BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Đề tài: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Tác giả: Đỗ Thị Ngọc Ánh Mã sinh viên: 11210844 Chuyên ngành: Maketing Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Ngọc Thông Hà Nội 2021 2 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN........................................................................................................... 3 LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................... 4 NỘI DUNG................................................................................................................ 5 A. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................... 5 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.................................................................................... 6 I.CƠ SỞ LÝ LUẬN....................................................... ......................................... 6 I.I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ........................................................................................... 6 1. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất........................................................... 6 2. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất................................................................... 7 3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất....................................................................................................... 9 II.VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ...........................................11 1. Thực trạng nền kinh tế đất nước trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện (từ năm 1986 trở về trước...................................................... 12 2. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay........................................................... 13 III.KẾT LUẬN......................................................................................................17 IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 17 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 3 LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, em xin phép gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa môn Triết học Mác – Lênin vào trong chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên bộ môn –TS.Lê Ngọc Thông đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu, cũng như tạo điều kiện hết sức cho em cũng như các bạn trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong quãng thời gian tham gia lớp học của thầy, em đã gặt hái thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích với một tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể vững bước trên con đường sau này của mình. Tiếp đó, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến anh Trần Đại Nghĩa – cựu sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã cho em những lời khuyên hữu ích giúp em có thể hoàn thành trọn vẹn hơn bài tiểu luận của mình. Bằng cách truyền tải tâm huyết của thầy, em đã thấy được bộ môn Triết học Mác – Lênin là một môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính thực tế cao. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu không trọn vẹn do còn nhiều bỡ ngỡ với hình thức học trực tuyến. Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài tiểu luận này sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và chưa chính xác. Em sẽ rất vui khi được thầy xem xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Đỗ Thị Ngọc Ánh Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 4 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong suốt quá trình phát triển của loài người, triết học đã có những đóng góp vô cùng vĩ đại vào kết quả của đổi mới tư duy lý luận. Hoàn toàn là có thể khi nói rằng triết học đã tạo ra cơ sở lý luận và phương pháp luận cho quá trình đổi mới tư duy lý luận. Chính tư duy triết học là hạt nhân lý luận tạo nên sự hình thành tư duy mới về CNXH, đặc biệt là tư duy kinh tế và tư duy chính trị. Việt Nam-một đất nước đang phát triển trên đà hội nhập, thực hiện đổi mới và đã xuất hiện nhiều biến chuyển tích cực, ngày càng hoàn thiện hơn để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Nền kinh tế nông nghiệp thô sơ, còn nhiều điểm yếu đang dần được thay thế bởi nền kinh tế thị trường hoàn thiện hơn. Từ sản xuất chủ yếu bằng hái lượm, săn bắt, tự cung tự cấp với trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu thì ngày nay khoa học kĩ thuật đã gần đạt tới mức tột đỉnh. Vấn đề lao động sản xuất từ lâu đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong đó, tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác và Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có nhận thức được hay là không thì nhận thức của hai ông về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển của con người. Những nghiên cứu về sự thống nhất, biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đã tạo điều kiện cho chúng ta có được một nhận thức về sản xuất xã hội, đồng thời mở mang được nhiều hơn lĩnh vực về kinh tế. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cực kì phổ biến trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn, phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển nền kinh tế. Sự tổng hòa mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển. Nói theo một cách khác, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để có thể phát triển một nền kinh tế bền vững. Do vậy, việc nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng em, đặc biệt là sinh viên theo chuyên ngành kinh tế,có thêm hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như thế giới. Thấy được vị trí, ý nghĩa quan trọng của nó, em xin được đưa ra những nhận định của mình về vấn đề này thông qua đề tài tiểu luận: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 5 Trình bày những lý luận cơ bản về nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác- Lênin. Chỉ ra được quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lí luận về nội dung, nguyên lý về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Qua đó thấy được đường lối cho sự nghiệp phát triển của nước ta hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Tập trung phân tích các vấn đề cách sản xuất và quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cũng như hoạt động xây dựng kinh tế,đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ của nó với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quy luật trung tâm. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong tiểu luận này, những phương pháp mà em sử dụng để nghiên cứu là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp khảo sát. NỘI DUNG A. ĐẶT VẤN ĐỀ Mang tính chất là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất biểu thị cách con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động không ngừng của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội, sự biến đổi trong phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi mang tính chất cách mạng. Trong đó,các quá trình phát triển kinh tế, xã hội được chuyển sang một giai đoạn mới. Phương thức sản xuất là thứ mà nhờ nó người ta có thể nhìn ra sự khác biệt của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì thế, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của nhân loại bởi vì nó là quy luật Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 6 của phương thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này đến sự thay đổi của phương thức sản xuất và kéo theo đó là sự biến đổi của toàn bộ đời sống xã hội. Từ những lí do trên, ta có thể khẳng định rằng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa rất to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt quy luật này không phải là điều đơn giản. Nhận biết được quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm tích lũy của bản thân. Những chính sách, đường lối, chủ trương đúng đắn và khả năng nắm bắt tốt quy luật này của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã phát triển ngày một mạnh mẽ, đưa đất nước ta từ một nước mang nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy mạnh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng mới, ngày càng có sức ảnh hưởng để cạnh tranh với đấu trường quốc tế. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN I.I. QUY LUẬT: “QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT” 1. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất 1.1. Sản xuất vật chất Sản xuất là một loại hình hoạt động có tính đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Theo Ăngghen: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất”1. Như vậy, sản xuất vật chất là một trong những hoạt động đặc trưng của con người, một loại hình thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. 1.2. Phương thức sản xuất Bất cứ quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất định ___________________________ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 34, trang 241 1 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 7 và tiến hành theo những cách thức xác định. Những cách thức tiến hành đó chính là phương thức sản xuất. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội lại có phương thức sản xuất khác nhau. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là là kỹ thuật và kinh tế gắn bó chặt chẽ với nhau. Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để làm biến đổi của các đối tượng của quá trình sản xuất. Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu là các công cụ kỹ thuật thủ công, quy mô nhỏ lẻ, khép kín về phương diện kinh tế; ngược lại, với xã hội hiện đại, phương thức kỹ thuật mở rộng, không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội. Trong sản xuất, con người có mối quan hệ “song trùng”: một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, gọi là lực lượng sản xuất; một mặt khác là quan hệ giữa con người với con người, gọi là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Sự thống nhất đó là sự thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động ngược lại lực lượng sản xuất. Vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì, mối liên hệ thống nhất của chúng như thế nào và ảnh hưởng ra sao đến với xã hội? 2. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 2.1. Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người. Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Con người với trình độ khoa học kỹ thuật, kĩ năng, kĩ xảo của mình sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất phục vụ cho chính con người. Lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động đã tĩnh luỹ (tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động) với lao động sống (những người sử dụng tư liệu sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh sống và phát triển của con người trong mọi xã hội). Với cách hiểu như vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản sau: - Người lao động: là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản xuất vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người trong đời sống xã hội. Người lao Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 8 động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, bằng năng lực, kỹ năng, tri thức,… của mình mà người lao động tham gia vào sản xuất vật chất. Trong quá trình sản xuất con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động để khai thác giới tự nhiên, làm ra của cải vật chất cần thiết cho cuộc sống - Công cụ lao động: cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố giúp người lao động có thể tận dụng, sử dụng khả năng của mình, công cụ lao động có vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Với những phát minh sáng chế khoa học trong mỗi thời đại lịch sử, công cụ lao động được cải tiến không ngừng nghỉ, tư liệu sản xuất mở rộng, đối tượng lao động ngày càng đa dạng, ngành nghề mới xuất hiện dẫn đến phân công lao động ngày càng cao. Trình độ phát triển của công cụ lao động phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lại là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, kỹ thuật khác nhau của lịch sử nhân loại. - Đối tượng lao động: bao gồm những thứ đã sẵn có trong tự nhiên mà người lao động tác động vào nó và cả những thứ đã trải qua lao động sản xuất ra, được kết tinh thành dạng sản phẩm. Cụ thể hơn, đối tượng lao động của chúng ta là đất đai, nguyên vật liệu, thông tin,….. Sản xuất ngày càng phát triển, con người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đối tượng lao động mới hơn, có tiềm năng hơn khi mà những thứ có sẵn trong tự nhiên ngày càng bị khai thác đến mức cạn kiệt. Theo Các Mác: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng rõ rệt, đó chính là nguyên nhân làm thay đổi, phát triển trong sản xuất, quản lý, lao động, phương pháp sản xuất mới, nguồn năng lượng mới tạo ra những ngành lao động mới cũng như mang đến năng suất lao động rất cao hay thậm chí cả những vật liệu tư liệu mới mang tính ứng dụng cao trong cuộc sống. Với ý nghĩa to lớn đó, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trình sản xuất xã hội. Như vậy, tri thức khoa học đã được kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất như ngày này. Điều này cho thấy lực lượng sản xuất sẽ thay đổi phát triển theo trình độ phát triển của từng giai đoạn và thể hiện rõ nhất chính là thời kì phát triển của xã hội hiện nay. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song đây vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Đây là yếu tố mang tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Thế hệ sau sẽ được tiếp thu nền tảng của thế hệ trước để lại qua đó thực tiễn và phát triển nền tảng đó thành của riêng mình, không có một thế hệ mới nào sinh ra đã có cho riêng mình một lực lượng sản xuất, một hình thái kinh tế. ___________________________ 2 C.Mác: Tư bản, quyển thứ nhất, NXB Sự thật, Hà Nội, 1973, trang 388 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 9 2.2. Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Theo Các Mác: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên là quan hệ sản xuất”. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào chủ quan con người. Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Trong xã hội phai giai cấp, sự khác biệt giữa các giai cấp chính là sự khác nhau giữa quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp thống trị nắm trong tay, sở hữu tư liệu sản xuất trong khi giai cấp bị trị không sở hữu tư liệu mà chỉ được sử dụng tư liệu sản xuất theo yêu cầu, áp bức của giai cấp thống trị. Đó chính là sự khác biệt giữa các giai cấp trong xã hội phân chia giai cấp. Trong từng giai đoạn phát triển của xã hội loài người đã tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản với tư liệu sản xuất: tư hữu và công cộng. Tư hữu là loại hình sở dữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, một phần ít tư liệu sẽ trong tay phần đông người còn lại, từ đó sản sinh quan hệ thống thống trị - bị trị, bóc lột – bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng, có đặc thù về tổ chức quản lý và phân phối tư liệu, sản phẩm và quan hệ kinh tế. Quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, tổ chức và điều khiển quá trình sản xuất. Chính vì vậy, nó có thể kìm hãm, thúc đẩy, cân bằng quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất dó quan hệ sở hữu quyết định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Trong khi đó, quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất lại có sự tác động lẫn nhau với quan hệ trong phân phối kết quả góp phần phát triển quan hệ sản xuất, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu. Như vậy, quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và mang tính phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất qua đó mà tác động lẫn nhau, tạo nên mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 10 3. Quy luật : “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ bản nhất cả sự vận động và phát triển xã hội. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội” của quá trình đó. Trong đời sống hiện thực không có sự kết hợp các nhân tố các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên nào lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Trái lại, không có quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó. Bởi vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất lẫn nhau, không thể thiếu sót một trong hai thành phần để tạo ra hình thái xã hội. Như vậy, đây cũng là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực xã hội. Với mỗi giai đoạn phát triển của xã hội sẽ tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và phân phối kết quả của quá trình sản xuất. Đó là cách duy nhất để duy trì lực lượng sản xuất, khai thác, sử dụng phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ phát triển xã hội. Ngược lại, mỗi lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ duy trì, khai thác sử dụng và phát triển trong một hình thức kinh tế xã hội nhất định. Chẳng hạn, với phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chỉ tương ứng phù hợp xã hội công xã nguyên thuỷ mà không có trong bất kì một kiểu hình thái kinh tế xã hội nào khác. Ngược lại, như với kiểu xã hội phong kiến, chỉ có duy nhất một phương thức sản xuất phong kiến mà không có một phương thức sản xuất nào khác. Như vậy với mỗi kiểu hình thái kinh tế xã hội sẽ tương ứng với một phương thức sản xuất duy nhất, không có sự tham gia của một phương thức sản xuất nào khác. Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo tính tất yếu khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. Sự phụ thuộc này vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Tuy nhiên quan hệ sản xuất luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất. Phụ thuộc vào tính phù Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 11 hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì tác động này sẽ mang tính tích cực hoặc tiêu cực. Nếu phù hợp sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hoá thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xã hội, lực lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Chính sự ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất càng tạo khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất luôn tạo ra nguy cơ, khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay luôn đóng vai trò là hình thức kinh tế-xã hội cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của lực lượng sản xuất lại trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển của đó, tạo ra mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó nhu cầu khách quan xuất hiện, yêu cầu phải thiết lập lại mối quan hệ thống nhất giữa chúng. Mác đã chỉ ra rằng: “Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.”3 Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới. Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ thống nhất đến những sự khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này cũng tuân theo quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”, quy luật “phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tuần tự, vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ cao hơn. Mâu thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nội dung cơ bản của “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. ___________________________ 3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 15 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 12 II. VẬN DỤNG QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT” VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ và rõ rệt vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua lý luận và bằng thực tiễn chúng ta đã thấy được, việc phát triển lực lượng sản xuất phụ thuộc vào quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất đó. 1. Thực trạng nền kinh tế đất nước ta trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện (từ năm 1986 trở về trước) Trước năm 1986, trong cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Chính điều này đã kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người lệ thuộc, không chủ động trong việc sản xuất. Nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là một nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém phát triển. So với các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới lúc đó thì nền kinh tế Việt Nam đã tụt hậu quá xa. Trong tình đó đặt ra cho Đảng và Nhà nước yêu cầu cấp bách về việc phải có một chính sách kinh tế phù hợp với sự phát triển của giai đoạn này, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp, sớm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976), Đảng đã vạch ra đường lối kinh tế: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới,…”4. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên, Đảng vấp phải một số sai lầm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khả năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lý kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Điều này dẫn đến nền kinh tế mất cân đối, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể luôn thua lỗ trong khi kinh tế tư ___________________________ Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1976, trang 32 4 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 13 nhân và kinh tế cá nhân bị ngăn cấm; sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân thấp, năng suất thấp, đời sống nhân dân khó khăn đi cùng nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Cụ thể chính là việc không thể thống nhất được lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất một cách phù hợp. Trong khi đất nước vừa bước qua thời kỳ thống nhất, tư liệu sản xuất cũng như trình độ phát triển đang rất hạn chế, đường lối lại chỉ ra: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp”. Chính việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đã dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất nông nghiệp trong khi Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế gắn liền với nông nghiệp.Ngoài ra việc ngăn cảm, cấm triệt để kinh tế tư nhân và kinh tế cá nhân đã làm sự phát triển của lực lượng sản xuất chuyển biến tiêu cực, không tạo ra một lực lượng sản xuất phù hợp với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn chưa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lúc đó dẫn đến sự sa sút về kinh tế của cả nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trang bị thêm thiết bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế chuẩn bị cho bước phát triển mạnh mẽ của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo; đồng thời phải đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đại hội đã có những thay đổi, tìm tòi trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Cụ thể thấy là những hình thức mới, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới được đưa vào trong quá trình sản xuất, phương thức khoán sản phẩm như khoán 10, khoán 100 được đưa vào đã giúp ngăn sự tụt dốc của nền kinh tế. Tuy nhiên đại hội vẫn chưa thấy được sự quan trọng của việc duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì này, chưa xác định được quan điểm cụ thể về thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối do nhà nước quyết định; chưa có chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Những sai lầm trên còn đi kèm với những quan điểm chủ quan nóng vội trong kế hoạch 5 năm và các cuộc cải cách. Hậu quả của các sai lầm trên rất rõ rệt, từ lạm phát phi mã, đến sự trì trệ, kém phát triển của nền kinh tế. Lực lượng sản xuất của chúng ta với trình độ chuyên môn thấp, công cụ lao động còn thô sơ, lạc hậu, tổ chức quản lý sản xuất chưa chặt chẽ và quy mô sản xuất phân tán nhỏ hẹp. Phân phối sản phẩm theo cơ chế bao cấp một cách không hợp lý. Hậu quả là việc con người và tư liệu sản xuất bị tách rời, công cụ lao động không hiệu quả, đời sống của nhân dân suy giảm nghiêm trọng. Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật chi phối, thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta trong thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội. 2. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 14 Thập niên 80-90 của thế kỷ 20, cả thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông u. Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới mất đi một lá cờ tiên phong đi đầu, sự sụp đổ đó đưa xã hội chủ nghĩa vào giai đoạn khó khăn chưa từng thấy trong lịch sử, mà hơn hết là thấy rõ được lý luận về xã hội chủ nghĩa còn rất nhiều vấn đề cần tháo gỡ giải quyết, liên quan trực tiếp đến vận mệnh các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và cả xu thế phát triển của thế giới. Đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước tiên nhất cần xác định rằng, việc phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, thống nhất là mục tiêu đầu tiên của cuộc đấu tranh giữa định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa với con đường tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, đồng thời đây cũng là vấn đề phức tạp nhất từ lý luận cho đến thực tiễn. Cuộc đấu tranh đó ngày càng phức tạp và gay gắt, nhất là đối với một nước từ nền kinh tế nông nghiệp nhỏ, lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Vấn đề đầu tiên của định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng các quan hệ sản xuất nằm trên phương diện lý luận về các quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ, nhất là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Rất nhiều quan điểm lý luận giải quyết vấn đề không đúng bản chất, nhiều sai lệch trong việc xem xét vai trò các mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân có rất nhiều tư duy còn sai lệch. Sự lệch lạc trong tư duy lý luận sẽ dẫn đến những vướng mắc trong xử lý, trong các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý phân phối, tiêu dùng hàng hoá. Nếu không kịp thời giải quyết các vấn đề sẽ dẫn đến sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các quan hệ sản xuất. Cơ sở khoa học của định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức đúng được quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong công cuộc đổi mới của nước ta, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng(1986) đã đề ra mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế xã hội: Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc doanh, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bằng những biện pháp thích hợp sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự nghiệp liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa… Có thể thấy đây là một đường lối chính xác về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên cơ sở kế thừa, chọn lọc và phát huy những đường lối xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới. Đường lối này xuất phát từ thực tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là sự vận dụng của quan điểm Lênin: coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một vấn đề đặc trưng của thời kỳ quá độ. Mác và Ăngghen cũng cho rằng; lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi quan hệ sản xuất và do đó Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 15 thay đổi các hình thái kinh tế xã hội. Mác từng viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do đó có được những lực lượng sản xuất mới đã thay đổi những phương thức sản xuất của mình và do đó thay đổi được phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, thay đổi được tất cả quan hệ xã hội với mình”. Chính vì vậy, những chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước hết phải xuất phát từ đặc trưng cụ thể của nền kinh tế, từ đó xem xét đề ra những chủ trương biện pháp đúng đắn. Đảng ta đã chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội chủ nghĩa phải tiến hành trên ba mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Đảng đã xác định rõ tầm quan trọng của sự phù hợp đối với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là nền tảng của quan hệ sản xuất mới với chế độ quản lý và chế độ phân phối. Nếu như có điều kiện kinh tế xã hội phù hợp, phát triển nhưng lại không tương ứng với tổ chức kinh tế và phương thức lưu thông hàng hoá thì chất lượng sản phẩm, lao động cũng sẽ giảm sút. Việc đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa phải là mục tiêu thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác động thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát huy mạnh mẽ động lực của khoa học kỹ thuật trong điều kiện thế giới đang bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới. Qua thực tiễn cho thấy, việc đẩy mạnh khoa học kỹ thuật sẽ làm đẩy nhanh quá trình phát triển của đất nước. Sự lựa chọn về phương hướng khoa học kỹ thuật phải thống nhất về sự lựa chọn trong mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở về các đường lối đúng đắn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng, tại Đại hội VII, Đại hội VIII và đại hội IX của Đảng, Đảng ta đã tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi cùng với đó là tiếp tục phát triển khoa học, công nghệ, góp phần đưa trình độ của lực lượng sản xuất lên một bước cao hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề đang quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa thì việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết nhất là phải phát triển lực lượng sản xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì chỉ có con đường duy nhất là công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đảng khẳng định: “Về thực chất công nghiệp, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội. Chuyển từ lao động thủ công là chính chuyển sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.” Đảng và nhà nước ta đã vận dụng triệt để mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển nền kinh tế nước nhà, thấy được quy luật tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, từ đó áp dụng vào tình hình thực tế của nước ta, tạo lập sự liên kết giữa người lao động với tư liệu sản xuất, phát triển mạnh mẽ khoa học kỹ thuật, công Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 16 nghệ hiện đại và tiên tiến vào quá trình sản xuất. Qua đó nâng cao chất lượng đời sống cũng như trình độ văn hoá và dân trí cho toàn xã hội. Ngày nay trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật, khoa học không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất mà còn tham gia trực tiếp vào các quá trình phát triển xã hội. Khoa học trở thành một thiết chế xã hội, một sức mạnh, một lực lượng xã hội. Không thể hiểu được gương mặt của xã hội hiện đại nếu thiếu khoa học, và xã hội hiện đại không thể phát triển được nếu không có khoa học. Khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đang được sử dụng để khởi thảo các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế và xã hội, khoa học làm tăng sức mạnh của con người trong việc cải tạo hiện thực. Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học kĩ thuật trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà, Đảng đã chủ trương phát triển khoa học kĩ thuật một cách hợp lí và qua đó nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất. Khoa học đã góp phần lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Các ngành khoa học công nghệ đã gắn bó hơn với sản xuất và đời sống. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng dụng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, xây dựng, năng lượng, xây dựng và củng cố quốc phòng an ninh,... Đảng đã đề ra nhiều biện pháp để phát triển tiềm lực khoa học công nghệ như xây dựng đội ngũ tri thức giàu kinh nghiệm, trình độ cao, thích ứng với tốc độ phát triển của thế giới, tăng cường cơ sở vật chất về khoa học công nghệ, máy móc tự động hóa; chuyển giao công nghệ, thích ứng và làm chủ các công nghệ mới của thế giới; đi cùng với đó đổi mới từng phần, hiện đại hóa từng khâu một cách hiệu quả. Thực tế đã chỉ rõ: muốn khoa học kĩ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp phải thông qua hoạt động sáng tạo, tự giác và có tổ chức của con người. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phải được con người đưa vào tất cả các công cụ lao động, phương tiện, trang thiết bị, nguyên nhiên liệu của nền sản xuất. Nếu không có quá trình nhận thức đúng đắn, sáng tạo, nâng cao năng lực chuyên môn… thì bản thân khoa học kĩ thuật và công nghệ không thể phát huy hết tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề đặt ra là phải không ngừng phát triển con người để có thể theo kịp với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Nếu không con người sẽ bị tụt hậu và trở nên khó phát triển một cách toàn diện. Thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Đảng và nhà nước đã không ngừng mở mang phát triển vấn đề giáo dục. Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành những chính sách để khuyến khích việc phát triển và đào tạo nhân tài cho đất nước. Rất nhiều du học sinh hiện vẫn đang đóng góp cho đất nước hay là các cơ quan nhà nước cũng tạo điều kiện cho những nhân viên có triển vọng đi đào tạo, phát triển ở các nước trên thế giới có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến đã cho thấy điều đó. Việc nâng cao nhận thức cho toàn thể người dân trong việc tiếp cận một vấn đề được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng. Các cơ Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 17 quan chức năng có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện và tuyên truyền, vận động toàn xã hội tham gia một cách tích cực vào công việc này. Tuy nhiên tổng kết chặng đường thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá những năm qua, Đảng cũng đã chỉ ra được những sai lầm, khuyết điểm yếu kém để hoàn thiện hơn nữa công cuộc đổi mới đất nước. Đó chính là những tư tưởng chủ quan, nóng vội đi lên hiện đại hoá trong khi chưa phát triển được một quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Phải phát triển một cách đồng bộ quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào thực tiễn đất nước. Đi kèm theo đó là việc bồi dưỡng, đào tạo những con người tài đức vẹn toàn phục vụ cho đất nước. Có như vậy mới có thể đưa nền kinh tế nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với những bước đi nhanh, chắc và vững mạnh, biết tận dụng thời cơ đi tắt đón đầu, việc thực hiện những mục tiêu trên đối với toàn thể nhân dân ta cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng. III. KẾT LUẬN Qua đề tài tiểu luận này, chúng ta thấy được sự cần thiết cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế, ở bất cứ đâu và vào lúc nào cũng không thể có được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tùy theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên, chính xác bản thân các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất tức là quá trình “đa dạng hóa”, cụ thể hơn là quá trình “phù hợp hóa” các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của nước ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hòa quan hệ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển, tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa-hiện đại hóa đã chọn. IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Bộ Giáo dục và Đào tạo 2.Tạp chí cộng sản 3.Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin 4.Hỏi đáp về triết học Mác-Lênin 5.Tạp chí Triết Học Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B 18 6.Tạp chí nghiên cứu Văn,Sử,Địa 7. V.I. Lênin: Toàn tập 8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976 9. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 10. C.Mác: Tư bản, quyển thứ nhất, NXB Sự thật, Hà Nội, 1973 Đỗ Thị Ngọc Ánh 11210844 Marketing 63B