đẹp hơn.
Tiểu luận đã đánh giá tổng quan về lý luận và thực tiễn thực hiện chức năng của
nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đó đi sâu nghiên cứu các
phương hướng hoàn thiện các chức năng của nhà nước trong điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể ở Việt Nam. Về cơ sở lý luận vấn đề chức năng của nhà nước ta, tiểu luận đưa ra các
khái niệm, các đặc điểm cơ bản, vai trò, mục đích; hình thức và phương pháp thực hiện
các chức năng đó. Về cơ sở thực tiễn, tiểu luận đã đưa ra những mặt tích cực và những
mặt hạn chế của chức năng của nhà nước Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp thích
hợp.
Cá nhân em cho rằng việc tìm hiểu, nghiên cứu các chức năng của nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất có ích đặc biệt với một người học về nghành luật như
em. Điều đó giúp cho bản thân em trau dồi được những kiến thức để biết nhiều, hiểu sâu
hơn về chức năng của nhà nước ta, có thể có cái nhìn toàn diện, đa chiều để tránh bị
đánh giá, nhìn nhận một cách phiến diện.
16
17
Download