LỜI CAM ĐOAN LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là báo cáo thực tập do tôi thực hiện trong thời gian thực tập tại cơ quan tiếp nhận thực tập. Các nội dung trong báo cáo là trung thực, đảm bảo độ tin cậy./. Xác nhận của Tác giả báo cáo thực tập Cán bộ hướng dẫn thực tập (Ký và ghi rõ họ tên) i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................................... ii MỤC LỤC...............................................................................................................................iii MỞ ĐẦU.................................................................................................................................. 1 NỘI DUNG .............................................................................................................................. 2 Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng ủy quyền ........................................ 2 1.1. Khái niệm hợp đồng ủy quyền .......................................................................................... 2 1.2. Một số đặc điểm của hợp đồng ủy quyền ......................................................................... 2 1.2.1. Hợp đồng ủy quyền mang tính chất nhân thân của các chủ thể .................................... 2 1.2.2. Các bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ khi nào ............... 3 1.3. Ý nghĩa của hợp đồng ủy quyền ....................................................................................... 3 Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền ............ 4 2.1. Chủ thể .............................................................................................................................. 4 2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền ...................................................................... 5 2.2.1. Nghĩa vụ của bên được ủy quyền ................................................................................... 5 2.2.2. Quyền của bên được ủy quyền ....................................................................................... 6 2.3. Quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền ............................................................................... 6 2.3.1. Nghĩa vụ của bên ủy quyền ............................................................................................ 6 2.3.2. Quyền của bên ủy quyền ................................................................................................ 7 2.4. Hình thức của hợp đồng ủy quyền .................................................................................... 7 2.5. Thời hạn ủy quyền ............................................................................................................ 8 2.6. Uỷ quyền lại ...................................................................................................................... 8 2.7. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền ..................................................... 10 2.8. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền ......................................................................................... 10 Chương 3: Một số vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện .... 12 3.1. Một số vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về hợp đồng ủy quyền ..... 12 3.1.1. Về hình thức của hợp đồng ủy quyền ........................................................................... 12 3.1.2. Về nội dung của hợp đồng ủy quyền ............................................................................ 12 3.1.3. Về thời hạn ủy quyền .................................................................................................... 14 3.1.4. Về chấm dứt hợp đồng ủy quyền .................................................................................. 16 3.2. Một số kiến nghị chung hoàn thiện pháp luật ................................................................. 18 KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 20 iii MỞ ĐẦU Tình hình cơ sở thực tập: Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng hiện có 41 công chức, trong đó có 19 Thẩm phán. Chánh án: Ông Bùi Tiến Trung; các Phó Chánh án: Ông Phạm Xuân Thủy, Bà Nguyễn Thị Hải Yến. Hàng năm, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng thụ lý, giải quyết khoảng 1.900 vụ việc các loại.1 Chức năng nhiệm vụ của Tòa án quận Hai Bà Trưng do luật định là một trong những cơ quan thực hiện quyền tư pháp, tức có chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Lý do lựa chọn nội dung của báo cáo thực tập: Chế định về hợp đồng ủy quyền tồn tại trong hệ thống pháp luật của mọi quốc gia trên thế giới như một chế định cơ bản không thể thiếu, trong đó có Việt Nam. Hợp đồng ủy quyền không chỉ là một hợp đồng dân sự thông dụng mà còn là một trong những công cụ pháp lý cơ bản và vô cùng thiết yếu đối với mọi giao dịch trong các lĩnh vực. Tuy nhiên trong thực tiễn thực thi loại hợp đồng này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập do không phải ai cũng có sự hiểu biết sâu sắc về bản chất pháp lý cũng như quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền. Điều này có thể gây ảnh hưởng không nhỏ làm tổn hại đến quyền và lợi ích của không chỉ các chủ thể tham gia ủy quyền mà cả những người có liên quan. Do vậy, em đã lựa chọn đề tài số 36 “Hợp đồng ủy quyền- một số bất cập trong thực tiễn áp dụng” làm đề tài báo cáo thực tập với mong muốn tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa lý luận pháp lý và thực tiễn áp dụng loại hợp đồng này, góp phần hoàn thiện hơn nữa chế định hợp đồng ủy quyền, để việc áp dụng trên thực tế được chính xác và giảm thiểu tối đa nguy cơ tranh chấp cho tất cả các chủ thể liên quan. Người viết giới hạn lại phạm vi nghiên cứu: hợp đồng ủy quyền trong lĩnh vực dân sự, có đối tượng là các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng ủy quyền tại BLDS 2015. Các vấn đề còn vướng mắc được đề cập và các ví dụ thực tế được phân tích xoay quanh các quy định của hợp đồng ủy quyền tại BLDS 2015 và các văn bản có liên quan cũng là đối tượng nghiên cứu của báo cáo. 1 Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, https://toaan.hanoi.gov.vn/quan-hai-ba-trung 1 NỘI DUNG Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng ủy quyền 1.1. Khái niệm hợp đồng ủy quyền Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm về hợp đồng ủy quyền được quy định tại Bộ luật dân sự Việt Nam các năm 1995, 2005 và 2015 (hiện hành) đều nhất quán: “hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện các công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định” Một điểm đặc thù của hệ thống pháp luật Việt Nam đó là, chế định hợp đồng ủy quyền nói chung và khái niệm hợp đồng ủy quyền nói riêng đều chịu ảnh hưởng của khái niệm về đại diện. Xét tính hệ thống, hợp đồng ủy quyền là một trong những căn cứ của đại diện với tên gọi đại diện theo ủy quyền. Dựa vào bản chất và quy định của pháp luật có thể đưa ra khái niệm của hợp đồng ủy quyền như sau: hợp đồng ủy quyền là một thỏa thuận song phương, trong đó một bên (gọi là bên ủy quyền) chuyển giao cho bên còn lại (gọi là bên được ủy quyền) các quyền của mình do luật định để người đó thay mặt mình thực hiện một số công việc nào đó phù hợp với quyền hạn và quy định của pháp luật. 2 1.2. Một số đặc điểm của hợp đồng ủy quyền 1.2.1. Hợp đồng ủy quyền mang tính chất nhân thân của các chủ thể Tính nhân thân là một trong những đặc điểm riêng của hợp đồng ủy quyền. Đặc điểm về tính nhân thân được thể hiện tại một số quy định của Bộ Luật Dân sự hiện hành, cụ thể: - Hợp đồng ủy quyền sẽ chấm dứt khi một trong hai bên là cá nhân chết hoặc pháp nhân không còn tồn tại. Đối với hợp đồng ủy quyền, không có quyền và nghĩa vụ nào chuyển giao cho người thừa kế (đối với cá nhân) hoặc pháp nhân, tổ chức kế thừa - Các bên có thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền bất kỳ lúc nào - 2 Bên được ủy quyền muốn ủy quyền lại phải có sự đồng ý của bên ủy quyền Nguyễn Nhất Nam, Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, tr.7,8 2 1.2.2. Các bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ khi nào Theo quy định chung về hợp đồng “một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. 3 Như vậy, một hợp đồng dân sự có thể bị đơn phương chấm dứt khi và chỉ khi xảy ra một trong các trường hợp sau: có sự vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng, theo thỏa thuận của các bên, theo quy định của pháp luật. Nếu như không có thỏa thuận nào khác, việc đơn phương chấm dứt các hợp đồng chỉ được thực hiện khi có các sự kiện cụ thể xảy ra bắt nguồn từ sự vi phạm của một bên và khi đi sâu vào từng trường hợp cụ thể, các hành vi vi phạm đó không dễ chứng minh. Còn đối với hợp đồng ủy quyền, một trong hai bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bất cứ thời điểm nào mà chỉ cần thực hiện nghĩa vụ báo trước (nếu là ủy quyền không có thù lao) hoặc bồi thường thiệt hại (nếu là ủy quyền có thù lao) mà không cần bất cứ hành vi vi phạm nào, cũng không cần có sự kiện nào trên thực tế, một trong hai bên đều có thể đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và chỉ có yêu cầu kèm theo một số trách nhiệm như: báo trước, trả thù lao hay bồi thường thiệt hại. 4 Đây là một đặc trưng rất riêng mà chỉ loại hợp đồng này có được, đặc điểm này có nguồn gốc từ tính chất nhân thân của hợp đồng ủy quyền. 1.3. Ý nghĩa của hợp đồng ủy quyền Trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội, hợp đồng ủy quyền luôn tồn tại với tư cách là một chế định pháp luật quan trọng và mang ý nghĩa to lớn không thể phủ nhận Thứ nhất, về mặt pháp lý, hợp đồng ủy quyền luôn là căn cứ chặt chẽ, bảo đảm tối ưu về tính an toàn pháp lý, đây là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận của cả hai bên, việc thể hiện ý chí song phương về quyền và lợi ích giữa hai bên của hợp đồng, cũng như bên thứ ba khi tham gia vào các giao dịch liên quan đến nội dung của hợp đồng ủy quyền. Thứ hai, về mặt thực tiễn, hợp đồng ủy quyền là phương tiện pháp lý hữu hiệu góp phần làm tăng hiệu quả công việc cần thực hiện. Công việc mà các chủ thể cần Khoản 1, Điều 428, BLDS 2015 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.17 3 4 3 phải giải quyết nói chung rất đa dạng và đề cao tính chuyên môn hóa, dẫn đến việc tự mình thực hiện sẽ khó khăn và tốn thời gian, trong khi đó, các công việc này lại được chủ thể khác thực hiện dễ dàng và chuyên nghiệp. Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền 2.1. Chủ thể Chủ thể của hợp đồng ủy quyền không được các nhà làm luật quy định tại chế định hợp đồng ủy quyền tại mục 13 chương XVI mà được quy định tại Điều 138 BLDS 2015 về chế định đại diện. Quy định này nêu lên các trường hợp đại diện theo ủy quyền nhưng đã chứa đựng nội dung chủ thể trong đó, theo đó chủ thể của hợp đồng ủy quyền gồm: cá nhân và pháp nhân. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác và các chủ thể khác không có tư cách pháp nhân thì việc giao kết hợp đồng ủy quyền thực chất là việc từng thành viên, chính là các cá nhân tạo thành một nhóm cá nhân cùng nhất quán thể hiện ý chí để ủy quyền cho một cá nhân khác đại diện cho quyền lợi chung của nhóm cá nhân này thực hiện một hoặc nhiều công việc được ủy quyền nhất định nào đó. Chủ thể của hợp đồng ủy quyền do hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân giao kết được chính là cá nhân ủy quyền cho cá nhân, trong đó bên ủy quyền gồm nhiều cá nhân. 5 Pháp nhân và cá nhân là chủ thể của hợp đồng ủy quyền cũng phải đáp ứng các yêu cầu do BLDS 2015 quy định. Nếu là pháp nhân phải thỏa mãn đủ bốn điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015. Nếu là cá nhân cần có năng lực hành vi dân sự phù hợp. Riêng về độ tuổi, pháp luật cho phép người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được trở thành người đại diện theo ủy quyền, nhưng chỉ đối với những giao dịch mà phù hợp với độ tuổi này, đó là các giao dịch không liên quan đến bất động sản hoặc động sản phải đăng ký. Theo đó, BLDS 2015 đã quy định rõ rằng bên được ủy quyền có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Quy định này mang ý nghĩa rất lớn trên thực tiễn khi các doanh nghiệp được tạo điều kiện thành lập và hoạt động thuận lợi và khi hầu hết Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.23 5 4 người dân có xu hướng tin tưởng và một pháp nhân có uy tín, có năng lực tài chính và mạng lưới quan hệ rộng rãi hơn là vào một cá nhân nào đó. 6 2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền 2.2.1. Nghĩa vụ của bên được ủy quyền Thứ nhất, thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó. Việc thực hiện các công việc là nghĩa vụ dân sự của bên được ủy quyền phát sinh từ hợp đồng theo quy định về Đại diện của BLDS. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện không thể lường trước được hết tất cả các vấn đề phát sinh ngoài những công việc đã thỏa thuận. Do đó, bên được ủy quyền phải báo cho bên ủy quyền biết về tiến độ thực hiện công việc và các vấn đề phát sinh nếu có nhằm giúp cho bên ủy quyền nắm được tiến trình đồng thời giúp cho hai bên kịp thời sửa đổi, bổ sung các thỏa thuận tại hợp đồng ủy quyền. Thứ hai, báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền. Người thứ ba trong trường hợp này không phải là bên tham gia trực tiếp vào hợp đồng ủy quyền, do vậy không thể nắm được hết toàn bộ nội dung phạm vi cũng như thời hạn ủy quyền hay hợp đồng ủy quyền đã bị sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hay chưa. Do đó, pháp luật quy định vấn đề này thành nghĩa vụ mang tính bắt buộc cho bên được ủy quyền nhằm đảm bảo công việc ủy quyền được thực hiện rõ ràng, minh bạch, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba liên quan. 7 Thứ ba, bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền. Bởi trên thực tế có những tài liệu và phương tiện được giao chỉ có hạn và có thể là duy nhất, nếu mất mát, hư hỏng sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện công việc ủy quyền và gây thiệt hại cho bên ủy quyền. Thứ tư, giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền. Bảo mật thông tin là vấn đề quan trọng không chỉ trong hợp đồng ủy quyền mà trong mọi loại hợp đồng giao dịch. Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.24,25. 7 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.25. 6 5 Thứ năm, giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Quy định này để tránh các hành vi vụ lợi của bên được ủy quyền, hợp đồng ủy quyền đạt được mục đích. Thứ sáu, bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều này. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại tuân theo quy định về bồi thường thiệt hại của BLDS 2015, đảm bảo đủ ba yếu tố: có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có hành vi vi phạm các nghĩa vụ của bên được ủy quyền được liệt kê trên đây và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại. 2.2.2. Quyền của bên được ủy quyền Thứ nhất, yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền. Các thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết phải liên quan trực tiếp đến nội dung ủy quyền và vừa đủ để bên được ủy quyền hoàn thành công việc. Thứ hai, được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền; hưởng thù lao, nếu có thỏa thuận. Quy định này chia quyền lợi của bên được ủy quyền thành hai phần tách biệt, một là: được thanh toán chi phí do thực hiện công việc ủy quyền, hai là: hưởng thù lao theo thỏa thuận. Chi phí mà bên được ủy quyền bỏ ra trước và trong quá trình thực hiện công việc, bên được ủy quyền có quyền yêu cầu bên ủy quyền thanh toán nhưng phải là chi phí hợp lý. Bên được ủy quyền sẽ hưởng thù lao nếu như có thỏa thuận, nếu không thỏa thuận hoặc thỏa thuận rằng công việc ủy quyền không có thù lao, bên được ủy quyền vẫn được yêu cầu thanh toán các chi phí hợp lý mình bỏ ra như đã nêu ở trên. 2.3. Quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền 2.3.1. Nghĩa vụ của bên ủy quyền Thứ nhất, cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để bên được ủy quyền thực hiện công việc. Nếu như bên được ủy quyền có quyền yêu cầu thì bên ủy quyền có nghĩa vụ cung cấp các thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để bên được ủy quyền thực hiện công việc của mình. Thứ hai, chịu trách nhiệm về cam kết do bên được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Trong phạm vi ủy quyền, tất cả các công việc do bên được ủy 6 quyền thực hiện hoàn toàn là thay mặt cho bên ủy quyền, kể cả những cam kết do bên được ủy quyền đưa ra và các nghĩa vụ khác phát sinh nên bên ủy quyền phải chịu trách nhiệm tiếp nhận và thực hiện các cam kết này. Thứ ba, thanh toán chi phí hợp lý mà bên được ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc được ủy quyền, trả thù lao cho bên được ủy quyền, nếu có thỏa thuận về việc trả thù lao. Quy định này được đưa ra để tránh trường hợp bên ủy quyền trốn tránh, không hoàn trả các chi phí mà bên được ủy quyền đã ứng ra trước bằng tài sản của chính mình hoặc khoản tiền thù lao mà hai bên đã thỏa thuận. 2.3.2. Quyền của bên ủy quyền Thứ nhất, yêu cầu bên được ủy quyền thông báo đầy đủ về việc thực hiện công việc ủy quyền. Bên ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi do bên được ủy quyền nhân danh mình thực hiện do vậy bên ủy quyền cần phải được thông báo về thời gian, tiến độ, các trường hợp phát sinh cũng như kết quả và chất lượng của công việc do bên được ủy quyền thực hiện để nắm được toàn bộ tiến trình và kịp thời có phương án giải quyết nếu có phát sinh ngoài ý muốn. Thứ hai, yêu cầu bên được ủy quyền giao lại tài sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc ủy quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Thứ ba, được bồi thường thiệt hại, nếu bên được ủy quyền vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 565 của Bộ luật này. Điều 565 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ của bên được ủy quyền, nếu vi phạm một trong số các nghĩa vụ thì sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của bên ủy quyền. 2.4. Hình thức của hợp đồng ủy quyền BLDS 2015 không quy định cụ thể hình thức của hợp đồng ủy quyền. Thay vào đó, hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Đề phù hợp với thực tế, giúp các bên có nhu cầu tham gia hợp đồng ủy quyền thuận lợi trong việc xác lập cũng như trong quá trình thực hiện thì hiện nay, pháp luật Việt Nam không bắt buộc các bên tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền phải lập thành văn bản. Hợp đồng ủy quyền có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản không có công chứng/chứng thực, bằng văn bản có công chứng/chứng thực tủy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, trừ 7 những trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc hợp đồng ủy quyền phải lập theo một hình thức nhất định. 8 2.5. Thời hạn ủy quyền Đối với Hợp đồng ủy quyền, thời hạn ủy quyền là một nội dung có ý nghĩa rất quan trọng, bởi chính thời hạn sẽ ràng buộc cụ thể về một khoản thời gian mà bên ủy quyền tiến hành ủy quyền cho bên nhận ủy quyền nhân danh mình giao kết hoặc thực hiện các giao dịch dân sự. Điều 563 BLDS 2015 quy định: “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền” Xét theo quy định của pháp luật, thời hạn ủy quyền bị chi phối bởi các quy định về thời hạn và một số quy định về chấm dứt đại diện theo ủy quyền của BLDS 2015. Trong đó, thời hạn ủy quyền cũng có cách tính, thời điểm tính cũng như cách xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc tuân theo các quy định tại Điều 145, Điều 146, Điều 147 và Điều 148 BLDS 2015. Và thời điểm chấm dứt của thời hạn cũng bị điều chỉnh bởi một số quy định về chấm dứt đại diện theo ủy quyền tại khoản 3 Điều 140 BLDS 2015. Xét theo thỏa thuận về thời hạn không rõ ràng và những trường hợp đồng các bên không thỏa thuận thời hạn ủy quyền, các nhà làm luật mặc định cho thời hạn ủy quyền là 01 năm, kể từ ngày xác lập. Việc quy định thời hạn là 01 năm nhằm bảo vệ lợi ích cho cả hai bên trong hợp đồng ủy quyền. Đối với bên ủy quyền nhằm tránh hành vi lạm dụng của bên được ủy quyền cố ý kéo dài thời gian thực hiện công việc và đối với bên được ủy quyền nhằm tránh phát sinh thêm nhiều nghĩa vụ và nguy cơ phát sinh trách nhiệm dân sự.9 2.6. Uỷ quyền lại Uỷ quyền lại là hành vi của bên được ủy quyền, thông qua các căn cứ do pháp luật quy định, giao phó lại một phần hoặc toàn bộ công việc phải thực hiện theo hợp đồng ủy quyền cho người khác, với mục đích nối tiếp hợp đồng ủy quyền ban đầu mà không làm phương hại đến lợi ích của bên ủy quyền. Nguyễn Thị Nhiên (2017), Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật, tr.23. 9 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.25. 8 8 Điều 564 BLDS 2015 quy định 2 trường hợp bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác: - Trường hợp 1: Có sự đồng ý của bên ủy quyền; - Trường hợp 2: Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được. Sự đồng ý của bên ủy quyền được quy định thành căn cứ cho giao dịch ủy quyền lại nhằm tạo điều kiện để bên ủy quyền có cơ hội cân nhắc, tìm hiểu và củng cố sự tin tưởng với bên thứ ba trước khi cho phép bên được ủy quyền giao phó công việc cho chủ thể này. Quy định này hoàn toàn phù hợp với tính nhân thân của quan hệ ủy quyền do đó bên ủy quyền cần phải biết rõ không chỉ bên ủy quyền mà còn cả bên ủy quyền lại. Khoản 2 Điều 564 BLDS 2015 quy định: “Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu”. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền là hợp đồng ủy quyền giao kết với bên ủy quyền, phạm vi các quyền và nghĩa vụ này được giới hạn bởi phạm vi ủy quyền được hai bên thỏa thuận. Trong trường hợp, bên được ủy quyền muốn ủy quyền lại cho người khác thì cũng chỉ có thể ủy quyền không vượt quá phạm vi ban đầu để phù hợp với phạm vi quyền hạn của bên được ủy quyền và không lạm dụng ủy quyền lại để thực hiện các công việc không đúng với mong muốn và mục đích của bên ủy quyền. 10 Khoản 3 Điều 564 BLDS 2015 quy định: “Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu”. Về mặt hình thức quy định này yêu cầu hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hợp đồng ủy quyền ban đầu. Thực chất quy định trên là rất “mở” khi chỉ yêu cầu một hình thức ủy quyền lại “phù hợp” với hợp đồng ủy quyền ban đầu, tạo điều kiện cho các bên lựa chọn. Điều này đảm bảo được sự thống nhất hình thức trong toàn bộ quan hệ ủy quyền, đồng thời kiểm soát việc ủy quyền lại dễ dàng hơn. 11 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 11 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 10 9 2.7. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền Điều 569 BLDS 2015 quy định về việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền như sau: “1. Trường hợp ủy quyền có thù lao, bên ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được ủy quyền tương ứng với công việc mà bên được ủy quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý. Bên ủy quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên ủy quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc hợp đồng ủy quyền đã bị chấm dứt. 2. Trường hợp ủy quyền không có thù lao, bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên ủy quyền biết một thời gian hợp lý; nếu ủy quyền có thù lao thì bên được ủy quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho bên ủy quyền, nếu có.” Quy định trên cho phép cả hai bên trong hợp đồng ủy quyền được phép chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào nhưng kèm theo các điều kiện tùy theo từng trường hợp: hợp đồng ủy quyền có thù lao và hợp đồng ủy quyền không có thù lao. Ngoài ra trong cả hai trường hợp có thù lao và không có thù lao, bên ủy quyền còn có trách nhiệm thông báo cho người thứ ba biết về việc chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền. Đây là quy định hết sức quan trọng, bởi việc đơn phương chấm dứt của bên ủy quyền không chỉ có tác động đến hai bên của hợp đồng ủy quyền mà quan trọng hơn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người thứ ba, chính là người trực tiếp giao dịch với bên được ủy quyền. 2.8. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền Các trường hợp làm chấm dứt hợp đồng ủy quyền được quy định chung tại Điều 140 phần đại diện, cụ thể Khoản 3 Điều 140 quy định các trường hợp chấm dứt 10 diện theo ủy quyền. Việc quy định này thể hiện bản chất quan hệ ủy quyền thực ra là một trong các trường hợp của quan hệ đại diện. Theo quy định trên, hợp đồng ủy quyền chấm dứt trong các trường hợp sau: Theo thỏa thuận: Điều này phù hợp với nguyên tắc chung của pháp luật dân sự đó là: tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong khuôn khổ pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Thời hạn ủy quyền đã hết: Khi hết thời hạn ủy quyền, hợp đồng ủy quyền cũng chấm dứt dù mục đích ủy quyền có đạt được hay không, do vậy nếu muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng hai bên cần có thỏa thuận gia hạn trước thời điểm cuối của thời hạn ủy quyền trên. Công việc được ủy quyền đã hoàn thành: Đối tượng của hợp đồng ủy quyền là công việc cần thực hiện đã hoàn thành đồng nghĩa với cả hai bên đã đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng và mức độ hoàn thành công việc tùy thuộc vào mong muốn và nhận định chủ quan của hai bên tự thỏa thuận không có quy chuẩn nào do pháp luật đặt ra về vấn đề này. Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền. Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chét; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại. Quan hệ ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền có gắn với nhân thân của mỗi bên nên khi một trong hai bên không còn đồng nghĩa với việc tất cả các quyền và nghĩa vụ của các bên không thể chuyển giao cho người thừa kế (nếu là cá nhân) hoặc người tiếp quản (nếu là pháp nhân) mà chấm dứt hoàn toàn theo sự tồn tại của hợp đồng ủy quyền. Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Dân sự. Người được ủy quyền tại hợp đồng ủy quyền không còn đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự cũng là một trong những trường hợp làm chấm dứt hợp đồng. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích của bên ủy quyền bởi hợp đồng, giao dịch do bên được ủy quyền đại diện bên ủy quyền giao kết trong tình trạng không có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp có thể gây ra các hậu quả pháp lý không mong muốn giành cho bên ủy quyền. Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được. Quy định này được để ngỏ và chỉ mang tính nguyên tắc chung để các chủ thể của hợp đồng cũng 11 như những người áp dụng pháp luật tùy theo từng trường hợp mà ra quyết định xem có chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền hay không. Chương 3: Một số vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện 3.1. Một số vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về hợp đồng ủy quyền 3.1.1. Về hình thức của hợp đồng ủy quyền Hiện nay, pháp luật Dân sự chưa đưa ra một quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng ủy quyền. Theo đó, hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải lập thành văn bản hay chỉ cần lời nói, nếu bắt buộc thành lập văn bản thì hợp đồng ủy quyền có phải công chứng, chứng thực theo quy định không? Xét về góc độ pháp lý và thực tiễn, đối với hợp đồng ủy quyền là một thỏa thuận giao kết dân sự, thì sẽ ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa người ủy quyền và người nhận ủy quyền về một công việc, một sự kiến pháp lý nhất định, mà bên được ủy quyền phải có nghĩa vụ thực hiện nhân dân bên ủy quyền. Cho nên, khi giao kết hợp đồng ủy quyền giữa người ủy quyền và người nhận ủy quyền có thể thỏa thuận với nhau bằng lời nói nhưng phải thỏa mãn các nội dung của một giao dịch ủy quyền, cụ thể là quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, nếu ghi nhận hình thức của hợp đồng ủy quyền chỉ cần lời nói thì sẽ gặp khó khăn khi phát sinh tranh chấp, đặc biệt là việc chứng minh về có việc giao kết hợp đồng ủy quyền hay không, cũng như sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các bên.12 Một vấn đề nữa là trong trường hợp pháp luật chuyên ngành quy định hình thức hợp đồng phải lập thành văn bản và chỉ có giá trị khi được công chứng hoặc chứng thực, thì hợp đồng ủy quyền khi đó không chỉ bắt buộc phải lập thành văn bản mà phải tiến hành 3.1.2. Về nội dung của hợp đồng ủy quyền Theo Điều 562 quy định “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền”, nhưng cụ thể gồm những công việc gì? Giới hạn ra sao thì chưa có quy định cụ thể? 12 Ths. Phan Vũ Linh, Bàn về chế định hợp đồng ủy quyền của Bộ Luật Dân sự, Tạp chí Nghề luật số 6, 2015, tr.17. 12 Vụ việc: Ông An khởi kiện bà Bình về việc chia di sản thừa kế của cha mẹ chết để lại là cụ N và M (cụ N chết năm 1989 và cụ M chết năm 2001, giữa cụ N và M có với nhau sáu người con), trong sáu người con đó, có bà H và ông T đang định cư sinh sống tại nước ngoài. Để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự Tòa án đã yêu cầu bà H và ông T có ý kiến của mình về nội dung vụ kiện, văn bản ý kiến đã được hợp thức hóa lãnh sự theo quy định. Sau khi nhận được văn bản của Tòa án, bà H và ông T có văn bản ủy quyền cho Luật sư K nhân danh mình đến Tòa án tham gia tố tụng trong vụ kiện trên. Văn bản ủy quyền có nội dung bà H và ông T ủy quyền cho Luật sư K “… được nhân danh bà H và ông T đến Tòa án tham gia tố tụng trong vụ kiện và toàn quyền quyết định, định đoạt mọi vấn đề trong vụ kiện trên, đồng thời yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo pháp luật Việt Nam…”. 13 Có hai quan điểm khác nhau về nội dung ủy quyền của bà H và ông T cho Luật sư K: Quan điểm thứ nhất: Nội dung ủy quyền của bà H và ông T ủy quyền cho ông K là không phù hợp với quy định của pháp luật, mà cụ thể là ông K không thể thay mặt bà H và ông T yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo quy định của pháp luật được, bởi bà H và ông T được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện, mà một khi có yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cha mẹ để lại (mà cụ thể là yêu cầu độc lập) thì về thủ tục được thực hiện theo quy định về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể là trong trường hợp này bà H và ông T phải làm đơn khởi kiện đồng thời ký tên vào đơn khởi kiện của mình theo quy định tại Điều 186 BLTTDS năm 2015. Do đó, ông K không thể đại diện bà H và ông T yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ N và M để lại theo quy định của pháp luật được, cho nên nội dung ủy quyền này không hợp pháp.14 Quan điểm thứ hai: Nội dung ủy quyền của bà H và ông T cho ông K là đúng quy định pháp luật, bởi vì tại khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 quy định “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”, theo đó ông K đã nhân danh bà H và ông T yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật và công việc này vẫn nằm trong phạm vi ủy quyền của các bên. Hơn nữa, việc ông K làm người đại diện theo 13 14 Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 13 ủy quyền cho bà H và ông T không thuộc trường hợp không được làm người đại diện (Điều 87 BLTTDS năm 2015). Do đó, giao dịch bằng hình thức hợp đồng ủy quyền giữa bà H, ông T với ông K không vi phạm pháp luật nên ông K được quyền nhân danh bà H và ông T đến Tòa án yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật, có quyền nộp đơn thay mặt bà H và ông T. Trong trường hợp ông K vượt quá phạm vi ủy quyền đã thỏa thuận với bà H và ông T thì phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 143 BLDS năm 2015. 15 3.1.3. Về thời hạn ủy quyền Đối với thời hạn có hiệu lực của hợp đồng ủy quyền được quy định tại Điều 563 BLDS 2015 đã xác định ba trường hợp: Thời hạn do các bên thỏa thuận; Do pháp luật quy định; Nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Tuy nhiên, khi vận dụng điều luật này trên thực tế đã xuất hiện một số khó khăn, vướng mắc nhất định, cụ thể: Thứ nhất, trong một vụ án dân sự vì một lý do nào đó thì người tham gia tố tụng không thể tham gia trực tiếp theo vụ án được và chọn ủy quyền lại cho một người nào đó, có thể là người thân hoặc cũng có thể là một luật sư… thay mặt họ để tham gia tố tụng trong vụ án và thông thường đối với các hợp đồng ủy quyền này, các bên xác định về thời hạn ủy quyền trong hợp đồng hay ghi “Thời hạn ủy quyền: Kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ kiện bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Qua đây thì thời hạn kết thúc ủy quyền đã được xác định tương đối rõ ràng là “đến khi kết thúc vụ kiện bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thời gian bắt đầu vụ kiện là khi nào? Đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng Dân sự cũng như BLDS hiện hành thì chưa có một quy định nào về chế định bắt đầu vụ kiện là từ khi nào? Và hiện nay trên thực tế cũng có nhiều quan điểm khác nhau về chế định này, cụ thể như sau: 15 Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 14 Quan điểm thứ nhất: thời gian bắt đầu vụ kiện là kể từ khi nguyên đơn có đơn khởi kiện cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Quan điểm thứ hai: bắt đầu vụ kiện không phải từ khi người khởi kiện có đơn yêu cầu mà phải được tính từ khi cơ quan chức năng có thẩm quyền (không nhất thiết phải là Tòa án) nhận đơn của họ, và khi đó quyền lợi của họ nêu trong đơn mới được cơ quan chức năng xem xét giải quyết thì khi đó mới bắt đầu vụ kiện và họ có thể ủy quyền; Quan điểm thứ ba: thời gian bắt đầu vụ kiện chỉ được tính từ khi Tòa án thụ lý vụ án, khi đó quyền và nghĩa vụ của các đương sự mới bắt đầu phát sinh, trước khi Tòa án thụ lý vụ án thì các việc ủy quyền không có giá trị pháp lý về mặt tố tụng. 16 Thứ hai, trong trường hợp các bên đương sự không có thỏa thuận về thời hạn ủy quyền và pháp luật cũng không có quy định thì pháp luật xác định thời hạn ủy quyền của các bên có hiệu lực là một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Nhưng vấn đề đặt ra là “ngày xác lập việc ủy quyền” là ngày nào, cụ thể là ngày hai bên ký vào văn bản ủy quyền hay tính từ ngày được cơ quan chức năng xác nhận vào hợp đồng ủy quyền đó? Hơn nữa, trường hợp người ủy quyền ủy quyền cho người nhận ủy quyền thực hiện một công việc nhất định, nhưng chưa xác định rõ bao lâu mà chỉ “cho đến khi kết thúc công việc”, vậy khi đó thời hạn ủy quyền không được xác định bằng thời gian cụ thể là bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm, mà thời hạn cho đến khi người nhận ủy quyền làm xong công việc ủy quyền. 17 Thứ ba, trong trường hợp ủy quyền nếu được lập từ nước ngoài (do có đương sự ở nước ngoài) gửi về Việt Nam, để ủy quyền này có hiệu lực thì tiến hành hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định thì mới có hiệu lực pháp luật, nhưng trong hợp đồng ủy quyền này đương sự không ghi thời hạn ủy quyền thì theo quy định của Điều 563 BLDS thời hạn ủy quyền trong trường hợp này là một năm. Vấn đề là, thời hạn một năm được tính từ thời điểm nào (i) thời gian người ủy quyền ký, (ii) kể từ khi cơ quan chức năng của nước ngoài xác nhận, (iii) tính từ ngày hợp pháp hóa lãnh sự (iv) Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. Ths. Phan Vũ Linh (2015), Bàn về chế định hợp đồng ủy quyền của Bộ Luật Dân sự, Tạp chí Nghề luật số 6, 2015, tr.18,19. 16 17 15 được tính từ ngày người nhận ủy quyền ký vào văn bản ủy quyền? 18 Cho đến nay vấn đề này cũng chưa được xác định rõ ràng, bởi nếu trong trường hợp xét xử một vụ án dân sự có ủy quyền, mà tính chất vụ án phức tạp, các đương sự có liên quan có thể dựa vào đây để yêu cầu hủy án trong trường hợp quyền lợi của họ không được đảm bảo, sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khác phát sinh và kéo dài thời gian giải quyết vụ án.19 3.1.4. Về chấm dứt hợp đồng ủy quyền Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 569 BLDS năm 2015 đã quy định trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, theo đó quy định hai trường hợp ủy quyền là bên ủy quyền và bên được ủy quyền muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền phải thông báo cho bên kia biết về việc đơn phương chấm dứt ủy quyền, trong trường hợp có hệ quả từ hợp đồng ủy quyền thì phải bồi thường thiệt hại theo Điều 585 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, trên thực tế đã có một số trường hợp chưa đủ cơ sở xác định hợp đồng ủy quyền của các bên đã chấm dứt hay chưa.20 Vụ án: Vào tháng 6/2000 bà L có bán cho bà V căn nhà cấp 4 tại số 5/15, đường Nguyễn Văn Cừ, phường An Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ với số vàng 160 lượng. Tuy nhiên sau đó cơ quan chức năng đã xác định bà V chưa đủ điều kiện mua nhà theo quy định của Luật Nhà ở hiện hành). Sau đó bà V đã khởi kiện bà L về việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở, mà cụ thể là yêu cầu bà L bồi thường cho bà số tiền đã đưa trước tương đương 80 lượng vàng. Vụ án được giải quyết nhiều lần nhưng bị giám đốc thẩm hủy, trong quá trình giải quyết vụ án thì bị đơn bà L sang định cư tại Hoa Kỳ, sau đó bà L ủy quyền cho con rể của mình là ông K nhân danh mình đến Tòa án tham gia tố tụng trong vụ kiện trên. Tuy nhiên, đến năm 2010 ông K bị bệnh tai biến (có xác nhận của bệnh viện), không thể đi lại để tham gia tố tụng trong vụ kiện trên, nên Tòa án đã có văn bản thông báo cho bà L biết và yêu cầu bà cung cấp ý kiến của mình, sau đó phía gia đình của bà L chuyển cho Tòa án giấy xác nhận của bệnh viện (ở Hoa Kỳ) do bà L đã 85 tuổi nên không còn minh mẫn nữa để trực tiếp tham gia tố tụng hay làm ủy quyền lại cho người khác. Để xác định bà L hoặc ông K bị hạn chế năng lực hành vi hay mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 16 và 19 của BLDS năm 2015 thì Ths. Phan Vũ Linh (2015), Bàn về chế định hợp đồng ủy quyền của Bộ Luật Dân sự, Tạp chí Nghề luật số 6, 2015, tr.18,19. 19 Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 20 Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 18 16 phải có kết luận của tổ chức giám định, có yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì sẽ giải quyết bằng một việc dân sự, nhưng cả phía gia đình bà L và cả phía nguyên đơn bà V đều không có yêu cầu. Cho nên việc xác định hợp đồng ủy quyền giữa bà L và ông K còn hiệu lực pháp luật hay đã chấm dứt hiện nay cũng còn nhiều quan điểm trái ngược chiều nhau, trong trường hợp ông K muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền với bà L nhưng không thể thông báo cho bà L biết, thì có bị vi phạm hợp đồng ủy quyền không. 21 - Quan điểm thứ nhất: Cho rằng hợp đồng ủy quyền giữa bà L và ông K vẫn hiệu lực pháp luật, bởi lẽ hiện nay pháp luật chỉ quy định đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền, khi thông báo cho bên kia biết trong khoảng thời gian hợp lý và giữa bà L và ông K chưa có yêu cầu chấm dứt hợp đồng ủy quyền giữa hai bên và Tòa án cũng chưa có quyết định về hạn chế năng lực hay mất năng lực hành vi của bà L hay ông K. Do đó, hợp đồng ủy quyền này vẫn còn hiệu lực pháp luật.22 - Quan điểm thứ hai: Cho rằng hợp đồng ủy quyền giữa bà L và ông K đã chấm dứt và không còn hiệu lực pháp luật, bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 565 BLDS năm 2015 quy định “Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó”, do ông K nhận ủy quyền của bà L nhưng không thông báo tiến độ công việc cho bà L dẫn đến không hoàn thành nghĩa vụ thỏa thuận giữa hai bên nên hợp đồng ủy quyền này đương nhiên không còn hiệu lực pháp luật.23 Từ hai quan điểm trên và đối chiếu với quy định của pháp luật về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền thì pháp luật dân sự chưa quy định cụ thể về trường hợp trên. Tuy nhiên, trong hai quan điểm trên thì quan điểm thứ nhất có lẽ phù hợp hơn, bởi lẽ pháp luật đã xác định trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền không vi phạm, đối với trường hợp trên thì chỉ khi nào bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố bà L hoặc ông K bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc chết thì hợp đồng ủy quyền mới hết hiệu lực pháp luật. 21 22 23 Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 17 3.2. Một số kiến nghị chung hoàn thiện pháp luật Thứ nhất, cần quy định các nội dung chính của hợp đồng ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền là một hợp đồng dân sự thông dụng, nội dung thỏa thuận rất đa dạng và có nhiều điểm cần phải được đề cập để tránh rủi ro phát sinh tranh chấp cho các bên chủ thể tham gia giao dịch và các bên liên quan. Do đó, các nhà làm luật cần quy định cụ thể và hướng dẫn rõ ràng hơn đối với những quy định về nội dung chính của hợp đồng ủy quyền như: nội dung ủy quyền, thời hạn ủy quyền, các trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền, v.v…qua đó đảm bảo pháp luật được áp dụng thống nhất và hạn chế việc hủy án do vi phạm tố tụng liên quan đến ủy quyền. Thứ hai, cần có thêm quy định bắt buộc về căn cứ ủy quyền. Căn cứ ủy quyền là căn cứ về mặt pháp lý, được pháp luật ghi nhận cho một chủ thể có một hoặc một số quyền xác định và được phép chuyển giao (ủy quyền) cho người khác. Tại thời điểm ký kết hợp đồng ủy quyền, phải đảm bảo căn cứ ủy quyền được xác định rõ ràng và phải có các hồ sơ, giấy tờ chứng minh. Bởi nếu không có căn cứ ủy quyền thì không có hợp đồng ủy quyền. Do đó, căn cứ ủy quyền giúp cho nội dung của hợp đồng ủy quyền chặt chẽ cả về mặt lý luận lẫn pháp lý, phạm vi ủy quyền cũng vì thế mà phù hợp hơn với quyền hạn của bên ủy quyền, công việc do người được ủy quyền thực hiện sẽ không vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép và các giao dịch với người thứ ba liên quan sẽ bảo đảm hơn về tính pháp lý. 24 Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.64. 24 18 KẾT LUẬN Để tiến hành giao kết, thực hiện một giao dịch dân sự trong đời sống xã hội thì cá nhân, pháp nhân có thể trực tiếp tham gia hoặc có thể ủy quyền cho một người khác nhân danh mình để giao kết, thực hiện giao dịch dân sự đó. Do đó, hợp đồng ủy quyền là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là cơ sở pháp lý hình thành quan hệ đại diện theo ủy quyền. Qua phân tích đánh giá những quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện hợp đồng ủy quyền, tác giả muốn đem lại cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về những vấn đề liên quan đến hợp đồng ủy quyền trong quy định của pháp luật hiện hành cũng như hiểu rõ hơn về thực trạng áp dụng các quy định này trên thực tiễn. Từ đó tác giả có đề xuất một số kiến nghị chung mong muốn pháp luật Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện chế định về hợp đồng ủy quyền để việc áp dụng trên thực tế được chính xác và giảm thiểu tối đa nguy cơ tranh chấp cho tất cả các chủ thể liên quan tham giao vào quan hệ ủy quyền trong tương lai. Quá trình thực tập tại Tòa án tuy không có nhiều vụ án, tài liệu có thể áp dụng trực tiếp vào đề tài về hợp đồng ủy quyền người viết đã lựa chọn nhưng thời gian thực tập tại đây đã giúp cho em có được nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý giá qua việc sắp xếp, nghiên cứu hồ sơ các vụ án hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại đang diễn ra trên thực tiễn, học hỏi cách thẩm phán xử lý công việc hàng ngày. Báo cáo thực tập này là kết quả của quá trình nghiên cứu, tham khảo những luận văn đã viết về đề tài này trước đó và những bài tạp chí về thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hợp đồng ủy quyền trong thời gian gần đây, đồng thời là sự ứng dụng những kỹ năng và kiến thức được học hỏi, rèn luyện tại cơ sở thực tập. Đây cũng là bài Báo cáo đầu tiên đối với cá nhân em nên có thể vẫn tồn tại những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Quý thầy, cô để Báo cáo được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật Dân sự 2015 2. Trương Vũ Linh (2021), Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong các vụ án dân sự, Tạp chí Tòa án nhân dân. 3. Nguyễn Nhất Nam (2019), Hợp đồng ủy quyền - Lý luận và thực tiễn: luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. 4. Ths. Phan Vũ Linh (2015), Bàn về chế định hợp đồng ủy quyền của Bộ Luật Dân sự, Tạp chí Nghề luật số 6, 2015. 20