GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM LỜI NÓI ĐẦU Giáo dục học là một môn học trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ tác nghiệp cho sinh viên sư phạm. Việc giảng dạy, học tập bộ môn Giáo dục học và học phần Giáo dục học đại cương đòi hỏi sinh viên phải tham khảo nhiều nguồn tài liệu và đối chiếu lý luận với thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Để hỗ trợ việc học tập của sinh viên, chúng tôi biên soạn tài liệu “Giáo dục học đại cương” theo chương trình phần giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp cho các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm trong quyết định số 2677/GD - ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Tài liệu gồm có 4 chương. Mỗi chương đều giới thiệu mục tiêu học tập định hướng cho sinh viên trong việc tìm hiểu nội dung đồng thời giúp sinh viên tự thẩm định kết quả học tập của mình. Ngoài phần trình bày lý thuyết, tài liệu còn đưa ra những câu hỏi hướng dẫn học tập và thảo luận ở cuối chương để sinh viên có thể tự học cùng với việc tiếp thu bài giảng trên lớp. Một vài triết lý giáo dục được nêu lên ở đầu chương nhằm nhấn mạnh ý nghĩa bài học đồng thời làm nổi bật tính chất sư phạm của một tài liệu thuộc lĩnh vực giáo dục. Tài liệu đã cố gắng cập nhật tri thức và liên hệ lý luận với thực tiễn để giúp sinh viên tiếp thu môn học thuận lợi hơn. Tài liệu đã được điều chỉnh dựa trên nhận xét phản biện của Giáo sư Bùi Ngọc Hồ và ý kiến của Hội đồng thẩm định gồm một số giảng viên Tổ Giáo dục học, khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm TPHCM. Nhóm biên soạn chân thành đón nhận và cảm ơn các ý kiến đóng góp để tài liệu được hoàn chỉnh nhằm phục vụ tốt hơn cho việc học tập của sinh viên trong quá trình đào tạo ở nhà trường sư phạm. Nhóm biên soạn Võ Văn Nam và Nguyễn Thị Bích Hồng Bài mở đầu Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC HỌC Mục tiêu: Sau bài học này, người học có khả năng 1. Về kiến thức: a. Biết cấu trúc chương trình học b. Xác định mục tiêu của học phần “Giáo dục học đại cương” 2. Về thái độ: a. Khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu và vận dụng tri thức Giáo dục học đối với giáo viên trong công tác giáo dục học sinh. b. Chủ động tìm hiểu nội dung môn học. “Nghệ thuật giáo dục có một đặc điểm là một việc mà ai cũng có thể hiểu được, nhận thức được, thậm chí có một số người cho là một việc dễ dàng. Thật ra, chính những người cho giáo dục là dễ và quen thuộc lại là những người trên thực tế cũng như trên lý luận chẳng hiểu gì về giáo dục cả”. K. D. Usinxki (Nga; 1824 - 1870): Nội dung bài học: I. Giáo dục học với việc giáo dục con người Giáo dục là hoạt động nhằm rèn luyện, bồi dưỡng nhân cách cho con người. Hoạt động này không thể tiến hành một cách tùy tiện theo những ý muốn chủ quan hay kinh nghiệm riêng lẻ mà phải dựa trên những hướng dẫn có tính khoa học. Giáo dục học là khoa học nghiên cứu về việc giáo dục con người. Những ai quan tâm đến việc giáo dục con người đều có thể tìm thấy trong Giáo dục học những chỉ dẫn cần thiết về phương hướng, biện pháp và cách thức tổ chức giáo dục để đạt kết quả mong muốn. Vì vậy nghiên cứu Giáo dục học có tầm quan trọng đối với mỗi người tùy theo góc độ quan tâm của họ. II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học a. Đối với giáo viên Một trong những điều kiện để giáo viên có thể phát triển năng lực sư phạm, có thể giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục là phải có kiến thức, kỹ năng, thái độ nghiêm túc trong việc nắm bắt các quy luật, các phương pháp giáo dục..., tức là phải nắm vững khoa học giáo dục. Giáo dục học là một môn học nghiệp vụ, trang bị tay nghề cho giáo viên, giúp họ thực hiện tốt đẹp sứ mạng giáo dục thế hệ trẻ đã được xã hội giao phó. Cụ thể là: - Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên có cơ sở lý luận vững chắc để tổ chức tốt quá trình giáo dục ở nhà trường. Tri thức Giáo dục học định hướng cho giáo viên trong việc thiết kế, tổ chức các hoạt động giảng dạy và học tập; hoạt động giáo dục và rèn luyện cụ thể đối với học sinh. Giáo viên biết vận dụng tri thức Giáo dục học một cách phù hợp sẽ xây dựng được những tác động giáo dục hiệu quả và gặt hái thành công trong công tác giáo dục, chứng tỏ được bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Ngược lại nếu không quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học trong các tác động giáo dục học sinh, giáo viên sẽ có nhiều sai sót và cho thấy trình độ nghề nghiệp còn non yếu. Trong thực tiễn giáo dục học sinh, phần lớn những sai sót của giáo viên đều do họ đã xa rời lý luận, không tuân thủ các nguyên tắc giáo dục cơ bản mà Giáo dục học đã xác định. - Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên làm tròn chức năng tham mưu, cố vấn hướng dẫn công tác giáo dục của gia đình và xã hội. Để công tác giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo trong sự phối hợp giáo dục học sinh là con em của các gia đình và là công dân của xã hội. Vì vậy ngoài việc trực tiếp giáo dục học sinh, giáo viên còn có chức năng hướng dẫn, hỗ trợ hoạt động giáo dục của gia đình, xã hội và thống nhất các tác động giáo dục này đối với học sinh để tạo hiệu quả giáo dục cao nhất. Tri thức Giáo dục học giúp giáo viên có cơ sở khoa học để giải thích, hướng dẫn và tổ chức phối hợp các hoạt động giáo dục của gia đình và xã hội theo định hướng giáo dục của nhà trường. - Nghiên cứu Giáo dục học giúp giáo viên rèn luyện nâng cao năng lực sư phạm, làm cho hoạt động nghề nghiệp ngày càng tinh xảo. Thực tế hoạt động giáo dục sẽ tạo nên nhiều kinh nghiệm quý báu để mỗi giáo viên điều chỉnh và phát huy khả năng hoạt động nghề nghiệp của bản thân. Vì vậy có những giáo viên tuy không được trang bị tri thức Giáo dục học nhưng họ vẫn thành công trong nghề nghiệp bằng cách tự học hỏi, tự đúc kết kinh nghiệm để rèn luyện tay nghề thông qua hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Tuy nhiên, nếu giáo viên được trang bị Giáo dục học hoặc luôn chú trọng nghiên cứu Giáo dục học thì hoạt động nghề nghiệp của họ sẽ không diễn ra một cách mày mò với nhiều vấp váp mà sẽ nhanh chóng thành công ở đỉnh cao của nghệ thuật giáo dục. b. Đối với các bậc cha mẹ Gia đình có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách trẻ em. Giáo dục gia đình thành công không chỉ mang lợi ích cho từng cá nhân con người mà còn liên quan đến hạnh phúc gia đình và sự tiến bộ của xã hội. Trên thực tế các bậc cha mẹ thường tiến hành giáo dục con bằng những kinh nghiệm ít ỏi vốn có, thiếu tính hệ thống nên gặp nhiều lúng túng, khó khăn. Việc nghiên cứu Giáo dục học giúp các bậc cha mẹ có thể thực hiện việc giáo dục con khoa học hơn và hiệu quả hơn. Giáo dục con cái là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống chúng ta. Con cái chúng ta là những công dân tương lai của nước ta và thế giới. Chúng sẽ làm nên lịch sử. Con chúng ta sẽ là những người cha và người mẹ tương lai, chúng cũng sẽ phải nuôi dạy con cái sau này. Con chúng ta phải trở thành những công dân tốt, cha mẹ tốt. Mặt khác, tuổi già của chúng ta phụ thuộc ở con cái. Được giáo dục tốt chúng sẽ làm cho tuổi già của chúng ta sung sướng, không được giáo dục tốt, chúng sẽ làm cho chúng ta đau khổ và chính chúng ta lại là người chịu trách nhiệm về chúng trước tổ quốc. (A.C. Macarenko) c. Đối với các cán bộ xã hội và các nhà quản lý giáo dục Hoạt động giáo dục diễn ra không chỉ trong nhà trường mà cả ở những đơn vị, tổ chức xã hội (nhà văn hóa, cơ quan truyền thông, trại giam. Giáo dục học giúp cho các nhà quản lý, các cán bộ chuyên trách tại các đơn vị xã hội tiến hành các hoạt động quản lý và giáo dục một cách chủ động, hiệu quả đồng thời phối hợp với các hoạt động giáo dục của gia đình và nhà trường một cách đúng đắn, tối ưu hơn. Kết luận Tất cả những người làm công tác giáo dục đều cần phải nghiên cứu Giáo dục học - khoa học về giáo dục con người. Đối với giáo viên, nghiên cứu Giáo dục học càng có ý nghĩa quan trọng vì giáo viên vốn được xem là những chuyên gia giáo dục, hơn ai hết họ phải am tường khoa học giáo dục để giáo dục học sinh ở nhà trường và giáo dục con em của họ trong gia đình. Đây là một kết luận rút ra từ những thành công, thất bại của hoạt động giáo dục trong thực tiễn. III. Cấu trúc chương trình học Chương trình học bộ môn Giáo dục học dành cho sinh viên trường Đại học Sư phạm bao gồm 2 học phần như sau: * Học phần 1: 60 tiết - Giáo dục học đại cương - Lý luận dạy học - Lý luận về người giáo viên trung học phổ thông - Báo cáo thực tế * Học phần 2: 60 tiết - Lý luận giáo dục; - Lý luận về công tác chủ nhiệm lớp - Giao tiếp sư phạm - Báo cáo thực tế - Hội thi nghiệp vụ sư phạm IV. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương” (dành cho sinh viên các khoa không phải chuyên ngành Tâm lý Giáo dục). * Mục tiêu của học phần: Sau khi học xong học phần này, người học có khả năng: - Nhận thức khái quát và cơ bản về hoạt động giáo dục và Giáo dục học - Xác định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của cá nhân và của xã hội. - Định hướng công tác giáo dục trong thực tiễn nhà trường phổ thông thông qua việc nhận thức mục tiêu và các con đường giáo dục. - Tìm hiểu hệ thống lý luận giáo dục một cách thuận lợi trong quá trình tiếp thu các học phần sau. * Nội dung của học phần gồm 4 chương: - Chương 1: Giáo dục học là một khoa học - Chương 2: Giáo dục và sự phát triển nhân cách - Chương 3: Mục đích giáo dục - Chương 4: Các con đường giáo dục - Chương 1: Trình bày sự nảy sinh, phát triển và tác động biện chứng của hiện tượng giáo dục đối với quá tình phát triển xã hội. Tóm tắt lịch sử ra đời của Giáo dục học và định hướng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện Giáo dục học trong giai đoạn hiện nay. Phân tích những yếu tố cơ bản giúp xác định Giáo dục học là một khoa học: đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu; hệ thống khái niệm cơ bản; phương pháp nghiên cứu... - Chương 2: Phân tích vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách trong mối liên hệ với các yếu tố ảnh hưởng khác như di truyền, môi trường, hoạt động - giao lưu của cá nhân. Trình bày nội dung và cách thức giáo dục tương ứng với các giai đoạn phát triển nhân cách của trẻ em. - Chương 3: Xác định các cấp độ mục đích giáo dục và nhiệm vụ của giáo viên tương ứng với từng cấp độ. Phân tích cơ sở xác định và nội dung của mục đích giáo dục tổng quát trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay. Trình bày hệ thống giáo dục quốc dân và các nhiệm vụ giáo dục tổng quát. - Chương 4: Trình bày nội dung, cách thức thực hiện và tác động của các con đường giáo dục cơ bản trong nhà trường phổ thông. Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC Mục tiêu: Sau bài học này người học có khả năng 1. Về kiến thức a. Mức độ Biết: i. Phát biểu được đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học ii. Phát biểu nội dung các khái niệm: giáo dục, tự giáo dục, giáo dục lại, giáo dưỡng, dạy học, tự học iii. Nêu ra được thời điểm và người xây dựng Giáo dục học thành một khoa học độc lập. b. Mức độ Hiểu: i. Trình bày các chức năng xã hội và các tính chất của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội. ii. Phân tích cấu trúc của quá trình giáo dục: trình bày vai trò của từng yếu tố và phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố. iii. Đưa ra những căn cứ để chứng minh Giáo dục học là một khoa học. c. Mức độ Vận dụng: i. Phân tích những xu hướng cải tiến quá tình giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. 2. Về thái độ i. Trân trọng thành quả xây dựng hệ thống lý luận giáo dục thành một khoa học. ii. Quan tâm nghiên cứu vận dụng Giáo dục học vào thực tiễn công tác giáo dục. “Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục. ” (Bennet - Anh) Nội dung bài học: I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT 1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội Giáo dục là một hiện tượng làm thỏa mãn nhu cầu to lớn của xã hội là truyền kinh nghiệm của các thế hệ trước cho thế hệ sau để duy trì và phát triển loài người. Giáo dục nảy sinh và phát triển trong lao động sản xuất và đời sống của con người. * Nảy sinh: Khoa học chứng minh rằng con người có nguồn gốc từ động vật (loài vượn). Hai nhân tố chủ yếu quyết định cho sự chuyển biến từ vượn thành người là: lao động và có tiếng nói. Khi loài người xuất hiện trên trái đất họ đã tiến hành lao động. Hoạt động lao động giúp con người thích ứng và cải tạo môi trường sống để tồn tại, qua đó họ tích lũy được các kinh nghiệm và những hiểu biết về thế giới tự nhiên, xã hội. Cuộc đấu tranh sinh tồn đòi hỏi con người phải phân công và truyền đạt những kinh nghiệm lao động cho nhau (săn bắt, hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt...), kinh nghiệm tìm kiếm các phương tiện sinh sống, kinh nghiệm chống thú dữ... Nhờ có ngôn ngữ nên con người có thể trao đổi và truyền thụ các kinh nghiệm, sự hiểu biết từ người này sang người khác. Sự trao đổi và truyền thụ kinh nghiệm đó chính là hiện tượng giáo dục. Lúc ban đầu, việc truyền thụ thường do người già, người lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm truyền lại cho lớp trẻ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi xã hội hình thành gia đình thì việc truyền thụ kinh nghiệm do các bậc cha mẹ đảm nhận. * Phát triển: Xã hội ngày càng tiến lên thì sự tích lũy kinh nghiệm ngày càng nhiều, phong phú, đa dạng về nhiều lĩnh vực: từ kinh nghiệm lao động sản xuất, đấu tranh xã hội, kinh nghiệm về đời sống xã hội (phong tục, lễ nghi...) đến những hiểu biết về tự nhiên, thẩm mỹ, đạo đức, triết học... Nội dung phong phú đòi hỏi hình thức truyền thụ phải thích hợp hơn. Hình thức truyền thụ của người già và sau đó của các bậc cha mẹ trong từng gia đình không còn thích hợp với yêu cầu của cuộc sống nữa. Từ đó, việc giáo dục bắt đầu được giao cho những người có kinh nghiệm truyền đạt và nhiều hiểu biết tiến hành. Trong xã hội dần dần xuất hiện đội ngũ những nhà trí thức chuyên tiến hành việc truyền thụ kinh nghiệm và tri thức cho người khác. Từ đó dẫn đến sự ra đời của nghề dạy học. Như vậy thực chất của giáo dục là truyền thụ kinh nghiệm lịch sử xã hội cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho họ bước vững vàng vào cuộc sống xã hội. Nét đặc trưng cơ bản của giáo dục là truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm đã tích lũy trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhờ lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử mà cá thể trở thành nhân cách. Giáo dục gắn bó với tiến trình phát triển của lịch sử - xã hội làm cho nhân cách của con người được phát triển đầy đủ và phong phú hơn. 2. Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt 2.1. Giáo dục là chức năng không thể thiếu của xã hội loài người Muốn được duy trì và phát triển, xã hội nhất định phải thực hiện chức năng giáo dục để tái sản xuất những nhân cách, những nhu cầu, năng lực của con người, tái sản xuất những sức mạnh của bản chất con người. Giáo dục chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống, bảo đảm mối liên hệ kế tục giữa các thế hệ. Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ thu nhận những kinh nghiệm do thế hệ trước đã tích lũy, nhờ vậy họ không rơi vào những sai lầm hay thất bại của người đi trước và có thể tiếp cận trình độ văn minh của xã hội để tham gia vào đời sống hiệu quả hơn. Giáo dục còn thúc đẩy xã hội tiến lên không ngừng thông qua việc bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những phẩm chất cần thiết để họ giải quyết những nhiệm vụ mới nảy sinh do sự phát triển của xã hội mà kinh nghiệm cha anh chưa từng trải. Ví dụ: Trước đây con người đã từng bó tay trước một số bệnh nan y như: lao phổi, bệnh phong.... Giáo dục thúc đẩy y học phát triển để phát hiện phương thuốc chữa trị đối với các bệnh này. Ngày nay con người lại đang đối diện với các vấn đề mới nảy sinh như: bệnh Aisd, sự bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường... Nhờ có giáo dục, con người sẽ tìm được cách giải quyết cho các vấn đề đó và làm cho xã hội ngày càng văn minh tiến bộ hơn. 2.2. Nhu cầu về giáo dục không bao giờ suy giảm mà sẽ ngày càng gia tăng Một số hiện tượng xã hội sau khi nảy sinh, phát triển sẽ có những giai đoạn bị suy thoái như các hiện tượng về thời trang, về phong tục tập quán, về tôn giáo... Nhưng giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt bởi vì trình độ xã hội càng nâng cao thì nhu cầu của xã hội và con người về giáo dục không giảm sút mà ngày càng gia tăng theo xu thế “giáo dục là cho tất cả mọi người” trong một “xã hội học tập” như Lênin đã từng khẳng định “giáo dục là phạm trù phổ biến và vĩnh hằng”. 3. Các chức năng xã hội của giáo dục Chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát triển nhân cách con người, là chuẩn bị hành trang cho cá nhân con người với tư cách là chủ thể tham gia có hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do tác động đến nhân cách con người thông qua việc đào tạo một thế hệ công dân, một đội ngũ lao động lành nghề và đội ngũ các nhà trí thức cho xã hội, giáo dục có khả năng tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mà con người là chủ thể. Là một hiện tượng xã hội nên giáo dục tác động chi phối đến các quá trình xã hội khác thông qua ba loại chức năng xã hội của giáo dục như: 3.1. Chức năng kinh tế- sản xuất Con người là sản phẩm của giáo dục, với tư cách là một lực lượng sản xuất quan trọng bậc nhất xã hội. Mỗi thời kỳ lịch sử đòi hỏi phải có người lao động thích ứng. Giáo dục tái sản xuất sức lao động cho xã hội, tạo ra sức lao động mới có chất lượng và hiệu quả hơn để thay thế cho sức lao động cũ đã hoàn thành nhiệm vụ lao động cống hiến cho xã hội. Giáo dục trước hết giúp cho người lao động có được thể lực khỏe mạnh, có trí tuệ phát triển kịp với trình độ phát triển của thời đại, được đào tạo về chuyên môn để tiến hành hoạt động nghề nghiệp hiệu quả. Ngoài ra giáo dục còn rèn luyện những phẩm chất đạo đức để người lao động tận tâm, tận tụy công hiến sức lực cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Giáo dục có tác dụng đẩy mạnh sản xuất xã hội, phát triển kinh tế. Ngày nay giáo dục được xem là một nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng và bền vững. Đầu tư cho giáo dục cũng là đầu tư cho nền kinh tế xã hội, là sự đầu tư sáng suốt nhất và đem lại nhiều lợi ích nhất. 3.2. Chức năng chính trị - xã hội Chức năng trọng yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách nên giáo dục tác động đến toàn bộ cấu trúc xã hội, đến các bộ phận hợp thành của xã hội, các tầng lớp, các nhóm xã hội và tính chất các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Giáo dục không chỉ tạo nên một lớp người lao động mới cho xã hội, một lực lượng sản xuất quan trọng bậc nhất mà giáo dục còn làm thay đổi cả bộ mặt chính trị xã hội. Giáo dục làm thay đổi cả bề ngoài và nội dung bên trong của các nhóm xã hội, các bộ phận dân cư, các tầng lớp xã hội, các dân tộc trong cộng đồng. Giáo dục góp phần làm cho các tầng lớp xã hội xích lại gần nhau bằng cách nâng cao trình độ văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người được học tập, lựa chọn nghề nghiệp và thay đổi vị trí xã hội của cá nhân. Đặc biệt là các hoạt động giáo dục bình đẳng, giáo dục thường xuyên, giáo dục ý thức công dân của một nước, ý thức một thành viên của nhân loại, làm cho các tầng lớp xã hội trong một nước cũng như các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn để tiến đến một thế giới hòa bình. 3.3. Chức năng tư tưởng - văn hóa Giáo dục có tác động to lớn trong việc xây dựng một hệ thống tư tưởng cho toàn xã hội, làm cơ sở xác định hệ thống giá trị và các chuẩn mực trong cuộc sống xã hội. Ví dụ: Ngày nay, công tác giáo dục đang xây dựng tư tưởng bình đẳng về vai trò của giới trong xã hội, làm thay đổi nhận thức “trọng nam khinh nữ” và hình thành những giá trị và chuẩn mực xã hội mới đối với nam giới và nữ giới. Giáo dục còn bồi dưỡng một lối sống lành mạnh, giúp con người xây dựng cuộc sống tích cực, và mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Các tác động giáo dục truyền thống trong xã hội thường xuyên nâng cao nhận thức và nhắc nhở mọi người thực hiện những thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày như cách dinh dưỡng, luyện tập cơ thể để bồi dưỡng sức khỏe. Hệ thống các nhà văn hóa xây dựng các loại hình hoạt động đa dạng phục vụ cho mọi lứa tuổi, thành phần xã hội (thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, lao động...) giúp con người có một cuộc sống phong phú khi tham gia các sinh hoạt vui chơi, giải trí, mở rộng quan hệ giao lưu, trang bị thêm những kiến thức và kỹ năng tổ chức cuộc sống cá nhân... Ngoài ra, giáo dục xây dựng một nền văn hóa kết tinh được tinh hoa nhân loại đồng thời mang đậm bản sắc dân tộc bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông ngày càng cao cho thế hệ trẻ và các tầng lớp nhân dân. Tóm lại giáo dục thực hiện ba chức năng của mình đó là tái sản xuất lao động xã hội, cải biến cấu trúc xã hội và hình thành ý thức hệ tư tưởng mới trên nền tảng văn hóa mới của thời đại nhằm tạo ra con người thời đại có khả năng hòa nhập quốc tế và khu vực nhưng không bị hòa tan. 4. Các tính chất của giáo dục Giáo dục và các hiện tượng xã hội khác có tác động biện chứng với nhau. Sự chi phối của các quá trình xã hội đối với hiện tượng giáo dục gây nên những tính chất sau đây của giáo dục: 4.1. Tính lịch sử-xã hội Giáo dục luôn vận động và biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử nhân loại đã có nhiều kiểu giáo dục khác nhau thể hiện ở sự biến đổi mục đích, nội dung, phương pháp phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục theo sự qui định của những điều kiện xã hội lịch sử cụ thể. Vì vậy: - Khó có thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai nền giáo dục ở hai quốc gia có điều kiện phát triển khác nhau. - Ngay trong cùng một nước ở những giai đoạn lịch sử khác nhau thì trình độ phát triển giáo dục cũng có những nét khác nhau. - Cần đổi mới liên tục hệ thống giáo dục, đảm bảo cho giáo dục thích ứng với chiều hướng mới của quá trình phát triển xã hội. 4.2. Tính giai cấp Giáo dục là chức năng đặc biệt của nhà nước, do giai cấp cầm quyền chỉ đạo nhằm củng cố địa vị của tầng lớp thống trị. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục mang tính giai cấp thể hiện ở việc xây dựng những hệ thống giáo dục phù hợp với các mục đích chuẩn bị khác nhau cho con em của những giai cấp khác nhau bước vào đời sống. 4.3. Tính phổ quát Tính phổ quát thể hiện trong sự hiện diện của giáo dục trong tất cả các chế độ xã hội, các giai đoạn lịch sử của nhân loại. Trong đó nổi bật là sự chăm sóc, bồi dưỡng con người ở lứa tuổi học sinh, là truyền thụ một cách có ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa, tính thần của loài người và dân tộc, giúp họ bước vững vàng vào cuộc sống và góp phần phát triển xã hội. 4.4. Tính nhân văn Giáo dục luôn hướng con người đến những cái đẹp, cái tốt, đó là những giá trị văn hóa, đạo đức thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và những nét bản sắc dân tộc, truyền thống văn hóa của từng quốc gia dân tộc đồng thời phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người để giúp họ ngày càng hoàn thiện nhân cách. II. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA GIÁO DỤC HỌC 1. Thời cổ đại Giáo dục học chưa hình thành mà xã hội chỉ xuất hiện nhiều tư tưởng giáo dục nổi tiếng vẫn được coi trọng đến ngày nay. Cách chúng ta 2.500 năm, Heraclitus (540 - 480 TCN), nhà hiền triết Hy lạp cổ đại đã nhận định: “Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực chất giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy" Như vậy, giáo dục chỉ là soi sáng. Soi sáng để người học TỰ CHỌN, rồi TỰ BƯỚC ĐI. Người dạy không áp đặt con đường, cũng không bước đi thay cho người học. Sau Heraclitus, Socrate (470 - 399 TCN), nhà hiền triết Hy lạp Cổ đại, đã nêu ra phương châm nổi tiếng: “Hỡi con người, hãy tự khám phá bản thân mình!” Để người học tự khám phá mình, ông nói: “Mục đích của giáo dục không phải là tách con người ra khỏi đám đông, càng không phải là làm cho con người ấy mất hút trong đám đông; mục đích của giáo dục là làm cho con người nhận ra chính mình giữa đám đông. Đó là một quan điểm giáo dục có tính nhân văn cao. Để khám phá được bản thân con người phải biết tự bộc lộ bản thân. Nhằm giúp cá nhân tự bộc lộ, ông đề ra phương pháp sản ý, thường gọi là phương pháp Socrate. Thực chất đó là phương pháp đàm thoại gợi mở bằng hệ thống câu hỏi của nhà giáo dục mà khi trả lời những câu hỏi đó, cá nhân sẽ bộc lộ và tự khám phá năng lực của bản thân Nối tiếp tư tưởng của Socrate, học trò ông, nhà triết học Hy lạp Cổ đại Platon (427 - 348 TCN) cũng đã đưa ra những quan điểm giáo dục tiến bộ. Platon cho rằng mục tiêu số một của con người là sống phù hợp với đạo đức. Đó là hành động theo điều thiện. Thiện là cái gì phù hợp với chân lý mà chân lý chính là sự công bằng. Xã hội công bằng khi nó được sắp xếp theo một trật tự hoàn hảo, trong đó mỗi người và mỗi vật được đặt đúng vị trí và làm đúng phận sự của mình, ở đây chúng ta nhận thấy Platon đã tiếp cận và kế thừa phương châm sống của Socrate. Bởi vì chỉ khi con người tự khám phá và biết rõ bản thân thì họ mới có thể chọn đúng vị trí và làm đúng phận sự, nhờ vậy trở thành một cá nhân có đạo đức. Theo Platon, một xã hội chiếm hữu nô lệ lý tưởng có các tầng lớp như sau: nhà triết học (những người quản lý đất nước); quân nhân (người bảo vệ quốc gia); người làm ruộng, làm nghề thủ công và buôn bán; người nô lệ (lao động trực tiếp trong sản xuất và kinh doanh). Platon đã khẳng định sự cần thiết của việc giáo đục đối với con người: “Mọi công dân phải được giáo dục như nhau, ngay từ đầu. Ngay tầng lớp nông dân và binh sĩ cũng phải học ít nhất là 30 năm trước khi hành nghề! Còn quan lại, để cai trị dân, cần được học thêm 15 năm nữa, vị chi 45 năm học tập, thì mới có thể cai trị người khác: Đặc biệt là người thầy, để dạy người, anh ta phải được giáo dục đến nơi đến chốn. Bởi "người thợ giày tồi thì khách hàng có người phải xỏ chân vào chiếc giầy không vừa vặn chút ít! Còn người thầy giáo tồi thì... hại cả ba thế hệ" Để đạt được mục đích trên ông cũng hình dung một hệ thống giáo dục phù hợp với kiểu xã hội tương ứng với 4 tầng lớp đã nêu. Trong đó tầng lớp nô lệ không hề được giáo dục! Đó là phương Tây. Còn phương Đông nơi mang nặng truyền thống "Tôn sư trọng đạo", thì sao? Khổng tử (551- 479 TCN), người thầy tiêu biểu của muôn đời (vạn thế sư biểu) và không riêng của Trung Hoa, đã hết sức coi trọng sự học và đặc biệt coi trọng người học. Ông đã để lại những câu nói bất hủ sau hơn 50 năm dạy học. Như là: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo!" (Ngọc - đá quý, không mài không thành vật quý, người không học không biết đạo). Vì vậy ông chủ trương “Hữu giáo vô loại”: Quyền được đi học là quyền tự nhiên của mọi người, không phân biệt địa vị xã hội! Đó là một tư tưởng tiến bộ trong xã hội bấy giờ. Bởi vì ngay cả phương Tây mà mãi đến năm 1850, có nghĩa là đến 2300 năm sau Khổng tử, người ta mới mở cửa trường học cho mọi tầng lớp xã hội. Khổng tử đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động, tích cực và độc lập ở người học. Ông nói: “Ai không biết tức giận vì tri thức hạn hẹp của mình, ta không gợi mở cho được. Ai không biết tự mình nỗ lực bộc bạch tâm tư, ta không giúp cho phát biểu tư tưởng được. Vật có 4 góc, ta vén cho một góc, ai không tự mình vén 3 góc còn lại thì... là người không thể giáo dục lại được! (Bất phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngưng phản, tắc bất phục dã! - Luận ngữ) Đặc biệt Khổng tử đòi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ, suy nghĩ độc lập, để tự phát hiện vấn đề và tự đặt câu hỏi - nêu - vấn - đề ra trước để được người dạy giải đáp. Điểm khác biệt giữa phương pháp đàm thoại của Khổng tử với phương pháp đàm thoại Socrate là ở chỗ: Khổng tử không đặt câu hỏi cho học trò trước mà ngược lại, ông đòi hỏi học trò phải chủ động đặt câu hỏi trước. Nếu ai không tự đặt câu hỏi ra trước, Khổng tử sẽ không dạy cho người ấy (bất viết như chi hà, như chi hà giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỉ - Luận ngữ). Khổng tử, ngoài việc đòi hỏi người học phải chủ động, tích cực hỏi, còn căn cứ vào câu hỏi để biết người hỏi đang gút mắc chỗ nào, trình độ vốn có đến đâu, để dạy tiếp. Điều này hoàn toàn phù hợp với một ngạn ngữ phương Tây: “Hỏi một câu chỉ dốt trong chốc lát. Nhưng nếu không hỏi sẽ dốt suốt đời”. Chính vì vậy người xưa thường học bằng cách hỏi. Và ta có từ học - hỏi rất hay! Đấy cũng là một cách để “Sát đối tượng” trong nguyên tắc dạy học hiện đại! Không những đòi hỏi người học phải học một cách chủ động, tích cực và độc lập, Khổng tử còn yêu cầu người học phải học bằng cả tâm hồn - học một cách vui thú. Ông nói “Biết mà học, không bằng thích mà học; thích mà học không bằng vui mà học "Lạc học - Luận ngữ). 2. Thời Trung đại Trong thời kỳ Trung đại xuất hiện hình thái xã hội mới - xã hội phong kiến. Nhà thờ Thiên chúa giáo trở thành công cụ tư tưởng chủ yếu của chế độ phong kiến châu Âu. Mọi sự phát triển về văn hóa và giáo dục đều bị chi phối bởi tư tưởng của công giáo. Nhà thờ phủ nhận hầu hết những thành tựu văn hóa thời cổ đại, ngoại trừ ngôn ngữ La tinh. Xã hội xuất hiện các trường học giáo hội do giáo hội mở và cấp kinh phí. Nội dung giáo dục gồm 7 môn học đáp ứng lợi ích cho nhà thờ và xã hội phong kiến. Việc dạy học mang tính chất nhồi nhét, áp đặt, kinh viện, giáo điều và áp dụng một kỷ luật rất khắc nghiệt. Trong trường giáo hội, việc dạy học không chia thành học kỳ, không có thời khóa biểu. Trong cùng một phòng học, học sinh nhiều lứa tuổi, nhiều trình độ khác nhau cùng ngồi học chung. Khi giảng dạy thầy giáo làm việc với từng học sinh. Từ thế kỷ X giai cấp tư sản dần dần hình thành và bắt đầu tích tụ hệ tư tưởng và văn hóa tư sản, kéo theo nhiều quan niệm mới mẻ về thế giới và con người, mâu thuẫn với thế giới quan giáo điều tôn giáo. Nhiều nhà tư tưởng đặc biệt chú ý nghiên cứu sự phong phú của văn hóa cổ đại vốn bị lãng quên trong nhiều thế kỷ. Lịch sử xã hội bắt đầu bước vào thời kỳ Phục hưng, ở đó tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn giáo dục. Cuộc đấu tranh của các nhà theo chủ nghĩa nhân văn đã làm giảm đi nhiều ảnh hưởng của nhà thờ đối với trường học. * Các tư tưởng giáo dục: 1. Francois Rabelais (1494 - 1553, người Pháp): Rabelais là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa nhân đạo Pháp và các tư tưởng giáo dục thời kỳ Phục hưng. Ông đã phê phán lối học kinh viện và chủ trương giáo dục nhân đạo chủ nghĩa. Ông đả phá lối giảng dạy cũ kỹ, bắt học sinh thuộc lòng các tín điều khô khan, khó hiểu. Rabelais coi trọng sự phát triển nhiều mặt trong nhân cách của trẻ vì vậy nội dung giáo dục bao gồm trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục thể chất, về trí dục ông đòi hỏi học trò phải học nhiều kiến thức, vì vậy phải theo một thời khóa biểu tỉ mỉ và căng thẳng từ 4 giờ sáng cho đến tối. Ông đề cao những hiểu biết thực tế, có ích và các phương pháp dạy học tích cực, trực quan. Do đó ông có chú ý đến lao động chân tay và có sáng kiến trong việc tổ chức các hình thức giáo dục phong phú ngoài trường học. 2. Michel de Montaigne (1533 - 1592, người Pháp): Ông là một nhà tư tưởng lỗi lạc và là một trong các đại biểu của chủ nghĩa hoài nghi triết học, một sản phẩm đặc sắc của chủ nghĩa nhân đạo, quan tâm đến thế giới xung quanh và phê phán thái độ sợ sệt, sùng phục trước uy quyền. Ông nghi ngờ các tập tục và quan điểm của xã hội đương thời và phủ nhận lòng tin vào đấng siêu nhiên. Ông chống đối khoa học kinh viện và ủng hộ khoa học kinh nghiệm, nghiên cứu chính xác sự vật và đi sâu vào bản chất của chúng. Các quan điểm giáo dục của ông hình thành chính trên cơ sở đó. Montaigne không đồng tình với lối dạy học nhồi nhét và quan niệm thầy giáo có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh khả năng phán đoán, xây dựng tư tưởng riêng của mình từ những điều đã học. Về nội dung giáo dục ông quan tâm đến giáo dục trí tuệ và giáo dục thể chất, tuy nhiên còn hời hợt và thiếu hệ thống. Ông cũng ít chú trọng việc giáo dục đối với phụ nữ. Về phương pháp giáo dục ông phản đối cách trừng phạt thể xác đối với học sinh, ông đã sớm nhận thấy rằng “roi vọt không có tác dụng gì khác là làm cho tâm hồn của trẻ hèn nhát hơn hoặc bướng bĩnh một cách ranh mãnh hơn. 3. Thời cận đại Sau đêm dài Trung cổ, nhân loại bước vào thời kỳ Phục hưng, thời kỳ chủ nghĩa nhân văn toả sáng. Nền giáo dục Cận đại được manh nha từ những tư tưởng tiến bộ của J.A.Komensky (1592 - 1670). Dù sống trọn vẹn trong lòng xã hội phong kiến, song tư tưởng của Komensky đã vượt ra ngoài khuôn khổ Trung đại để mở màn cho nền giáo dục Cận đại. Vì vậy J.A.Komensky được mệnh danh là ông tổ của nền giáo đục Cận đại. Trước hết, về đối tượng giáo dục cũng như về nội dung giáo dục, Komensky khẳng định phải “Dạy mọi điều cho mọi người”. Tuy đơn giản nhưng cực kỳ tiến bộ, bởi trước đó, loài người còn học từ chương, sách vở, và không phải ai cũng có quyền đi học. Nhưng công đầu của Komensky có lẽ là công tách Lý luận giáo dục ra khỏi triết học để hình thành một khoa học độc lập: Khoa sư phạm học (Didaktika). Trước Komensky khoa sư phạm chỉ là một bộ phận nằm trong triết học. Sáng kiến thứ hai mà lịch sử giáo dục thế giới trân trọng ghi nhận ở Komensky là sáng kiến vĩ đại, sáng kiến hình thành "lớp học" mà gắn liền với nó là bài học, tiết học... Trước Komensky, thế giới chưa có cái gọi là "Lớp học" mà chỉ có "trường học", ngay cả trường thầy đồ giới hạn trong 4 bức tường nhỏ hẹp cũng không thể gọi là "lớp học", vì ở đó tập hợp nhiều học sinh ở nhiều lứa tuổi và nhiều trình độ cách biệt xa nhau. Nhờ sáng kiến thành lập lớp học và giảng dạy theo lớp mà giáo dục có thể tăng năng suất đào tạo lên gấp bội lần, đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho guồng máy kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa. Cuối cùng, không thể không kể đến một đóng góp đặc sắc của Komensky khi ông kêu gọi mọi nền giáo dục phải được tổ chức và hoạt động sao cho đúng quy luật. Mà quy luật lớn nhất là quy luật của tự nhiên. Do vậy giáo dục đúng quy luật phải được tổ chức và hoạt động sao cho thích ứng với thiên nhiên. Bởi lẽ con người là một bộ phận của thiên nhiên, phương thức tồn tại, vận động của thiên nhiên cũng là phương thức tồn tại và vận động của con người, của giáo dục loài người. Mà “thiên nhiên thì không bao giờ làm điều gì không có ích”. Vậy giáo dục theo cái chuẩn, cái mẫu của thiên nhiên là giáo dục mang lại lợi ích cho con người và cho loài người. Đi ngược quy luật tự nhiên thì giáo dục sẽ tàn hại con người và loài người! Loài chim không sinh sản về mùa đông rét mướt, hoặc về mùa hạ nóng nực hay về mùa thu khi mọi vật đã tàn tạ, mà về mùa xuân, khi ánh mặt trời đem lại sức sống cho muôn vật. Vậy thì việc giáo dục con người ta cũng bắt đầu từ tuổi thanh xuân của cuộc đời, cũng như giờ học tốt nhất phải là buổi sáng của một ngày. Muốn cho chim con nở nhanh, chim mẹ không ném trứng vào lửa mà dùng sức ấm tự nhiên sưởi nóng những quả trứng một cách từ từ... Người kiến trúc sư cũng vậy không vội vã xây tường ngay trên móng, đặt mái ngay trên tường, khi móng và tường chưa khô, chưa đủ chắc chắn... Người làm vườn cũng không đòi hỏi cái cây phải lớn lên ngay trong tháng đầu, hoặc muốn cho cây được sưởi ấm thì anh ta cũng không đốt lửa cạnh gốc, không chất vôi sống vào... Vậy thì thật hành hạ đối với học sinh nếu hàng ngày người ra bắt chúng phải học bài, làm bài tám, chín giờ trên lớp và về nhà làm thêm mấy giờ nữa... Thật là khờ khạo khi một thầy giáo không dạy theo khả năng tiếp thu của học sinh mà lại dạy theo ý muốn chủ quan của thầy. 4. Thế kỷ XIX Nhờ sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác, Giáo dục học phát triển, chứng minh một cách khoa học các vấn đề có tính qui luật trong giáo dục như: - Tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục. - Tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển xã hội. - Vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp. III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC HỌC 1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học Giáo dục học là khoa học về việc đào tạo, giáo dục con người, khoa học về sự hình thành và phát triển nhân cách con người trong quá trình nhà giáo dục và người được giáo dục hoạt động với nhau theo một sự tổ chức đặc biệt. Việc giáo dục con người là một quá trình có sự vận động, diễn ra trong một thời gian, không gian nhất định, có nội dung, quy luật và động lực nhất định. Đối tượng của Giáo dục học là quá trình đào tạo con người dưới những tác động có mục đích của xã hôi. Trong nhà trường quá trình đào tạo con người (còn gọi là quá trình giáo dục theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học được định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách hợp lý, khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC (rộng) = DẠY HỌC + GIÁO DỤC Có mục đích Có tổ chức Hình thành nhân cách toàn vẹn Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội được nhiều ngành khoa học nghiên cứu: Kinh tế học, Xã hội học, Đạo đức học, Tâm lý học... Kinh tế học nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và sự phát triển nền kinh tế xã hội. Xã hội học xem xét quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá tình xã hội khác. Đạo đức học quan tâm đến giáo dục như là một con đường quan trọng để rèn luyện các phẩm chất đạo đức cho con người. Tâm lý học tìm hiểu vai trò tác động của yếu tố giáo dục tới sự phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân... Trong phạm vi của mình Giáo dục học nghiên cứu bản chất bên trong của quá trình giáo dục thông qua việc tìm hiểu cấu trúc và cơ chế vận động của nó đồng thời soi sáng các qui luật của quá trình giáo dục, nghiên cứu lý luận và phương pháp tổ chức quá trình giáo dục. 2. Cấu trúc của quá trình giáo dục 2.1. Cấu trúc tổng thể QTGD tổng thể = QT sư phạm = QT đào tạo Quá trình giáo dục tổng thể là sự thống nhất của hai quá trình dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp) trong nhiệm vụ chung là hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho con người. Bên cạnh đó mỗi quá trình lại có chức năng trội riêng như: - Chức năng trội của quá trình dạy học là giáo dưỡng: tổ chức trau dồi học vấn, tổ chức cho học sinh tìm hiểu, lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhận thức và hành động. - Chức năng trội của quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) là xây dựng một hệ thống niềm tin, lý tưởng, động cơ, hình thành những phẩm chất và thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. - Hai quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau. Giáo dưỡng, trau dồi học vấn phải đi đôi với việc trau dồi đạo đức và ngược lại việc hình thành niềm tin, phẩm chất, thói quen hành vi phải dựa trên cơ sở giáo dưỡng, học vấn. 2.2. Cấu trúc bộ phận Quá trình giáo dục là một quá trình vận động nên cấu trúc bộ phận gồm có hai hệ thống: hệ thống tác nhân (gây nên sự vận động của quá trình) và hệ thống các thành tố cơ bản. * Hệ thống các thành tố tác nhân Trong sơ đồ trên yếu tố chính tạo nên sự vận động của quá trình giáo dục là sự tác động qua lại và phối hợp chặt chẽ với nhau giữa chủ thể giáo dục (CT) và khách thể giáo dục (KT). Tác động qua lại được diễn ra trong một môi trường sư phạm (bao gồm cơ sở vật chất của trường học, những đặc điểm tâm lý, thể chất và trình độ của chủ thể và khách thể) và trong một môi trường xã hội với những đặc điểm kinh tế, văn hóa và chính tri xã hội, đó là những điều kiện ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng của quá trình giáo dục. Sự phối hợp giữa chủ thể và khách thể giáo dục diễn ra trên các mối liên hệ thông tin, giao tiếp, tổ chức hoạt động và quản lý - tự quản lý. * Hệ thống các thành tố cơ bản Trên thực tế quá trình giáo dục diễn ra rất đa dạng về nội dung, thời gian, không gian... nhưng dù diễn ra ở bất cứ dạng nào, quá trình giáo dục cũng được thể hiện qua những thành tố cơ bản như trên.Trong hệ thống các thành tố cơ bản, thành tố mục đích là xuất phát điểm của quá trình giáo dục và qui định trước kết quả của toàn bộ quá trình. Thành tố nội dung là sự cụ thể hóa của mục đích vì vậy nội dung phải có sự tương ứng phù hợp với mục đích đặt ra. Muc đích và nội dung qui định cách thức tổ chức hoạt động qua việc sử dụng phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục. Từ đó dẫn đến kết quả giáo dục là mức độ phát triển của khách thể sau quá trình giáo dục. Cách thức tổ chức hoạt động là thành tố trực tiếp quyết định cho chất lượng của quá trình giáo dục. Như vậy trong từng hệ thống các yếu tố có sự liên hệ mật thiết và chi phối lẫn nhau. Sự biến đổi của một yếu tố sẽ dẫn đến những biến đổi của những yếu tố khác một cách tương ứng. Ngoài ra hai hệ thống tác nhân và hệ thống các thành tố cơ bản cũng không tách rời mà chúng luôn kết hợp thống nhất với nhau trong một quá trình giáo dục. Nếu sự tương tác giữa chủ thể giáo dục và khách thể giáo dục không được định hướng theo mục đích giáo dục với nội dung giáo dục tương ứng và cũng không thông qua các phương pháp giáo dục thì sự tương tác giữa họ không phải là một quá trình giáo dục mà chỉ là một quá trình giao tiếp, ứng xử mà thôi. Vì vậy có thể cho rằng cấu trúc của quá trình giáo dục bao gồm các nhân tố chủ thể, khách thể, mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và kết quả giáo dục. Trong đó hai nhân tố trọng tâm là chủ thể và khách thể, bởi vì các nhân tố còn lại đều thể hiện qua hai nhân tố này. Có thể hình dung cấu trúc chung của quá trình giáo dục như sau: 2. Nhiệm vụ nghiên cứu của giáo dục học * Nhiệm vụ cơ bản: + Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với các bộ phận khác của xã hội. + Nghiên cứu các qui luật của quá trình giáo dục: qui luật phát triển giáo dục trong mối quan hệ với nền kinh tế - xã hội, qui luật hình thành và phát triển nhân cách... + Nghiên cứu các nhân tố của quá trình giáo dục, từ đó xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức... nhằm đạt chất lượng và hiệu quả tối ưu trong những điều kiện của một xã hội nhất định. + Xây dựng một hệ thống lý luận để soi sáng các hoạt động giáo dục trong thực tiễn. Giáo dục học nghiên cứu quá trình giáo dục trong tính tổng thể, toàn vẹn. Cũng như nghiên cứu các bộ phận, các yếu tố của nó. * Nhiệm vụ trước mắt: - Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa học giáo dục, làm cho Giáo dục học phát triển có định hướng, tiếp cận với xu thế phát triển mới ở thế kỷ 21. - Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa việc phát triển nhanh quy mô và gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo trong những điều kiện hạn chế. - Nghiên cứu phát hiện các nhân tố mới mang tính quy luật trong sự phát triển giáo dục về mặt lý luận và thực tiễn: trong nội dung như các vấn đề về giáo dục quốc tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như vấn đề tự học, phát huy nội lực của người học. - Nghiên cứu các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình đổi mới và phát triển, những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý giáo dục... - Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện đai. Các nhiệm vụ nói trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động nghiên cứu, sáng tạo trong phạm vi Giáo dục học vừa có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình điều chỉnh, hoàn thiện Giáo dục học. 3. Đặc trưngg của quá trình giáo dục a) Là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, tình huống giáo dục và dạy học, được tổ chức thực hiện theo những quy trình xác định. b) Là một dạng vận động xã hội liên quan đến các quá trình xã hội khác (kinh tế, chính trị, văn hóa...) được tổ chức một cách chuyên biệt (theo quy luật giáo dục) c) Chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục trong sự phối hợp chặt chẽ và tác động lẫn nhau. 4. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học * Cơ sở phương pháp luận: Việc nghiên cứu dựa trên các quan điểm Triết học của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tức là: + Phải đặt các hiện tượng giáo dục trong không gian thời gian cụ thể, trong mối quan hệ tương tác với các hiện tương khác trong xã hội. + Hoạt động giáo dục luôn vận động phát triển vì vậy phải nghiên cứu nó trong sự vận động phát triển. * Phương hướng chung: + Phải lấy bản sắc nền văn hóa giáo dục dân tộc Viêt Nam trong quá khứ, hiện tại, tương lai làm cái gốc cơ bản quan trọng nhất để nghiên cứu và phổ biến khoa học giáo dục. + Phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và khách quan những kinh nghiệm và thực tiễn giáo dục của các nước khác trên thế giới để tiếp thu những tinh hoa của nhân loại nhằm bổ sung cho nền giáo dục của dân tôc. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: - Quan sát - Đàm thoại - Nghiên cứu sản phẩm - Thăm dò ý kiến - Thực nghiệm - Thống kê Việc nghiên cứu giáo dục đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn giáo dục và hướng vào việc phục vụ cho hoạt động giáo dục ở cơ sở. Do đó cần có sự phối hợp nhịp nhàng, cộng tác chặt chẽ giữa nhà khoa học và các giáo viên ở cơ sở. IV. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC 1. Giáo dục Là một khái niệm chung và rộng của Giáo dục học được giải thích qua hai mức độ rộng và hẹp như sau: + Giáo dục (nghĩa rộng): - Giáo dục là quá trình hình thành toàn vẹn nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có hệ thống thông qua hai hoạt động dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp) để làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, giúp họ tham gia có hiệu quả vào đời sống xã hội. - Giáo dục là một quá trình toàn vẹn được tổ chức một cách có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho người được giáo dục những kinh nghiệm xã hội của loài người, bao gồm các quá trình giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động. Ngoài ra chúng ta cần phân biệt: quá trình hình thành con người và quá trình giáo dục. - Quá trình hình thành con người là quá trình phát triển con người về các mặt: sinh học, tâm lý, xã hội. Quá trình này chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố bên trong như tính di truyền, bẩm sinh, vốn sống kinh nghiệm, cá nhân... và những yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh tự nhiên, môi trường xã hội bao gồm các quá trình kinh tế sản xuất, chính trình xã hội, tư tưởng - văn hóa, dân số dân cư, sinh hoạt xã hội và gồm tất cả những tác động tự phát ngẫu nhiên cùng các tác động có mục đích, có tổ chức. - Giáo dục chỉ là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành con người, là quá trình hình thành nhân cách con người một cách tự giác thông qua những nhân tố tác động có mục đích, có tổ chức của xã hội. Việc tổ chức đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn đảm nhận (các nhà giáo dục, nhà sư phạm). Nơi tổ chức quá trình giáo dục một cách có hệ thống, có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường. + Giáo dục (nghĩa hẹp): Giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành những phẩm chất, quan điểm, niềm tin cho con người về các phương diện đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, lao động. 2. Xã hội hóa cá nhân Quá trình xã hội hóa là quá trình biến đứa trẻ từ một thực thể tự nhiên thành con người xã hội. Xã hội hóa cá nhân là quá tình các cá thể tiếp thu, học tập nền văn hóa xã hội để thích ứng được với xã hội, thực chất của xã hội hóa là quá trình chủ thể hóa các tri thức của xã hội - là sự tiếp nhận tri thức, kinh nghiệm xã hội thông qua lăng kính chủ quan và sự xét đoán của mỗi cá nhân bằng hai con đường: - Không chính thức: quá trình cá nhân học hỏi qua bắt chước, quan sát, trải nghiệm trong tương tác với gia đình, bạn bè,... - Chính thức: quá trình cá nhân học hỏi tiếp thu từ những tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy giáo dục là con đường xã hội hóa quan trọng nhất đối với cá nhân. Giáo dục là một quá trình xã hội hóa liên tục trong cuộc đời mỗi người và lưu ý rằng sự học hỏi từ nhà trường có thể yếu kém hơn sự học hỏi từ những tác động không chính thức trong gia đình và ngoài cộng đồng. 3. Tự giáo dục Quá trình cá nhân tự giác tiến hành có hệ thống những hành động có ý thức nhằm trau dồi tính tốt khắc phục tính xấu, điều chỉnh bản thân cho phù hợp với yêu cầu xã hội. 4. Giáo dục lại Hoạt động giáo dục nhằm thay đổi quan điểm, ý thức tư tưởg, nhận thức, thái độ, hành vi sai lệch với những chuẩn mực xã hội để trở thành người tốt, có nhân cách được xã hội chấp nhận. Điều kiện tiên quyết để nhà giáo dục tiến hành giáo dục lại cho trẻ là lòng nhân ái và lòng tin vững chắc vào những phẩm giá tốt đẹp còn tiềm ẩn trong mỗi con người có thể làm thức dậy được. 5. Giáo dưỡng: Được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: - Giáo dưỡng là quá trình nuôi nấng, giáo dục con người một cách cân đối về thể chất và tinh thần. - Giáo dưỡng là quá trình và kết quả bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đã được hệ thống hóa thành học vấn. Con đường chủ yếu tiếp thu học vấn, giáo dưỡng là việc dạy học trong hệ thống các trường học. - Giáo dưỡng được hiểu như là sự giáo dục lại (các trường giáo dưỡng dành cho trẻ em phạm pháp). 6. Dạy học Quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được tổ chức đặc biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui chế chặt chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất nhân cách cho học sinh. Dạy về bản chất là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, giúp cho học sinh biết cách tự học tốt. Học là quá trình tiếp thu kinh nghiệm, phương pháp tự học để tiến hành hoạt động nhận thức chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm biến đổi và nâng cao giá trị bản thân, hình thành nhân cách. Dạy và học là hai mặt của một quá trình luôn luôn tác động qua lại và bổ sung cho nhau, trong đó, dạy phải đóng vai trò chủ đạo, còn học đóng vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo. 7. Tự học Tự học là quá trình cá nhân chủ động tiến hành hoạt động nhận thức có hệ thống để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại và biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình, cốt lõi của hoạt động học là tự học. Việc tự học có thể diễn ra ở ba mức độ: - Tự học độc lập: cá nhân tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo. Chẳng hạn, tự học qua sách, qua hoạt động thực tiễn. - Tự học có hướng dẫn từ xa: cá nhân tự học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên trên các phương tiện truyền thông hoặc bằng tài liệu hướng dẫn học tập. - Tự học có hướng dẫn trực tiếp: cá nhân tự học ngay trong quá trình học giáp mặt với giáo viên ở trên lớp. Xây dựng ý nguyện tự học và trang bị kỹ năng tự học cho học sinh là vấn đề thời sự hiện nay của công tác dạy học trước sự bùng nổ thông tin và sự mở rộng xa lộ thông tin trên thế giới. 8. Giáo dục cộng đồng Cộng đồng là một nhóm người với nhiều thành phần giới tính, lứa tuổi cùng sống chung trên một địa bàn, cùng có chung một truyền thống văn hóa và những nhu cầu nguyện vọng giống nhau. Giáo dục cộng đồng là giáo dục trong cộng đồng và có sự tham gia của cộng đồng trong giáo dục nhằm duy trì, củng cố và phát triển cộng đồng. Giáo dục cộng đồng là một quá trình biến đổi các loại trường học thành các trung tâm giáo dục và câu lạc bộ văn hóa cho mọi lứa tuổi. * Đặc trưng của giáo dục cộng đồng: + Giáo dục được tổ chức và phát triển ổn định cùng với các quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm mục tiêu duy trì, củng cố và phát triển cộng đồng. + Được tổ chức một cách hệ thống mang tính phổ biến (toàn cầu) nhưng cũng đậm nét bản sắc dân tộc, truyền thống, tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, từng cộng đồng. + Là một hệ thống mở tạo cơ hội cho mọi tầng lớp, mọi thành viên trong cộng đồng ngày càng gắn bó với cộng đồng, xã hội. Nguyên tắc của trường cộng đồng là giáo dục cho mọi lứa tuổi. Mục tiêu giáo dục dựa trên lợi ích và nhu cầu của cộng đồng, nhà trường phục vụ cộng đồng và cộng đồng phục vụ lại nhà trường. + Cách thức tổ chức hoạt động đa dạng phong phú, nội dung, phương pháp giáo dục mềm dẻo, linh hoạt để phù hợp với nhiều loại đối tượng. Phương pháp áp dụng trong nhà trường cộng đồng là phương pháp chủ điểm theo những nội dung thiết thực gắn liền với thực tiễn và nhu cầu phát triển của cộng đồng. * Tác dụng của giáo dục cộng đồng: - Giáo dục cộng đồng là một tư tưởng, một cách làm mới mẻ nhằm xây dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội, với đời sống và lợi ích của cộng đồng. - Giáo dục cộng đồng là một cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo những điều kiện, cơ hội thực hiện sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho sự phát triển và ổn định xã hội. 9. Công nghệ giáo dục Công nghệ được hiểu là một quy trình chặt chẽ trong khoa học kỹ thuật, trong quá trình sản xuất. Khi các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển người ta áp dụng vào quá trình dạy học để giảm bớt lao động nặng nhọc và nâng cao hiệu quả dạy học như áp dụng điều khiển học để chương trình hóa dạy học, tạo các thiết bị kỹ thuật hiện đại cho quá trình dạy học. Sau này người ta nghiên cứu áp dụng tư tưởng công nghệ để xây dựng quy trình dạy học với các công đoạn, thao tác, được thiết kế tương tự như quy trình kỹ thuật và công nghệ. Gần đây các nhà khoa học đã thống nhất: công nghệ giáo dục không chỉ là việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn (audi- visual media) vào mục đích dạy học mà còn là trong các lĩnh vực như tin học, viễn thông, phương pháp đánh giá, phân tích các hệ thống khoa học nói chung. Từ đó có thể hiểu công nghệ giáo dục là cách thức tiếp cận hệ thống trong việc thiết kế toàn bộ quá trình dạy học và lĩnh hội tri thức có tính đến cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực trong sự tương tác giữa chúng với nhau nhằm tối ưu hóa quá trình dạy học và đào tạo. Công nghệ giáo dục tạo nên những cải tiến rõ rệt trong giáo dục, gia tăng sự gắn bó chặt chẽ trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch học tập, thi cử và đánh giá. Như vậy công nghệ giáo dục tạo sự gắn bó chặt chẽ trong từng thành phần của quá trình giáo dục hơn là giúp đạt tới hiệu quả cao. Tuy nhiên con ngươi cần một sự đào tạo vững vàng về nhân văn, xã hội dựa trên những khát vọng tự do của con người do đó không thể rút gọn quá trình giáo dục thành một quy trình cứng nhắc. Do đó không nên quá đề cao hiệu quả của công nghệ giáo dục. Thực tế cho thấy có thể thiết kế, tổ chức quá trình giáo dục giống nhau nhưng việc dạy học, nhất là tự giáo dục rèn luyện nhân cách rất đa dạng, độc đáo mà không có phương pháp, hình thức hay phương tiện giáo dục nào dù hiện đại có thể thay thế hoạt động sáng tạo của con người (giáo viên và học sinh). 10. Giáo dục hướng nghiệp Hướng nghiệp là hệ thống những tác động giúp cá nhân lựa chọn các công việc hoặc nghề phù hợp với nguyện vọng và năng lực cá nhân nhằm đáp ứng các nhu cầu về kinh tế và lao động của xã hội. Ở nhà trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp được hiểu là một bộ phận của quá trình giáo dục nói chung đòi hỏi nhà trường phải cung cấp cho học sinh nắm được: - Hệ thống các nghề nghiệp chủ yếu hiện có trong xã hội. - Nội dung cơ bản và các yêu cầu đối người tham gia nghề nghiệp. - Các thông tin cần thiết về sự phân bố, tuyển chọn, sử dụng nhân lực ở các nghề nghiệp. Ngoài ra còn phải hướng dẫn có tính chất tư vấn để học sinh đối chiếu với năng lực, sở trường của bản thân để định hướng đúng và lựa chọn nghề sau khi tốt nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp được thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục và dạy học, kể cả nội dung giáo dục lao động kỹ thuật trong nhà trường. 11. Kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó việc vận dụng và quản lý tri thức đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo nên sự thịnh vượng. Tri thức được xem là nền tảng của vốn, và sự phát triển kinh tế có được là do sự tích lũy tri thức mà nên. Như vậy kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển trên cơ sở lấy tri thức làm nguồn tài nguyên chủ yếu. Khoa học- công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành công nghiệp cao trở thành ngành sản xuất quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế xã hội. Nhân loại đã trải qua các nền kinh tế như: nền kinh tế sức người (nông nghiệp), nền kinh tế tài nguyên (công nghiệp) và nền kinh tế tri thức. Ngày nay người ta phân biệt rõ ba phạm trù: dữ liệu, thông tin và tri thức. - Dữ liệu: những khối cơ bản trong kinh tế thông tin - Thông tin: dữ liệu được xếp thành mẫu hình có ý nghĩa - Tri thức: áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. (Trích theo “Kinh tế tri thức”, Viện Quản lý kinh tế Trung ương, NXB Thống kê Hà Nội, 2000, trang 35- 36) V. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH THUỘC KHOA HỌC GIÁO DỤC - MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC KHÁC 1. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục Khoa học giáo dục là một hệ thống các bộ môn khoa học có đối tượng nghiên cứu chung là quá trình giáo dục, có nhiệm vụ vạch ra bản chất và cấu trúc của quá trình giáo dục, vạch ra các mối liên hệ và quan hệ có tính qui luật chi phối sự vận động của quá trình giáo dục, từ đó xây dựng cơ sở khoa học để tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục một cách tối ưu. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục hình thành do tác động của ba nhân tố khách quan sau: - Những đòi hỏi mới của đời sống xã hội và thực tiễn giáo dục. - Logic phát triển của khoa học giáo dục (sự phát hiện những khía cạnh mới cần nghiên cứu). - Tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và các khoa học khác. Khoa học giáo dục là một lĩnh vực lý luận tương đối độc lập đang trong quá trình vừa tự phân hóa thành những bộ môn khoa học giáo dục riêng biệt, vừa hội nhập với các bộ môn khoa học khác để tạo thành hệ thống phát triển các bộ môn khoa học giáo dục. Các bộ môn khoa học giáo dục được chia thành 6 nhóm theo các tiêu chuẩn phân loại khác nhau: - Nghiên cứu ở thể hoàn chỉnh về mặt cấu trúc, vận hành và phát triển cũng như về không gian và thời gian, có nhóm các bộ môn khoa học giáo dục: + Cơ sở lý luận và phương pháp luận của Giáo dục học + Lý luận giáo dục + Lý luận dạy học + Lý luận tổ chức và quản lý giáo dục và nhà trường + Giáo dục học so sánh + Lịch sử giáo dục. - Nghiên cứu thông qua việc chiếm lĩnh các lĩnh vực văn hóa khác nhau và việc tham gia các loại hình hoạt động khác nhau: + Giáo học pháp bộ môn (lý luận dạy học bộ môn): khoa học về các quy luật giảng dạy và nghiên cứu từng môn học cụ thể + Phương pháp tổ chức và hướng dẫn các hoạt động (trò chơi, thể thao, nghiên cứu khoa học, lao động kỹ thuật...) - Nghiên cứu trong mối liên hệ và tác động qua lại giữa giáo dục với các quá trình khác như quá trình phát triển tâm sinh lý con người, quá trình phát triển kinh tế - xã hội: + Tâm lý học giáo dục + Kinh tế học giáo dục + Xã hội học giáo dục + Vệ sinh trường học + Lý luận về cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học - Nghiên cứu quá trình giáo dục ở những lứa tuổi khác nhau, các thiết chế và bậc học khác nhau: + Giáo dục học mầm non + Giáo dục học phổ thông + Giáo dục học chuyên nghiệp + Giáo dục học đại học + Giáo dục học người lớn - Nghiên cứu trong các môi trường, phạm vi khác nhau: + Giáo dục học gia đình + Giáo dục học nhà trường + Giáo dục học chuyên ngành: Giáo dục học y học, Giáo dục học quân sự, Giáo dục học thể dục - thể thao, Giáo dục học sản xuất, Giáo dục học cải tạo.... - Nghiên cứu quá trình giáo dục đối với trẻ khuyết tật: + Giáo dục học chuyên biệt: chuyên nghiên cứu đặc điểm dạy học, giáo dục và chuẩn bị lao động cho trẻ em khuyết tật. Hiện nay Giáo dục học chuyên biệt đang nghiên cứu và tổ chức hoạt động giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. 2. Mối quan hệ giữa Giáo dục học và các khoa học khác Giáo dục học nghiên cứu giáo dục như một hiện tượng xã hội nên nó liên quan đến mọi khoa học về xã hội. + Triết học Mác Lênin: Khoa học về các quy luật phổ biến nhất của sự phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người, là nền tảng khoa học cung cấp các quan điểm phương pháp luận cho việc xây dựng Giáo dục học. + Xã hội học: nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội tới con người và tới quan hệ giữa mọi người, nghiên cứu các đặc điểm của sự phát triển kinh tế, văn hóa và ảnh hưởng của chúng tới sự hình thành và phát triển nhân cách con người; nó giúp Giáo dục học giải quyết nhiều nhiệm vụ xây dựng nhà trường, cũng như tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ em. + Kinh tế học: Đối tượng dạy học và giáo dục là con người, bởi vậy giáo dục học liên quan chặt chẽ đến những khoa học nghiên cứu con người như sinh lý học và tâm lý học. + Sinh lý học: được coi là nền tảng khoa học tự nhiên của cả Tâm lý học và Giáo dục học. Giáo dục học dựa trên tài liệu của sinh lý học về sự phát triển của hoạt động thần kinh cao cấp và các đặc điểm loại hình của hệ thần kinh, của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai, về sự phát triển và vận hành của các giác quan, các cơ quan nội tạng. Hiểu biết cơ sở sinh lý học của các hiện tượng tâm lý sẽ giúp các nhà giáo hình dung rõ hơn một số cơ chế dạy học và giáo dục để nâng cao hiệu quả tác động. + Tâm lý học: trang bị cho Giáo dục học tri thức về nhiều điều kiện và cơ chế diễn biến của quá trình hình thành nhân cách con người. Chẳng hạn Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm có vai trò rất quan trọng đối với việc nghiên cứu và ứng dụng Giáo dục học vì trang bị cơ sở để ứng dụng hợp lý các phương pháp dạy học và giáo dục, còn Tâm lý học xã hội lại cần thiết cho việc nghiên cứu các vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách... Như vậy Giáo dục học tuy có đối tượng và lĩnh vực nghiên cứu riêng nhưng vẫn liên quan chặt chẽ với nhiều khoa học khác cùng nghiên cứu về con người. Sự liên quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng: cùng nghiên cứu những vấn đề chung; Giáo dục học sử dụng những tài liệu, sự kiện của các khoa học khác, sử dụng những thuật ngữ và luận điểm; vận dụng phương pháp của các khoa học khác trong các công trình nghiên cứu giáo dục. VI. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Nghiên cứu hoàn thiện các vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa học giáo dục, đảm bảo tiếp cận với xu thế phát triển mới mẻ, đa dạng của giáo dục và Giáo dục học: kế thừa những tư tưởng giáo dục tiến bộ, hội nhập với xu thế phát triển giáo dục của thế giới, mở rộng và nâng cao tầm bao quát của tư tưởng giáo dục, mở rộng hệ thống khái niệm giáo dục (đề cao tính nhân văn, tính quốc tế...) 2. Xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học giáo dục nói chung và của Giáo dục học nói riêng. Trước đây đối tượng nghiên cứu khoa học giáo dục là quá trình vận động và phát triển giáo dục trong các nhà trường công lập. Ngày nay cần bổ sung nghiên cứu quá trình giáo dục trong các loại hình nhà trường khác như bán công, dân lập, nội trú, bán trú... và các loại hình giáo dục từ xa, giáo dục thường xuyên, giáo dục tình thương... 3. Nghiên cứu hoàn thiện nội dung của Giáo dục học - Nhiều phạm trù lý luận vốn có trở nên quá đơn giản không đáp ứng với thực tiễn phức tạp hiện nay, không bao hàm đầy đủ các nội dung khoa học mới, thành tựu lý luận mới của Giáo dục học như: mục đích giáo dục, giáo dục gia đình, giáo dục trẻ chưa ngoan, công nghệ giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân. - Nhiều vấn đề lý luận trong Giáo dục học đại cương cũng như trọng Giáo dục học chuyên ngành cần được nghiên cứu tiếp tục. 4. Nghiên cứu vận dụng các phương tiện kỹ thuật mới trong dạy học, bổ sung và hoàn thiện các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học Cần lưu ý áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, sử dụng những phương tiện kỹ thuật mới, phương pháp nghiên cứu mới để nâng cao chất lượng các công trình khoa học đồng thời đào tạo các nhà khoa học trẻ tiếp cận với các phương pháp nghiên cứu hiện đại trên thế giới. 5. Nghiên cứu một số vấn đề nổi bật về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện không ngừng hệ thống giáo dục quốc dân - Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò, vị trí, tác dụng của giáo dục trong giai đoạn mới. Xác định mối tương quan biện chứng giữa giáo dục với sự phát triển kinh tế xã hội. - Phương thức tổ chức giáo dục: từ nhà trường sang toàn xã hội, mối liên quan giữa giáo dục phổ cập, trình độ dân trí và văn hóa... - Vấn đề giáo dục nhân cách con người – mối liên quan giữa các chuẩn mực, giá trị đang hình thành trong xã hội với những khuôn mẫu mà nhà trường đang giáo dục học sinh. - Việc kết hợp giữa giáo dục văn hóa với giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề. Các định hướng ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh, xây dựng lại cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân để bảo đảm hiệu quả giáo dục, làm cho giáo dục thực sự gắn với quá trình kinh tế - xã hội năng động hiện nay. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Hiện tượng giáo dục xuất hiện từ khi nàơ? Vì sao nói giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt? 2. Giáo dục có những chức năng xã hội và tính chất gì? 3. Giáo dục học ra đời từ khi nào, được đánh dấu bằng sự kiện gì? Ai là người có công tách Giáo dục học thành một khoa học độc lập? 4. Vì sao Giáo dục học được xem là một khoa học? 5. Đối tượng - nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học là gì? 6. Cấu trúc của quá trình giáo dục gồm có những hệ thống nào? (phân tích từng hệ thống) 7. Giáo dục học có những khái niệm cơ bản nào? Mỗi khái niệm có những cách hiểu khác nhau như thế nào? CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Cấu trúc hệ thống các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục đòi hỏi việc cải tiến hoạt động giáo dục phải được bắt đầu từ yếu tố nào? Vì sao? 2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chỉ tập trung vào việc cải tiến phương pháp giáo dục là đúng hay sai? 3. Phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố: Giáo dục và Tự giáo dục; Dạy học và Tự học dựa trên nội hàm của các khái niệm đó. Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Sau bài học này, người học có khả năng: 1. Về kiến thức: a. Mức độ Biết: - Trình bày các khái niệm: Nhân cách, sự phát triển nhân cách theo nghĩa GDH - Nêu đầy đủ những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. b. Mức độ Hiểu: - Phân tích vai trò của từng yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách. c. Mức độ Vận dụng: - Nhận định về vai trò chủ đạo của giáo dục trong thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay. 2. Về kỹ năng - Đánh giá mức độ sự phù hợp hay sai lầm trong các quan niệm dân gian về giáo dục và trong thực tế. 3. Về thái độ - Từ bỏ, phê phán và điều chỉnh những nhận thức không đúng đắn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên ” (Hồ Chí Minh) Nội dung bài học: I. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI 1. Khái niệm con người và bản chất con người * Một số quan niệm về con người: - Con người thần bí: Quan niệm này có tính chất duy tâm khi cho rằng trong con người có hai phần cơ thể và linh hồn. Phần cơ thể to lớn được nhìn thấy rõ, còn phần linh hồn nhỏ bé, bí ẩn không hiển hiện ra ngoài nhưng có khả năng điều khiển cái cơ thể to lớn của con người. - Con người bản năng, sinh vật: Từ lập luận cho rằng con người khi mới sinh ra đã phải dựa vào bản năng để tồn tại và sau đó tiếp tục cuộc sống với những đòi hỏi của nhu cầu cơ thể nên quan niệm này cho rằng con người như một sinh vật, hoàn toàn bị chi phối và lệ thuộc vào bản năng. Nhận định này đã hạ thấp giá trị con người nhằm biện minh cho những lối sống thấp hèn, thiếu lành mạnh ở con người kém ý chí vượt lên trên những cám dỗ vật chất tầm thường trong cuộc sống. - Con người vô cảm: Sự phát triển xã hội đôi khi làm cho con người phải chạy theo nhịp độ căng thẳng của cuộc sống làm khô cằn, chai sạn cảm xúc của họ. Từ đó xuất hiện kiểu người như “cái máy biết suy nghĩ” với lối tư duy cứng nhắc và thái độ lạnh lùng, không đồng cảm được với tâm trạng của người khác. Con người họ có nhân cách phiến diện, nhận thức và hành động kém hiệu quả do tính nông cạn và lệch lạc. Tuy nhiên kiểu người này không phổ biến trong toàn xã hội. - Quan điểm khoa học cho rằng con người vừa là một thực thể tự nhiên (con) vừa là một thực thể xã hội (người) trong đó phần xã hội quan trọng hơn. Nhấn mạnh tính xã hội trong con người không có nghĩa là phủ nhận phần thể xác hoặc những nhu cầu tự nhiên của con người nhưng cần lưu ý rằng, bản năng tự nhiên của con người không hoàn toàn điều khiển được hành vi của họ vì cái bản năng ấy đã được xã hội hóa và con người thường thỏa mãn nhu cầu tự nhiên của mình một cách có ý thức. * Quan niệm về bản chất con người: - Từ xa xưa Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bổn thiện”, từ đó giáo dục phải bảo vệ, gìn giữ và phát triển cái thiện vốn có. - Quan niệm tôn giáo: Bản chất con người vừa thiện vừa ác. Tôn giáo giúp cho mỗi người vừa khắc phục, kềm chế cái ác vừa phát huy, thể hiện cái thiện hoặc lấy cái thiện để lấn át cái ác trong con người mình. “Lấy hoa thơm lấn dần cỏ dại”. - Quan điểm tiền định: Bản chất con người là có sẵn và do trời định “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”, do đó bản chất của con người không thể thay đổi được. - Quan điểm định mệnh hoàn cảnh: Bản chất con người hoàn toàn do hoàn cảnh sống tạo nên “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài“. - Quan điểm giáo dục vạn năng: Bản chất con người hoàn toàn được quyết định bởi sự giáo dục như sự khẳng định của Watson, nhà XHH Mỹ: “Hãy giao cho tôi những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường và cho phép tôi nuôi nấng dạy dỗ chúng theo cách riêng của mình thì bạn muốn chúng trở thành kĩ sư, bác sĩ, tổng thống hay là gì đi nữa, tôi cũng có thể làm cho chúng trở thành như vậy được”. Các quan điểm trên đây đều có tính phiến diện hoặc sai lầm khi cho rằng bản chất con người là có sẵn, là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh, của giáo dục và không thay đổi được. Dân gian thường nói: “Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”, với ý cho rằng bản chất của con người không thể nhận biết được. Nhưng kinh nghiệm khác của dân gian cũng cho rằng “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lồi ra” hoặc “Giấy không bọc nổi lửa”, ý nói rằng bản chất của con người không mãi mãi bị che dấu, mà bản chất thật của con người nhất định sẽ thể hiện ra (trong quá trình con người sống, hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội). Vì vậy cần xác định đúng đắn bản chất con người theo quan điểm của Marx: “…Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng, vốn có và riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Con người thường tồn tại trong nhiều mối quan hệ xã hội. Bằng hoạt động con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, chịu tác động của chúng và tác động trở lại làm thay đổi, củng cố hay phát triển các mối quan hệ xã hội đó. Bản chất con người luôn được bộc lộ trong chính cuộc sống và hoạt động giao lưu đa dạng của cá nhân. * Các tầng bậc phát triển của phạm trù người: Con người khi đại diện loài thì đó là cá thể; khi là thành viên xã hội thì đó là cá nhân; khi là chủ thể hoạt động thì đó là nhân cách. 2. Khái niệm “nhân cách” Theo Tâm lý học: Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do con người sáng tạo ra, với xã hội và với bản thân. (Phạm Minh Hạc - Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục - 1986) Nhân cách là bộ mặt tâm lý - đạo đức của mỗi người - đó là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý qui định giá trị xã hội và hành vi xã hội của người đó. Như vậy, nhân cách của con người được phân tích trên ba bình diện khác nhau và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau: - Mức độ bên trong cá nhân: nhân cách con người được thể hiện ở dạng cá tính, ở sự khác biệt của người này với những người khác. Ở bình diện này, nhân cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với mọi người, với cái chung, giá trị của nhân cách là ở tính tính cực của nó trong việc khắc phục những sự hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên của mình. - Mức độ giữa các cá nhân: nhân cách được thể hiện trong mối quan hệ và liên hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của nhân cách được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó. - Mức độ cao nhất, nhân cách dường như vượt ra ngoài khuôn khổ của cá tính và ra ngoài khuôn khổ của những mối liên hệ và quan hệ thực sự với các cá nhân khác, ở đây nhân cách được xem xét như là một chủ thể hoạt động đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định, những biến đổi trong những người khác (có liên quan, quen biết hoặc không liên quan, không quen biết). Giá trị của nhân cách là ở những tác động mà nhân cách này gây ra đối với những biến đổi của các nhân cách khác. Tất cả những biến đổi cơ bản mà cá nhân tạo ra được ở những cá nhân khác, đặc biệt là ở bản thân mình như là “một người khác”, đã tạo thành nét đặc trưng đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân cách. - Như vậy nhân cách con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của xã hội, độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. + Theo Giáo dục học: Nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Nhân cách là toàn bộ các đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân được xã hội đánh giá tạo nên giá trị của cá nhân đó. Tùy theo trình độ phát triển của xã hội mà các đặc điểm của cá nhân được nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Những đặc điểm của cá nhân cũng được đánh giá khác nhau tương ứng với những vai trò khác nhau của họ. Ví dụ: Đặc điểm ít nói của một người có khi được đánh giá là kín đáo khi có thái độ trầm lặng ở chốn vui chơi đông người nhưng có thể bị phê bình là ít cởi mở khi làm việc với đồng nghiệp. + Quan niệm truyền thống: Nhân cách là sự kết hợp thống nhất giữa phẩm chất và năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, tác phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có nhân cách phải là người thống nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức là thống nhất giữa mặt đức và tài. Cấu trúc nhân cách Đức (phẩm chất) Tài (năng lực) - Phẩm chất hướng về xã hội (đạo - Năng xã hội hóa: khả năng thích đức - chính trị) thế giới quan, niềm tin, ứng, năng lực sáng tạo, cơ động, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ thái độ lao động... cuộc sống xã hội. - Phẩm chất hướng về cá nhân (đạo - Năng lực chủ thể hóa: khả năng đức tư cách): cái nết, cái thói, cái thú biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, biểu (ham muốn) hiện bản lĩnh của cá nhân. - Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự - Năng lực hành động: khả năng hành chủ, tính mục đích, tính quả quyết, động có mục đích, có điều khiển, chủ tính phê phán,... động, tích cực. - Cung cách ứng xử: tác phong, lễ - Năng lực giao tiếp: khả năng thiết tiết, tính khí... lập, duy trì quan hệ với người khác. + Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định hướng giá trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm: - Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin... - Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái, lòng trung thực... - Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài năng... Như chúng ta biết giá trị là tất cả những cái gì có ý nghĩa đối với xã hội, tập thể và cá nhân, phản ánh những mối quan hệ chủ thể - khách thể, được đánh giá xuất phát từ những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể và phụ thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá và chọn lựa, giá trị trở thành một trong những năng lực thúc đẩy con người đi theo một xu hướng nhất định. Trong thực tế, định hướng giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá. Định hướng giá trị chỉ đạo hoạt động của con người, nó có ý nghĩa rất quan trọng: biết được định hướng giá trị của con người thì biết được thái độ, hành vi của họ. Nắm được định hướng giá trị, con người sẽ dễ dàng hơn trong việc đối nhân xử thế và tổ chức, điều khiển hoạt động cộng đồng. Định hướng giá trị được hình thành và củng cố bởi năng lực, nhận thức, kinh nghiệm sống của từng cá nhân. Quá trình định hướng giá trị rất phức tạp, gắn liền với việc giải quyết các mâu thuẫn như: * Mâu thuẫn giữa các động cơ khác nhau: VD: Phụ nữ thường bị giằng co giữa hai động cơ xây dựng gia đình hạnh phúc và phấn đấu thành đạt trong sự nghiệp khi định hướng giá trị vào các chuẩn mực về phẩm chất của người phụ nữ hiện nay: dịu dàng, đảm đang, năng động, bản lĩnh... * Mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ và lòng ham muốn: VD: trong quá trình định hướng vào giá trị đạo đức như tinh thần trách nhiệm, một sinh viên gia sư có thể bị mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ (phải đi dạy kèm tối nay) với lòng ham muốn (nghỉ dạy để dự sinh nhật của người yêu) * Mâu thuẫn giữa kích thích thực dụng với hành vi đạo đức: VD: khi giá trị đạo đức là lòng trung thực chưa được định hướng rõ ràng thì lúc làm bài thi mà bị tắt ý một sinh viên có thể bị giằng co giữa kích thích thực dụng (giám thị không chú ý nên có thể nhìn và chép bài làm của thí sinh ngồi gần đó) với hành vi đạo đức (không nhìn và chép lén bài làm của người khác). 3. Khái niệm “sự phát triển nhân cách” Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách chỉ hình thành và phát triển trong quá trình con người sống, hoạt động và giao lưu trong đời sống xã hội. Sự phát triển nhân cách là quá trình tăng trưởng, tích lũy, hoàn thiện về thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân. - Thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận động cơ thể... - Tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí... và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý mới của cá nhân. - Xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư xử với người xung quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt động của xã hội. Lưu ý rằng nhân cách con người không phát triển đồng đều trên ba phương diện mà có thể có sự phát triển vượt trội của một phương diện so với các phương diện khác. Đặc biệt là sự phát triển nhân cách không chỉ biểu hiện ở những biến đổi về số lượng các thuộc tính bẩm sinh di truyền sẵn có mà điều quan trọng là sự biến đổi về chất lượng các đặc điểm cơ thể và tinh thần của con người. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu tác động của nhiều yếu tố như: các đặc điểm sinh học di truyền của cơ thể, môi trường sống, hoạt động giao lưu của cá nhân và sự giáo dục. Mỗi yếu tố có những vai trò ảnh hưởng khác nhau nhưng đều rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách. Để có thể chủ động tạo nên những ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển nhân cách cá nhân, chúng ta cần xác định rõ vai trò ảnh hưởng của từng yếu tố. II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH I. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách a. Khái niệm về di truyền: Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính cơ thể như của thế hệ trước nhằm bảo đảm cho cơ thể thích ứng với những biến đổi của môi trường và giúp cho loài người tiếp tục tồn tại. Các thuộc tính cơ thể được di truyền bao gồm cấu tạo giải phẫu sinh lý và những đặc điểm cơ thể như màu mắt, màu tóc, vóc dáng, thể tạng, các giác quan, tư chất của hệ thần kinh... b. Vai trò của di truyền: - Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Một cơ thể lành mạnh, các giác quan đầy đủ, hệ thần kinh ổn định sẽ tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển nhân cách. - Các đặc tính cơ thể ảnh hưởng chủ yếu đến tốc độ, mức độ và tính chất của việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, các phẩm chất, năng lực của cá nhân chứ không quyết định sẵn cho sự phát triển nhân cách con người bởi vì: những tư chất di truyền định hướng cho con người vào các lĩnh vực hoạt động rộng rãi chứ không vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể và cũng không qui định trước năng lực cụ thể của cá nhân; những tư chất di truyền tạo khả năng cho con người hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định, nhưng để tư chất biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, vào sự giáo dục và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của cá nhân. Hoàn cảnh, giáo dục, hoạt động cá nhân... Tư chất -> Năng lực c. Kết luận: Cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách để tránh những thái độ sau đây: - Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh và đòi hỏi mọi học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như nhau hoặc không chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh và không tìm cách hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi. - Đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là bẩm sinh và phủ nhận khả năng biến đổi bản chất con người - Hạ thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ phát triển đã bị qui định bởi yếu tố di truyền. 2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách a. Khái niệm “môi trường” Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội tác động đến hoạt động sống và phát triển của cá nhân. Môi trường gồm hai dạng: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Trong môi trường xã hội gồm có: môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội nhỏ. b. Vai trò của môi trường: * Vai trò của môi trường tự nhiên: Những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện hình thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Thông thường tính cách của con người liên quan đến đặc điểm địa lý của khu vực sinh sống. Tuy nhiên môi trường không ảnh hưởng tuyệt đối hay có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển nhân cách. Trên thực tế vẫn có sự khác biệt nhân cách giữa những người cùng sống trong một điều kiện tự nhiên. Môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách nhưng không mạnh mẽ và quan trọng bằng sự ảnh hưởng của môi trường xã hội. Hơn nữa môi trường tự nhiên thực ra cũng đã bị tác động bởi con người - yếu tố xã hội. * Vai trò của môi trường xã hội: Sư hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường xã hội. Cá nhân không sống trong môi trường xã hội sẽ không phát triển nhân cách. Điều đó được chứng minh qua những trường hợp có em bị lưu lạc trong rừng tuy được thú vật nuôi dưỡng nhưng chỉ có thể sống theo kiểu động vật chứ không thể phát triển nhân cách cho dù sau đó đã được con người đưa về nuôi dạy trong môi trường xã hội. Môi trường xã hội qui định nội dung và chiều hướng của sự phát triển nhân cách. Nội dung nhân cách con người đô thị có những đặc điểm khác biệt và thường là phức tạp hơn so với nhân cách con người thôn quê do cuộc sống đô thị phong phú và đa dạng hơn ở vùng thôn quê. Chiều hướng phát triển nhân cách của người thành thị cũng rất khác với chiều hướng phát triển nhân cách người thôn quê bởi những điều kiện phát triển khác nhau giữa hai khu vực. * Cơ chế tác động của môi trường xã hội đến cá nhân + Môi trường xã hội lớn: không tác động trực tiếp đến cá nhân mà tác động gián tiếp thông qua môi trường xã hội nhỏ. Môi trường xã hội lớn thường là khó thay đổi nhưng nếu nó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi tính chất và các mối quan hệ của môi trường xã hội nhỏ. + Môi trường xã hội nhỏ: ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường xuyên, mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi cá nhân tham gia cùng lúc vào nhiều môi trường nhỏ. Tính chất của các môi trường nhỏ này chi phối rõ rệt đến cá nhân. Tuy nhiên môi trường xã hội nhỏ có thể bị biến đổi dễ dàng bởi sự thay đổi của môi trường xã hội lớn và bởi hoạt động của các thành viên. Lưu ý rằng tác động của môi trường cũng không hoàn toàn trực tiếp chi phối đến cá nhân mà phải thông qua sự chọn lựa của bộ lọc cá nhân (những kinh nghiệm, vốn sống và những định hướng giá trị đã hình thành trong mỗi cá nhân). Điều này góp phần lý giải hiện tượng những người cùng sống trong một khu vực, một cộng đồng xã hội nhưng có nhiều sự khác biệt về nhân cách. Ngoài ra cá nhân không chỉ là đối tượng nhận sự tác động của môi trường mà còn là chủ thể tham gia biến cải môi trường như câu nói của Marx: “Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh” Kết luận Môi trường không đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nhân cách. Mức độ ảnh hưởng của môi trường tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ, xu hướng, năng lực của cá nhân. Do đó trẻ em chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường do hệ thống định hướng giá trị chưa đầy đủ và ổn định, hoặc với những cá nhân ít có khả năng tự giáo dục thì môi trường thậm chí có vai trò quyết định. Trong công tác giáo dục điều quan trọng là giúp cá nhân hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ thống định hướng giá trị phù hợp với các chuẩn mực xã hội để họ biết chọn lựa học hỏi những điều tích cực lành mạnh và biết loại bỏ tránh xa những điều xấu xa tiêu cực trong môi trường sống. 3. Vai trò của hoạt động giao lưu cá nhân đối với sự phát triển nhân cách a. Hoạt động cá nhân: Hoạt động là tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là kích thích tạo ra hoạt động và kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. Cuộc sống của con người là một chuỗi hoạt động. Con người sống là còn hoạt động, hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Các hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào khách thể, sự vật, tri thức... và các quá trình tinh thần, trí tuệ.... Hoạt động giúp cá nhân trải nghiệm và thu thập vốn sống để trưởng thành, phát triển. Hoạt động giúp con người thích nghi đươc với hoàn cảnh và tự khẳng định nhân cách của mình. Thông qua hai quá trình chủ thể hóa và khách thế hóa, nhân cách con người bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt động con người dần dần hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động và của xã hội. Quá trình phát triển nhân cách của trẻ em thường diễn ra trong các hoạt động cơ bản như sau: hoạt động nhận thức, hoạt động giao tiếp, hoạt động vui chơi, hoạt động học tập và hoạt động xã hội. Những hoạt động cơ bản này cũng là những dạng hoạt động chủ đạo của từng thời kỳ lứa tuổi chi phối mạnh mẽ đến sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi đó. b. Giao lưu: Giao lưu là sự tác động qua lại giữa người với người trong xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu về người khác. Giao lưu là nhu cầu không thể thiếu của sự phát triển nhân cách. Quá trình giao lưu giúp cá nhân gia nhập vào các quan hệ xậ hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Trẻ em khi mới sinh ra đã có nhu cầu giao lưu với người lớn, nhờ sự giao lưu này trẻ sơ sinh mới có thể tồn tại và phát triển tâm lý ổn định. Nhu cầu giao lưu phát triển dần theo sự lớn lên của con người và trở nên thôi thúc khi con người không có điều kiện giao lưu thuận lợi (tuổi già, phụ nữ nằm cữ sau khi sinh, phạm nhân bị biệt giam...). Những trẻ sơ sinh mồ côi được các tổ chức xã hội nuôi dưỡng thường phát triển tâm lý chậm chap do mật độ giao lưu của trẻ với người lớn ít hơn so với những trẻ em sơ sinh được nuôi dưỡng trong gia đình bình thường. Đối với trẻ em các quan hệ giao lưu với bạn bè và người lớn gần gũi có uy tín như cha mẹ, thầy cô ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách. c. Kết luận: Hoạt động và giao lưu là yếu tố quyết định đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Con người luôn sống trong một môi trường nhưng môi trường không quyết định cho nhân cách của họ mà chính những hoạt động và các mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong môi trường đó mới chi phối đến đời sống tâm lý và hình thành những tính cách của cá nhân. Như những câu nói: “anh hãy cho tôi biết, bạn của anh là ai, thì tôi sẽ nói cho anh biết, anh là người như thế nào” hoặc “đi một ngày đàng học một sàng khôn”... Sự phát triển nhân cách của trẻ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tính chất và mật độ giao lưu của trẻ với người lớn và bởi các hoạt động chủ đạo tương ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi. 4. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách Nói đến giáo dục là nói đến những tác động tự giác, có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của môi trường xã hội. Những tác động này được tiến hành bởi các nhà giáo dục: giáo viên, cha mẹ, các cán bộ xã hội... 4.1. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách Xã hội ngày càng phát triển nên hoạt động giáo dục cũng có nhiều biến đổi phong phú nhưng đặc tính của giáo dục vẫn không thay đổi, đó là tính có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của hoạt động giáo dục và chủ thể giáo dục là những nhà giáo dục được xã hội phân công chuyên trách (cha mẹ, giáo viên, các cán bộ xã hội...) + Các quan điểm về vai trò của giáo dục: - Theo thuyết sinh học hay thuyết tiền định: Giáo dục không có vai trò gì trong sự phát triển nhân cách, sự phát triển nhân cách chủ yếu do ảnh hưởng của di truyền. - Theo thuyết nhi đồng học: Trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và giáo dục tác động như thế nào thì trẻ sẽ phát triển như thế ấy. - Theo quan điểm mác xít: giáo dục chỉ là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách, giáo dục không có tính vạn năng, không có tính quyết định mà chỉ đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách thể hiện qua: 4.1.1. Sự định hướng và dẫn dắt quá trình phát triển nhân cách của cá nhân - Giáo dục chủ động đề ra mục đích, qui định phương hướng, nội dung và mức độ phát triển nhân cách phù hợp với yêu cầu xã hội. - Giáo dục tổ chức, dẫn dắt sự phát triển nhân cách theo mục đích đã đề ra thông qua việc sử dụng những phương pháp, hình thức, biện pháp giáo dục tối ưu nhằm tổ chức các hoạt động và giao lưu cho cá nhân. Tâm lý con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người được biến thành kinh nghiệm của cá nhân. Chức năng của giáo dục không phải chỉ là xác nhận đánh giá mức độ phát triển tâm lý của trẻ đến đâu mà chủ yếu là làm phát triển tâm lý của chúng theo yêu cầu của xã hội, là xây dựng con người của xã hội mới, tạo ra năng lực cho mỗi người tự phát triển để sống và làm việc trong xã hội. Những phẩm chất tâm lý cần thiết của con người được hình thành dưới ảnh hưởng của kinh nghiệm xã hội con người, dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống có tổ chức của xã hội, nhà trường và gia đình. 4.1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách Mỗi yếu tố đã được xác định vai trò ảnh hưởng cần thiết và quan trọng đối với sự phát triển nhân cách, tuy nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động đến các yếu tố khác để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách như: - Đối với di truyền: Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong chương trình gène được phát triển. Trẻ được di truyền cấu tạo cột sống, bàn tay và thanh quản... nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có thể đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ... Giáo dục rèn luyện thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể. Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi chức năng hoặc hướng dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn truyền thông tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình. - Đối với môi trường: Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người, làm cho môi trường tự nhiên khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái để trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn. Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế - xã hội, chức năng chính trị-xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà trường và các nhóm bạn bè, khu phố..., để các môi trường nhỏ tạo nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con người. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa của một xã hội văn minh tiến bộ. - Đối với hoạt động giao lưu cá nhân: Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao lưu bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các nhà văn hóa cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa phương,...); xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia hoạt động, giao lưu đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động và giao lưu phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao lưu tích cực giữa thầy trò; giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách. 4.1.3. Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục Tự giáo dục thể hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người biết tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục. ” (Bennet - Anh) 4.1.4. Giáo dục đi trước đón đầu sự phát triển Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát triển của xã hội, giáo dục thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng. Có những quan điểm dạy học khác nhau như: - Dạy học theo đuôi sự phát triển - Dạy học song hành với sự phát triển - Dạy học đi trước sự phát triển Từ cuối thế kỷ 20, hoạt động giáo dục được xây dựng theo quan điểm của nhà tâm lý học Nga Vưgốtxki: “dạy học hướng vào vùng phát triển gần nhất” nhằm đón đầu sự phát triển của cá nhân. Theo Ông “dạy học tạo nên hiệu quả to lớn nếu nó được xây dựng trên nguyên tắc phát triển” Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển, giáo dục không chỉ thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình quyết định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua những tác động có tính chủ đạo. Hơn nữa, vai trò chủ đạo của giáo dục chỉ thể hiện đầy đủ khi có những điều kiện hỗ trợ như sau: - Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát triển. - Đội ngũ giáo viên của hệ thống giáo dục phải có khả năng tác nghiệp vững vàng để tổ chức những tác động phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Bởi vì “Không có một hệ thống giáo dục nào vươn cao quá tầm của những giáo viên làm việc cho hệ thống đó” (Roya Roy Sings) - Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội theo phương hướng xã hội hóa giáo dục. Những yếu kém của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa ba lực lượng giáo dục này. Cần lưu ý rằng nhà trường phải chủ động tạo sự liên kết giữa ba lực lượng trong công tác giáo dục học sinh bởi vì nhà trường tập trung đội ngũ giáo viên là những nhà giáo dục được đào tạo, trang bị nghiệp vụ sư phạm cho công tác giáo dục con người. III. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THEO LỨA TUỔI Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển nhân cách của con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn phát triển đều có những đặc điểm riêng, đặc biệt là đều có những bước nhảy vọt về chất và tạo tiền đề cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Giáo dục bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng về lứa tuổi, giới tính... và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó giáo dục phải xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra các nội dung, cách thức tác động tương ứng và phù hợp. 1. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ sơ sinh (0-1 tuổi) a. Sự phát triển nhân cách: Đứa trẻ khi mới sinh ra chỉ là một sinh vật mang mầm mống người, nhân cách chưa hình thành. Thông qua sự giao lưu với những người lớn trực tiếp chăm sóc (cha mẹ, ông bà, mẹ nuôi...) trẻ sơ sinh mới học được cách hòa nhập với cuộc sống xã hội ở ngoài bụng mẹ. Sự phát triển của trẻ sơ sinh chủ yếu là về mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động của các giác quan và của vận động (nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi, bò, đứng, đi, cầm nắm...) Chiều hướng phát triển của các giác quan và vận động cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính chất và mức độ phát triển về trí tuệ và tinh thần của đứa trẻ. b. Nội dung giáo dục: - Thúc đẩy nhanh sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. - Cho trẻ tiếp xúc, làm quen dần với thế giới đồ vật để dần dần hình thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật sau này. c. Cách thức giáo dục: - Người lớn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ thông qua sự giao lưu tiếp xúc và đáp ứng các nhu cầu của trẻ. Tuỳ theo cách thức chăm sóc, nuôi dưỡng, tùy theo thái độ cư xử của người lớn đối với trẻ mà đứa trẻ nhận được các loại ấn tượng, hình thành các thói quen hành vi trong nếp sống và sinh hoạt sau này (ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân...) Ngoài ra cách tiếp xúc với trẻ em và tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới cũng giúp đứa trẻ cảm nhận, hình thành được các loại cảm xúc, các thái độ đối với đồ vật, con người... làm nền tảng để sau này trẻ có kinh nghiệm cư xử với thế giới xung quanh. 2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ nhà trẻ: (1-3 tuổi) a. Sự phát triển nhân cách: Đây là giai đoạn trẻ nhận được các tác động xã hội hóa một cách phong phú và mạnh mẽ. Nhờ các tiến bộ về cơ thể và tâm lý, đặc biệt là với ba thành tựu lớn: luyện tập dáng đi thẳng, hoạt động với đồ vật - công cụ, sự phát triển ngôn ngữ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng tự ý thức của trẻ, một yếu tố thể hiện nhân cách con người. b. Nội dung giáo dục: - Giúp trẻ đạt được ba thành tựu của sự phát triển: luyện tập dáng đi thẳng đứng; hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, sử dụng các loại đồ vật theo đúng chức năng và có tính sáng tạo; giúp trẻ phát triển ngôn ngữ (tập cho trẻ nói, diễn đạt suy nghĩ và hiểu điều người khác nói) - Bước đầu cho trẻ học tập cách thức cư xử theo những qui tắc hành vi trong xã hội đối với người khác (người trong gia đình, cô giáo, bạn bè...) - Kích thích trẻ phát triển khả năng tư duy ở mức độ trực quan hành hành động. c. Cách thức giáo dục: - Thông qua việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình trẻ học được các qui tắc hành vi đối với thế giới xung quanh. Người lớn cần chú ý đến các biểu hiện của mình về lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ đối với trẻ để giúp trẻ có một khuôn mẫu tốt đẹp để noi theo. - Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật khác nhau, hướng dẫn trẻ cách thức sử dụng, kích thích trẻ suy nghĩ, sáng tạo ra trò chơi với các đồ vật ấy. - Xây dựng những cách thức ứng xử thích hợp với các biến chuyển tâm lý của trẻ (sự tự ý thức, thái độ bướng bĩnh...) để sự phát triển nhân cách của trẻ được thuận lợi. 3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh mẫu giáo: (3 - 6 tuổi) a. Sự phát triển nhân cách: Đây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ thể hiện ở khả năng hành động theo động cơ gián tiếp. Sự hình thành nhân cách lệ thuộc nhiều vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc (cha mẹ, cô giáo, bạn bè, người xung quanh...). Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách của trẻ thường được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách của trẻ trong giai đoạn này chỉ đạt mức độ thấp nhưng diễn ra với tốc độ cao. Đặc điểm nhân cách trẻ mẫu giáo nổi bật ở khuynh hướng muốn được độc lập hoạt động không có sự kềm kẹp của người lớn, đặc biệt là sự cuốn hút trẻ vào trong các loại trò chơi. Thông qua đó trẻ nắm được các phương thức hành động, định hướng và ý thức được các chuẩn mực trong các mối quan hệ giữa người với người và với thế giới xung quanh b. Nội dung giáo dục: - Hình thành những nét nhân cách tốt đẹp làm cơ sở cho một nhân cách hoàn thiện sau này thông qua sự gương mẫu trong nhân cách của nhà giáo dục. - Phát triển các khả năng tâm lý của trẻ như: trí tưởng tượng, khả năng tư duy, trí nhớ, các loại tình cảm cấp cao... như những phương tiện giúp trẻ thu nhận các tác động giáo dục. - Tiếp tục trang bị cho trẻ những qui tắc ứng xử trong cuộc sống xã hội. - Giúp trẻ hình thành tâm thế đi học trường phổ thông vào cuối tuổi. c. Cách thức giáo dục: - Thông qua sự gương mẫu của các nhà giáo dục như: cha mẹ, cô giáo... - Tổ chức cho trẻ tham gia các loại trò chơi bổ ích, thích hợp với lứa tuổi: sắm vai, học tập, vận động... - Đưa trẻ vào các loại quan hệ để rèn luyện cách thức cư xử phù hợp với các chuẩn mực xã hội. 4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ học sinh tiểu học (6 - 11 tuổi) a. Sự phát triển nhân cách: Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu tham gia vào hoạt động học tập mang tính xã hội hóa mạnh mẽ để tiếp nhận hệ thống tri thức khoa học của loài người. Dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, nhân cách của trẻ có nhiều biến đổi phong phú và sâu sắc. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học nổi bật ở những nét sau: - Khả năng nhận thức phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập. - Đời sống xúc cảm, tình cảm chiếm ưu thế hơn và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động, nhận thức của trẻ. - Tính hồn nhiên, vui tươi hướng về những cảm xúc tích cực. - Hay bắt chước những người gần gũi, có uy tín với trẻ (cha mẹ, thầy cô, bạn bè...) - Hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó kềm chế, kém tự chủ nên dễ phạm lỗi, nhất là đối với các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự tập trung cao độ, gây căng thẳng. Nhân cách của học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gia đình, nhà trường, xã hội. Trong đó những ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô là rất quan trọng vào đầu tuổi và sau đó là các ảnh hưởng từ bạn bè và phương tiện thông tin đại chúng sách báo, phim ảnh...) b. Nội dung giáo dục: - Phát triển khả năng nhận thức và phẩm chất trí tuệ thông qua hoạt động học tập. - Rèn luyện tác phong và các thói quen hành vi đạo đức cơ bản của con người theo chuẩn mực xã hội. - Khắc phục dần các nhược điểm trong đời sống tình cảm (tính hay thay đổi, cách biểu lộ tình cảm không phù hợp...), giúp trẻ biết cảm nhận và biểu lộ tình cảm của mình. - Rèn luyện các phẩm chất của hành vi ý chí (tính tự chủ, độc lập, khả năng tự kềm chế...) - Giúp trẻ biết chọn lựa thu nhận những tác động lành mạnh từ những phương tiện thông tin. c. Cách thức giáo dục: - Lấy sự gương mẫu của các nhà giáo dục làm phương tiện giáo dục. - Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn bè của trẻ để tạo nên những ảnh hưởng tích cực trên nhân cách. - Tổ chức, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng. - Căn cứ trên những nhu cầu của lứa tuổi để tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia các hoạt động cần thiết cho sự phát triển như: học tập, vui chơi, lao động, hoạt động xã hội... 5. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở (11 - 15 tuổi) a. Sự phát triển nhân cách: Sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên có nhiều biến động và rất phức tạp, gây ra những khó khăn trong nội tâm thiếu niên cũng như trong mối quan hệ giữa người lớn với các em. Cùng với những biến đổi quan trọng trong cơ thể liên quan đến sự phát triển giới tính, đời sống tâm lý của các em xuất hiện những nhu cầu tâm lý mới như: khuynh hướng muốn làm người lớn (muốn sống tự lập, muốn làm những việc có ý nghĩa), nhu cầu tự khẳng định mình (khẳng định giá trị và phẩm chất, năng lực của bản thân)... Những thúc đẩy tâm lý này thường được thỏa mãn trong quan hệ bạn bè của thiếu niên nên những tác động từ cha mẹ, giáo viên có khi bị giảm nhẹ trước các chi phối của những bạn bè cùng lứa. Tuổi thiếu niên hay có những suy nghĩ mạnh dạn nhưng có tính tuyệt đối. Các em đòi hỏi và mong muốn được đáp ứng mà ít chịu suy xét điều kiện thỏa mãn. Tình cảm rất phức tạp, mạnh mẽ dễ đưa đến kiểu hành động quá khích, gây hấn. b. Nội dung giáo dục: - Tiếp tục phát triển các khả năng trí tuệ và rèn luyện tác phong đạo đức cho thiếu niên. - Giúp thiếu niên có những hiểu biết cần thiết về giới tính, về các chuẩn mực trong quan hệ cư xử với người khác giới. - Tạo điều kiện cho thiếu niên thỏa mãn các nhu cầu tâm lý một cách hợp lý và lành mạnh, c. Cách thức giáo dục: - Nhà giáo cần đóng vai trò là người bạn lớn tuổi, gần gũi, đáng tin cậy của thiếu niên để có thể kịp thời giúp các em vượt qua những khó khăn trong sự phát triển của bản thân. - Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn của thiếu niên đi vào các hoạt động cần thiết cho sự phát triển lứa tuổi. - Tổ chức các loại hình hoạt động đáp ứng những nhu cầu nhận thức và vui chơi của thiếu niên. 6. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông (15 - 18) a. Sự phát triển nhân cách: Nhân cách đang trong giai đoạn định hình với nội dung phong phú và có chiều sâu. So với học sinh THCS, học sinh trung học phổ thông có khả năng nhận thức hoàn thiện hơn, các em có thể tìm hiểu sâu và nắm được bản chất của vấn đề chứ không nhìn nhận sự việc cách nông nổi và phiến diện. Nếu được khuyến khích sẽ có những suy nghĩ, mạnh dạn độc đáo. Xem xét các hoạt động và sản phẩm trí tuệ của các em thể hiện trong hoạt động học tập hoặc sinh hoạt ngoại khóa, chúng ta dễ nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng về mặt nhận thức của các em. Trên một bài báo tường, một học sinh lớp 11 đã viết: “Vậy đó, trong vòng tay của cha mẹ, thầy cô, bạn bè, em đã lớn, mười sáu, mười bảy tuổi. Mười sáu hay mười bảy, cái tuổi của một thời mộng mơ dạt dào chắp cánh cho bao kỳ vọng vươn lên. Giờ đây em đã thôi làm thơ ca ngợi đóa hồng trước ngõ mà biết rằng con người phải đổ bao nhiêu máu xương cho đất nở được hoa hồng; em thôi mơ làm công chúa hay hoàng tử trên tiên giới, mà muốn rằng hôm nay, mình phải sống xứng đáng, biết cho đi và quên mình trong hạnh phúc chung. Đời sống nội tâm phát triển, các em ý thức rõ rệt hơn về cái tôi và thích hình dung về hình ảnh bản thân. Nhu cầu bộc lộ bản thân để tự khẳng định trở nên mạnh mẽ hơn, các em thích chia sẻ với bạn bè hoặc đối diện với chính mình trên những trang nhật ký. Học sinh trung học cũng mang nhiều suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp trong tương lai, điều này bị chi phối bởi thần tượng của các em. Việc lựa chọn thần tượng lại phụ thuộc vào khả năng xác định hình ảnh bản thân của các em. Những học sinh không nhận thức rõ về bản thân thường định huớng vào những thần tượng xa vời với khả năng phân đấu, do đó thường nhanh chóng thay đổi thần tượng và càng hoang mang về bản thân. Lứa tuổi này cũng đã quan tâm đến tình cảm giữa nam và nữ nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng tình yêu đôi lứa bền vững. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động quan trọng cho sự phát triển nhân cách và cuộc sống tương lai của các em. b. Nội dung giáo dục: - Trang bị cho thanh niên những hiểu biết về tính chất và cách thức cư xử trong tình bạn, tình yêu. - Hướng dẫn thanh niên xây dựng kế hoạch cuộc đời phù hợp với sự phát triển cá nhân trong xã hội. - Giúp thanh niên xây dựng lý tưởng sống cao đẹp và biết định hướng vào hệ thống giá trị lành mạnh, tích cực theo chuẩn mực xã hội. - Tạo điều kiện cho thanh niên lựa chọn đúng loại nghề nghiệp của bản thân bằng cách cung cấp thông tin về các loại nghề nghiệp trong xã hội (đặc điểm, nhu cầu của nghề đối với người lao động). Xác định cho các em biết những nghề nghiệp mà địa phương đang có nhu cầu phát triển. Giúp học sinh THPT nhận ra hứng thú nghề nghiệp và khả năng tương ứng của bản thân. c. Cách thức giáo dục: - Xây dựng một cách đa dạng, phong phú các loại hình hoạt động sôi nổi, hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách lành mạnh. - Tăng cường các ảnh hưởng tích cực qua phương tiện thông tin đại chúng đến lứa tuổi thanh niên (tạo nhiều phim ảnh, xuất bản những đầu sách, phát hành các loại báo chí thích hợp) - Xây dựng hệ thống giá trị đáp ứng yêu cầu của thời đại và tuyên truyền, thuyết phục thanh niên có niềm tin lựa chọn các giá trị được xã hội đánh giá cao. - Nhà giáo dục thật sự là người bạn đáng tin cậy đối với họ, có thái độ tôn trọng, khuyến khích các khả năng sáng tạo, độc đáo của thanh niên. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP 1. Bạn hiểu như thế nào về nhân cách và sự phát triển nhân cách? Hướng dẫn: - Khái niệm nhân cách, xác định thành phần cốt lõi của nhân cách. - Sự phát triển nhân cách: biểu hiện và đặc tính của sự phát triển. 2. Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách? Mỗi yếu tố có vai trò như thế nào đến sự phát triển nhân cách? Hướng dẫn: a. Phân tích vai trò của yếu tố di truyền đối với sự phát triển nhân cách b. Phân tích vai trò của yếu tố môi trường đối với sự phát triển nhân cách - Các loại môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách - Cơ chế tác động của mỗi loại môi trường đến sự phát triển nhân cách c. Phân tích vai trò của yếu tố hoạt động giao lưu đối với sự phát triển nhân cách d. Phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự phát triển nhân cách - Thể hiện của tính chủ đạo của yếu tố giáo dục - Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo. - Vai trò của yếu tố tự giáo dục Xác định vai trò của mỗi yếu tố để đi đến kết luận đúng đắn về tầm quan trọng của chúng đối với sự phát triển nhân cách. 3. Lứa tuổi học sinh THPTcó những đặc điểm nhân cách như thế nào? Những nội dung và cách thức giáo dục đối với lứa tuổi này là gì? CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Những câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn...nào nói về sự ảnh hưởng của các yếu tố di truvền, môi trường, giáo dục hoặc tự giáo dục đến sự phát triển nhân cách? 2. Một số bậc cha mẹ quan niệm rằng: “Gần mực thì đen - gần đèn thì sáng” cho nên hiện nay cần hạn chế sự giao lưu của con cái với môi trường bên ngoài gia đình và nhà trường để tránh những ảnh hưởng xấu đến nhân cách của trẻ. Bạn có ý kiến như thế nào đối với quan niệm trên? 3. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết câu thơ sau: Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên. Bạn giải thích như thế nào về câu thơ dựa trên sự hiểu biết về vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách? Chương 3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC Sau bài học này người học có khả năng: 1. Về kiến thức a. Mức độ Biết i. Định nghĩa khái niệm “Mục đích giáo dục” ii. Nêu được những cơ sở để xác định mục đích giáo dục tổng quát. b. Mức độ Hiểu i. Phân biệt mục đích giáo dục với mục tiêu giáo dục. ii. Phân biệt các cấp độ của mục đích giáo dục. iii. Phân tích nội dung mục đích giáo dục tổng quát và mục tiêu phát triển nhân cách iv. Phân tích nội dung mục tiêu giáo dục bậc trung học phổ thông c. Mức độ Vận dụng i. Đối chiếu với kết quả giáo dục thực tiễn ở địa phương 2. Về kỹ năng i. Xác định mục tiêu chuyên biệt của một quá trình giáo dục cụ thể 3. Về thái độ i. Khẳng định sự cần thiết của việc xác định mục tiêu trước khi tiến hành một quá trình giáo dục cụ thể. “Liệu anh sẽ nói gì với người kiến trúc sư, khi thiết kế tòa nhà mới lại không biết trả lời cho các anh câu hỏi về việc anh ta muốn xây dựng cái gì? ngôi đền thờ hay đơn giản chỉ là một ngôi nhà...? Anh cũng phải nói những điều như thế về nhà giáo dục nào mà không biết xác định một cách rõ ràng và chính xác về mục đích hoạt động giáo dục của mình. ” (K.D. Usinski) Nội dung bài học: I. KHÁI NIỆM VỀ MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC 1. Định nghĩa và tính chất Mục đích giáo dục là kết quả của toàn bộ hoạt động giáo dục được hình dung trước dưới dạng mô hình con người thời đại ở một giai đoạn lịch sử của xã hội. Mục đích giáo dục có tính khách quan: phản ánh các yếu tố xã hội về nội dung giáo dục mà hệ thống giáo dục và hoạt động giáo dục thực tiễn phải đạt được. Mục đích giáo dục trước hết phản ánh khách quan các yêu cầu của xã hội hiện tại, đồng thời dự kiến xu hướng phát triển xã hội trong tương lai và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Mục đích giáo dục có tính xã hội - lịch sử: Mục đích giáo dục luôn thay đổi cho phù hợp với những chuyển biến mới trong xã hội tạo ra yêu cầu đổi mới giáo dục. 2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định mục đích giáo dục - Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của Giáo dục học được có tác dụng định hướng cho công tác nghiên cứu lý luận và các hoạt động giáo dục thực tiễn. - Mục đích giáo dục là thành tố cơ bản của quá trình giáo dục qui định tính chất và phương hướng, nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo dục, qui định tiêu chuẩn kiểm tra và đánh giá kết quả quá trình giáo dục. - Mục đích giáo dục định hướng cho hoạt động thực tiễn của người dạy, giúp họ chủ động sáng tạo hơn trong công tác giáo dục đồng thời định hướng cho người học nhanh chóng đạt kết quả. - Mục đích giáo đục được khẳng định như một xuất phát điểm của mọi hoạt động sư phạm, thiếu nó hoặc xác định nó không đủ tường minh, thì hoạt động sư phạm có thể coi như bắn tên không có đích. “Chúng ta sẽ không thể làm tốt một việc gì nếu như chúng ta không biết mình sẽ phải làm gì” (Macarenko) “Nếu bạn không biết chắc nơi bạn muốn đến, có nguy cơ bạn sẽ đến một chỗ khác, mà bạn không biết...”; “Nếu thầy cho trò biết rõ nội dung của mục tiêu đào tạo..., rất có thể là trong khá nhiều trường hợp, người thầy không còn gì phải làm cả” (Mager) “Nếu không có mục đích, anh sẽ không làm được gì cả. Anh cũng không làm được cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm thường” (Didero) * Tác hại của việc không nhận thức mục đích giáo dục - Gây nên sự thụ động và hạn chế tính sáng tạo của nhà giáo dục. - Không có sự thống nhất tác động giáo dục giữa các nhà giáo dục và gây ra những lực cản vô lý trong hoạt động giáo dục. + Phân biệt hai khái niệm “Mục đích - Mục tiêu ” Mục đích Mục tiêu - Có tính định hướng, lý tưởng - Có tính cụ thể với hành động và - Thời gian thực hiện dài phương tiện xác định - Tính rộng lớn khái quát của vấn đề - Thời gian thực hiện ngắn, xác - Không thể đo được kết quả - Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do định. - Tính xác định của vấn đề nhiều mục tiêu kết hợp lại. - Là một bộ phận của mục đích Có thể nói mục tiêu là một bộ phận của mục đích. Mục đích có cấu trúc phức tạp do nhiều mục tiêu tạo thành. Nhưng mục đích không phải là tổng số các mục tiêu mà là một sự kết hợp có qui luật. 3. Các loại mục đích giáo dục: có hai loại - Mục đích hệ thống: là kết quả dự kiến mà hệ thống giáo dục cần đạt được sau một thời gian nhất định. Các nhà quản lý thường quan tâm đến mục đích hệ thống. - Mục đích nhân cách: Thường được các nhà giáo quan tâm tới, bao gồm: Mô hình con người mà mỗi cá nhân cần phấn đấu để đạt được Mô hình con người mà xã hội cần đào tạo. Quan hệ giữa mục đích hệ thống và mục đích nhân cách là quan hệ giữa sự phát triển xã hội và phát triển cá nhân (con người) 4. Các cấp độ của mục đích giáo dục * Cấp vĩ mô: Tên gọi là “Mục đích giáo dục”, do các cấp lãnh đạo, quản lý xã hội đề ra dựa trên yêu cầu của xã hội. Mục đích giáo dục giữ vai trò định hướng về giá trị nhân cách ở cấp toàn xã hội và áp dụng cho toàn bộ hoạt động giáo dục trong xã hội. Mục đích giáo dục thường có tính chất lý tưởng và ổn định tương đối. Mục đích giáo dục hiện nay là: Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực Bồi dưỡng nhân tài. * Cấp trung gian: tên gọi là “Mục tiêu giáo dục hay mục tiêu đào tạo” do các cấp quản lý giáo dục từ Bộ đến trường xây dựng dựa trên mục đích giáo dục tổng quát và yêu cầu cụ thể của hoạt động giáo dục; nêu lên mục tiêu về nhân cách, về chất lượng đào tạo cho toàn ngành giáo dục và cho từng bậc học, cấp học (còn có thể cho từng giai đoạn, từng năm học), chủ yếu được thể hiện bằng ngôn ngữ, thuật ngữ tâm lý - sư phạm. Hiện nay luật giáo dục quy định mục tiêu giáo dục theo từng bậc học như sau: + Mục tiêu của giáo dục bậc mầm non: giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. + Mục tiêu của giáo dục bậc phổ thông: giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Giáo dục tiểu học: giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ. Thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. - Giáo dục trung học cơ sở: giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. - Giáo dục trung học phổ thông: giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. * Cấp vi mô: gọi là “mục tiêu chuyên biệt hay mục đích - yêu cầu”. Đó là mục tiêu hành động của thầy và trò, do các nhà sư phạm, các giáo viên đề ra cho từng môn học, bài học, từng hoạt động... phản ánh mục tiêu giáo dục. * Những yêu cầu của việc xác định mục tiêu chuyên biệt Thông thường các mục tiêu giáo dục được bày tỏ một cách chung chung và lờ mờ nên khó hình dung được rõ ràng kết quả mong đợi của một quá trình giáo dục cụ thể, chẳng hạn như: Mục tiêu bài giảng là “Hiểu nội dung bài và cảm nhận được ý nghĩa; Học sinh thấy được tấm lòng yêu thương của cô giáo...”. Thế nào là hiểu? là cảm nhận? là thấy được lòng yêu thương? Làm sao biết được học sinh có hiểu, có cảm nhận và có thấy? Do đó cần phải biết cách xác định mục tiêu một cách cụ thể, rõ ràng hơn để tiến hành quá trình giáo dục một cách chủ động và tập trung vào kết quả mong đợi qua mục tiêu đã xác định đó. Xác định mục tiêu giáo dục là tìm cách diễn tả đơn giản nội dung giáo dục để chỉ ra các thao tác mà người học có khả năng thực hiện nội dung đó. Một mục tiêu được xác định tốt phải có hai tác dụng, đó là chỉ đạo tổ chức quá trình giáo dục và làm chuẩn đánh giá kết quả đào tạo. Nếu không đạt được hai yêu cầu này, thì mục tiêu vạch ra chỉ là một “mục tiêu tuyên bố” chỉ nêu lên cho có, cho đủ thủ tục của một giáo án. * Các điều kiện xây dựng mục tiêu chuyên biệt chính xác và hiệu quả 1. Mục tiêu phải được diễn tả theo chức năng người học chứ không phải theo chức năng người dạy bởi vì chính người học là chủ thể thực hiện mục tiêu để chiếm lĩnh một khả năng mới. Vì vậy, có thể mở đầu bằng cụm từ “Sau bài học này, người học có khả năng...” 2. Mục tiêu phải được diễn đạt bằng một động từ đơn nghĩa, chính xác để giáo viên và học sinh nhìn nhận kết quả mong đợi dưới cùng một dạng. Những cách phát biểu như sau là mơ hồ, đa nghĩa dẫn đến những cách hiểu khác nhau giữa giáo viên và học sinh: “nắm được khái niệm”; “nhận thức rõ tình bạn”; “nhận thấy trẻ em được quyền kết giao bạn bè”; “thấy tác hại của bệnh răng miệng” “nắm vững qui tắc” 3. Mục tiêu phải được diễn tả dưới dạng hành vi có thể quan sát được. VD: “Viết một bài không có lỗi chính tả” (thay vì phát biểu: “nắm vững luật chính tả”) 4. Xác định hoàn cảnh, điều kiện, thời gian hành vi nói trên sẽ diễn ra. VD: “Nghe đọc để viết một bài không có lỗi chính tả.“ 5. Xác định tiêu chí thừa nhận mức độ đạt được mục tiêu VD: Nghe đọc để viết một bài khoảng 10 dòng không có lỗi chính tả và không có dấu vết tẩy xóa. VÍ DỤ MINH HỌA CÁCH PHÁT BIỂU MỤC TIÊU * Lưu ý: Những ví dụ sau đây có tính chất gợi ý cách phát biểu mục tiêu chuyên biệt của một bài học, chứ chưa phải là một ví dụ chuẩn xác về các mục tiêu phải đạt trong bài học Bài học: KỸ THUẬT DI TRUYỀN Môn Sinh - Lớp 12 Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết: a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “kỹ thuật di truyền” 2. Mức độ hiểu: a. Vẽ và sơ đồ kỹ thuật cấy gen b. Giải thích từng khâu của kỹ thuật cấy gen 3. Mức vận dụng: a. Liên hệ thực tiễn để nhận biết các sản phẩm sử dụng kỹ thuật cấy gen. Bài học: LIÊN KẾT CỘNG HÓA TRỊ Môn Hóa - Lớp 11 Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết: a. Phát biểu định nghĩa khái niệm “Liên kết cộng hóa trị” 2. Mức độ hiểu: a. Giải thích sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có liên kết cộng hóa trị b. Phân biệt được liên kết cộng hóa trị có cực và không có cực. 3. Mức độ vận dụng: a. Viết được sự hình thành liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử có liên kết cộng hóa trị b. Xác định phân tử có liên kết cộng hóa trị Bài học: CÂU Môn Văn - Lớp 10 Mục tiêu: Sau bài học, Học sinh có khả năng 1. Mức độ biết: a. Nêu định nghĩa từng kiểu câu 2. Mức độ hiểu: a. Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp và theo mục đích phát ngôn. b. Mô tả cấu tạo của từng kiểu câu c. Cho ví dụ từng kiểu câu d. Giải thích ý nghĩa, cách dùng từng kiểu câu e. Phân biệt các kiểu câu hai thành phần; câu đặc biệt; câu tỉnh lược f. So sánh câu ghép với câu phức; câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ 3. Mức độ vận dụng: a. Viết câu đúng ngữ pháp b. Giải hết và giải đúng các bài tập trong sách giáo khoa Để có thể phát biểu mục tiêu một cách rõ ràng có thể dùng những động từ theo mô hình phân bậc mục tiêu nhận thức của B.S Bloom dưới đây: Mức độ Biết Kết quả Động từ mẫu Học sinh gợi lại hoặc định nghĩa, liệt kê, thuật lại, vẽ, định vị, nhìn nhận thông tin lựa chọn, nhận dạng, gắn nhãn, ráp nối, nêu tên, phát biểu Hiểu Học sinh chuyển Phân loại, minh họa, kể lại, thông tin sang thức Biểu lộ, gộp, viết lại, biểu tượng Mô tả, nhóm, chỉ ra Giải thích, diễn giải, tóm tắt Khái quát, xếp thứ tự Áp dụng Học sinh sử dụng kiến Áp dụng, kiểm tra, phỏng đoán, thức để giải quyết vấn So sánh, trình diễn, phỏng vấn đề Tranh luận, điều tra, chứng minh Vẽ sơ đồ, lưu trữ, tìm kiếm Kết luận, làm, dịch Khám phá, xây dựng Phân tích Học sinh chia thông Phân tích, kiểm nghiệm, đối chiếu tin thành các phần Tổng hợp Suy luận, thuật lại, mổ xẻ, Định rõ Học sinh giải quyết Kết hợp, biểu diễn, dàn dựng vấn đề bằng cách kết Tạo lập, lên kế hoạch, duyệt lại hợp các thông tin với Thiết kế, phát triển, kể lại nhau bằng phương tư Tưởng tượng, đề xuất duy sáng tạo độc lập Đánh giá Học sinh đưa ra Tranh luận, tính điểm, giới thiệu những đánh giá định Khích lệ, đánh giá, ủng hộ lượng và định tính Chọn lựa, bào chữa, kiểm tra dựa trên những tiêu Phê phán, xếp hạng xác minh chuẩn đã đặt ra Phê bình, tính tỉ lệ II. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM 1. Những cơ sở xác định mục đích giáo dục 1.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam * Hội nghị trung ương II (khóa VIII) đã nhận định tình hình giáo dục trong những năm qua như sau: - Mạng lưới trường học phát triển khắp mọi miền trên đất nước, kể cả ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, hầu hết các xã ở đồng bằng đã có trường trung học cơ sở, các huyện đều có trung học phổ thông, nhiều huyện, tỉnh miền núi có trường dân tộc nội trú. - Đã ngăn chặn được sự giảm sút qui mô và có bước tăng trưởng khá. - Cả nước có hơn 20 triệu học sinh; Hiện có 16 tỉnh, thành phố, 57% số huyện, 76 % số xã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. So với 91-92, năm học 95-96 H PT tăng 1.25 lần, sinh viên tăng 2.7 lần, giáo dục sau đại học đào tạo nhiều cán bộ có trình độ cao. - Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật ở bậc phổ thông và đại học tập trung. Học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc tế ngày càng tăng. Xét một cách khách quan công bằng thì giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng. Tuy nhiên giáo dục Việt Nam còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu, nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo. * Những thách thức cho sự nghiệp giáo dục hiện nay: - Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu xã hội ở các vấn đề hình thành phát triển nhân cách, kỹ năng sống và lao động, đạo đức công dân, ý thức chính trị, chuẩn bị cho thế hệ trẻ vào đời, hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng nghề nghiệp... - ĐK thực hiện chất lượng giáo dục- đào tạo như lương giáo viên, sách giáo khoa và các tài liệu giảng dạy, cơ sở hạ tầng của nhà trường, thiết bị đồ dùng dạy học, hệ thống trường sư phạm... đều còn quá thấp. - Môi trường giáo dục nhiều nơi chưa lành mạnh, tích cực: chưa kết hợp chặt chẽ và tạo sự thống nhất về phương hướng, nội dung, phương pháp giáo dục ở ba môi trường giáo dục. - Hiệu quả trong và ngoài còn thấp: tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp thấp; năng lực thực hành, kỹ năng sống và lao động thích ứng với yêu cầu của bản thân, gia đình, cộng đồng, đất nước và thời đại còn yếu. - Phần lớn học sinh tiểu học chưa học đủ 9 môn, ảnh hưởng xấu tới sự phát triển toàn diện nhân cách. - Phần lớn học sinh trung học phổ thông chỉ theo đuổi mục đích vào đại học do nhà trường chưa làm tốt công tác hướng nghiệp, chuẩn bị nghề đi vào cuộc sống lao động cho học sinh. - Hệ thống các trường trung cấp chuyên nghiệp dạy nghề kém phát triển, quy mô nhỏ, chất lượng thấp. - Quy mô sinh viên còn rất nhỏ, cơ cấu đội ngũ sinh viên còn nhiều bất hợp lý, chất lượng dạy học đại học còn quá nhiều vấn đề, hiệu quả đáp ứng các yêu cầu xã hội còn thấp. + Tình hình giáo dục đào tạo sau 5 năm thực hiện NQTW2 - khóa 8: * Những kết quả nổi bật: - Quy mô giáo dục không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng, các mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đã được thực hiện, công cuộc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được đẩy mạnh, vừa học vừa làm đang trở thành sinh hoạt tương đối phổ biến trong đời sống xã hội. - Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến tích cực. Các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước và so sánh với trình độ giáo dục - đào tạo của các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới thì chất lượng và hiệu quả giáo dục của nước ta có phần yếu kém. Nâng cấp chất lượng và hiệu quả vẫn là bức xúc, là thách thức chủ yếu mà ngành giáo dục phải cố gắng vượt qua. - Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục không ngừng được củng cố, tăng cường và có nhiều chuyển biến tích cực (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất kỹ thuật, trường lớp, thiết bị dạy học...) + Tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm đồng bộ hóa về cơ cấu và chuẩn hóa về trình độ đào tạo. + Kết hợp nhiều nguồn vốn để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học. + Tăng ngân sách giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức do NQTW2 đề ra. Mặc dù vậy ngân sách nhà nước chỉ mới đáp ứng khả năng 70% nhu cầu tối thiểu của giáo dục. Phần lớn ngân sách dùng để trả lương và các khoản phụ cấp theo lương. Tỉ lệ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo: 1998 1999 2000 2001 2002 2004 13.7 14.1 15.0 15.3 15.5 11.83% - Chủ trương xã hội hóa giáo dục đang phát huy tác dụng và đã góp phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân, toàn Đảng. - Công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện, có nhiều biện pháp trợ giúp, tạo điều kiện học tập cho con em gia đình thuộc diện chính sách, con em đồng bào dân tộc và học sinh nghèo vượt khó. - Mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của nhiều cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học nước ngoài và các tổ chức quốc tế. - Công tác quản lý ngành đã đạt được một số hiệu quả đáng ghi nhận. * Những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân: - Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển đất nước, chưa tiếp cận với trình độ và kết quả giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. + Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, về kỹ năng thực hành, về khả năng thích ứng nghề nghiệp. + Nội dung, chương trình còn thiên về lý thuyết, ít gắn với thực tế cuộc sống, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, bậc học, các loại hình đào tạo. + Phương pháp dạy học còn lạc hậu, nặng về truyền thụ một chiều, ít phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. + Giáo dục thể chất và thẩm mỹ còn thiên về hình thức, thiếu điều kiện thực hiện nên ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. + Việc giảng dạy các bộ môn xã hội, nhân văn cũng như công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao. - Cơ cấu giữa các cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu xã hội, cơ cấu vùng miền trong hệ thống giáo dục còn chưa hợp lý. - Đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu. - Công tác quản lý còn nhiều yếu kém, bất cập nên tình trạng vi phạm kỷ cương, nền nếp, các biểu hiện “thương mại hóa” giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời. * Nguyên nhân: - Trình độ quản lý nhà nước và giáo dục chưa theo kịp thực tiễn và nhu cầu phát triển. - Nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường nhưng ngành giáo dục vẫn chưa thoát khỏi những quan niệm và cách làm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. - Nhiều vấn đề lý luận phát triển giáo dục trong giai đoạn mới chưa được nghiên cứu đầy đủ để làm căn cứ cho các chủ trương. - Việc kết hợp giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội thiếu biểu hiện cụ thể. - Nhu cầu học tập của xã hội rất cao nhưng năng lực và điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục còn hạn chế. 1.2. Quan điểm phát triển con người toàn diện Quan điểm phát triển toàn diện đã xuất hiện từ lâu và có tính xã hội lịch sử theo từng giai đoạn phát triển xã hội ở mỗi quốc gia như: + Thời Cổ đại: mục đích giáo dục nhằm đào tạo thanh thiếu niên trở thành con người phát triển toàn diện. Ở Ba tư, Hy lạp hướng đến việc đào tạo con người giỏi võ nghệ đồng thời có uy tín, đạo đức tốt. + Thời Phong kiến: Nội dung giáo dục cũng mang tính toàn diện, các lãnh chúa phong kiến hướng đến việc đào tạo con em họ thành những kỵ sĩ phong nhã. Ở Trung quốc tính toàn diện thể hiện ở phẩm chất người quân tử “Nhân - Trí - Dũng”. + Thời Phục hưng: Các nhà giáo dục đề cao vẻ đẹp thân thể và ca ngợi những khoái cảm tinh thần trong nghệ thuật, âm nhạc, văn chương. + Thế kỷ XVI - XIX: Hoạt động lao động được đưa vào khái niệm phát triển toàn diện thông qua việc kết hợp dạy học với lao động sản xuất. J.J.Rousseau nêu lên sự cần thiết chuẩn bị cho trẻ em tham gia lao động và thường xuyên giao tiếp với thiên nhiên. K. Marx và F.Engels gắn việc đào tạo con người phát triển hài hòa, toàn diện với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Trong thời kỳ hiện đại việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện cho thế hệ đang lớn lên vẫn là mục đích lý tưởng của nền giáo dục các nước. Hiện nay khái niệm này được hiểu như sau: Phát triển toàn diện con người là phát triển hài hòa, cân đối giữa thể lực và trí lực, đức và tài, phát triển cá tính và sự phong phú của con người, phát triển một cách tự do, đầy đủ và làm chủ, thích ứng với sự di động chức năng xã hội của con người. 1.3. Xu thế giáo dục của thế giới: gồm 4 hướng lớn 1.3.1 Tăng cường giáo dục nhân văn: Tư tưởng chủ yếu của giáo dục nhân văn hiện nay trên thế giới là: tinh thần hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bao dung. Ở Việt Nam giáo dục nhân văn vẫn thường chú ý đến những giá trị của lòng nhân ái và độ lượng. Trên thế giới hiện nay, các nước độc lập nhưng phụ thuộc lẫn nhau, độc lập và hội nhập, hợp tác và đấu tranh với nhau. Vì vậy cần giáo dục con người có thái độ tôn trọng nhau, chiêm ngưỡng nhau, lắng nghe nhau. * Các nội dung giáo dục các giá trị nhân văn cho học sinh hiện nay: - Nhóm giá trị đối với bản thân và người khác: + Giữ gìn sức khỏe của mình cũng như của người khác + Tự trọng, tự chủ + Thẳng thắn, cởi mở + Biết chấp nhận người khác: thừa nhận và tin cậy, tiếp nhận những cái tốt, tôn trọng ý kiến, hợp tác - Nhóm giá trị đối với gia đình, bạn bè: + Kính trọng cha mẹ + Thương yêu anh chị em + Đối xử với bạn như anh em - Nhóm giá trị đối với cộng đồng, quốc gia: + Có mối thiện cảm với hành xóm láng giềng + Biết ứng xử vì lợi ích chung + Quan tâm đến sự phát triển và sự an toàn, hạnh phúc của quốc gia + Tôn trọng luật pháp - Nhóm giá trị đối với các dân tộc trên thế giới: + Hiểu biết mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tăng cường sự hợp tác quốc tế + Biết đánh giá nền văn hóa và tôn trọng các dân tộc khác + Hiểu biết về sư gia tăng dân số, sự ô nhiễm môi trường + Có trách nhiệm góp phần gìn giữ hòa bình thế giới. - Nhóm giá trị đối với môi trường sống và các sinh vật khác: + Hiểu biết những mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên + Có trách nhiệm duy trì trái đất như môi trường sống hiện nay + Có trách nhiệm sử dụng các nguồn sống một cách khôn ngoan + Làm ô nhiễm môi trường ở mức thấp nhất và biết ứng xử đối với các sinh vật khác 1.3.2. Đẩy mạnh công nghệ - thông tin: Các nước muốn thoát khỏi nghèo nàn thì phải tiếp nhận công nghệ mới, trước nhất là công nghệ thông tin và phải đưa công nghệ đó vào mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống, vấn đề đặt ra là phải dạy tin học cho trẻ em từ mẫu giáo, tiểu học. 1.3.3. Đào tạo người có năng lực: Người có khả năng đóng góp thực sự vào sự tiến bộ của xã hội, biết làm kinh tế, biết quản lý, phát triển xã hội. Xu thế giáo dục cho con người có tinh thần và thái độ tự lập càng sớm càng tốt đồng thời đào tạo con người có tri thức và những kỹ năng cụ thể để tinh thông trong hoạt động nghề nghiệp. 1.3.4. Hiện đại hóa các phương pháp: Thực chất là dùng các phương tiện hiện đại để thực hiện việc cá thể hóa phương pháp dạy học. Xu thế của các nước tiên tiến hiện nay là dạy học theo từng học sinh, từng xu hướng, năng lực, hứng thú và triển vọng của mỗi học sinh. Dạy học theo cho từng học sinh là một xu thế hiện đại đòi hỏi phải có điều kiện rất cao, trước hết là sự đầu tư và sử dụng ngân sách cho giáo dục. 1.4. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội từ nay đến 2010 * Mục tiêu tổng quát: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. * Mục tiêu cụ thể: - Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000 để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. GDP bình quân đầu người là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia. Những nước có GDP bình quân đầu người dưới 500 USD mỗi năm được xem là nước kém phát triển. Hiện nay GDP bình quân đầu người của nước ta theo giá hiện hành khoảng gần 400 USD. Nếu tốc độ phát triển dân số đến 2010 còn 1.1 - 1,2% và nhịp độ tăng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm thì đến 2010 GDP bình quân đầu người của nước ta sẽ đạt khoảng từ 700 - 750 USD. Dĩ nhiên tiêu chuẩn nước kém phát triển lúc ấy sẽ cao hơn mức hiện nay, nhưng với mức trên nước ta sẽ thoát khỏi tình trạng kém phát triển. - Giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp còn 50% để tạo nền tảng đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá một nước là nông nghiệp hay công nghiệp, nhưng chỉ tiêu quan trọng là tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động cả nước (những nước công nghiệp phát triển cao hiện nay tỷ lệ lao động nông nghiệp chỉ chiếm từ 2 - 6 %). Ít ra tỷ lệ này phải thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ thì mới có thể gọi là nước công nghiệp. Mục tiêu đặt ra là đến 2010 tỷ lệ lao động trong nông nghiệp ở nước ta còn khoảng 50% và 10 năm sau đó sẽ tiếp tục giảm hơn nữa để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp. * Quan điểm phát triển kinh tế: - Coi phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là nhiệm vụ trung tâm. - Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1.5. Những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam Hệ thống giá trị truyền thống của Việt Nam rất phong phú, đã được lịch sử công nhận và thế giới tôn trọng, trong đó nổi lên: - Tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, lòng tự hào dân tộc. Ngày nay truyền thống được giữ vững và nêu cao qua ý chí tự lập, tự cường, độc lập, tự chủ, hòa nhập nhưng không hòa tan. - Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng. Hiện nay toàn dân đang cùng nhau một lòng rửa nhục đói nghèo, lạc hậu. - Truyền thống nhân ái, nhân đạo, nhân văn. - Truyền thống hiếu học, tôn sư, trọng đạo. 1.6. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục - Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách tiền lương và chính sách cán bộ. - Phát triển giáo dục đào tạo gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. - Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân. - Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. - Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình đào tạo. 2. Mục đích giáo dục tổng quát 2.1. Nâng cao dân trí * Khái niệm dân trí Dân trí là trình độ hiểu biết, trình độ trí tuệ của người dân. Dân trí có liên quan đến các vấn đề nhân quyền, dân sinh, dân chủ và những vấn đề có liên quan đến dân tộc và toàn cầu: sự bùng nổ dân số, bệnh AIDS, bảo vệ môi trường, bảo vệ hòa bình. Dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục: nhà trường, gia đình, xã hội nhưng giáo dục nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân đóng vai trò nòng cốt. * Thực trạng dân trí nước ta - Chỉ tiêu phát triển giáo dục ở các bậc học còn thấp hơn mức trung bình. VN Phát triển Trung bình Chậm Bậc tiểu học 85% 98% 91% 74% Trung học 35% 64% 46% 34% Đại học 3% 23% 14% 5,7% - Số năm học trung bình của người dân chưa đạt được 5 năm theo tiêu chuẩn quốc tế để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Xét trên góc độ kinh tế học giáo dục tiêu chuẩn quốc tế để một quốc gia tiến hành hiện đại hóa, công nghiệp hóa là số năm đi học trung bình của người dân tối thiểu phải là 5 năm. 1979 số năm học trung bình của Việt Nam là 4.4 năm 1989 4.5 năm 2002 4.9 năm (nam 6.2;nữ 3.6) - Trẻ em bỏ học còn nhiều. * Mục tiêu nâng cao dân trí đến 2020 + Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc mầm non. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ trong gia đình. + Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010 và trung học phổ thông năm 2020. Nước Pháp năm 1790 có luật phổ cập tiểu học. Nhật bản phổ cập tiểu học năm 1900, Trung quốc và Thái lan phổ cập trung học cơ sở năm 2000. + Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và khó khăn, phấn đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục ở các vùng lãnh thổ. 2.2. Đào tạo nhân lực: là một mục tiêu lớn cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển một đất nước nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khái niệm về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là số dân và chất lượng con người, bao gồm thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Nguồn nhân lực dồi dào thể hiện ở sức mạnh trí tuệ, tay nghề, chất lượng và hiệu quả lao động. Phát triển nguồn nhân lực là đào tạo người có năng lực lao động, làm mỗi người tự tạo và phát triển bản thân thực sự là chủ thể của lao động, đủ trách nhiệm phát huy năng lực, tạo ra sản phẩm lao động. Phát triển nguồn nhân lực còn tập trung vào việc chuyển dịch cơ cấu phân công lao động, giải quyết việc làm, phân bổ nguồn nhân lực, đào tạo lại, đào tạo mới, chính sách công nghệ, quản lý vĩ mô nguồn nhân lực. Việc đào tạo nhân lực phải thông qua hệ thống giáo dục quốc dân mà trực tiếp là ngành giáo dục chuyên nghiệp và đại học nhưng các bậc học khác cũng phải hướng vào mục tiêu này trong việc tạo cơ sơ, nhất là cơ sở nhân cách để tiến tới mục tiêu. * Thực trạng nhân lực nước ta + Cơ cấu lao động: - Nông nghiệp và lâm nghiệp 71%; công nghiệp, giao thông, xây dựng, bưu điện 15%; Số liệu thống kê cho thấy nước ta đang ở trong tình trạng cơ cấu của một nước nông nghiệp. Hiện có 75% lao động của cả nước đang ở trong khu vực nông nghiệp, đem lại 25% tổng sản phẩm của cả nước, cho thấy chúng ta đang ở điểm thấp của quá trình phát triển đi lên công nghiệp hóa. Trình độ và cơ cấu đào tạo: Hiện nay mới có 15% tổng số người lao động đã qua đào tạo. Tỉ lệ đào tạo các lực lượng lao động rất mất hợp lý: - số lượng công nhân gần bằng cán bộ kỹ thuật - số cán bộ tốt nghiệp đại học nông nghiệp chỉ chiếm 8.1% Vì vậy có nhiều sinh viên ra trường chưa có việc làm trong khi nhiều vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. + Hiện trạng đội ngũ giáo viên phổ thông năm học 1999 - 2000: Tổng số 614.807 người, còn thiếu 98.110 giáo viên Cơ cấu độ ngũ giáo viên thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu rất nhiều giáo viên các bộ môn: Nhạc họa, Thể dục, Công nghệ, Đạo đức - Công dân, ngoại ngữ (50.891 người) Trình độ đào tạo: Cấp học Tỉ lệ G đạt chuẩn Chuẩn đào tạo Tiểu học 66.70 Trung học sư phạm THCS 86.32 Cao đẳng SP THPT 93.60 Đại học SP So sánh nguồn nhân lực Việt Nam và Hàn quốc (người/ triệu dân) Nước Đại học Kỹ thuật viên Việt Nam 9.429 13. 636 Hàn quốc 52.000 69.790 Số lượng cán bộ hiện có của chúng ta chưa đủ đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Mục tiêu đào tạo nhân lực đến 2020 - Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề. - Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện. Phấn đấu có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế. 2.3. Bồi dưỡng nhân tài * Khái niệm về nhân tài Nhân tài là người có tài năng xuất sắc, thông minh, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật, giàu tính sáng tạo trong cuộc đời, họ đạt được thành tích mới với chất lượng cao, vượt hẳn lên so với người đương thời. Cấu trúc của tài năng bao gồm: sự thông tuệ (trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo rộng và cao, phong phú và đa dạng); năng lực tư duy; năng lực sáng tạo; đạo đức trong sáng. Sự thông tuệ có thể đạt được bằng hai con đường chủ yếu: học tập, rèn luyện trong nhà trường và học tập trải nghiệm trong cuộc sống. Toàn bộ hệ thống giáo dục cùng với gia đình và xã hội đều phải chăm lo đào tạo và sử dụng nhân tài. * Vị trí của nhân tài trong sự phát triển xã hội: - Nhân tài đóng góp tích cực vào sự hưng thịnh của đất nước, mở ra những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học kỹ thuật, tạo đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội. - Nhân tài có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội lịch sử. Vì vậy ở thời đại nào, quốc gia nào người tài cũng được coi trọng. Việc bồi dưỡng, sử dụng nhân tài đều được xem là quốc sách. Chẳng hạn như: + Trong “Tam quốc chí” đã kể lại rằng, Lưu Bị đã kiên nhẫn cất công 3 lần mời gọi Gia Cát Lượng (Khổng Minh), một người có tài tham mưu, đi theo hỗ trợ Lưu Bị. Sự ưu ái của Lưu Bị đối với người tài đã thuyết phục Gia Cát Lượng đóng góp mưu trí giúp Lưu Bị bảo vệ được lãnh thổ trước sự tấn công của các đối thủ. + Ông cha ta xem nhân tài là nguyên khí của đất nước. Bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc tử Giám còn ghi: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên cao, nguyên khí suy thì thế nước hèn và càng xuống thấp, cho nên các bậc thánh đế minh vương đời xưa, chẳng có đời nào không chăm bón nhân tài, bồi đắp nguyên khí cho đất nước.” + Trong “Bình Ngô đại cáo” Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thừa nhận những khó khăn ban đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh là do thiếu nhân tài “nhân tài như lá mùa thu, Tuấn kiệt như sao buổi sớm” + Ngày nay Đảng và nhân dân ta cũng hết sức chú ý đến việc bồi dưỡng nhân tài. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài luôn được nhận thức là một trong những yếu tố quan trọng nhất để xây dựng và bảo vệ đất nước. 2.4. Mối quan hệ giữa 3 mục tiêu nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài + Mặt bằng dân trí là nền tảng, là điều kiện then chốt để đào tạo nguồn nhân lực. Trình độ dân trí ảnh hưởng lớn đến trình độ nghề nghiệp và năng suất lao động. + Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài phải dựa trên nền kinh tế - xã hội phát triển, ổn định (có nguồn nhân lực dồi dào) và dựa trên sự phổ cập giáo dục (dân trí) + Nhân tài được phát hiện và bồi dưỡng sẽ là nguồn lực to lớn để nâng cao dân trí và phát triển nhân lực 3. Mục tiêu phát triển nhân cách Quan điểm chỉ đạo của Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về mục tiêu phát triển nhân cách hiện nay là: “Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có khả năng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. Có thể hình dung mô hình nhân cách của con người được đào tạo theo yêu cầu của xã hội hiện nay theo cấu trúc như sau: - Về tri thức: làm chủ tri thức khoa học công nghệ và có tư duy sáng tạo. - Về kỹ năng: có khả năng thực hành giỏi - Về thái độ: * Đối với Tổ quốc, dân tộc + Thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội + Có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc và quyết tâm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước + Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tiềm năng dân tộc và con người Việt Nam * Đối với lao động và đời sống xã hội: + Có tác phong công nghiệp + Có tính tổ chức và kỷ luật + Có ý thức cộng đồng * Đối với bản thân + Có đạo đức trong sáng + Có tính tích cực cá nhân + Có sức khỏe Nhìn chung đó là mô hình nhân cách của người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Hiện nay, thế giới có sự thay đổi trong trật tự bộ ba mục tiêu đào tạo: Kiến thức -> Thái độ và năng lực Kỹ năng -> Kỹ năng Thái độ và năng lực -> Kiến thức Nguyên nhân là do: + Sự bùng nổ thông tin tác động mạnh mẽ lên nội dung giảng dạy, yêu cầu phải xác định những quan niệm cơ bản và tổ chức việc học hướng vào những vấn đề cụ thể phải giải quyết. Trước khối lượng thông tin đồ sộ và hỗn độn đó con người cần phải có những thái độ và năng lực cần thiết để có thể tự định hướng, biết lựa chọn và sử dụng những dữ kiện của khoa học và công nghệ như: Thái độ: sự nghiêm túc, ý thức trách nhiệm, lòng khoan dung, tính nhạy cảm, tinh thần độc lập... Năng lực: đặc biệt là năng lực trí tuệ: phân tích, so sánh, khái quát hóa, tổng hợp,... + Sự mở rộng mục đích dạy học và đặc trưng của việc học trong thế kỷ 21 - Học tập suốt đời: khái niệm này gắn với quan niệm về một xã hội học tập trong đó mọi người đều có cơ hội học tập và phát huy tiềm năng của mình. - Bốn trụ cột của giáo dục - Học để biết: Một cơ sở văn hóa chung và đủ rộng với khả năng làm việc sâu trên một số lượng nhỏ chủ đề. Quan trọng nhất là học cách học, nhằm tận dụng các cơ hội do giáo dục suốt đời mang lại. Học là để thu nhận thông tin, tiếp thụ tri thức đồng thời biết tạo lập, sử dụng thành thạo tri thức như là các công cụ tâm lý. Việc học tập vừa là phương tiện vừa là mục đích. Là phương tiện: học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình, để sống trong nhân phẩm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp và giao tiếp. Là mục đích: học tập đem lại sự thỏa mãn hiểu được, biết được, phát hiện, phát minh, tư duy độc lập, có ý kiến riêng và có khả năng phê phán. Học tập trong thời đại mới giúp người học có khả năng tập trung chú ý, ghi nhớ và tư duy. Đây là ba công cụ tâm lý rất cơ bản để bảo đảm việc học tập trong nhà trường đạt kết quả. Tóm lại, giáo dục trong nhà trường là kết quả khi tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập, rèn luyện suốt đời. - Học để làm: liên quan đến việc nắm vững những kỹ năng, việc ứng dụng kiến thức và một bộ những kỹ năng gọi là những kỹ năng sống. Học để làm nhằm nắm được những kỹ năng nghề nghiệp và khả năng đối mặt với nhiều tình huống và biết làm việc đồng đội. Ngoài ra giáo dục phải chuyển từ đào tạo kỹ năng sang việc hình thành tay nghề và lương tâm nghề nghiệp. - Học để cùng chung sống: Học để hiểu được người khác thông qua sự hiểu chính mình, mong cam kết làm việc với nhau lâu dài, cảm nhận sâu sắc sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc thực hiện những dự án chung, hiểu rõ những tác động qua lại và có thái độ đúng đắn, chung sống trong sự tôn trọng lẫn nhau, cần giáo dục thái độ tôn trọng các dân tộc khác, các nền văn hóa, các giá trị tinh thần của họ. Giáo dục phải chú ý tới hai nội dung sau: Học biết phát hiện ra người khác: Mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải hiểu người khác: biết mình, biết người. Giáo dục mỗi người có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác, dân tộc khác, tôn giáo khác. Cùng làm việc vì các mục đích chung: Dạy cho trẻ tinh thần hợp tác, quan tâm tới nhau vì các mục đích chung. - Học để tự khẳng định mình, giáo dục giúp con người phát triển độc lập, có đầu óc phê phán, có chính kiến và bản lĩnh sống (tự mình quyết định sự suy nghĩ và hành động, thực hiện suy nghĩ của mình trong những hoàn cảnh khác nhau). Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thế kỷ 21 là mang lại cho mọi người sự tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Tránh giáo dục cào bằng hành vi cá thể mà cần tạo ra những nhân cách đa dạng, tài năng, khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi con người với toàn bộ sự phong phú và sự phức tạp của họ. III. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC Nhiệm vụ giáo dục là những bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục nhằm thực hiện mục đích giáo dục một cách toàn diện và cân đối. * Các loại nhiệm vụ giáo dục: - Theo cấu trúc của nhân cách: giáo dục lý trí, giáo dục tình cảm, giáo dục ý chí; hoặc giáo dục cảm giác, giáo dục nhu cầu, giáo dục tính cách... - Theo các bộ phận của nền văn hóa: giáo dục triết lí, giáo dục khoa học, kỹ thuật, kinh tế, pháp luật, nghệ thuật, thể thao... - Theo các chức năng xã hội cần chuẩn bị cho học sinh: giáo dục công dân, giáo dục lao động, giáo dục quân sự, giáo dục giới tính... - Theo Các Mác: giáo dục tâm trí, giáo dục thể chất và đào tạo kỹ thuật tổng hợp. - Theo Giáo dục học phương Đông gồm 4 nhiệm vụ: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. - Theo định hướng của các nguyên lý giáo dục: giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục lao động, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ. * Yêu cầu của từng loại nhiệm vụ giáo dục: 1. Giáo dục đạo đức: Nhiệm vụ này đòi hỏi phải giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, pháp luật xã hội chủ nghĩa cho học sinh, xây dựng cho họ ý thức, tình cảm, ý chí và thói quen hành vi về chính trị - đạo đức. - Về mặt tư tưởng: giáo dục cho học sinh hệ tư tưởng Mác- Lê nin, bao gồm thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, tư tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. - Về mặt chính trị - pháp quyền: giáo dục đường lối chính sách của Đảng và pháp chế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Về mặt đạo đức: giáo dục lòng yêu nước, yêu lao động, yêu khoa học và yêu những giá trị văn hóa tiến bộ của loài người, đồng thời trân trọng và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho học sinh như đức hy sinh, dũng cảm, tính liêm khiết, trung thực, khiêm tốn, tự tin, tự trọng... Phẩm chất đạo đức là một trong các mặt quan trọng nhất của ý thức xã hội, tiêu biểu cho bộ mặt xã hội đương thời, nên giáo dục đạo đức được coi là nhiệm vụ hàng đầu, luôn gắn chặt và thấm sâu vào các mặt giáo dục khác là trí dục, thể dục và mỹ dục. Một con người thông minh, tài hoa, khỏe mạnh chỉ thực sự làm nên sự nghiệp giúp ích cho xã hội khi có được cái tâm, cái đức làm người, sẵn sàng đem trí tuệ, sức lực, tài hoa cống hiến cho lý tưởng cao đẹp của nhân dân lao động, của dân tộc và của loài người tiến bộ mà không tính toán do dự, khuất phục trước mọi thử thách, gian lao. Đạo đức không phải là yếu tố bẩm sinh mà là một tố chất đặc biệt mà mỗi con người phải học hỏi tiếp thu và dày công rèn luyện suốt đời. Vì vậy giáo dục đạo đức trong nhà trường không gói gọn trong môn đạo đức, công dân mà cần được thực hiện trong tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức phải phong phú và đa dạng theo nguyên tắc lý thuyết gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm, nhà giáo dục phải là tấm gương về đạo đức cho học sinh noi theo. 2. Giáo dục trí tuệ: - Trau dồi cho học sinh hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, toàn diện và tổng hợp về tự nhiên, xã hội, và con người. - Xây dựng cho học sinh hệ thống những quan điểm và niềm tin khoa học vững chắc và thái độ cải tạo đối với thiên nhiên, xã hội và con người. - Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng vận dụng tri thức và phương pháp tự học, tự nghiên cứu - Phát triển ở học sinh các năng lực trí tuệ và những phẩm chất tư duy, thói quen lao động trí óc khoa học - Khơi dậy lòng ham hiểu biết, nhu cầu mở rộng và thực hành tri thức. Giáo dục trí tuệ phải theo đúng các nguyên lý giáo dục: gắn liền lý thuyết với thực tiễn, học đi đôi với hành thông qua các dạng hoạt động học tập, thực hành, thực tập, lao động sản xuất, lao động công ích... 3. Giáo dục lao động: - Rèn luyện cho học sinh những thao tác và kỹ năng lao động cơ bản, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ và máy móc đơn giản. - Phát triển tư duy kinh tế và kỹ thuật - Bồi dưỡng quan điểm, tinh thần, thái độ lao động đúng đắn có kỷ luật và rèn luyện thói quen lao động có khoa học, có văn hóa. - Giáo dục định hướng nghề nghiệp giúp học sinh làm quen với những ngành nghề khác nhau, để biết lựa chọn nghề nghiệp thích hợp với hứng thú, năng lực của bản thân và đáp ứng với nhu cầu của xã hội. - Tổ chức giáo dục lao động thông qua tất cả các bộ môn, trước hết là các môn lao động, công nghệ, trên cơ sở lồng ghép, tích hợp liên môn và các hình thức tham gia lao động sản xuất, lao động công ích, tham quan sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ... 4. Giáo dục thể chất: Cung cấp những kiến thức cơ bản về thể chất con người, hình thành những kỹ năng và thói quen rèn luyện củng cố sức khỏe để cơ thế phát triển cân đối, khỏe mạnh, ít ốm đau, bệnh tật bảo đảm có năng lực lao động cao và lâu dài. Ngoài bộ môn thể dục ra, giáo dục thể chất còn thực hiện trong sự phối hợp với các bộ môn khác, với các mặt giáo dục khác để cùng hướng tới sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần trong nhân cách học sinh. Hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục thể chất rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh những giờ học, giờ tập có hệ thống theo chương trình của bộ môn thể dục thì các hoạt động vui chơi, thể thao, tham quan du lịch, lao động... đều có tác dụng giáo dục thể chất tích cực. Thể chất tốt là cơ sở tâm sinh lý đầu tiên và thuận lợi cho sự phát triển nhân cách và các mặt giáo dục khác. 5. Giáo dục thẩm mỹ: - Hình thành cho học sinh tri thức, quan điểm lý tưởng và thị hiếu thẩm mỹ. - Xây dựng và phát triển tình cảm thẩm mỹ, trau dồi những thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực và nghệ thuật, bồi dưỡng năng lực hoạt động thẩm mỹ, năng lực thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái đẹp. Thẩm mỹ là một mặt quan trọng của ý thức xã hội, luôn luôn có mặt và gắn bó với mọi mặt hoạt động của con người. Ví vậy giáo dục thẩm mỹ không nên chỉ đóng khung trong các môn văn học, âm nhạc và mỹ thuật mà cần được thực hiện thường xuyên trong tất cả các bộ môn, trong giáo dục nội khóa và ngoại khóa trong trường và ngoài trường. Giáo dục thẩm mỹ cần bắt đầu từ những lời hay ý đẹp, từ những hành vi ứng xử hàng ngày giữa thầy trò, bạn bè, đến việc thưởng thức vẻ đẹp một bức tranh, bản nhạc, và các sáng tạo văn học nghệ thuật... Hình thức và phương pháp giáo dục thẩm mỹ cũng rất phong phú và đa dạng. Ngoài các hình thức và phương pháp tổ chức giáo dục qua các môn học, nhà trường còn có thể kết hợp với các câu lạc bộ, các nhà văn hóa, nhà hát, đài phát thanh và truyền hình... để tổ chức các cuộc thi, biểu diễn, trưng bày triển lãm... thu hút đông đảo học sinh tham gia để hình thành những năng lực và phẩm chất thẩm mỹ, góp phần nâng cao đời sống tâm hồn và tình cảm của con người trong xã hội hiện đại. Trên thực tế các nhiệm vụ giáo dục không tồn tại riêng lẻ, độc lập mà thống nhất và tác động qua lại trong mỗi hoạt động giáo dục. Mỗi hoạt động giáo dục đều phải thực hiện tất cả các nhiệm vụ giáo dục nhằm phát triển toàn diện, cân đối và hài hòa nhân cách học sinh. Luật giáo dục đã trình bày cơ cấu của Hệ thống giáo dục quốc dân với những quy định cụ thể như sau: Giáo dục mầm non: giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu giáo dục nhằm giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một. Đặc trưng chủ yếu của phương pháp giáo dục ở bậc này là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi giúp các em phát triển toàn diện; chú trọng nêu gương và khích lệ. - Giáo dục phổ thông gồm hai bậc học: Tiểu học và trung học. Trong đó bậc Trung học gồm hai cấp học THCS và THPT. Thời gian học Tiểu học là 5 năm, THCS là 4 năm và THPT là 3 năm. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học sinh được cấp bằng Tú tài khi tốt nghiệp phổ thông. - Giáo dục nghề nghiệp trong trường trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề. Giáo dục nghề nghiệp từ nói chung nhằm mục tiêu đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo cho người lao động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Giáo dục trung học chuyên nghiệp nhằm đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp. Trường dạy nghề nhằm đào tạo người lao động có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phổ thông, công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ. - Giáo dục đại học và sau đại học (tổng quát) có mục tiêu đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nội dung của giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lí giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới.... Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học - tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng... Sau từ 4 đến 6 năm học tập, sinh viên tốt nghiệp đại học được cấp bằng Cử nhân khoa học tương ứng với chuyên ngành được đào tạo. Sau đó họ có thể học tiếp lên cao học trong thời hạn 3 năm để được cấp bằng Thạc sĩ khoa học hoặc làm nghiên cứu sinh trong thời hạn từ 3 đến 5 năm để được cấp bằng Tiến sĩ khoa học. Về nội dung, giáo dục sau đại học phải giúp cho người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức chuyên ngành ở đại học, nắm vững các kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - từ đó phát huy năng lực sáng tạo phát hiện và giải quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo, có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế - xã hội của đất nước... Ở trình độ tiến sĩ, nghiên cứu sinh phải đạt trình độ nâng cao và hoàn chình kiến thức cơ bản, có hiểu biết sâu về kiến thức chuyên ngành, đặc biệt là có năng lực hoạt động chuyên môn, nghiên cứu khoa học độc lập, có sáng tạo trong lĩnh vực khoa học của mình. Đào tạo tiến sĩ chủ yếu qua con đường tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Nhà giáo, Nhà khoa học. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ĐỌC TÀI LIỆU 1. Khái niệm mục đích giáo dục được hiểu ở những cấp độ nào? Chủ thể nào xác định mục đích giáo dục tương ứng với mỗi cấp độ? 2. Phân biệt “Mục đích giáo dục” với “mục tiêu giáo dục”. 3. Việc nhận thức mục đích giáo dục có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với người giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh? 4. Mục đích giáo dục được xây dựng dựa trên những cơ sở nào? 5. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện nay gồm những mục tiêu thành phần nào? Hướng dẫn: Phân tích mỗi mục tiêu thành phần trên 3 yếu tố: khái niệm, thực trạng và mục tiêu cụ thể. 6. Mục tiêu giáo dục hiện nay hướng đến việc xây dựng mô hình nhân cách như thế nào? 7. Phân tích các nhiệm vụ giáo dục cơ bản của quá trình giáo dục. 8. Hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay gồm có những bậc học, cấp học nào? Người học sẽ được cấp các loại văn bằng nào sau khi tốt nghiệp mỗi bậc học, cấp học? CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Phân tích sự đáp ứng của mục đích giáo dục tổng quát đối với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. 2. Phân tích sự phối hợp đồng bộ các nhiệm vụ giáo dục trong một hoạt động giáo dục cụ thể đối với học sinh của người giáo viên. Chương 4. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC Sau bài học này người học có khả năng: 1. Về kiến thức: a. Mức độ Biết: i. Trình bày khái niệm; “Con đường giáo dục” ii. Nêu đầy đủ các con đường giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân b. Mức độ Hiểu: i. Phân tích vai trò của từng con đường giáo dục trong quá trình phát triển nhân cách cho học sinh. ii. Xác định vai trò của người giáo viên trong việc kết hợp với các lực lượng giáo dục ở nhà trường khi tiến hành từng con đường giáo dục. c. Mức độ Vận dụng: i. Tổ chức việc thực hiện các con đường giáo dục trong thực tiễn giáo dục ở nhà trường phổ thông. 2. Về kỹ năng: i. Thiết kế sử dụng phối hợp các con đường giáo dục trong thực tiễn giáo dục ở nhà trường phổ thông. 3. Về thái độ: i. Bổ sung các con đường giáo dục chưa được quan tâm sử dụng ii. Điều chỉnh cách thực hiện các con đường giáo dục để nâng cao hiệu quả. "Giáo dục, dạy học không phải là rót kiến thức vào đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phễu. Thực chất giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy" Héraclitus (540 - 480 TCN) Nội dung bài học: I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC Mọi quá trình giáo dục đều nhằm hình thành nhân cách cho học sinh theo mục tiêu giáo dục. Nhưng thực tế cũng cho thấy rằng tâm lý nhân cách của mỗi người là sản phẩm, là kết quả của các hoạt động năng động, sáng tạo, có định hướng của con người. Do vậy muốn hoạt động có kết quả cao cần phải biết lựa chọn, tìm ra các con đường hoạt động thích hợp nhất, hiệu quả nhất. Quá trình giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em thực chất là quá tình người lớn và xã hội tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động đa dạng, phong phú, đặc biệt là hoạt động học tập và lao động sản xuất phù hợp với tâm sinh lý và sự phát triển lứa tuổi với những phương thức thích hợp. Muốn hoạt động giáo dục có kết quả cao cần phải tìm ra các con đường giáo dục thích hợp, hiệu quả nhất, tức là phải tổ chức, kết hợp hợp lý các hoạt động trong cuộc sống của con người. Việc tổ chức kết hợp này đòi hỏi vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, các phương tiện giáo dục, tạo ra môi trường thích hợp cho hoạt động và sự phát triển của con người. Người ta gọi cách làm này là tạo ra các con đường giáo dục. 1. Khái niệm “Con đường giáo dục” (theo Xã hội học giáo dục): là một khái niệm rộng bao hàm sự tổ chức thực hiện các quá trình giáo dục, vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức các quá trình giáo dục, trong đó học sinh được hoạt động một cách chủ động, sáng tạo để lĩnh hội có kết quả các hệ thống giá trị văn hóa - khoa học - thẩm mỹ... đồng thời góp phần sáng tạo ra các giá trị mới. Trong phạm vi hoạt động giáo dục, đó là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ các hình thức, biện pháp giáo dục phù hợp với các loại hình giáo dục nhằm thực hiện có kết quả nhất các yêu cầu, các nội dung giáo dục, đạt tới mục tiêu giáo dục cụ thể. 2. Phương thức giáo dục: dùng phổ biến trong các giai đoạn trước đây, có nội hàm tương tự nhưng không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm “Con đường giáo dục”. Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các phương pháp, cách thức, biện pháp, hình thức tổ chức nhất định được vận dụng một cách tổng hợp để đào tạo nên những nhân cách nhất định trong một hệ thống giáo dục. Phương thức giáo dục bao gồm tất cả các yếu tố về phương pháp dạy học, phương pháp giáo dục, phương pháp đào tạo, kể cả các phương pháp tổ chức thực hiện các quá tình quản lý giáo dục. 3. Phương pháp giáo dục: (theo nghĩa rộng nhất) bao hàm tất cả nội dung trong các khái niệm con đường giáo dục hoặc phương thức giáo dục. Như vậy con đường giáo dục cũng có thể hiểu là phương thức giáo dục hay phương pháp giáo dục (theo nghĩa rộng) là phạm trù phương pháp tổng quát, được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nguyên tắc cơ bản nhất chi phối tất cả các hoạt động giáo dục từ việc xác định mục tiêu, nội dung đến phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và có tính chất nguyên lý giáo dục chính là nguyên tắc: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. II. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 1. Dạy học Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh được tổ chức đặc biệt (căn cứ vào chương trình, kế hoạch, tuân theo quy trình, qui chế chặt chẽ) nhằm trang bị hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo qua đó hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Dạy học là hoạt động đặc trưng trong mọi loại hình nhà trường và chính là con đường giáo dục tiêu biểu nhất. Có thể nói dạy học là hoạt động giáo dục cơ bản nhất, có vị trí, nền tảng và chức năng chủ đạo trong hệ thống các hoạt động giáo đục. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường được phân chia thành ba bộ phận chủ yếu: các hoạt động giáo dục trong hệ thống các môn học, các hoạt động giáo dục trong giờ học ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài các môn học và lĩnh vực học tập. Tất cả những hoạt động này được thực hiện trong các môn học (dạy học) hoặc trong các hoạt động giáo dục ngoài môn học. Nhưng các hoạt động giáo dục ngoài môn học sẽ không có ý nghĩa gì nếu như không có ai dạy cho người học biết, hiểu, tin và áp dụng cái gì đó, tức là phải có hoạt động dạy học giữa người dạy và người học. Dạy học là con đường hợp lý, thuận lợi và quan trọng nhất giúp cho học sinh: - Với tư cách là chủ thể nhận thức, có thể lĩnh hội được một hệ thống tri thức và kỹ năng hành động - Chuyển nhận thức thành các phẩm chất và năng lực trí tuệ của bản thân - Phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực hoạt động sáng tạo đáp ứng với yêu cầu của xã hội tương lai. Ngoài ra quá trình dạy học diễn ra theo chiều hướng hội nhập văn hóa xã hội, trong xã hội phát triển cao thì mỗi cá nhân sẽ lần lượt là người dạy lẫn người học. Chú ý rằng dạy học là một con đường giáo dục, mục tiêu cuối cùng của dạy học là làm phát triển nhân cách của học sinh. Trong nhà trường công tác chủ yếu của giáo viên là dạy học. Do đó, quá trình dạy học phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ giáo dục học sinh. Nhiệm vụ chủ yếu, cơ bản của dạy học là giáo dục trí tuệ, thông qua việc hướng dẫn học sinh khám phá tri thức chứ không chỉ là phát triển vốn tri thức cho học sinh. Bên cạnh đó các nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất và giáo dục lao động cũng cần được thực hiện trong mọi hoạt động dạy học bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ này một cách chuyên biệt trong các tiết sinh hoạt chủ nhiệm hoặc các tiết học thể dục, nhạc, họa... 2. Tổ chức lao động Để có thể hình thành nhân cách học sinh theo yêu cầu đặt ra là con người phải luôn luôn hoạt động năng động, sáng tạo và thích ứng với mọi biến chuyển của cuộc sống, học sinh cần phải được hoạt động, rèn luyện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong loại hình lao động. Thông qua lao động, học sinh hình thành thái độ và kỹ năng lao động đúng đắn, nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ đối với lao động, biết kết hợp lợi ích chính đáng của cá nhân với nhu cầu và lợi ích xã hội. Lao động còn là con đường, phương tiện giúp con người sáng tạo nên những giá trị mới nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, làm cho cuộc sống vui tươi, hứng thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mỗi cá nhân, kích thích sự phát triển trí tuệ, xác lập kiến thức và niềm tin đạo đức, phát triển năng khiếu và thị hiếu lành mạnh. Ngay cả trong lao động phục vụ, nếu được tổ chức hợp lý và hữu hiệu sẽ tạo nên một nhân cách đúng đắn, biết tôn trọng người khác và hiểu rõ giá trị của lao động đối với việc tạo lập giá trị của mỗi người. Trước đây khi tổ chức lao động ở nhà trường, người ta thường xem nhẹ việc kết hợp đúng đắn những lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, vì vậy khó hình thành động cơ đúng đắn cho học sinh tham gia tự giác các hình thức tổ chức lao động. Như vậy lao động là hoạt động hữu hiệu nhất để phát triển năng lực và các phẩm chất của con người, gắn hoạt động của học sinh và nhà trường với đời sống xã hội hiện thực. Việc tổ chức lao động cho học sinh có thể tiến hành bằng nhiều giải pháp như: phân công trực nhật làm vệ sinh lớp học; tổ chức lao động làm sạch đẹp trường lớp; tổ chức lao động công ích ngoài xã hội... 3. Tổ chức các hoạt động xã hội Hoạt động xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh quan hệ với người khác, là quá trình nhận thức và chấp nhận khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội, thích ứng với các chuẩn mực ấy và chuyển chúng thành những giá trị của bản thân. Thông qua các hoạt động xã hội, kiến thức về con người, về xã hội của con người ngày càng phong phú, mở rộng; kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn hóa với mọi người ngày càng đa dạng sâu sắc và nhuần nhuyễn, bộ mặt văn hóa đạo đức của mỗi người ngày càng hoàn thiện hơn. Ngoài ra hoạt động xã hội còn làm con người có tâm hồn phong phú, rộng mở, giúp bộc lộ cá tính, làm đậm nét bản sắc riêng của từng người. Điều này thực sự cần thiết để chuẩn bị cho học sinh THPT trở thành một người công dân trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm sống. So với các tổ chức khác, nhà trường vừa có những lợi thế, vừa có điều kiện thực tế để thu hút, tổ chức cho thầy trò cùng tham gia các hoạt động xã hội từ thấp đến cao như chơi thể dục thể thao, tham gia các lễ hội văn hóa địa phương, tham gia các cuộc vận động chính trị- xã hội, các hoạt động nhân đạo, từ thiện... Tuy nhiên cần chú ý bảo đảm thực hiện mục đích giáo dục của các hoạt động xã hội được tránh hiện tượng “chạy theo thành tích”, tổ chức kiểu “phong trào”; thậm chí gây phản tác dụng giáo dục đối với học sinh (hiện tượng khai gian tuổi trong các giải thể thao học sinh; đề nghị học sinh đóng góp tiền thay cho các vật dụng quyên góp làm từ thiện...) 4. Hoạt động tập thể Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Hoạt động tập thể là một con đường giáo dục tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các quan hệ xã hội khác nhau. Các hoạt động tập thể của học sinh có thể được tổ chức thông qua những hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động đoàn thể, hoạt động văn thể mỹ, hoạt động thi đua lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn... Hoạt động tập thể giúp con người: - Có sự tương tác, học hỏi lẫn nhau, nhờ vậy làm phát triển vốn sống - Nhận diện rõ bản thân, - Biết chấp nhận và sống hòa hợp với người khác - Phát triển nhân cách vững vàng, mạnh mẽ hơn. Theo hai nhà Tâm lý học Mỹ Joseph Luft và Harry Ingham, trong hoạt động tập thể con người sẽ sống cởi mở hơn và nhận được nhiều thông tin phản hồi về mình, điều đó rất có lợi cho sự phát triển nhân cách. Trong thực tế thông thường có những điều người khác biết và không biết về ta, và ngược lại có những điều ta biết và không biết về chính bản thân. Sự tương tác trong tập thể sẽ giúp đôi bên hiểu rõ nhau và tự biết mình hơn. Có thể phân tích điều này qua sơ đồ như sau: Cửa sổ JOHARRY Người khác biết Người khác không biết 1 2 CÔNG KHAI CHE DẤU 3 4 MÙ BÍ MẬT Mình biết Mình không biết Vùng 1 (Công khai) gồm những điều ta và người khác cùng biết về ta như tên tuổi, học vị, vị trí xã hội, những ý nghĩ riêng tư và sở thích (nếu đôi bên thân nhau)... Vùng 2 (Che dấu) gồm những điều ta biết về ta mà chưa có dịp hay chưa muốn bộc lộ với người khác như lập trường chính trị riêng, tình cảm riêng, những kinh nghiệm trong quá khứ... Vùng 3 (Mù) gồm những điều ta không biết về mình mà người khác lại biết như những tật xấu khi nói chuyện trước người khác (tiếng ừ, à, thì...), những nhận xét, đánh giá của người khác về ta mà họ không nói ra... Vùng 4 (Bí mật) gồm những điều ta và người khác không biết về ta. Đó có thể là những chuyển biến tâm lý tạo nên nét nhân cách mới, những tài năng còn ẩn tàng... Cá nhân có một nhân cách mạnh mẽ thường có phần công khai rộng lớn hơn so với các phần khác. Khi tham gia vào hoạt động tập thể, mỗi cá nhân có nhiều cơ hội bộc lộ khả năng (phần che dấu và phần bí mật giảm đi) và thu nhận những ý kiến nhận xét của người khác về mình (phần mù giảm). Từ đó cá nhân nhận biết về bản thân nhiều hơn và cũng làm cho người khác hiểu thêm về mình (phần công khai gia tăng). Lứa tuổi học sinh THPT có nhu cầu tự khẳng định mình trong tập thể nên việc tổ chức hoạt động tập thể càng có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối với các em. Học sinh sẽ hứng thú tham gia hoạt động tập thể và được rèn luyện nhiều mặt trong nhân cách, nhất là những tác động của tập thể sẽ giúp học sinh THPT nhận thức rõ nét về đặc điểm bản thân, nhờ vậy có những định hướng và quyết định đúng đắn cho cuộc sống tương lai. 5. Tổ chức vui chơi Có ba loại hình hoạt động cơ bản của con người là học tập, lao động, vui chơi. Sự phát triển nhân cách được quân bình khi con người tham gia đầy đủ và cân đối ba loại hình hoạt động đó. Đối với trẻ em, vui chơi có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhân cách. Qua việc vui chơi trẻ bộc lộ rõ những khả năng và tính cách, nhờ vậy nhà giáo dục có thể phát hiện, điều chỉnh hoặc đưa ra những tác động giáo dục phù hợp hơn. Vui chơi không chỉ tạo cảm giác khuây khỏa, thoải mái mà còn giúp cho trẻ rèn luyện nhiều phẩm chất nhân cách tốt đẹp trong trạng thái hưng phấn hứng thú. Vì vậy tổ chức vui chơi là một con đường giáo dục được học sinh hưởng ứng tích cực và có nhiều hiệu quả. Vui chơi là một nhu cầu tự nhiên của con người, nếu nhà trường không tổ chức thì học sinh cũng thường chủ động tiến hành các hoạt động vui chơi của cá nhân hoặc của nhóm. Vì vậy cần xây dựng kế hoạch tổ chức, định hướng và lôi cuốn học sinh vào các hoạt động vui chơi bổ ích, lành mạnh đáp ứng mục tiêu giáo dục nhân cách của học sinh. Tổ chức vui chơi đòi hỏi tính sáng tạo, linh hoạt cao của giáo viên và nhà trường, nhất là trong sự hạn chế những điều kiện thực hiện các hoạt động vui chơi cho học sinh như hiện nay (cơ sở vật chất, thời gian và con người...) Tuy nhiên việc tổ chức vui chơi trong dạy học và giáo dục đang được chú trọng, đặc biệt là hình thức dạy học bằng trò chơi ở trên lớp; những trò chơi tập thể trong buổi sinh hoạt đầu tuần trên sân trường; những chuyến du lịch tham quan học tập... được học sinh hưởng ứng đầy thích thú do đáp ứng đúng nhu cầu tâm lý của trẻ em. Giáo dục bằng con đường tổ chức vui chơi thể hiện trình độ nghệ thuật cao của nhà giáo dục. CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Ngoài các con đường giáo dục đã nêu còn có những con đường giáo dục nào khác trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong giáo dục gia đình, giáo dục xã hội? 2. Công tác giáo dục học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay đã tiến hành chủ yếu theo những con đường giáo dục nào? Anh/Chị nhận xét như thế nào về thực trạng đó? 3. Các games show trên truyền hình có phải là hình thức biểu hiện của con đường giáo dục “tổ chức vui chơi” hay không? Hãy đưa ra nhận xét về tác dụng giáo dục của những games show đó? 4. Bạn có nhận xét gì về việc thực hiện con đường giáo dục “tổ chức lao động” trong nhà trường THPT hiện nay? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn Sinh Huy - Nguyễn Văn Lê NXBGD, 1997. 2. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG - Nguyễn An - ĐHSP TPHCM, 1998. 3. GIÁO DỤC HỌC HIỆN ĐẠI - Thái Duy Tuyên - NXBGD, 2001. 4. GIÁO DỤC HỌC - Phạm Viết Vượng NXB ĐHQG Hà Nội, 2000. 5. GIÁO DỤC HỌC -Một số vấn đề lý luận và thực tiễn- Hà Thế NgữNXB ĐH quốc gia Hà nội, 2001. 6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HỌC - Võ Quang Phúc, Lê Nguyên Lương -1986 TPHCM. 7. LUẬT GIÁO DỤC - NXB Chính trị Quốc gia, 1999. 8. TỪ ĐIỂN GIÁO DỤC HỌC - Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tả- - NXB Từ điển bách khoa, 2001. 9. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRƯỚC NGƯỠNG CỬA THẾ KỶ XXI - Phạm Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia, 1999. 10. VỀ PHÁT TRỂN TOÀN DIỆN CON NGƯỜI THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA - Phạm Minh Hạc - NXB Chính trị Quốc gia, 2001. 11. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC - Võ Tấn Quang - NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2001. 12. DẠY HỌC HIỆN ĐẠI - Đặng Thành Hưng - NXB ĐH Quốc gia Hà nội, 2002. 13. QUÁ TRÌNH DẠY – TỰ HỌC - Nguyễn Cảnh Toàn - NXBGD, 1997. 14. LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC - Lưu Xuân Mới - NXBGD, 2000. 15. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH - Nguyễn Ngọc Bích - NXBGD, 1998. 16. GIÁO DỤC HỌC - Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - NXB GD, 1998. 17. NỀN GIÁO DỤC CHO THẾ KỶ HAI MƯƠI MỐT: NHỮNG TRIỂN VỌNG CỦA CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG - RAJA ROY SINGH - Viện KHGD Hà nội, 1994. 18. GIÁO DỤC CON NGƯỜI HÔM NAY VÀ NGÀY MAI - Phạm Minh Hạc - NXBGD. 1995. 19. LỊCH SỬ GIÁO DỤC - ROGER GAL, Lê Thanh Hoàng Dân, Trần Hữu Đức (dịch), 1971. 20. NÓI CHUYỆN GIÁO DỤC THẾ GIỚI ĐỜI XƯA - Võ Quang Phúc, sở Giáo dục TPHCM, 1992. 21. TÂM LÝ TRUYỀN THÔNG VÀ GIAO TIẾP - Nguyễn Thị Oanh- Đại học Mở - Bán công TPHCM, 1995. MỤC LỤC Lời nói đầu Bài mở đầu: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CÚU GIÁO DỤC HỌC 1. Giáo dục học với việc giáo dục con người 2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Giáo dục học 3. Cấu trúc chương trình học 4. Giới thiệu học phần “Giáo dục học đại cương” Chương 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt 2. Khái quát về Lịch sử ra đời của Giáo dục học 3. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học 4. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học 5. Hệ thống các ngành thuộc khoa học giáo dục - Mối quan hệ giữa Giáo dục học và các khoa học khác 6. Định hướng nghiên cứu và phát triển Giáo dục học trong giai đoạn hiện nay Chương 2: GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH 1. Sự phát triển nhân cách con người 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách 3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi Chương 3: MỤC ĐÍCH -NHIỆM VỤ GIÁO DỤC 1. Khái niệm về Mục đích giáo dục 2. Mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục Việt Nam 3. Nhiệm vụ giáo dục 4. Hệ thống giáo dục quốc dân Chương 4: CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC 1. Nhận thức chung về con đường giáo dục 2. Các con đường giáo dục Tài liệu tham khảo ---//--GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG Biên soạn: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG - VÕ VĂN NAM Phản biện: GS. BÙI NGỌC HỒ Tài liệu Lưu Hành Nội Bộ của Khoa Tâm Lý Giáo dục Trường ĐHSP TP.HCM đăng ký năm 2004. Ban Ấn Bản Phát Hành Nội bộ Trường ĐHSP chế bản, sao chụp 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm theo Biên bản số 184/BCTGT ngày 04/11/2004. In xong ngày 12 tháng 11 năm 2004.