ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG ĐỀ TÀI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI LỚP: P01 - NHÓM: 03, HK221 GVHD: TS. ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG SINH VIÊN THỰC HIỆN HỌ TÊN 1 1910111 LƯƠNG QUỐC ĐẠT 2 1910138 NGUYỄN MẠNH ĐỨC 3 1913153 NGUYỄN MẠNH ĐỨC 4 1913191 NGUYỄN VĂN 5 1913037 LÊ TRỌNG ĐẠT 6 1913063 NGUYỄN TIẾN ĐẠT STT MSSV % ĐIỂM BTL GIANG TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10, NĂM 2022 ĐIỂM BTL GHI CHÚ MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………. Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ, KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VIỆT NAM TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX………………………………………………………………………………. 1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới và những tác động đến Việt Nam ……………… 1.1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và nhiệm vụ của Việt Nam ……………………. Tiểu kết Chương 1………………………………………………………………... Chương 2: SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN, CHUẨN BỊ VỀ CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC CHO VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC………………. ..................... 2.1. 2.3.1. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920) Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam 1.3.2. Sự phát triển của phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng vô sản Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trước Chiến tranh thế giới lần thứ |Nhất Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân sau Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất đến năm 1925 Phong trảo đấu tranh của giai cấp công nhân từ 1926-1929 Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (19111920)……………………………………………………………………………….......... 2.1.1. Những yếu tố tác động đến quyết định đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc………………………………………………………………………… ............. 2.1.2. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản………………………. ......... 2.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam (1921-1929)…………………………………………………… .................. 2.1.1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị……………………………………………… ... 2.1.2. Sự chuẩn bị về tổ chức …………………………………………………….... .... 2.3. Phát triển phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng vô sản…… ....... 2.3.1. Sự phát triển của phong trào công nhân………………………………… ......... 2.3.2. Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ……………………………………. ........... Tiểu kết Chương 2………………………………………………………………... ........ Chương 3: CHỦ ĐỘNG TRIỆU TẬP, CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ SOẠN THẢO CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN………… ......... 3.1. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên………...... 3.1.1. Hội nghị thành lập Đảng………………………………………………… .......... 3.1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên………………………………………………. ...... 3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên…………………………………………………………….. ............... 3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)…... ... 3.2.2. Đối với sự phát triển của đất nước hiện nay………………………………... .... Tiểu kết Chương 3………………………………………………………………… ....... PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………….…….. .... .. TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………… ... . … PHỤ LỤC ………………………………………………………………………….. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 2. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ đầu 1930. Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. 2 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX 1.1. Bối cảnh thế giới Những tiến bộ khoa học – kỹ thuật cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi cơ bản nền sản xuất và cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, đánh dấu bước tiến mới của chủ nghĩa tư bản phương Tây ở thời điểm này: từ giai đoạn tự do canh tranh chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), tìm cách đẩy mạnh xâm chiếm, mở rộng thuộc địa. Trong giai đoạn này, các cường quốc Châu Âu tiêu biểu như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếp theo đó là Mỹ và Nhật Bản, đã đi xâm chiếm và thiết lập các thuộc địa ở Mỹ Latinh, Châu Phi và Châu Á. Riêng diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người). Nguyên nhân là do nền kinh tế hàng hóa tại các nước này phát triển dẫn tới nhu cầu bức thiết về thị trường xuất khẩu thặng dư tư bản và hàng hóa dư thừa, nhằm tránh các cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước, từ đó dẫn đến các cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, chiếm đoạt tài nguyên, mua bán nguyên vật liệu, khai thác và bóc lột sức lao động,… Chủ nghĩa đế quốc đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn, làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản: các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân, khôi phục các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc bởi chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ, nhất là ở châu Á. 3 Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã làm biến đổi cơ bản tình hình thế giới: thắng lợi này mở ra một thời đại mới – “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước; nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau, chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc, trong đó có Việt Nam và Đông Dương. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vai trò của tổ chức này đối với cách mạng nước ta là: “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin được công bố, Luận cương này chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức, mở ra con đường giải phong các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế giới đã được thành lập. Bên cạnh đó, các phong trào cải cách chính trị - văn hóa từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc cũng đã tác động đến tư tưởng các sĩ phu Việt Nam, như cuộc Cải cách Duy Tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (1896-1898), cuộc Cải cách Minh Trị của Thiên hoàng Minh Trị (1868-1912), Cách mạng Tân Hợi (1911) của Tôn Trung Sơn,… Tình hình thế giới lúc bấy giờ đầy những biến động đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng tại Việt Nam.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã đem lại một luồng gió mới trong tư tưởng của các tri thức yêu nước thời bấy giờ về một thời đại mới, một niềm hy vọng mới, một thời đại chống đế quốc giải phóng dân tộc. Các cuộc cách mạng nổ ra ở Châu Á như cách mạng Tân Hợi(10/1911) cuộc canh tân của Nhật Bản vào cuối thế kỉ thứ XIX cũng đã ảnh hưởng đến tư tưởng, thu hút sự quan tâm của nhiều người yêu nước Việt Nam, đặc biệt là các sĩ phu đương thời. Sự ra đời của Quốc tế cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mac4 Lenin, cách mạng vô sản tại Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào vô sản trong và ngoài nước. 1.2. Bối cảnh trong nước Với vị trí địa lý chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, cùng với cuộc khủng hoảng về chính quyền phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX đã biến Việt Nam thành mục tiêu xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 6/6/1884, Hòa ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre) đã đánh dấu sự kiện nhà Nguyễn dâng hoàn toàn Việt Nam vào tay Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Đến năm 1897, thực dân Pháp đã đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc. Trong giai đoạn đó, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo, cách mạng Việt Nam được ví như “trong đêm tối không có đường ra”. Về chính trị: Thực dân Pháp xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa song song với chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, biến nước ta thành nước nửa thuộc địa nửa phong kiến. Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm nằm trong tay các quan viên cai trị người Pháp, biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai cho chúng. Chúng dùng chính sách chia để trị, phân nước ta thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng, sát nhập với Lào và Campuchia lập thành Liên bang Đông Dương thuộc Pháp vào ngày 17/10/1887, nhằm xóa tên nước ta ra khỏi bản đồ thế giới. Chúng muốn chia rẽ gây thù hận giữa các vùng miền, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, làm cho dân tộc ta mất đoàn kết thống nhất, không tạo nên được sức mạnh tổng hợp để chống lại chúng. Về kinh tế: năm 1897, Pháp bắt đầu tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, với mong muốn biến Việt Nam và Đông Dương thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bóc lột triệt để sức lao động của nhân dân và tạo ra nhiều loại sưu thuế khác nhau (chúng tăng thuế gấp 2-3 lần so với trước, độc quyền thuốc phiện, rượu và muối). Chúng còn thực hiện chế độ mộ phu cực kì man rợ và chiếm đoạt ruộng đất nông dân, làm hơn phân nửa 5 nông dân ta mất ruộng đất, đời sống vô cùng cực khổ. Thực dân Pháp không hoàn toàn để phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa du nhập vào Việt Nam, chính vì thế mà nền kinh tế nước ta bị kiềm hãm trong vòng lạc hậu - vừa mang tính chất tư bản thực dân, vừa mang tính chất phong kiến. Đây là “chế độ độc tài chuyên chế nhất, nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ Châu Á đời xưa”. Về văn hóa - xã hội: thực dân Pháp tiến hành triệt để chính sách ngu dân để dễ dàng cai trị, lập nhà tù thay cho trường học, du nhập các giá trị phản văn hóa, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục, duy trì tệ nạn và còn tạo nên nhiều tệ nạn mới, thúc đẩy tiêu thụ rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc, làm suy yếu sức kháng cự của nhân dân, tuyên truyền sai sự thực về tư tưởng “Pháp khai hóa văn minh cho nước ta”. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán, tìm mọi cách để ngăn chặn sự ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Về giai cấp: dưới tác động của chính sách cai trị kinh tế, văn hóa, giáo dục hà khắc của bọn thực dân, xã hội giai cấp Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ phong kiến: chủ nghĩa tư bản thực dân vẫn duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa, tuy nhiên do ảnh hưởng của chính sách kinh tế và chính trị phản động, giai cấp địa chủ bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ, trong đó đại địa chủ chủ yếu câu kết làm tay sai cho Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Một số bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ bị các chính sách thống trị tàn bạo, chèn ép về kinh tế, không chịu nỗi nhục mất nước, mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc đã nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương; một số lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và bọn phong kiến phản động tay sai. Thế nhưng ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng chiến trên toàn quốc nữa. Giai cấp nông dân: là giai cấp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào. Họ vừa có 6 yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là bức thiết nhất, bởi lẽ “tinh thần cách mạng của nông dân không chỉ gắn liền với ruộng đất, với đời sống hằng ngày của họ, mà còn gắn bó một cách sâu sắc với tình cảm quê hương đất nước, với nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc”. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, đó là một lực lượng hùng hậu, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Giai cấp công nhân: là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã hình thành, đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng. Giai cấp này có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng như: phải chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn là từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân; ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Họ sớm tiếp nhận tư tưởng tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Giai cấp tư sản: xuất hiện cuối cùng trong các giai cấp mới ở Việt Nam, gắn liền với lợi ích của tư bản đế quốc Pháp nhưng phần lớn lại bị chính “chính quốc” chèn ép. Vì thế mà giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận chính: “tư sản mại bản” là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, quyền lợi kinh tế và chính trị gắn liền với thực dân, đây là tầng lớp đối lập với dân tộc; “tư sản dân tộc” là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản loại vừa và nhỏ, thường hoạt động 7 trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả tiểu thủ công nghiệp. Phần lớn đều có tinh thần dân tộc, nhưng lại “nằm vùng” đợi tập hợp giai tầng tiến hành cách mạng. Ngoài ra còn có tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những người làm nghề tự do… Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao và nhạy cảm chính trị. Được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là ở thành thị. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp Việt Nam giờ đây đang ở chung một thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, họ đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân và giai cấp địa chủ, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu giải quyết hai mâu thuẫn: Một là, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó chống Đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Như vậy, ta có thể thấy nhiệm vụ chống đế quốc và giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Để có thể đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và giành lại độc lập tự do 8 cho dân tộc đòi hỏi một lòng nồng nàn yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc từ những người dân từ khắp các tầng lớp từ nông dân, công nhân cho đến các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản. Bên cạnh đó, nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối đúng đắn để lãnh đạo các phong trào đấu tranh trong nước. 9 TIỂU KẾT CHƯƠNG I Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Các chính sách thống trị chuyên chế của Pháp đã bốc lột nặng nền kinh tế của nước ta, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục, chứ không hề đem đến cho nhân dân ta một sự “khai hóa văn minh” - một sự khai hóa và cải tạo thật sự theo kiểu Phương Tây. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt. Từ thực tiễn hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã đặt ra những yêu cầu cơ bản cần phải giải quyết, đó là: đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tự do cho Nhân dân và xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt và nổi lên hàng đầu. Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản Phương Tây phát triển mạnh tiến giới giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, hàng loạt các cuộc chiến xâm lược đã diễn ra nhằm chiếm lấy thuộc địa để xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc. Sự thống trị tàn bạo của các nước đế quốc này đã tạo nên các mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân và đế quốc cai trị. Những năm đầu thế kỉ thứ 20, hàng loạt các cuộc cách mạng nổ ra trên khắp thế giới trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á cùng với phong trào dân chủ tư sản bắt đầu từ cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thức tỉnh của các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sự thức tỉnh này đã mang lại một niềm hy vọng mới với người dân Việt Nam, những người yêu nước sẵn sàng đứng lên để chống lại thực dân Pháp. Sự thành công của cách mạng Tháng Mười Nga và sự thành lập Quốc tế Cộng Sản đã mang lại một ý nghĩa to lớn đối với các nước thuộc địa như Việt Nam. Các sự kiện này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. 10 Từ đó đã truyền bá tư tưởng Mac-Lenin đến các nhà yêu nước trẻ Việt Nam, hàng loạt các phong trào yêu nước, phong trào công nhân đã theo khuynh hướng vô sản đã phát triển mạnh ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. 11 CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến 2.1.1. Phong trào yêu nước của phong kiến Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử nước ta, có vai trò hết sức to lớn trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và trong các phong trào cách mạng Việt Nam. Từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lượt nước ta, từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Các phong trào chống Pháp tiêu biểu ở Nam Kì phải kể đến có các cuộc khởi nghĩa như: Khởi nghĩa Trương Định, Khởi nghĩa Trung Trực, Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Huân, Khởi nghĩa cha con Phan Thanh Giản. Tiêu biểu nhất trong số đó chính là Phong trào Cần Vương (1885-1896) do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi khởi xướng. Việc ký Hòa ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre) ngày 6/6/1884 đã chấm dứt giai đoạn xâm lược hơn 30 năm của thực dân Pháp, nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn bừng cháy trong hoàn cảnh mới. Pháp mới chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương, còn phần lớn các địa phương ở xứ Bắc và Trung Kỳ chúng chưa thể nắm được, vì thế, thực dân Pháp còn phải trải qua giai đoạn 12 năm, còn gọi là giai đoạn bình định, đàn áp các phong trào vũ trang cuối cùng. Chúng ra sức khủng bố, mua chuộc những người có liên quan đến sự kiện còn ở Kinh thành, tăng cường lực lượng ngụy binh, tô vẽ cho triều đình Đồng Khánh vừa dựng lên một cách vội vã. Ngày 13/7/1885, Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương để kêu gọi văn than, sỹ phu và nhân dân cả nước cùng đứng lên giúp vua cứu nước. Sau khi chiếu Cần Vương ra đời, nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước nhiệt liệt hưởng ứng. Họ đã tập hợp nghĩa quân, xây dựng căn cứ, chiến đấu quyết liệt với thực dân Pháp và tay sai trên một địa bàn rộng lớn, tại các tỉnh Miền Bắc và Trung Kỳ. Có nhiều văn thân, người cùng chí hướng tham gia như Trần Xuân Soạn, Mai Xuân 12 Thưởng, Phan Đình Phùng, Phạm Bành. Đặc điểm của phong trào thời kỳ này là trong những hoàn cảnh nhất định, phong trào đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình kháng chiến do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt, kết thúc giai đoạn đầu của phong trào Cần Vương. Tuy không còn sự lãnh đạo thống nhất của triều đình nhưng các phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục phát triển và quy tụ thành những cuộc nổi dậy rộng lớn, có trình độ tổ chức cao hơn và duy trì được cuộc kháng chiến chống Pháp trong nhiều năm như: Khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo. Mặc dù nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm, các cuộc nổi dậy lần lượt thất bại, năm 1896 phong trào Cần Vương chấm dứt. Sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân do các cuộc kháng chiến nổ ra riêng lẻ ở các địa phương, chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển làm nền tảng, vì vậy vũ khí thô sơ không thể chống lại vũ khí hiện đại của Pháp. Lực lượng và chiến thuật của các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn công vào những chỗ yếu, sơ hở của địch; không đủ khả năng thực hiện chiến tranh trực diện với lực lượng chính quy của địch. Tinh thần chiến đấu thì ngoại trừ một số thủ lĩnh có tinh thần chiến đấu đến cùng và chết vì nước, không ít thủ lĩnh quân khởi nghĩa nhanh chóng buông vũ khí đầu hàng khi tương quan lực lượng bắt đầu bất lợi cho quân khởi nghĩa, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và tan rã. 2.1.2. Phong trào yêu nước của nông dân Tình trạng suy sụp, lạc hậu của nền nông nghiệp Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn đã làm cho nhiều nông dân ở vùng đồng bằng miền Bắc buộc phải bỏ làng mạc đi đến nơi khác để kiếm sống, trong đó có một số người đã lên vùng Yên Thế. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng ra Bắc Kì, Yên Thế trở thành đối tượng bình định đầu tiên của chúng. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân Yên Thế đã nổi dậy 13 chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám dẫn dắt được xem là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất trong lịch sử dân tộc ta chống thực dân Pháp, từ năm 1884 đến năm 1913, làm cho thực dân Pháp bao phen kinh hồn bạt vía. Lúc ban đầu, các toán quân khởi nghĩa còn hoạt động riêng rẻ, chưa có sự phối hợp và chỉ huy thống nhất, mỗi thủ lĩnh cầm đầu một toán quân là chủ một vùng. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày càng nhiều, một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu. Để cứu vãn tính thế đó, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại cuộc kháng chiến và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân. Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít đánh nhiều. Nghĩa quân thường đánh những trận nhỏ, dựa vào địa hình hiểm trở và công sự dã chiến để đánh gần, đánh nhanh, rồi rút lui nhanh. Nhờ có chiến thuật đánh du kích mà nghĩa quân có thể duy trì cuộc khởi nghĩa kéo dài gần 30 năm ròng rã. Đến năm 1909, trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày càng giảm sút, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa vào tay giặc. Đến đây, phong trào coi như đã thất bại về cơ bản. Đầu năm 1913, Đề Thám bị giết hại. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào nông dân Yên Thế. Khởi nghĩa Yên Thế trước sau là một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân. Trong quá trình tồn tại và phát triển, phong trào phần nào đã có sự kết hợp được yêu cầu độc lập dân tộc với nguyện vọng dân chủ, bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Khởi nghĩa Yên Thế là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Sự tồn tại bền bỉ, dẻo dai của phong trào đã nói lên tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng thật sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường. Thất bại của các phong trào yêu nước Cần Vương và cuộc khởi nghĩa nông dân Yên thế, đã chứng tỏ rằng giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước và giải quyết thành công nhiệm vụ giành độc lập dân tộc mà lịch sử đặt ra. Do những hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp mà các phong trào yêu nước của các sĩ phu yêu nước Việt Nam đều lần lượt thất 14 bại. Chưa có một đường lối chính trị đúng đắn, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được lực lượng cách mạng. mmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmm mmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmm mmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmmm mmmmmmmmmmmmmmm 2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản 2.2.1. Phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về phương thức thực hiện, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX phân hóa thành 2 xu hướng rõ rệt: Khuynh hướng bạo động với đại diện là Phan Bội Châu (1867-1941), quê Nghệ An với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc lập cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam sang Nhật học tập. Chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng văn, đồng chủng”, nền kinh tế phát triển mạnh, hùng mạnh về quân sự. Khuynh hướng cải cách với đại diện là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài, cầu xin Pháp đến khai hóa cho VN. Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907). Phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, kiên cường vì độc lập tự do của nhân dân ta trong bối cảnh cả dân tộc đã trở thành thuộc địa. Đây cũng là phong trào có tính cách mạng một cách rõ rệt. Phong trào đa đề xướng chủ trương cứu nước mới, thoát ra khỏi phạm trù và cách thức 15 cứu nước theo tư tưởng phong kiến, hướng theo con đường dân chủ tư sản, gắn giải phóng dân tộc với cải biến về xã hội, hòa nhập vào trào lưu tiến hóa của nhân loại. Phong trào đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, làm thức tỉnh dân tộc, dấy lên ý thức tự lực, tự cường, với nhiều hình thức hoạt động và cách biểu hiện vô cùng phong phú. Tuy nhiên các phong trào yêu nước này do các sĩ phu Nho học tiến bộ khởi xướng, họ tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng tư sản từ bên ngoài nhưng lại đội vào theo một nhãn quan chính trị bị hạn chế, thiếu hệ thống và thiếu chính xác. Cơ sở xã hội của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta còn yếu ớt (giai cấp tư sản còn yếu cả về thế và lực), chưa đủ sức mạnh tạo thành một cuộc cách mạng xã hội từ bên trong, theo đúng nghĩa của nó. Phong trào thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, có tổ chức chặt chẽ, các tôn chỉ mục đích và hướng đi rõ ràng. Do đó phong trào không tránh khỏi tình trạng phân tán, tự phát. 2.2.2. Phong trào yêu nước sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức khác nhau. Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919); Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ… Từ năm 1925 đến 1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (1927). Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản từ năm 1919-1930 đã góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chống Pháp theo con đường mới nhưng do những điều kiện khách quan và chủ quan, phong trào này đã thất bại. Từ đó chấm dứt con đường cứu nước theo khuynh hướng tư sản. Thất bại của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra vấn đề cho thấy cách mạng của Việt Nam đang đứng trước khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo, chưa nhìn nhận đúng được vai trò của các 16 tầng lớp nhân dân, chưa có khả năng tập hợp lực lượng đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Vấn đề đặt ra là phải lựa chọn phương pháp làm cách mạng hợp thời đại và có đường lối cách mạng đúng đắn. Chưa có phương pháp vận động, đấu tranh cách mạng, bạo động và cải cách không phải là phương pháp phù hợp và đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbB BBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBBB 2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản 2.3.1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920) Xuất phát điểm từ sự lựa chọn đúng đắn của một cá nhân: cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước cảnh lầm than của quốc gia dân tộc, các phong trào cứu nước theo các lập trường phong kiến, dân chủ tư sản, đã diễn ra quyết liệt nhưng đều không thành công. Việt Nam lâm vào tình cảnh khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước: mất phương hướng trong hiện tại và mờ mịt ở tương lai. Bởi, hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản không phải là con đường phù hợp cho cách mạng nước ta. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết chí ra đi tìm đường cứu nước với mục tiêu: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Bằng chính quá trình thâm nhập thực tiễn: lao động kiếm sống và hoạt động cách mạng, bằng chính quá trình tự vô sản hóa chính mình đã giúp Người hiểu rõ hơn về bản chất kẻ thù (khác với tiền bối). Tìm hiểu về CMTS Anh, CMTS Pháp, CMTS Mỹ… Người thấy rằng các cuộc cách mạng ấy đều “không đến nơi”, “không triệt để” bởi các cuộc cách mạng ấy không đáp ứng được nhu cầu giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động mà chỉ đem lại quyền lợi cho giai cấp tư sản. Trên con đường tìm tòi đó, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận ánh sáng cách mạng từ trong bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của nó. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường theo Cách mạng Tháng Mười Nga - con đẻ của tư tưởng Lênin - sự vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác vào nước Nga, mở ra hướng đi đúng đắn không chỉ cho nước Nga mà còn 17 cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới, trong đó có Việt Nam – một dân tộc cũng đang chịu cảnh nô dịch lầm than. Đến sự quyết định lựa chọn của quốc gia dân tộc: Sau khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường của cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào quá trình truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin đến những thanh niên Việt Nam yêu nước, rồi tập hợp họ trong một tổ chức lấy tên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tổ chức tiền thân của Đảng), rồi từ đó những thanh niên yêu nước đã được giác ngộ ấy lại tiếp tục về Tổ quốc để tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin và con đường cách mạng vô sản về nước làm chuyển biến các phong trào đấu tranh trong nước từ chỗ tự phát đến tự giác; gây dựng nên các tổ chức cách mạng: Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn (cuối năm 1929). Sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào đấu tranh trong nước dẫn đến yêu cầu cần có sự thống nhất về lãnh đạo, cần có sự ra đời của một chính đảng để thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Năm 1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản đảng ở ba miền của đất nước đã đáp ứng yêu cầu của lịch sử đặt ra. Như vậy, đến đây sau 10 năm thì sự lựa chọn của một cá nhân yêu nước đã trở thành sự lựa chọn của quốc gia dân tộc. Và từ sự lựa chọn ban đầu ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đánh bại hai đế quốc Pháp và Mỹ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; và sau đó tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế. Đó là những bằng chứng thực tế chứng minh tính đúng đắn của con đường cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là người đã tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Qua mỗi bước ngoặt lịch sử, chúng ta luôn khẳng định quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên con đường đã chọn, có những thời điểm con đường cách mạng vô sản gặp nhiều khó khăn với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu một tổn thất to lớn đối với các quốc gia theo chế độ Cộng sản và Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới. Tuy nhiên, đó là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực được 18 xây dựng ở Nga và sau đó là ở Liên bang Xô viết, chứ không phải là sự sụp đổ của học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của Liên Xô đã cảnh tỉnh đối với các nước đang tiếp tục kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhận ra những khuyết tật của một mô hình chủ nghĩa xã hội, rút ra cho mình những bài học quan trọng để giữ vững chính quyền cách mạng: về xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết và luôn chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân lao động, ra sức phát huy dân chủ rộng rãi, bảo đảm quyền con người chân chính; về thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc; về xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế; về sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. 2.3.2. Chuẩn bị về tư tưởng - chính trị và việc tổ chức của Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam Hành trình bôn ba tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc bước sang một trang mới khi Người đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê Nin năm 1920. Người hiểu thấu bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo ngày 16 và 17/7/1920 là dấu ấn, bước ngoặt quan trọng, quyết định trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường giải phóng dân tộc. Người nhận định: “Bản Luận cương có những chữ chính trị khó hiểu nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi hiểu được phần chính”, sau khi nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng, Nguyễn Ái Quốc xác định con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng cao cả của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tiếp thêm sức mạnh, trở thành 19 nền tảng lý luận để Người vận dung, sáng tạo và phát triển trong điều kiện Việt Nam, biến giấc mơ của hàng triệu người Việt Nam mong muốn được tự do, được độc lập thành hiện thực. Sau khi tiếp thu những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng tháng Mười Nga và tiến hành hàng loạt các hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Tháng 4/1921, tờ La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản) đăng bài “Đông Dương” đánh dấu điểm bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1921 đến tháng 2/1923 Nguyễn Ái Quốc viết trên 20 bài đăng trên các báo L’Humanité và La vie ouvrière, đây là hai tờ báo có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp công nhân, người lao động Pháp và đặc biệt là có ảnh hưởng đối với các nước hải ngoại. Và với vai trò là chủ bút báo Le Paria (Người cùng khổ), Nguyễn Ái Quốc đã có gần 40 bài viết, nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc soạn thảo những bài viết, bài giảng để tuyên truyền với lời văn giản dị, nội dung thiết thực vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa và nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc; làm thức tỉnh nhân dân và định hướng hành động cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc đưa báo về nước là vô cùng khó khăn, con đường công khai luôn bị thực dân Pháp kiểm duyệt gắt gao, vì vậy Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức một đường dây bí mật thông qua những thủy thủ yêu nước, làm việc trên tuyến đường vận tải biển Pháp Đông Dương. Qua đường dây này các tờ báo và các tài liệu, truyền đơn được bí mật đưa về Sài Gòn, Hải Phòng chuyển tới các cơ sở cách mạng và các trí thức yêu nước, các sinh viên tiến bộ. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động cách mạng tại Quảng Châu, để tránh sự phát hiện của thực dân, các tài liệu được chuyển theo đường vòng về nước, từ Quảng Châu đi Matxcơva rồi sang Paris và quay lại Việt Nam hoặc có thể từ Quảng Châu chuyển trực tiếp về Việt Nam. Những bài báo, tài liệu có giá trị cho cách mạng, 20 đáp ứng được mong mỏi của các tầng lớp nhân dân ở trong nước của Nguyễn Ái Quốc được chép lại rồi truyền cho nhau xem và bình luận. Bằng những hoạt động tích cực, Nguyễn Ái Quốc đã gây ảnh hưởng nhất định trong phong trào cộng sản ở Pháp, cũng như ở trong nước; truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách thường xuyên, có hệ thống; là sự mở đầu quan trọng nhằm khơi dậy tinh thần cách mạng của nhân dân theo tư tưởng, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhằm tuyên truyền và phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xuất bản hai tác phẩm mang tầm vóc tư tưởng lớn, đó là: “Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc” và cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”, đặc biệt, tập bài giảng của Người (sau này tập hợp trở thành tác phẩm “Đường Cách mệnh”) với nội dung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng đối với nhân dân các nước thuộc địa và nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc nêu ra những vấn đề mới như: cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới; chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất, duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng; thông tin về tổ chức Quốc tế cộng sản - một tổ chức chính trị quốc tế bênh vực quyền lợi của các dân tộc thuộc địa. Đối với cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới… Bên cạnh đó, tại các diễn đàn quốc tế: Đại hội I Quốc tế Nông dân, Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên…, Nguyễn Ái Quốc đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa, bảo vệ luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, tuyên truyền những tư tưởng cách mạng trên lập trường mácxít. Giai đoạn này, việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc được mở rộng cả về chiều sâu và chiều rộng. Những tài liệu gửi về nước đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới 21 nhiều tầng lớp nhân dân đặc biệt là tầng lớp trí thức, thúc đẩy các phong trào yêu nước lan rộng trong cả nước, dần hòa cùng phong trào cộng sản thế giới. Cùng với việc chuẩn bị về công tác tư tưởng, công tác chính trị cho thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc còn dày công chuẩn bị về mặt tổ chức. Người trực tiếp tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào tháng 6/1925 để đưa cán bộ về nước chuẩn bị lực lượng và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho đông đảo quần chúng nhân dân. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn một số thanh niên gửi đi học ở trường quân sự Hoàng Phố và trường chính trị Phương Đông để xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán cho Đảng sau này. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ; giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp khác nhau dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng; rèn luyện, giác ngộ lớp thanh niên yêu nước về lập trường giai cấp; thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ; giác ngộ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Việc xây dựng được một hệ thống tổ chức và phong trào cách mạng trên cả nước; khơi dậy tinh thần sục sôi, hoài bão cách mạng trong những thanh niên yêu nước; và đưa phong trào “vô sản hóa” vào sâu các cuộc đấu tranh, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng đúng đắn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã phản ánh tư duy sáng tạo và thành công của Nguyễn Ái Quốc trong công tác chuẩn bị về mặt chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là điều kiện chín muồi, hợp quy luật cho sự ra đời tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Với sự chuẩn bị rất công phu của Nguyễn Ái Quốc, Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã xâm nhập vào Việt Nam, làm chuyển biến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát, đơn lẻ, sang đấu tranh tự giác, có tổ chức. Và tháng 3/1930, tại Hong Kong (Trung Quốc), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với uy tín của mình đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam - bước chuẩn bị đặc biệt quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến với những thắng lợi sau này. 22 2.3.3. Sự phát triển của khuynh hướng vô sản ở Viêt Nam Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Với việc xác định con đường đó, Nguyễn Ái Quốc mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời khởi động tiến trình đưa cách mạng Việt Nam hội nhập vào trào lưu cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nguyễn Ái Quốc trăn trở rất nhiều về sự khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã hội phương Đông. Vận dụng phương pháp biện chứng của C. Mác để phân tích xã hội thuộc địa, Người chỉ ra rằng, do nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, nên sự phân hóa giai cấp ở đây khác với xã hội tư bản phương Tây, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Giữa những giai cấp khác nhau vẫn có sự tương đồng lớn: đều chung một số phận của người dân mất nước. Nếu như mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa lại là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược. Giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động, nhưng trong quan hệ với đế quốc Pháp, họ đều là người Việt Nam mất nước. Đó không phải là những giai cấp thống trị, mà là giai cấp bị trị và có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong điều kiện xã hội thuộc địa, Người không nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp, mà tập trung vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Độc lập, tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam mất nước. Trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa chính là vấn đề độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định, chiến lược cách mạng ở thuộc địa chưa phải là đấu tranh giai cấp, mà trước hết là giải phóng dân tộc; xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực lượng của cuộc cách mạng đó bao gồm toàn dân tộc, trong đó công nhân và nông dân là “chủ cách mệnh”, “gốc 23 cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của công nông”. Giải phóng dân tộc là một sự nghiệp to lớn, của cả dân tộc bị áp bức vùng dậy giành quyền sống, chứ không phải là sự nghiệp của một số ít người. Vì thế phải thành lập một “Đảng cách mệnh” để tổ chức và giác ngộ quần chúng, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng lật đổ ách thống trị của thực dân, đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn và cần phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Người cũng khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản, mà tư tưởng cốt lõi là “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân dân và trở thành thực tiễn sinh động ở Việt Nam bằng những thắng lợi chiến lược trong những cuộc khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân giành và giữ nền độc lập dân tộc. Những thắng lợi đó là đóng góp của dân tộc Việt Nam, cùng nhân loại biến thế kỷ XX trở thành một thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng (tức cách mạng giải phóng dân tộc) và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu và bước đi để đạt tới chủ nghĩa xã hội. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải 24 qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, giải quyết thành công mối quan hệ giữa đất nước và thời đại, giữa dân tộc và quốc tế. Đó là cống hiến xuất sắc nhất và cũng là cống hiến đầu tiên của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển lý luận cách mạng vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Từ thực tiễn các giai đoạn lịch sử đấu tranh cho ta thấy được nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Các cuộc đấu tranh theo tư tưởng phong kiến và tư sản dù diễn ra mạnh mẽ nhưng chung quy đều không phù hợp với tình hình đất nước bấy giờ. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. Trước thực tế đó, vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc quyết định sang phương Tây, sang nước Pháp, quê hương của tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cũng là dinh lũy kẻ thù đang trực tiếp thống trị dân tộc để xem xét, khảo nghiệm, quyết tâm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, hạnh phúc cho nhân dân. Quyết định sang nước Pháp, sang phương Tây của Nguyễn Ái Quốc thể hiện tư duy độc lập và cách nhìn mới về hướng đi và con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân; và lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. 25 Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng ra đời đó là một bước ngoặc lịch, thành quả to lớn được đúc kết từ những thất bại của dân tộc ta trong suốt con đường cách mạng của cha ông ta. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 90 năm qua đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. CHƯƠNG 3 SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên 3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với tinh thần quật cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục, rộng khắp. Tuy nhiên qua sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử dân tộc, các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương cho đến lập trường tư sản, tiểu tư sản đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc và chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Mặc dù vậy, các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Đây là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ 26 nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế về tư tưởng chính trị của các bậc yêu nước đương thời mà ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với ý chí mãnh liệt và lòng yêu thương dân tộc sâu sắc đã quyết tâm ra đi thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc. Đến cuối năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng tiên phong. Trong khoảng thời gian đó, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời, bao gồm Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Điều này đã chứng tỏ: lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thấm sâu trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn, nhưng lại có những hạn chế là các tổ chức trên hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, công kích lẫn nhau nên làm phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ chia rẽ lớn. Trước tình hình đó, ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm đã trở về Hương Cảng, Quảng Châu, Trung Quốc để triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Với tư cách là phái viên Quốc tế Cộng sản, Người đã chủ động triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để thành lập Đảng, thời gian diễn ra Hội nghị từ ngày 06/01 - 08/02/1930. 3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. 27 Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: cách mạng Việt Nam "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"1. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam: Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công-nông-binh và tổ chức quân đội công nông. Cương lĩnh đã đề ra và thống nhất hướng đi chung của Việt Nam lúc bấy giờ là phải đồng lòng chống lại chủ nghĩa đế quốc Pháp cũng những bọn phong kiến, những bọn đang đàn áp và chia rẽ nhân dân ta, chỉ có đánh đổ bọn chúng thì dân ta mới chạm tay tới sự độc lập, tự do. Tập hợp các giai cấp công-nông-binh thành một tập thể sát cánh bên nhau, cũng hướng đến mục đích chung là lật đổ chế độ phong kiến, loại bỏ sự thống trị của thực dân Pháp. Về kinh tế: tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ. Về mặt kinh tế, Cương lĩnh chủ trương lấy đất đai tịch thu được từ thực dân Pháp làm của chung và chia cho những người dân nghèo, để họ có thể cày cấy, nuôi trồng, phát huy và củng cố nền nông nghiệp của đất nước, dân giàu thì nước mới mạnh. Việc phân chia ruộng đất là việc làm hết sức hợp lý, vì vào thời điểm đó dân nghèo và không có ruộng đất để sản xuất, ngoài ra còn bị thực dân Pháp bóc lột sức lao động, có làm nhưng không có ăn, vậy nên dân ta không có nguồn kinh tế ổn định và đời sống khá khó khăn. Việc phân chia ruộng vừa giải quyết được tình trạng đời sống của nông dân, vừa tạo ra của cải vật chất của bản thân họ và cung cấp một số lương thực nhất định cho việc kháng chiến. Về lâu dài, khi nền nông nghiệp phát triển, nước ta cũng sẽ có nhiều lợi ích trong việc phát triển kinh tế. Về văn hóa: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Trước đó do những định kiến và sự đàn áp của những đế quốc khác nên chúng ta không thể phát triển về mặt văn hóa một cách toàn diện, nhưng Cương lĩnh đã nói rõ và cũng cấp quyền lợi cần thiết cho người dân, những 1 CCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCCC 28 quyền được tự do tổ chức, được giáo dục theo phương hướng công nông hóa, được làm quen dần với tư tưởng nam nữ bình quyền, đây là những yếu tố cơ bản để giúp cho nền văn hóa của chúng ta tiến bộ và văn minh hơn. Nếu như trước đây với tư tưởng trọng nam khinh nữ thì sau khi đề ra Cương lĩnh, phụ nữ được nâng lên phần nào tầm quan trọng cũng như được tự do thể hiện và đóng góp hết sức vào mục tiêu chung của dân tộc. Đồng thời khi thực hiện phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa đã góp phần phá vỡ kế hoạch “Ngu dân” của Pháp lúc bấy giờ, chúng muốn ta ngu để dễ sai bảo cai trị, thì chúng ta càng phải học hỏi và bổ sung kiến thức cho bản thân mình. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng thông qua việc liên lạc với tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông, đồng thời tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc. Về mối quan hệ quốc tế: Cương lĩnh này xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp, để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh cũng đưa ra những mục tiêu và sửa đổi đúng đắn những vấn đề thiết yếu về nhiều mặt của dân ta, từ kinh tế chính trị đến đối nội đối ngoại nhằm tạo ra những sự thay đổi tích cực và phù hợp trên nhiều phương diện, đồng thời mở ra một cánh cửa mới để đưa nhân dân Việt Nam tiến gần đến ngày giành lại độc lập dân tộc. 3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên 3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc 29 Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Sự thật rõ ràng đã chứng minh sự ra đời của Đảng thật sự là một bước đệm, là một trong những chiếc chìa khóa quan trọng, mở ra cánh của thành công cho phong trào, Đảng đã làm tốt nhiệm vụ đề ra, dẫn dắt nhân dân, đặt ra và chỉ đạo đúng đắn các phương hướng, đưa nhân dân ta giành được độc lập, tự do. Hội nghị cũng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Ðiều lệ vắn tắt của Ðảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện cô đọng các luận điểm cách mạng cơ bản, đánh giá chính xác tính chất xã hội Việt Nam thuộc địa và chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân xâm lược; xác định đường lối phát triển, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam được thực hiện bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Ðảng đã nêu những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, là lời tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Ðảng ta khi mới ra đời. Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Ðảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh đã xác định rõ sự lựa chọn con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Ðây là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không ngừng. Luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách 30 mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Vì vậy, Người đã khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình. Đồng thời góp phần lớn lao trong việc đưa đất nước đến một thế trận mới, giải quyết được các nhu cầu cấp thiết và đề ra được đường lối tiếp theo, mở sáng con đường giành lại độc lập cho đất nước và nhân dân. 3.2.2. Giá trị và đối với sự phát triển của đất nước hiện nay Khái quát tình hình của Việt Nam hiện nay????? Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 85 năm qua dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng 31 Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, phát triển Cương lĩnh, đưa ra những chính sách, giải pháp, nguyên tắc mới mà công cuộc đổi mới phát triển đúng hướng và gặt được những thành quả tốt đẹp đầu tiên vào những năm 1989. Năm 1989 Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Chính trị xã hội ổn định, vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu. Đảng tổ chức Đại hội thông qua Cương lĩnh thông xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Dưới ngọn cờ của Cương lĩnh năm 1991, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vững vàng vượt qua nhiều sóng gió, thử thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước ta tiếp tục từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện được mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi 32 khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đến nay, nhờ có những quyết định sáng suốt của Đảng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, đứng vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. 33 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ………………………………. với sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách đặt ra là nhất thiết phải tiến hành Hội nghị hợp nhất Đảng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định rõ nội dung cơ bản trong đường lối, nhiệm vụ, lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh xã hội sau khi thành lập Đảng. Cụ thể, đường lối chiến lược định hướng của Đảng là thực hiện “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Vì thế thông qua những nội dung cơ bản ấy, Đảng lần đầu khẳng định cách mạng Việt Nam cũng đã có một bản Cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội lúc bấy giờ, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, đồng thời cũng phù hợp với xu thế của thời đại và đã định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam giải phóng dân tộc. Cương lĩnh đã xác định rõ sự lựa chọn con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Ðây là cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không ngừng. Luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Dưới ánh sáng soi đường của Cương lĩnh Đảng đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác nghềnh. Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà Đảng và dân tộc đã lựa chọn. Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. 34 Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 35 PHẦN KẾT LUẬN Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới có nhiều sự biến chuyển mạnh mẽ do chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh dẫn đến nhu cầu tìm kiếm thị trường nguyên liệu, thị trường lao động ở các nước nghèo. Tuy nhiên, sự áp bức và khai thác thuộc địa của chủ nghĩa tư bản càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc ở các nước thuộc địa và thực dân càng gay gắt hơn. Bên cạnh đó, Cách mạng tháng mười Nga thành công cũng là yếu tố thúc đẩy các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới và nhìn chung, Việt Nam đã có những chuyển biến lịch sử vô cùng quan trọng, đó chính là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1858, khi Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược Việt Nam, nước ta đã chịu ách thống trị vô cùng khắc nghiệt của thực dân Pháp, bị áp bức, bóc lột nặng nề nhằm mục đích biến nước ta thành nước thuộc địa, nửa phong kiến. Để phục hồi nền kinh tế Pháp sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, chúng đã tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa hà khắc để kìm hãm sự phát triển của nước ta và gây ra mâu thuẫn dân tộc ngày một sâu sắc hơn. Trong bối cảnh ấy, các phong trào đấu tranh của nhiều tầng lớp và giai cấp đã nổ ra liên tục theo những khuynh hướng chính trị khác nhau nhưng đều có cùng kết cục là thất bại. Qua các phong trào yêu nước Cần Vương và cuộc khởi nghĩa nông dân Yên thế, đã chứng tỏ rằng giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước và giải quyết triệt để nhiệm vụ giành độc lập dân tộc mà lịch sử đặt ra. Tiếp đến là các phong trào theo khuynh hướng tư sản, dù đã có những đột phá lớn về mặt tư tưởng và con đường cách mạng, song vẫn còn nhiều hạn chế về tính hệ thống, cũng như tính thực tiễn trong việc nhìn nhận về hoàn cảnh cụ thể của đất nước lúc bấy giờ và trong việc lựa chọn lực lượng cách mạng. Vì thế, phong trào cách mạng ở Việt Nam đang lâm vào khủng hoảng về đường lối và việc lựa chọn giai cấp tiến hành cách mạng. Điều cấp thiết lúc bấy giờ phải tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc, bằng sự tài hoa và trí tuệ của mình, đã sớm nắm bắt được xu thế của thời đại và nhu cầu cách mạng của Việt Nam, thông qua việc học hỏi và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường cách mạng 36 giải phóng dân tộc, đó chính là cách mạng vô sản. Người đã nêu rõ “cách mệnh trước hết cần phải có đảng cách mệnh”. Vì lẽ đó, Người đã nghiêm túc lên kế hoạch để chuẩn bị mọi điều kiện về mặt tư tưởng và chính trị cho sự ra đời của Đảng. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam với quan điểm nền độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã lãnh đạo toàn dân vượt qua những thử thách cam go của lịch sử, chiến thắng đế quốc và thực dân. Đảng ta luôn khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Thông qua bài tiểu luận, nhóm chúng em có thể khẳng định sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một cột mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Hơn nữa, đó còn là thành quả to lớn được đúc kết thông qua kinh nghiệm và sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và dân tộc Việt Nam trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ Quốc. 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh). 38