Approach to the Patient with Heart Failure Môn Học TIM MẠCH Mục tiêu bài giảng Ngày Soạn Bài @July 2, 2022 6:50 PM Soan thảo TÀI LIỆU THAM KHẢO Property Definition and Epidemiology Suy tim là một hội chứng lâm sàng do tình trạng suy giảm chức năng đổ đầy hoặc tống máu của các buồng tim, nguyên nhân thường là do rối loạn về cấu trúc và/hoặc chức năng cơ tim. Hầu hết bệnh nhân đều có sự suy giảm chức năng cơ tim, bất kể kích thước thất trái bình thường hay giãn. Triệu chứng của suy tim thường do sự rối loạn chức năng đổ đầy của hai thất gây ra (áp lực đổ đẩy tăng lên ở tim phải hoặc tim trái). Thuật ngữ suy tim xung huyết hiện tại không còn được áp dụng, lí do vì có những bệnh nhân có biểu hiện suy tim nhưng cung lượng tim có thể thay đổi làm rối loạn biểu hiện ứ dịch và đôi lúc không thấy được biểu hiện tắc nghẽn dòng máu của bệnh nhân. Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của suy tim trên toàn cầu đang có xu hướng tiến dần đến như một đại dịch, bằng chứng bởi sự gia tăng tỷ lệ mắc mới, tỷ lệ tử vong do suy tim và chi phí để điều trị một bệnh nhân suy tim. Tỷ lệ gia tăng của bệnh nhân suy tim có thể một phần do sự tiến bộ của các kĩ thuật điều trị bệnh lý tim mạch hiên tại (bệnh lý mạch vành, bệnh van tim hoặc rối loạn nhịp), do vậy nó cho phép bệnh nhân được sống lâu hơn. Trên toàn thế giới, HF ảnh hưởng đến gần 23 triệu người. Hình 21.1. Dưới đây thể hiện tỷ lệ mới mắc của suy tim. Approach to the Patient with Heart Failure 1 Qua hình này ta có thể tạm kết luận: Tỷ lệ mới mắt ở bệnh nhân suy tim tăng theo cấp số nhân nếu ước lượng theo tuổi, và chiếm khoản 4-8% ở nhóm bệnh nhân trên 80 tuổi. Tỷ lệ phụ nữ mắc tương đối ít hơn nam giới ở đa số các lứa tuổi, nhưng với tuổi thọ trung bình của nữ lớn hơn của nam, do vậy đến sau tuổi 80 nhóm suy tim nư giới chiếm tỷ lệ cao hơn. The U.S. National Institutes of Health (NIH) đã thực hiện nghiên cứu Multi-Ethnic Study of Atherosclerosis (MESA) cho thấy nhóm người da đen có tỷ lệ mắc suy tim cao nhất, kế đến lần lượt là các dân tộc khác (lần lượt người di cư gốc Tây Ban Nha, người da trắng và người Trung Quốc). Các yếu tố nguy cơ của suy tim bao gồm bệnh tim thiếu máu cục bộ, nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim, bệnh van tim hoặc bệnh lí nhịp tim, đái tháo đường, bệnh lí tim bẩm sinh, ngưng thở khi ngủ, quá liều ma túy, lạm dụng rượu và bệnh nhân béo phì. Khi suy tim không do bệnh tim thiếu Approach to the Patient with Heart Failure 2 máu cục bộ thì đến 30-40% liên quan đến các bệnh lí di truyền. Ngoài ra, có một số loại thuốc liên quan đến suy tim bao gồm thuốc hóa trị ung thư và NSAIDs. Nếu phân loại theo phân suất tống máu EF, chủ yếu hai đỉnh EF ở bệnh nhân suy tim là 35% và 55%. Theo đó, có một nửa số bệnh nhân được chẩn đoán suy tim có EF bảo tồn (HFpEF). HFpEF thường được định nghĩa là EF thất trái từ 50% trở lên, trong khi HFrEF thường được định nghĩa là EF nhỏ hơn 40%. Tỷ lệ hiện mắc HFpEF tăng mạnh theo độ tuổi và phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới ở mọi lứa tuổi. Nhưng hiện tại chưa có nghiên cứu tập trung vào nhóm bệnh nhân HFpEF, do vậy việc điều trị chưa hoàn toàn được thống nhất. Classification of Heart Failure Bệnh nhân uy tim được phân loại dựa theo triệu chứng và giai đoạn của bệnh. The American College of Cardiology and American Heart Association (ACC/AHA) HF staging nhấn mạnh vào sự tiến triển của bệnh, New York Heart Association (NYHA) phân loại dựa vào khả năng gắng sức của bệnh nhân (Bảng 21.1). Mặc dù cnf mang tính chất chủ quan, phân loại NYHA được sử dụng khá rộng rãi. Nên sử dụng kết hợp cả hai nhóm công cụ sẽ đem lại hiệu quả tối ưu cho việc tiếp cận và quản lí bệnh nhân. Phân loại NYHA cũng được sử dụng để xác định tính đủ điều kiện cho một số liệu pháp (ví dụ: thuốc đối kháng thụ thể mineralocorticoid, tái đồng bộ tim). Khi nghi ngờ, tất nhiên một trong các vấn đề cần lưu tâm đó là làm cách nào để có một chẩn đoán hoặc loại trừ suy tim, xác định căn nguyên cơ bản và loại suy tim (HFrEF so với HFpEF), đánh giá mức độ nghiêm trọng của HF và xác định các bệnh đi kèm có thể ảnh hưởng quá trình lâm sàng và đáp ứng với điều trị. Chẩn đoán suy tim đôi khi sẽ khá đơn giản khi bệnh nhân đến với cơ sở y tế trong các bệnh cảnh điển hình (xem bảng 21.2 và 21.3), tuy vậy không có bất cứ một dấu hiệu nào đủ độ nhạy hoặc độ đặc hiệu để loại trừ hoàn toàn chẩn đoán suy tim trên LS. Approach to the Patient with Heart Failure 3 TABLE 21.2 Using the Medical History to Assess the Heart Failure Patient Symptoms Associated with HF Include: Fatigue Shortness of breath at rest or during exercise Dyspnea Tachypnea Cough Diminished exercise capacity Orthopnea Paroxysmal nocturnal dyspnea (khó thở kịch phát về đêm) Nocturia (Tiểu đêm) Weight gain/weight loss Edema (of extremities, scrotum, or elsewhere) Increasing abdominal girth (vòng bụng) or bloating (đầy hơi) Abdominal pain (particularly if confined to right upper quadrant) Loss of appetite or early satiety (chán ăn hoặc no sớm) Cheyne-Stokes respirations (often reported by family rather than patient) Somnolence or diminished mental acuity (buồn ngủ hoặc suy giảm trí lực) Historical Information Helpful in Determining if Symptoms Are Caused by HF: A past history of HF Cardiac disease (e.g., coronary artery disease, valvular or congenital disease, previous myocardial infarction) Risk factors for heart failure (e.g., diabetes, hypertension, obesity) Systemic illnesses that can involve the heart (e.g., amyloidosis, sarcoidosis, inherited neuromuscular diseases) Recent viral illness or history of HIV infection or Chagas disease Family history of HF or sudden cardiac death Environmental and/or medical exposure to cardiotoxic substances Substance abuse Noncardiac illnesses that could affect the heart indirectly, including high-output states (e.g., anemia, hyperthyroidism, arteriovenous fistulas) Approach to the Patient with Heart Failure 4 FIGURE 21.2 Flow chart for the evaluation of patients with HF. Appropriate cutoff values for natriuretic peptide testing (asterisk) to identify or exclude HF are provided in ETable 21.1. The diagnosis of HF is made using a combination of clinical judgment and initial and subsequent testing. Following thorough history and physical examination together with initial diagnostic testing, imaging (e.g., with echocardiography) may still be necessary in ambiguous cases to identify definitively or to exclude the diagnosis. THĂM KHÁM LÂM SÀNG: Có rất nhiều triệu chứng có thể quan sát được ở một bệnh nhân suy tim, một số triệu chứng phổ biến nhất được thể hiện ở hình bên dưới, điểm mấu chốt là không có một triệu chứng nào đủ độ độ đặc hiệu để chẩn đoán suy tim. Và cũng không có bất cứ một triệu chứng nào giúp chúng ta phân biệt giữa hai nhóm HFpEF và HFrEF. Approach to the Patient with Heart Failure 5 Khó thở xấu hơn - Worsening dyspnea thường liên quan đến áp lực làm đầy tim, nhưng đôi khi cũng có thể do cung lượng tim không được đảm bảo. Tuy nhiên, việc không có khó thở nặng hơn không nhất thiết loại trừ chẩn đoán HF, vì bệnh nhân có thể thích ứng với các triệu chứng bằng cách thay đổi đáng kể lối sống của họ. Khi khảo sát vấn đề đề gắng sức của bệnh nhân có thể phát hiện các bất thường mà vốn dĩ bệnh nhân không thể hiện lúc bình thường. Tuy nhiên, nó cũng được viện dẫn bởi những bệnh nhân mắc nhiều bệnh lý khác nên độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương tính (PPV) của khó thở khi nghỉ ngơi đơn thuần là thấp. Khó thở kịch phát về đêm, khó thở phát triển khi nằm nghiêng, là một trong những chỉ số đáng tin cậy nhất của HF. (Khó thở xấu hơn khi gắng sức, diễn tiếng tăng dần, kịch phát về đêm khi nằm nghiêng trái đặc hiệu hơn) (còn được gọi là hô hấp tuần hoàn hoặc theo chu kỳ) thường liên quan đến cung lượng tim thấp và nhịp thở rối loạn giấc ngủ. Khi xuất hiện Cheyne Stoke tiên lượng bệnh nhân rất kém. Tiểu đêm rất thường bị bỏ qua ở những bệnh nhân nhập viện. Cheyne-Stokes Tất cả các triệu chứng này thường phản ánh tắc nghẽn phổi, trong khi tiền sử tăng cân, tăng vòng bụng, no sớm và bắt đầu phù ở các cơ quan phụ thuộc (tứ chi hoặc bìu) cho thấy có tắc nghẽn tim bên phải. Tuy nhiên, đau hạ sườn phải, không đặc hiệu do tắc nghẽn gan thường gặp ở những bệnh nhân có HF ở bên phải đáng kể và có thể bị quy nhầm do các bệnh lý khác. Các nguyên nhân khác gây mệt mỏi trong HF có thể bao gồm trầm cảm nặng, thiếu máu, rối loạn chức năng thận, bất thường nội tiết, và tác dụng phụ của thuốc. Giảm cân ngoài ý muốn, thường dẫn đến suy mòn, có thể nổi bật và là một chỉ số tiên lượng chính. (Mệt mỏi lưu ý đến thiếu máu, rối loạn chức năng thận, các rối loạn hệ nội tiết, tác dụng phụ của thuốc, trầm cảm). Approach to the Patient with Heart Failure 6 Physical Examination Các thăm khám cơ bản yêu cầu ở bệnh nhân suy tim được thể hiện trong bảng 1, các thăm khám và trích xuất bệnh sử từ bệnh nhân có giá trị trong việc chẩn đoán xác định cũng như phân loại mức độ nặng nhẹ ở bệnh nhân suy tim. Và cũng tương tự như bệnh sử, các triệu chứng này cũng có giá trị chẩn đoán (độ nhạy và độ đặc hiệu nhất định), một phần vì chúng thay đổi tùy thuộc vào cách đánh giá và kĩ thuật thực hiện của người khám. Không có bất cứ một phát hiện nào giúp chẩn đoán phân biệt giữa HFrEF hay HFpEF. Đánh giá sự hiện diện cũng như mức độ nghiệm trọng của HF nên bao gồm: Ngoại hình, Đánh giá hạ huyết áp tư thế, khám tim và đánh giá nhịp, thăm khám các mô cơ quan để đánh giá các dấu hiệu thiếu máu mô và các dấu hiệu bệnh lí đi kèm/bệnh nguyên. Nghe tim: Đặc hiệu âm thổi do trào ngược van hai lá, hở van ba lá cũng hay gặp và thường được phân biệt dễ dàng bằng vị trí nổi trội của âm thổi. Cả hở van hai lá hay bá lá đều sẽ cải thiện được khi chức năng thất được cải thiện. Hẹp động mạch chủ là một nguyên nhân quan trọng của HF vì sự hiện diện của nó làm thay đổi rất nhiều việc quản lý. Tuy nhiên, biểu hiện của hẹp eo động mạch chủ có thể tinh tế, vì cường độ của tiếng thổi phụ thuộc vào lưu lượng máu qua van, có thể giảm khi HF phát triển. Sự hiện diện của tiếng tim thứ ba là một phát hiện cực kỳ quan trọng và cho thấy tăng thể tích đổ đầy tâm thất; trong khi khó xác định, tiếng tim thứ ba rất đặc hiệu cho suy tim và mang một ý nghĩa tiên lượng đáng kể. Tiếng tim thứ tư thường cho thấy sự giảm độ đàn hồi của mô thất. Ở những bệnh nhân suy tim tiếng triển tiếng tim thứ ba và thứ tư có thể bị chồng lên nhau. MỤC TIÊU CHÍNH CỦA THĂM KHÁM: Phát hiện sự ứ đọng thể tích có thể kèm hoặc không kèm dấu hiệu xung huyết. As with symptoms, evidence of congestion does not always indicate with certainty that HF is present, and the absence of manifest congestion does not definitively exclude the diagnosis. Patients with HFpEF and HFrEF do not generally show significant differences in frequency or significance of the stigmata of volume overload.14 Một trong các dấu hiệu phản ánh tương đối tốt sự quá tải dịch của bệnh nhân đó là tăng áp lực tĩnh mạch cổ-jugular venous pressure (JVP), với độ nhạy 70% và độ đặc hiệu 79% cho tình trạng quá tải chức năng đổ đầy của thất trái. JVP có thể được cải Approach to the Patient with Heart Failure 7 thiện cả về độ nhạy và độ đặc hiệu nếu trong lúc khám bác sĩ tạo thêm áp lực lên 1/4 bụng trên trái của bệnh nhân (phản xạ gan tĩnh mạch cổ). Hạn chê của JVP đó là phụ thuộc vào tư thế của bệnh nhân cũng như phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của người khám, hơn nữa JVP đôi khi không tăng song hành cùng sự giảm độ đàn hồi thất trái thậm chí nó có thể không tăng nếu bệnh nhân tăng áp phổi đủ ngưỡng để tim phải suy hay có tình trạng trào ngược van ba lá. Ngoài ra, JVP đôi khi tăng nhưng không tương quan với tim trái, cụ thể trong các bệnh cảnh tăng áp phổi, tăng áp lực thất phải đơn độc hoặc có trào ngược rất nặng van ba lá đơn độc. Xung huyết tại phổi tuy rất thường được quan sát thấy ở bệnh nhân suy tim, tuy vậy các phát hiện của nó lại rất khác nhau và độ đặc hiệu kém ví dụ tràn dịch màng phổi (đa số sẽ là tràn dịch màng phổi hai bên hoặc bên phải đơn độc, bên trái đơn độc chỉ xảy ra ở 10% trường hợp). Sự thoát dịch từ mao mạch vào phế nang sẽ dẫn đến sự xuất hiện các âm thanh khác ở phổi như rales ẩm, nổ, rales rít/ngáy (có thể kết hợp với sự co thắt phế quản). Rales trong bệnh cảnh suy tim thường có xu hướng nhỏ (”fine”) khi xuất hiện (nghĩa là xuất hiện vào thì cuối thì hít vào, phản ánh chính là so phù phổi hoặc fibrosis hay atelectasis) và có xu hướng từ đáy lên, trong khi do các nguyên nhân khác rales thương thô hơn. Một điểm quan trọng cần lưu ý đó là rales ẩm hoặc rales rít đôi khi không xuất hiện ở những bệnh nhân suy tim tiến triển, điều này có thể xảy ra do sự tăng dẫn lưu hệ thống bạch huyết tại chỗ. “Hen tim” là do sự hiện diện vật lý của chất lỏng trong thành phế quản cũng như co thắt phế quản thứ phát. Phù chi dưới là một dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán ứ dịch hệ đại tuần hoàn nhưng đôi khi phải lưu ý chẩn đoán phân biệt nhất là ở các bệnh nhân suy van tĩnh mạch chi dưới (hay gặp ở BN đã phẫu thuật lấy vale tĩnh mạch để thay thế các mạch máu khác) hoặc tác dụng phụ của thuốc chẹn kênh canxi. Lúc này cần đánh giá kĩ JVP để giúp ta các phân biệt kể trên. Về lí thuyết khi cung lượng tim giảm sẽ làm giảm tưới máu các cơ quan, điều này thể hiện chính bởi áp lực mạch thì tâm thu thấp, biên độ áp lực mạch hẹp (hay gặp định nghĩa weak and thready pulses mạch nhanh nhỏ như sợi chỉ ở dưới tay), Approach to the Patient with Heart Failure 8 nhưng thực tế lâm sàng thể hiện mối tương quan này đôi khi không rõ ràng. Bằng chứng nhiều bệnh nhân có huyết áp tâm thu chỉ khoảng 80mmHg thậm chí thấp hơn nhưng vẫn đảm bảo tưới máu cơ quan được đầy đủ, ngược lại có những bệnh nhân huyết áp tương đối cao nhưng thiếu máu nuôi đến cơ quan (do được bù trừ bởi sự co mạch). Các dấu hiệu thể hiện giảm cung lượng tim bao gồm: Trạng thái tinh thần kém (thiếu máu não), lượng nước tiểu giảm (thiếu máu thận), da nổi bông và chân tay lạnh (thiếu máu chi). Trong bộ các triệu chứng này, thiếu máu chi, cụ thể là tay chân lạnh là có giá trị nhất. Một cách đánh giá có hệ thống cho các bệnh nhân suy tim là bao gồm đánh giá cung lượng tim và đánh giá các dấu hiệu ứ đọng dịch. Đánh giá cung lượng tim hay tưới máu cho ta hai thuật ngữ ấm và lạnh (”Warm/Cold”), còn đánh giá ứ dịch cho ta hai tình trạng khô/ướt. Phân loại này vừa giúp ta trong việc chẩn đoán,vữa hỗ trợ tiên lượng và ra quyết định điều trị. Routine Laboratory Assessment Thuật toán chẩn đoán suy tim được thể hiện ở hình bên dưới: Chest Radiography Xquang ngực thẳng rất có giá trị ở các TH bệnh cảnh không rõ ràng. Biểu hiện lâm sàng của suy tim thay đổi rất nhiều phụ thuộc vào bệnh sử và thăm khám lâm sàng. Do vậy mà việc chụp X Quang ngực sẽ đem lại những lợi ích nhất định cho việc Approach to the Patient with Heart Failure 9 chẩn đoán và điều trị bệnh nhân sy tim, do vậy nó nên là một trong các xét nghiệm ban đầu bắt buộc phải thực hiện ở BN nghi ngờ suy tim cấp. Hình ảnh điển hình cho tình trạng phù phổi cấp đó là tụ dịch các khe dịch kẽ và phù nề phế nang dạng quạt hai bên của phổi ra đến ngoại vi (hình ảnh “CÁNH BƯỚM”). Tuy vậy có nhiều bệnh nhân sẽ có các biểu hiện tinh tế hơn bao gồm các đường Kerley B, căng bít phế quản và mạch máu lên đến 1/3 trên của phổi. Có thể quan sát thấy dịch màng phổi và dịch rảnh liên thùy phải. Gía trị dự đoán âm của phim phổi tương đối thấp để loại trừ suy tim cấp. Electrocardiography: Ở bệnh nhân HF, điện tâm đồ không thường xuyên bình thường, nhưng nó có thể chỉ cho thấy những phát hiện không đặc hiệu; do đó, tương tự như X quang phổi, PPV của điện tâm đồ vượt trội hơn nhiều so với NPV trong cài đặt này. Nhịp nhanh xoang có thể được quan sát thấy ở những bệnh nhân suy tim cấp hoặc suy tim tiến triển (điều này được lí giải chủ yếu là do cường giao cảm). Ngoài việc tăng khả năng chẩn đoán, nhịp tim cao cũng là một phát hiện tiên lượng trong HF. Sự hiện diện của rối loạn nhịp tâm nhĩ trên điện tâm đồ cũng như phản ứng của tâm thất có thể cung cấp manh mối về nguyên nhân của HF, cũng như giải thích tại sao một bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng mất bù; xác định rối loạn nhịp nhĩ với đáp ứng nhanh thất cũng cung cấp mục tiêu cho các can thiệp điều trị. Xuất hiện các ổ ngoại vị tại thất sẽ làm tăng nguy cơ đột tử ở bệnh nhân nhất là các bệnh nhân có EF ban đầu thấp (EF dưới 30%). Dấu hiệu của lớn thất trái trên điện tâm đồ. Trong trường hợp không có tiền sử tăng huyết áp trước đó, phát hiện như vậy có thể do bệnh van tim hoặc bệnh cơ tim phì đại gây ra, đặc biệt nếu ghi nhận các kiểu tái cực kỳ lạ. Nếu phì đại thất phải, cần xem xét tăng áp động mạch phổi nguyên phát hoặc thứ phát. Điện áp QRS thấp gợi ý sự hiện diện của bệnh thâm nhiễm hoặc tràn dịch màng ngoài tim.Sự hiện diện của sóng Q gợi ý rằng HF có thể do thiếu máu cơ tim gây ra, và những thay đổi ST mới hoặc có thể đảo ngược xác định sự hiện diện của thiếu máu cục bộ vành cấp, ngay cả khi không có đau ngực. Thật vậy, vì thiếu máu cục bộ vành cấp là nguyên nhân hàng đầu của HF mất bù cấp tính, nên thực hiện ngay ECG 12 đạo trình ở bệnh nhân này, để loại trừ nhồi máu cơ tim cấp (AMI). Việc kéo dài khoảng PR thường gặp ở những bệnh nhân trong bối cảnh này và có thể do bệnh dẫn truyền nội tại, nhưng nó cũng có thể gặp ở những bệnh nhân bị bệnh cơ tim thâm nhiễm như bệnh amyloidosis. Khoảng QT thường kéo dài ở những bệnh nhân có HF và có thể do bất thường về điện giải, bệnh cơ tim và tác dụng của các loại thuốc thông thường, chẳng hạn như thuốc chống loạn nhịp tim. Khoảng QT kéo dài có thể xác định bệnh nhân có nguy cơ bị xoắn đỉnh và do đó là Approach to the Patient with Heart Failure 10 một biến số quan trọng cần xem xét khi sử dụng các thuốc điều trị có tác dụng tái cực tâm thất. Measurement of Blood Chemistry and Hematologic Variables Bệnh nhân HF mới khởi phát và những người bị HF mãn tính mất bù cấp tính cần có bảng điện giải, nitơ urê máu (BUN), creatinin huyết thanh, men gan, hồ sơ lipid lúc đói, hormone kích thích tuyến giáp, bão hòa transferrin, acid uric, công thức máu đầy đủ và phân tích nước tiểu. Như đã thảo luận ở phần sau, các peptit lợi tiểu natri có thể cực kỳ hữu ích cho việc chẩn đoán cũng như tiên lượng. Xét nghiệm HIV hoặc sàng lọc thêm bệnh huyết sắc tố là hợp lý ở một số bệnh nhân được chọn, và các xét nghiệm chẩn đoán bệnh thấp khớp, bệnh amyloidosis hoặc pheochromocytoma là hợp lý khi nghi ngờ có những bệnh này. Natri máu: Sự bất thường về natri máu rất thường gặp ở bệnh nhân suy tim, nhất là trong các giai đoạn mất bù cấp tính và có Hạ natri máu giá trị tiên lượng đáng kể. Na huyết thanh < 135 quan sát thấy ở 25% ở bệnh nhân Nguyên nhân: Tăng giữ nước hoặc do lợi tiểu thiazide. Tiên lượng: Thời gian nằm viện lâu, tỷ lệ tử vong ADHF, mà thậm chí ở bệnh nhân suy tim nặng hơn cũng gặp tình trạng này. Hạ kali máu xảy ra thường xuyên ở bệnh nhân HF được điều trị bằng thuốc lợi tiểu. Ngoài việc tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim, lượng kali thấp Kali máu cũng có thể dẫn đến chuột rút ở chân và yếu cơ. Ngược lại, tăng kali máu ít phổ biến hơn nhưng thường do tác dụng của các thuốc như thuốc ức chế men chuyển (ACE) hoặc ức chế mineralocorticoid. Thận Chức năng thận thường giảm Tổn thương thận cấp: Các nguyên nhân do tình trạng ứ dịch quanh kẽ của hội chứng “tim mạch” này rất phức thận, cung lượng tim không tạp nhưng bao gồm mức độ nghiêm trọng đủ hoặc các bệnh lí khác kèm của tắc nghẽn tim bên phải, tăng áp lực theo, ngoài ra các liệu pháp trong ổ bụng và giảm tưới máu thận do lợi tiểu, ACEi, ARB cũng có cung lượng tim không đủ. Approach to the Patient with Heart Failure 11 khả năng làm gia tăng creatinin. Đái tháo đường Vì thuốc lợi tiểu có thể gây ra bệnh gút, đo nồng độ axit uric có thể giúp quản lý bệnh nhân; nồng độ axit uric trong acid uric huyết thanh tăng cao đã được ghi nhận là có thể tiên lượng được và các liệu pháp để giảm nồng độ của chúng hiện đang được nghiên cứu để cải thiện kết quả HF. làm tăng công cơ tim và làm giảm khả năng gắng sức. Có thể giảm trong bệnh cảnh của bệnh mạn tính nhưng ở Hb giảm những bệnh nhân ban đầu vào viện với bạn trong bệnh cảnh suy tim nên tàm soát Cung cấp một số bằng chứng cho bệnh cảnh bệnh cơ tim thâm nhiễm bạch cầu ái toan. các yếu tố thiếu máu có thể điều trị được như thiếu máu thiếu sắt Sự gia tăng bất ngờ về thời gian Bất thường về aspartate prothrombin (PT) ở những bệnh nhân transaminase (AST), alanine transaminase (ALT), alkaline đang điều trị bằng warfarin có thể là dấu hiệu sớm của tình trạng mất bù vì nó có phosphatase (ALP), bilirubin thể phản ánh sự suy giảm khả năng tổng AST, ALT, PT, hoặc lactate dehydrogenase hợp của gan bị tắc nghẽn. Nồng độ albumine, bệnh (LDH) có thể xảy ra ở bệnh albumin là một dấu hiệu cho thấy tình lí về gan nhân HF do sự thay đổi huyết trạng dinh dưỡng của bệnh nhân và có động dẫn đến tắc nghẽn gan thể bị suy nhược vì chán ăn hoặc suy hoặc dùng thuốc, và điều giảm khả năng hấp thụ qua thành ruột quan trọng là theo các cấp độ căng sữa; hạ albumin máu được tiên theo định kỳ. lượng cho tỷ lệ tử vong trong HF cấp tính và mãn tính. Approach to the Patient with Heart Failure 12 BIOMARKER Bảng 21.5 ở trên mô tả cho chúng ta các dấu ấn sinh học có thể được sử dụng ở bệnh nhân suy tim (các dấu ấn sinh học này được chia làm 6 nhóm). Nhưng một dấu ấn sinh học được cho là có giá trị về mặt lâm sàng khi nó được đo lượng một cách dễ dàng ở đa số hệ thống y tế, phải phán ánh được quá trình hoạt động và tiến triển của bệnh lí tim mạch, phải đủ độ nhạy độ đặc hiệu để giúp bác sĩ lâm sàng trong việc chẩn đoán hoặc loại trừ bệnh lý, từ đó có kế hoạch điều trị rõ ràng. Với các tiêu chí đó, hiện tại duy chỉ có natri peptide lợi niệu là đủ tiêu chuẩn cho thực tế lâm sàng. Natriuretic Peptides Các peptit lợi tiểu natri là dấu hiệu sinh học hữu ích để chẩn đoán HF, ước tính mức độ nặng và tiên lượng của HF, và có thể cả để quản lý HF. Loại natri peptid lợi niệu hay được sử dụng nhất trên lâm sàng hiện nay là B-type natriuretic peptide (BNP) Approach to the Patient with Heart Failure 13 và its amino-terminal (N-terminal) cleavage propeptide equivalent, NTproBNP. Hai loại protein này được tế bào cơ tim giải phóng vào máu khi cơ tim bị căng giãn và do vậy rõ ràng cơ tim dày nhất tại thất, nên hai marker này chủ yếu phản ánh cho sự lớn của hai thất là chính. Peptide natri niệu tâm nhĩ (ANP) là một thành viên khác của lớp này và được tổng hợp và tiết ra từ mô tâm nhĩ. Một xét nghiệm pro-ANP giữa vùng (MR) hiện đã có sẵn và dường như mang lại kết quả tương đương với BNP và NT-proBNP trong HF, 30 mặc dù dữ liệu vẫn còn hạn chế. Thời gian thanh thải của BNP và NTproBNP khác nhau đáng kể (BNP là 20 phút và NTproBNP là 90 phút) nên nồng độ của chúng lưu hành trong máu cũng khác nhau đáng kể. Tuy cả hai xét nghiệm này đều có giá trị trong việc hỗ trợ chẩn đoán suy tim, chúng ta bắt buộc phải nhớ các trường hợp rối loạn cấu trúc hoặc chức năng khác cũng có khả năng gây biến động nồng độ BNP/ProBNP ngoài HF. Cụ thể, các rối loạn về bệnh van tim, tăng áp phổi, bệnh tim thiếu máu cục bộ, loạn nhịp nhĩ thậm chí các bệnh lí về co thắt màng ngoài tim cũng gây ảnh hưởng đến nồng độ BNP và NTproBNP lưu hành trong máu. Ngay cả các biến số nhân trắc học như tuổi cũng có thể làm gia tăng nồng độ BNP và ProBNP (thể hiện sự tích lúy bệnh lí về tim mạch ở người cao tuổi), nhóm bệnh nhân tăng chuyển hóa cũng làm tăng nhu cầu oxy cơ tim từ đó làm biến đổi nồng độ cả hai marker này, Suy thận làm giảm độ thanh thải cả hai chất này, sử dụng nhóm ARNI sẽ ảnh hưởng đến nồng độ BNP trong khi NT-proBNp thì không. Riêng những bệnh nhân béo phì lại có nồng độ BNP và Pro-NTBNP thấp hơn ở nhóm bệnh nhân thông thường. Nồng độ BNP và NTproBNP tương quan thuận với phân độ khó thở NYHA. Và nó cũng góp phần phân biệt suy tim EF bảo tồn và suy tim EF giảm. Hơn nữa, marker này thường tăng rất cao ở nhóm bệnh nhân có ADHF thay vì ổn định ở nhóm HF ổn định. Các ngưỡng giá trị để dùng được thể hiện ở hình dưới đây: Approach to the Patient with Heart Failure 14 Gía trị của BNP và NT-proBNP được đến từ hai nghiên cứu chính Breathing Not Properly study and the ProBNP Investigation of Dyspnea in the Emergency Department (PRIDE) study Trong trường hợp Thở Không đúng cách, nồng độ BNP 100 pg / mL có độ chính xác cao để chẩn đoán HF mất bù cấp tính; trong PRIDE, giá trị ngưỡng NT-proBNP là 900 pg / mL cung cấp hiệu suất tương đương với BNP 100 pg / mL. Sau đó nghiên cứu: the International Collaborative of NT-proBNP (ICON) phân tầng giá trị Pro-BNP theo tuổi giúp cải thiện PPV ở bệnh nhân khó thở khi vào khoa cấp cưu. Ở những bệnh nhân có tình trạng khó thở không phải cấp tính, giá trị NT-proBNP thường thấp hơn một cách đáng kể. Do đó khi đánh giá một bệnh nhân khó thở cấp trong hoàn cảnh này, không nên dùng điểm cutoff ở các nghiên cứu trên (vì đa số làm tại các khoa cấp cứu). Lúc này, các giá trị biomarker này nên được tối ưu hóa nhằm loại trừ nguyên nhân tim mạch thay vì dùng cho mục địch chẩn đoán xác định. Nếu xét nghiệm kết quả cao hơn giá trị mong đợi, thì nên có một xét nghiệm hình ảnh học như siêu âm tim để đánh giá các bệnh nhân này. Ý nghĩa về tiên lượng: Gía trị tiên lượng tử vong của NTproBNP hoặc BNP khá tốt dù đã được hiệu chỉnh về các thông số như nhân chủng, mức độ nặng NYHA, siêu âm tim hay các nguyên nhân vào suy tim. Do vậy mà có một số mục tiêu trong điều trị bệnh nhân suy tim cấp đó là giảm được 30% giá trị BNP/ ProBNP lúc bệnh nhân xuất viện. Approach to the Patient with Heart Failure 15 Risk Scoring for Prognosis Trong quá trình đánh giá ban đầu và điều trị sau đó ở bệnh nhân suy tim, các bác sĩ lâm sàng nên đánh giá liên tục khả năng diên tiến các kết cục bất lợi ở bệnh nhân. Bên cạnh các xét nghiệm, một số thang điểm nguy cơ lâm sàng được áp dụng nhằm đánh giá nguy cơ diễn tiến xấu ở các bệnh nhân nhập cấp cứu hoặc điều trị nội trú vì suy tim. OUTPATIENT: One well-validated risk score, the Seattle Heart Failure model, is available in an Internet-based application (www.seattleheartfailuremodel.org) and has been shown to provide robust information regarding risk of mortality in ambulatory HF patients.38 INPATIENT (ADHF): For patients hospitalized with acute symptoms, the model developed by the Acute Decompensated Heart Failure National Registry (ADHERE) incorporates three routinely measured variables on hospital admission (systolic Approach to the Patient with Heart Failure 16 blood pressure, BUN, and serum creatinine) and partitions patients into categories with a 10- fold difference in risk (2.1% to 21.9%).38 Approach to the Patient with Heart Failure 17 Tuy vậy hoàn toàn không có một biến cố nào nói đến việc nguy cơ tái phát ADHF, do vậy trước khi xuất viện bệnh nhân phải được tầm soát các yếu tố dự đoán nguy cơ tái phát. Detection of Comorbid Conditions Assessment of Quality of Life: Các yếu tố quyết định chất lượng cuộc sống kém trong HF bao gồm giới tính nữ, tuổi trẻ hơn, chỉ số khối cơ thể cao hơn, các triệu chứng tồi tệ hơn và sự hiện diện của trầm cảm và ngưng thở khi ngủ.43 ImagingModalities Hình ảnh tim không xâm lấn đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá bệnh nhân HF và là điều cần thiết để xác định xem bệnh nhân nên được phân loại là HFpEF hay HFrEF. Hình ảnh có thể giúp xác định chẩn đoán HF bằng cách đánh giá sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của những thay đổi cấu trúc và chức năng trong tim, cung cấp manh mối về căn nguyên của rối loạn chức năng tim (bệnh tim bẩm sinh, bất thường van tim, bệnh màng ngoài tim, bệnh mạch vành), phân tầng nguy cơ bệnh nhân, và có thể hướng dẫn các chiến lược điều trị. Các phương thức chẩn đoán hình ảnh cũng có thể được sử dụng để giúp đánh giá hiệu quả của các can thiệp điều trị, cung cấp thông tin tiên lượng liên tục và hướng dẫn điều trị thêm. Mặc dù đánh giá ban đầu của một bệnh nhân bị HF mới được chẩn đoán nên bao gồm siêu âm tim qua lồng ngực, hình ảnh thêm bằng kỹ thuật MRI, CT và / hoặc hạt nhân có thể được xem xét tùy thuộc vào nhu cầu giải quyết thêm các câu hỏi liên quan đến cấu trúc , căn nguyên và các vấn đề chẳng hạn như khả năng hồi phục của rối loạn chức năng tâm thu với tái thông mạch. Các chỉ định cụ thể và ưu điểm cho và chức năng tim từng phương thức hình ảnh này được tóm tắt trong EFig. 21.1 và ETable 21.2. TABLE 21.2. Comparative Values of Echocardiography, Magnetic Resonance Imaging (CMR), Nuclear Imaging, Computed Tomography (MDCT), and PET Imaging in Heart Failure Patients Approach to the Patient with Heart Failure 18 a. Echocardiography and Lung Ultrasound Siêu âm tim qua lồng ngực là một phần quan trọng trong việc đánh giá HF, 45 có thể được thực hiện mà không gây rủi ro cho bệnh nhân và tại giường nếu cần thiết, và không liên quan đến việc tiếp xúc với bức xạ. Việc tăng cường sử dụng siêu âm tim cầm tay đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá tại điểm chăm sóc, chẳng hạn như trong ED với biểu hiện cấp tính. Siêu âm tim đặc biệt thích hợp để đánh giá cấu trúc và chức năng của cả cơ tim và van tim và cung cấp thông tin về áp lực và lưu lượng trong tim. HFrEF: left ventricular (LV) volumes and systolic function can be assessed semiquantitatively or can be quantified using the biplane method and the modified Simpson's rule. Thông tin về hình thái và kích thước của buồng tim có thể gợi ý các bệnh lí cụ thể: - VD dày đồng tâm thất trái với lớn hai nhĩ có thể gặp trong bệnh cảnh nhiễm sarcoido nhất là khi không có tiền sử tăng huyết áp trước đây. Chức năng tâm trương được đánh giá bằng cách sử dụng các phép đo Doppler, bao gồm các phân tích về dạng dòng chảy của van hai lá (dạng sóng [E] sớm và tâm nhĩ [A]), vận tốc mô tại vành van hai lá, lưu lượng tĩnh mạch phổi và thể tích tâm nhĩ trái được chỉ số trên bề mặt cơ thể khu vực (xem Chương 14). Rối loạn chức năng tâm trương có thể được phân loại thêm từ cấp I đến cấp III dựa trên các phép đo này, với tầm quan trọng tiên lượng gia tăng trong HF khi các cấp độ xấu đi của rối loạn chức năng tâm trương được ghi nhận. Tỷ lệ dòng chảy sớm từ van hai lá so với vận tốc vòng thắt van hai lá được xác định bằng cách sử dụng Doppler mô (E / e ′) đặc Approach to the Patient with Heart Failure 19 biệt hữu ích để xác định sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của rối loạn chức năng tâm trương; tỷ lệ từ 15 trở lên là bất thường. Tăng áp động mạch phổi ở những bệnh nhân không có rối loạn chức năng tâm thu đáng kể hoặc bệnh phổi cho thấy có thể có rối loạn chức năng tâm trương. Một ưu điểm khác của siêu âm tim là khả năng ước lượng áp lực tim bên phải không xâm lấn. Ví dụ, áp lực tâm nhĩ phải (RA) được ước tính bằng đường kính tĩnh mạch chủ dưới (IVC) và sự thay đổi tương đối của đường kính khi cảm hứng. Đường kính IVC bình thường và sự xẹp ống thở ít nhất 50% có liên quan đến áp lực RA bình thường, trong khi đường kính IVC tăng lên và những thay đổi trong ống thở nhỏ hơn cho thấy áp lực RA tăng cao. (Đánh giá tâm nhĩ phải được thực hiện tốt nhất từ các góc nhìn đỉnh và dưới sườn. Kích thước tâm nhĩ phải (RA) là sự phản ánh của áp suất và thể tích làm đầy bên phải. Các nguyên nhân thường gặp nhất của bệnh mở rộng RA là AF và trào ngược van ba lá. Mở rộng tim phải cô lập luôn luôn đặt ra câu hỏi liệu có xảy ra tạo shunt trong tim (từ trái sang phải) hay không và việc tìm kiếm thông liên nhĩ nên được thực hiện bằng thuốc cản quang tĩnh mạch nếu cần thiết. Phình sinh học có thể xảy ra với AF hoặc với bệnh cơ tim hạn chế. ⇒ Đánh giá cả tâm nhĩ phải và tĩnh mạch chủ dưới (IVC) là quan trọng trong việc ước tính áp lực RA, điều này cần thiết để tính áp lực tâm thu động mạch phổi từ vận tốc trào ngược van ba lá. Bằng chứng định tính về áp lực RA tăng cao bao gồm tâm nhĩ phải giãn ra, IVC giãn ra, hoặc suy giảm IVC khi lấy cảm hứng. SIÊU ÂM TIM THẤT TRÁI SIÊU ÂM TIM THẤT PHẢI Approach to the Patient with Heart Failure 20