BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC - Nguyễn Thiếp – I. TÌM HIỂU CHUNG 1. Tác giả - Nguyễn Thiếp (1723-1804), quê ở làng Mật thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. - Là người học rộng hiểu sâu, từng làm quan dưới triều Lê và sau đó ra giúp Quang Trung dựng nước. Ông được mọi người kính trọng, gọi là “La Sơn phu tử” (tức bậc thầy lớn ở La Sơn- Hà Tĩnh). - Tháng 8/1791 ông dâng lên vua Quang Trung bản tấu gồm 3 điều: + Đức quân (đức của nhà vua): mong nhà vua 1 lòng tu lấy đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài. + Dân tâm (lòng dân): Khẳng định lấy dân là gốc của đất nước. Gốc có vững, nước mới yên. + Học pháp (phép học) 2. Tác phẩm - Thể loại: Tấu. - Hoàn cảnh sáng tác: 1791, khi ông vào Phú Xuân hội kiến với vua, bàn quốc sự. - Vị trí đoạn trích: là phần thứ ba của bài tấu c. Bố cục - Bài văn được chia làm 3 phần Phần 1: Từ đầu...tệ hại ấy: Bàn về mục đích của việc học, phê phán lối học sai trái. Phần 2: Tiếp ...thịnh trị: Phương pháp học và tác dụng của nó. Phần 3: Còn lại: Kết luận (lời bày tỏ chân thành mong nhà vua xem xét 3. Giá trị nội dung Bằng hình thức lập luận chặt chẽ, sáng rõ, Nguyễn Thiếp đã nêu lên quan niệm tiến bộ của ông về việc học. Mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần làm hưng thịnh đất nước, chứ không phải để cầu danh lợi. Muốn học tốt phải có phương pháp, học cho rộng nhưng phải nắm cho gọn, đặc biệt học phải đi đôi với hành. 4. Giá trị nghệ thuật Lập luận bằng cách đối lập hai quan niệm về việc học. Có lập luận rõ ràng, lí lẽ chặt chẽ, lời văn khúc chiết, thể hiện tấm lòng của một trí thức chân chính đối với đất nước. 5. Thể loại tấu Nêu hiểu biết của em về thể tấu? Tấu có điểm giống và khác so với chiếu, hịch, cáo? + Giống: đều là thể văn nghị luận cổ, đều được viết bằng văn xuôi, văn vần hay văn biền ngẫu. + Khác: Chiếu, hịch, cáo là thể văn do vua hoặc chỉ huy viết, để ban bố mệnh lệnh hoặc công bố kết quả cho bề dưới được biết. Còn tấu thì lại do bề dưới viết để dâng lên bề trên (dâng lên vua). II. Tìm hiểu nội dung 1. Mục đích chân chính của việc học - Sử dụng câu châm ngôn với hình ảnh so sánh -> vừa dễ hiểu vừa tăng thêm sức thuyết phục. - “Đạo” một khái niệm trừu tượng được giải thích ngắn gọn rõ ràng: “Đạo” là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. => Mục đích chân chính của việc học là học để làm người, để biết “đạo” (*) Phân tích: Đoạn đầu của bài trích (từ “Ngọc không mài” đến “những điều tệ hại ấy”), tác giả nêu lên mục đích chân chính của việc học và thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành. Việc học vốn mang một ý nghĩa cao quý: “Biết rõ đạo”. Tức là học để biết cách làm người, học để sống tốt, cư xử đúng chuẩn mực. “Ngọc không mài, không thành đồ vật”, con người không học hành, tu dưỡng thì chẳng thành được con người có khả năng làm việc tốt, giúp ích cho đời. Dưới thề chế phong kiến theo Nho giáo xưa, học hành, thi cử còn là con đường trực tiếp dẫn đến quan trường; đánh giá qua thi cử để lựa chọn hiền tài giữ những cương vị trong triều chính. Điều này dẫn đến những biểu hiện tiêu cực trong việc học: Học vì mục đích thực dụng (tiến thân, làm quan, cầu danh lợi), chạy theo hình thức mà quên đi ý nghĩa chân chính của việc học. Những con người theo sự học giả dối như vậy, nếu thành đạt, ắt sẽ trở thành những “nịnh thân”, trở thành sâu bọ đục khoét, làm cho “nước mất, nhà tan”. La Sơn Phu Tử đã thẳng thắn nhìn vào thực tế và đúc thành những lời tâu xác thực, đầy tinh thần trung thực dâng lên Quang Trung. 2. Bàn luận về phép học: Tác giả phê phán cách học sai trái và tác hại của cách học này, trình lên một phương pháp học hiệu quả. (*) cách học sai trái: - Lối học chuộng hình thức: Học thuộc lòng câu chữ mà không hiểu nội dung, có cái danh mà không có thực lực - Lối học cầu danh lợi: Học đề có danh tiếng, được trọng vọng, được nhàn nhã, hưởng lợi lộc. -> tác hại: làm cho chúa tầm thường, thần nịnh hót, người trên kẻ dưới đều thích sự chạy chót, luồn cúi, không có thực lực khiến nước mất nhà tan (*) Những quan điểm và phương pháp học đúng đắn Mở thêm trường học. Mở rộng thành phần đối tượng học. Tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học. Tuần tự tiến lên, học từ thấp đến cao. Học rộng nghĩ sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Học phải kết hợp với hành. → Quan điểm, phương pháp đúng đắn, tiến bộ.-> Đào tạo được người tài giỏi giữ vững nước nhà 3. Tác dụng của việc học chân chính Đất nước có nhiều nhân tài. Triều đại vững mạnh. Quốc gia hưng thịnh. → Việc học chân chính có tác dụng vô cùng to lớn LUYỆN TẬP Bài 1: Câu 1: Bàn luận về phép học được trích dẫn từ đâu? A. Bài cáo của vua Quang Trung C. Bài hịch của Nguyễn Thiếp B. Bài tấu của Nguyễn Thiếp D. Bài tấu của Nguyễn Trãi Câu 2: Bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung được viết vào năm nào? A.1789 C.1791 B.1790 D.1792 Câu 3: Quan niệm của Nguyễn Thiếp về mục đích chân chính của việc học là gì? A. Học để làm người có đạo đức C.Học để góp phần làm hưng thịmh đất nước B.Học để trở thành người có tri thức D.Gồm cả A,B và C Câu 4: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng ở văn bản Bàn luận về phép học? A.Tự sự C.Nghị luận B. Biểu cảm D.Thuyết minh Câu 5: Nhận định nào nói đúng nhất ý nghĩa của câu “Người ta đua nhau lối học hình thức cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường”? A.Phê phán lối học sách vở, không gắn với thực tiễn. B. Phê phán lối học thực dụng, hòng mưu cầu danh lợi. C.Phê phán lối học thụ động, bắt chước. D. Cả A,B,C đều sai. Câu 6: Tác hại lớn nhất của những lối học mà tác giả phê phán? A. Làm cho “Nước mất nhà tan”. B.Làm cho đạo lí suy vong. C. Làm cho “Nền chính học bị thất truyền”. D. Làm cho nhân tài bị thui chột. Câu 7: Câu nào dưới đây có ý nghĩa tương đương câu “ theo điều học mà làm” trong bàn luận về phép học A. Học ăn, học nói, học gói, học mở. B. ăn vóc học hay C. Học đi đôi với hành. D. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Câu 9: Hoàn thành sơ đồ thể hiện lập luận của đoạn trích bàn về phép học. Đề ra những chính sách nhằm khuyến khích việc học Bàn về các “phép học” và vai trò, tác dụng của chúng Câu 10: Các “Phép học” mà Nguyễn Thiếp bàn luận đến trong bài tấu của mình là những phép nào? A. Học tuần tự từ những điều đơn giản tới những điều phức tạp. B. Học rộng nắm gọn những vấn đề cơ bản. C. Học phải áp dụng vào thực tế, học đi đôi với hành. D. Gồm ý A, B,C. Câu 11: Câu văn nào thể hiện rõ nhất tác dụng của các “ phép học” mà Nguyễn Thiếp nêu lên? A. Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. B. Đạo học thành thì người tốt nhiều: Người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị. C. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy. D. Gồm câu A và B. Câu 12: ý nghĩa của chủ đề trong đoạn văn nghị luận trình bày luận điểm là gì? A. Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm. B. Thể hiện một phần nội dung của luận điểm. C. Trình bày luận điểm sinh động hấp dẫn. D. Cả A,B,C đều sai. 1. Phân Tích Bài Bàn Luận Về Phép Học Của Nguyễn Thiếp, Trong lịch sử nước ta, giới học thuật có đủ căn cứ để xếp bốn nhân vật vào hàng Phu tử, đó là Chu Văn An (1292-1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Võ Trường Toản (1720-1792) và Nguyễn Thiếp (1723-1804). Trong bốn bậc phu tử đó, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, sống thời Quang Trung - Nguyễn Huệ bách chiến bách thắng. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sinh ngày 24-9-1723, mất ngày 6-2-1804, quê làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ Hương giải (1743) ra làm quan huấn đạo, tri phủ ít lâu thì cáo về, ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, đọc sách, nghiên cứu lý học. Ông nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao, có trình độ uyên bác. Cả nước hâm mộ tôn ông là bậc thầy. Ông cũng là con người cao sĩ, sống ẩn dật. Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba bốn lần, ông mới nhận lời giúp. Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba bốn lần, ông mới nhận lời giúp. Bàn luận về phép học là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếgửi vua Quang Trung vào tháng 8 - 1791. Vua Quang Trung từng mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triệu Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do nên ông chưa nhận lời. Ngày 10/7/1791, vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì có nhiều điều bài nghị. Lần này ông lòng vào Phú Xuân và dựa bàn quốc sự. Nhân lúc này, ông làm bài tấu bàn về 3 việc mà bậc quân vương nên biết. Một là về quân đức: Mong bậc đế vương một lòng tu đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài sản, bởi sự học mà có đức, hai là bài về dan tộc (lòng dân). Khẳng định "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yếu", Ba là bàn về học pháp (phép học). Văn bản Bàn luận về phép học chính là nội dung thứ ba của bài tấu. Đoạn trích Bàn luận về phép học có bố cục ba phần chặt chẽ: Bàn về mục đích của việc học, bàn về cách học, tác dụng của phép học. Phần mở đầu, Nguyễn Thiếp nêu mục đích chân chính của việc học. Tác giả sử dụng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng thêm sức mạnh thuyết phục: 'Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo". Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì "Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người". Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm "tam cương", "ngũ thường" quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để "lập đức" cho mình, để "lập công" nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của "chính học", là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả đoạn văn có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc (tức đất nước). Sau khi xác định mục đích của việc học, tác giả soi vào thực tế đương thời để phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong việc học. Đó là "lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường". Vậy thế nào là lối học hình thức hòng cầu danh lợi? Đó là lối học theo kiểu tầm chương trích cú, thuộc lòng từng câu từng chữ mà không hiểu kĩ về nội dung, học theo kiểu hữu danh vô thực. Học chỉ để đi thi, để ra làm quan, được trọng vọng, nhàn nhã và thu nhiều bổng lộc... Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó là làm cho "chúa trọng nịnh thần", người trên, kẻ dưới đếu thích sự chạy chọt, luồn cúi, không có thực chất, dẫn đến cảnh "nước mất, nhà tan". Ngày nay, chúng ta gọi lối học đó là học vẹt, học để đối phó, thực chất chẳng tiếp thu được bao nhiêu Kiến thức. Thuộc bài là yếu tố rất cần trong học tập nhưng điều cốt yếu là phải hiểu nội dung, bản chất của vấn đề, từ đó có cách suy nghĩ, cách cảm nhận, sáng tạo riêng. Sau khi phê phán những biểu hiện tiêu cực trong nhận thức về việc học, Nguyễn Thiếp đã nêu ra quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn. Việc học phải được phổ biến rộng khắp: mở thêm trường, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học: "Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học". Nguyễn Thiếp quả là một bậc hiền tài có tầm nhìn xa trông rộng. Quan điểm hết sức tiến bộ của ông tuy nêu ra cách đây đã hai thế kỉ nhưng nó rất gần gũi với chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng sáng suốt của ông vào thực tế giáo dục. Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Và ông đưa ra các phương pháp học cụ thể. Phương pháp thứ nhất, học tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao: "Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử". Phương pháp thứ hai, đó là học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Với phương pháp này, Nguyễn Thiếp hướng dẫn người học một cách học đúng đắn, dễ nhớ kiến thức. Chúng ta thường mắc bệnh học nhiều, học tràn lan, nhưng cuối cùng lại không ghi nhớ được gì cả vì không biết nghĩ cho sâu, tóm cho gọn. Có như thế này thì người học mới có thể ghi nhớ được kiến thức của mình lâu và khoa học. Phương pháp thứ ba học phải biết kết hợp với hành. Nói theo quan điểm của Phu Tử đó là "theo điều học mà làm". Học không chỉ để biết mà còn để làm. Học đi đôi với hành là cách để hiểu và ứng dụng điều học có hiệu quả, điều đó khác với việc học chay, học vẹt, học lý thuyết suông, học một cách máy móc, sáo rỗng, có thể đọc nghìn cuốn sách "chữ chứa đầy bụng" nhưng khi bước vào đời thì ngu ngơ, rỗng tuếch, trở thành "thầy dở, thợ dốt". Vì không "học đi đôi với hành", vì không biết "theo điều học mà làm" nên nhiều người "đua học hình thức cầu danh lợi" như La Sơn Phu Tử chê trách. Cho nên học tập phải thu nhận được kết quả thiết thực và hữu ích. Sau này, Bác Hồ trong "Thư trung thu" - 1952, cũng khẳng định: "Mong các cháu cổ gắng Thi đua học và hành Tuổi nhỏ làm việc nhỏ Tuỳ theo sức của mình Để tham gia kháng chiến Để gìn giữ hoà bình"... Ở phần cuối văn bản tiên sinh đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: "Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị". Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược "trồng người" được tiên sinh nói lên thật sáng tỏ. Tóm lại, bằng lời tấu rất thẳng thắn và chân thành, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nêu lên mục đích chân chính của việc học và thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành cùng các phương pháp học tập đúng đắn. Những bài học mà Nguyễn Thiếp mang lại không chỉ có giá trị đối với đất nước trong xã hội phong kiến mà còn bổ íc đối với tất cả chúng ta trong mọi thời đại. 2. Tầm quan trọng của việc học qua văn bản “Bàn về phép học” (Nguyễn Thiếp) Mỗi con người khi sinh ra đều có xuất phát điểm giống nhau, không ai là thiên tài, vĩ nhân ngay từ khi mới lọt lòng. Tất cả tri thức mà con người có được đều do việc học tập, tu dưỡng mà thành. Một đất nước muốn phát triển phải có những nhân tài, hào kiệt. Do đó, từ xưa đến nay vấn đề giáo dục, cách thức học tập của con người được rất nhiều người quan tâm. Thời vua Quang Trung, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã dâng tấu để Bàn luận về phép học, đó thực sự là tấu trương của một vị quan hết lòng vì dân, vì nước. Đoạn trích Luận học pháp tuy chỉ là một chương trong bài tấu của La Sơn Phu Tử nhưng tự nó đã thành một văn bản hoàn chỉnh với cách lập luận rất chặt chẽ. Mở đầu bài viết, tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của việc học cũng như thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành. “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Tác giả sử dụng lối viết phủ định để mà khẳng định ; khẳng định, nếu con người không học không thể nào biết đến “đạo”. “Đạo” theo tác giả không phải là cái gì quá xa vời mà là “lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”, hẹp là quan hệ giữa người với người, rộng là quan hệ trong xã hội. Với xã hội phong kiến, đó chính là “tam cương, ngũ thường”, những quan hệ rường cột của xã hội. Việc học đóng vai trò quan trọng nhưng tác giả đã nêu ra một thực trạng đáng buồn của việc học ở nước ta thời bấy giờ : “nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Lối học “hình thức” là nguyên nhân chính dẫn đến sự sa sút của nền giáo dục. Người học không có ý thức trau dồi đạo đức, học không để “lập đức”, “lập công” mà chỉ vì “danh lợi”. Một thứ danh lợi phù phiếm, nhất thời. Thảm hoạ hơn, chính những con người học vì danh lợi đó lại trở thành những rường cột của đất nước : “Chúa tầm thường, thần nịnh hót”. Hậu quả tất yếu sẽ kéo theo là : “nước mất, nhà tan”. La Sơn Phu Tử đưa ra những dẫn chứng không phải chỉ nhằm cảnh báo mà đó thực sự là hiện trạng của việc học đương thời. Nếu không có biện pháp để chấn hưng thì những hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Cách lập luận của nhà văn rất lô gích, các vế câu có mối quan hệ nguyên nhân – hệ quả chặt chẽ khiến cho lời vãn giàu sức thuyết phục. Trên cơ sở nêu lên tầm quan trọng của việc học cũng như thực trạng tiêu cực của nền học vấn hiện hành, Nguyễn Thiếp đã đưa ra biện pháp khôi phục nền “chính học”. Ông thực sự là một người có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, khi đưa ra các biện pháp theo cả chiều rộng và chiều sâu. Thứ nhất, theo ông, để chấn hưng nền chính học, việc trước mắt là cần phải mở rộng trường học “cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đểu tuỳ đâu tiện đấy mà đi học”. Việc học phải được tiến hành dưới mọi hình thức phổ biến, khiến cho ai ai cũng ý thức được sự cần thiết của việc học. Chỉ khi người dân ý thức được như vậy, họ mới có đam mê học hỏi thực sự. Thứ hai, ông đã đưa ra các phương pháp cụ thể để chấn hưng phép học. Phương pháp đầu tiên đó là học phải vừa sức, phù hợp với từng trình độ, lứa tuổi : “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học tứ thư, ngũ kinh, chư sử”. Việc học phải là cả một quá trình, chia ra làm nhiều giai đoạn, không thể đốt cháy giai đoạn. Có như vậy mới xây dựng được tri thức nền tảng. Phương pháp thứ hai, La Sơn Phu Tử đưa ra đó là “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”, có nghĩa là học rộng, biết nhiều nhưng để nắm vững thì phải biết tóm lược, chắt lọc những ý chính để biến kiến thức đó thành kiến thức chung của mình. Suy cho cùng, mục đích của việc tóm tắt chính là để hiểu một cách sâu sắc hơn. Phương pháp cuối cùng mà bề tôi của Quang Trung đưa ra đó là “theo điều học mà làm”, tức phải gắn những điều học được vào thực tiễn, học để mà làm. Đây mới là cái đích thực sự của việc học. Nếu chúng ta chỉ học lí thuyết mà không biết gắn nó với thực tiễn thì lí thuyết mãi chỉ là lí thuyết, không có giá trị, ý nghĩa. Học là để có thể cải thiện cuộc sống, làm cho nó tốt đẹp lên. Nhà văn đã nêu ra những phương pháp học tập rất xác đáng, có ý nghĩa phổ quát. Tác giả có một niềm tin mãnh liệt vào phương pháp mà mình đưa ra, hi vọng rằng những phương pháp đó sẽ chấn hưng nền giáo dục nước nhà, góp phần sản sinh ra nhiều nhân tài, hào kiệt cho đất nước : “Đạo học thành thì người tốt nhiều ; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Với cách lập luận lô gích, bố cục chặt chẽ, mạch lạc, tấu chương của La Sơn Phu Tử thật sự là những lời tâm huyết, những kinh nghiệm quý giá của một vị quan hết lòng vì dân, vì nước. Những luận bàn của ông về phép học thực sự là quan niệm đúng đắn, có giá trị với mọi thời. Thiết nghĩ, hiện nay nền giáo dục Việt Nam hiện đại cũng đang tích cực đổi mới theo hướng mà La Sơn Phu Tử đã nêu ra cách đây hơn hai trăm năm. Vậy chúng ta những học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ làm gì để trở thành người có ích cho xã hội. Tôi nghĩ rằng, sau khi đọc Luận pháp học, mỗi chúng ta đều đã tìm ra cho mình một cách học đúng đắn nhất. 3. Tầm quan trọng của việc học đi đôi với hành Mối quan hệ giữa học và hành: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy.Việc thực hành có tác dụng củng cố kiến thức, khắc sâu những điều đã học. Người có học mà không biết ứng dụng những điều đã học vào thực tế thì việc học ấy trở thành vô ích. Sau mỗi bài học lí thuyết là bài bài tập để củng cố, sau mỗi tiết thí nghiệm thực hành là kiến thức đã học được khắc sâu hơn. Nếu không có những tiết bài tập và thí nghiệm thì những điều chúng ta đã học sẽ trở thành mớ lý thuyết suông không có tác dụng gì. Những kiến thức đã học luôn có tác dụng định hướng, dẫn dắt để việc thực hành được tốt hơn. Người thực hành mà không có sự dẫn dắt của học vấn thì khó có hy vọng đạt được mục đích, chẳng khác gì một người đi trong bóng đêm mà không có ánh sáng của ngọn đuốc soi đường. Trong học tập, học sinh muốn học tốt, đạt kết quả cao không những phải nắm vững bài học mà còn chăm chỉ luyện tập, rèn luyện kĩ năng làm bài thành thạo, xử lí các vấn đề, liên kết tri thức. Trong công việc, nếu ta chỉ làm theo thói quen, kinh nghiệm, vận dụng tri thức hạn hẹp mà không có lí thuyết soi sáng thì hiệu quả công việc không coa, có thể dẫn đến sai lầm, gây ra thiệt hại lớn. Làm theo thói quen, kinh nghiệm, bí quyết truyền đời chỉ thích hợp với những công việc đơn giẩn, ít biến đổi, không cần nhiều đến trí tuệ. Ngày nay, nền khoa học kĩ thuật phát triển cao, lượng tri thức tăng nhanh đòi hỏi con người không những không ngừng học tập nâng cao tri thức thức, kiện toàn bản thân mà còn phải biết hợp tác, liên kết, thực hành thực tế nhiều lần để thành công trong công việc. Có làm được như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Nếu học tập có vai trò tích lũy tri thức thì thực hành sẽ hoàn chỉnh, khẳng định tri thức ấy. Người giỏi lí thuyết mà không biết vận dụng thực hành chỉ giỏi nói suông, khoe khoang, sáo rỗng, thường hay gặp trở ngại, thất bại trong cuộc sống. Người giàu có tri thức, học tập bài bản, thực hành kiện toàn kĩ năng thường khiêm tốn, cẩn thận, tỉ mỉ trong công việc, dễ thành công hơn người khác. Mỗi sai lầm có thể sẽ phải trả giá bằng mọt sự nghiệp, đôi khi là cả tính mệnh, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến nhiều người khác. Bởi thế, để tránh thất bại, chúng ta cần phải biết kết hợp chặt chẽ học và hành. Lấy việc học làm nhiệm vụ bồi dưỡng tri thức nền tảng. Lấy thực hành làm nhiệm vụ thực chứng, kiểm chứng lí thuyết, hoàn thiện bản thân hướng đến tính hiệu quả trong công việc. Dĩ nhiên, đó là một nhiệm vụ khó khăn, không dễ gì hoàn thành. Thế nhưng, nếu chúng ta biết nỗ lực, phấn đấu trong thời gian dài, không ngại vất vả, gian nan thì điều đó lại hết sức dễ dàng. Khẳng định học phải đi đôi với hành: Thực tế cho thấy ngày nay, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống để sáng tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người. Có một phương pháp học tập tốt và đúng đắn, kết hợp với những thao tác thực hành bài bản, chắc chắn kết quả học tập sẽ được nâng cao.