Uploaded by Lâm Nguyễn

Biện pháp tha miễn

advertisement
1.5.3 Biện pháp tha miễn
1.5.3.1 Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự : Theo quy định tại Điều 27 Bộ Luật Hình
Sự năm 2015 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ Luật Hình Sự quy
định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo
quy định tại Điều 60 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 thì thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời
hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị
kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
Tuy nhiên, Điều 28 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 lại quy định về những tội phạm không áp
dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và Điều 61 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 quy định
về những tội phạm không áp dụng thời hiệu thi hành bản án. Theo đó, ngoài việc kế thừa quy
định như trong Bộ Luật Hình Sự năm 1999, những chế định mang tính nhân đạo này của pháp
luật hình sự không được áp dụng đối với 2 nhóm tội phạm đặc biệt nguy hiểm là Các tội xâm
phạm an ninh quốc gia (Chương XIII) và Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội
phạm chiến tranh (Chương XXVI).
1.5.3.2
Miễn trách nhiệm hình sự
Chế định miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 Bộ Luật Hình Sự năm 2015:
Một trong hai căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự (dạng bắt buộc) liên quan đến hành vi
phạm tội được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29 là quy định mới “Khi tiến hành điều tra,
truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Đồng thời, thay đổi căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự
“Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa” từ dạng bắt buộc sang dạng tuỳ nghi.
Bộ Luật Hình Sự năm 2015 đã bổ sung một trong những căn cứ có thể được miễn trách nhiệm
hình sự (dạng tùy nghi) đối với người phạm tội quy định tại điểm c khoản 2 Điều 29 bằng
cụm từ “... và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận”.
Ngoài ra, khoản 3 là quy định mới của Điều 29, được bổ sung như một căn cứ để có thể được
miễn trách nhiệm hình sự (dạng tùy nghi) nếu người phạm tội đáp ứng đầy đủ các điều kiện.
Ví dụ:
Do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, Thủ tướng Chính phủ ban hành các
Chỉ thị để thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid 19, lập các chốt kiểm
dịch, bắt buộc tất cả người dân phải chấp hành các biện pháp để phòng chống dịch bệnh
như đeo khẩu trang, đo thân nhiệt, giữ khoảng cách tối thiểu khi tiếp xúc, cách ly tập trung,
cách ly tại nhà, giản cách xã hội. Những hành vi chống đối như không chấp hành việc đo
thân nhiệt, đeo khẩu trang khi đi qua các chốt kiểm dịch, không chấp hành cách ly tập trung
trong giai đoạn dịch bệnh Covid 19 bùng phát sẽ bị xem là tội phạm và đều có thể bị xử lý,
nhẹ thì bị xử phạt hành chính, nặng bị xử lý hình sự, tuy nhiên khi dịch bệnh hết, cuộc sống
xã hội trở lại bình thường những hành vi như không đeo khẩu trang, không chấp hành việc
đo thân nhiệt, không chấp hành cách ly tập trung lại không bị xem là tội phạm, không bị
xử phạt hành chính, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, có sự thay đổi chính sách, pháp luật để được miễn trách nhiệm hình sự ở đây phải
được hiểu là sự thay đổi chính sách, pháp luật hình sự, không phải là sự thay đổi chính sách
xã hội, chính sách kinh tế.
1.5.3.3
Miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt.
Chế định miễn hình phạt: So với quy định trong Bộ Luật Hình Sự năm 1999, quy định tại
Điều 54 và Điều 59 Bộ Luật Hình Sự năm 2015 về chế định miễn hình phạt đã được sửa đổi,
quy định cụ thể hơn những trường hợp được miễn hình phạt. Theo đó, nếu người phạm tội có
ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 hoặc người phạm tội lần đầu là
người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể mà đáng được khoan
hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự thì có thể được miễn hình
phạt.
Chế định miễn chấp hành hình phạt: Khoản 2 ngoài việc bổ sung một căn cứ miễn chấp hành
hình phạt (dạng tuỳ nghi) đối với người bị kết án đó là “Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh
gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Đồng
thời còn quy định giới hạn người bị kết án tù có thời hạn đến 03 năm tù chứ không quy định
chung chung là “tù có thời hạn” như quy định tại khoản 1 Điều 57 Bộ Luật Hình Sự năm
1999. Ngoài ra, cũng đã quy định rõ ràng hơn về trường hợp xét miễn chấp hành hình phạt
đối với người sau khi bị kết án đã “lập công” thay vì “lập công lớn” như quy định trước đây
nhằm tránh khó khăn trong việc xác định lập công mức độ nào thì được coi là lớn. Bổ sung
khoản 7, quy định mới về việc “Người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án”.
1.5.3.4
Hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù
Cơ sở pháp lý: Điều 67 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
Theo đó, hoãn chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp sau:
a. Người chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức
khỏe được
hồi phục:
Đây là trường hợp người chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng. Tuy nhiên cần phải có căn
cứ rằng người đó bị bệnh nặng mà ảnh hưởng đến tính mạng của họ. Nếu không hoãn chấp
hành hình phạt tù người đó sẽ không thể tiếp tục và sức khỏe lâm vào tình trạng trầm trọng.
Nếu rơi vào trường hợp như vậy người chấp hành hình phạt sẽ được hoãn cho đến khi sức
khỏe được hồi phục.
b. Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ
36 tháng tuổi:
Khi phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì cũng được hoãn cho đến khi
con đủ 36 tháng tuổi theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy nhằm đảm bảo cho
đứa bé cũng như người mẹ có một sức khỏe tốt nhất, đứa con được chăm sóc với điều kiện
tốt nhất.
c. Là người lao động duy nhất trong gia đình:Nếu người phải chấp hành hình phạt tù là
người lao động duy nhất trong gia đình, mà trong gia đình nếu người đó chịu hình phạt tù
dẫn đến gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Có thể hiểu, gia đình đó sẽ không duy trì được.
Ví dụ: Chồng phạm tội và chịu hình phạt tù nhưng vợ thì bị tàn tật và đang có bầu hoặc
đang có con nhỏ không còn cha mẹ nội ngoại, người thân chăm sóc.
Nếu vậy, người bị chịu hình phạt tù được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết
án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ không được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy
định.
d. Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 bộ luật này quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng
là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
Tuy nhiên phải là tội do nhu cầu công vụ. Có thể hiểu hoạt động công vụ là hoạt động được
tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm thực hiên các chức năng của Nhà nước vì lợi ích xã
hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân. Hoạt động công vụ là
hoạt động có tính tổ chức cao, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo trật tự do pháp
luật quy định trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà
nước. Hoạt động công vụ chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực hiện.
Vậy khi người bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn
đến 01 năm.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình
phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình
phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật
này.
Cơ sở pháp lý: Điều 68 Bộ luật hình sự. tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù:
Có thể hiểu tạm đình chỉ là quyết định tạm dừng mọi hoạt đông tố tụng của các cơ quan tố
tụng của vụ án đối với bi can, bi cáo trong quá trình tố tụng. Vụ án nếu đã có quyết định
tạm đình đình chỉ thì có thể được phục hồi điều tra, truy tố, xét xử khi lý do tạm đình chỉ
không còn.
Vậy khi một người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 67 quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù sau thì ó thể được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù
1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ
36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình
sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các
tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình
phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình
phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật
này.
Theo khoản 2 Điều luật này, thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp
hành hình phạt tù. Khi người phạm tội đã chấp hành xong hình phtj thì người đó vẫn sẽ
thực hiện chấp hành hình phạt bình thường.
1.5.3.5
Giảm mức hình phạt đã tuyên và án treo
Điều 63. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu
đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường
được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm
quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với
hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
2. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần
hai mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều
lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
3. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì
Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù
được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới
ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành
được một phần hai mức hình phạt chung.
5. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu
sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp
hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3
Điều này.
6. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường
hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp
hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn
phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.”
“Điều 64. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc
mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao
hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 của Bộ luật này.”
Chế định Án Treo
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng
ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo được các nguyên
tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật
hình sự quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao
để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội. Mục đích của việc áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái
phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt – biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất – trong một số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp
dụng biện pháp khác, không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt. Một biện
pháp được áp dụng nhiều trong thực tiễn là án treo. Phạt tù cho hưởng án treo là một chế
định pháp lý độc lập, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật
hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của
chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, một biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện trong luật hình sự Việt Nam. Chế định này thể hiện quan điểm
của Đảng, Nhà nước trong viện áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo,
nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó.
Mặt khác, án treo còn làm tăng cường trách nhiệm các cơ quan Nhà nước và của cả gia
đình người phạm tội trong việc theo dõi, quản lý giáo dục họ để trở thành những công dân
tốt
“Án treo là một chế định pháp lý đặc biệt hay còn là biện pháp miện chấp hành hình phạt
tù có điều kiện do Toà án quyết định trên cơ sở căn cứ vào hình phạt tù đã tuyên đối với
người phạm tội không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thì Toà án cho người đó được hưởng án treo,
không phải chấp hành hình phạt tại trại giam đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một
đến năm năm”.
Án treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp
hành hình phạt tù mặc dù họ đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được hưởng
án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp
hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
Đặc điểm cơ bản của án treo: Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp
không cần cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ. Thứ
hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là
người được hưởng án treo là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được
miễn việc chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự
cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong
một thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định.
Quy định của pháp luật hình sự về áp dụng án treo
“Điều 65. Án treo
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa
vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo hướng dẫn như sau:
Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau
đây:
– Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
– Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành
đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi
làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị
kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý
kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật
tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội
phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng
phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho
hưởng án treo.
– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không
có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình
sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên,
trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51
của Bộ luật Hình sự.
– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám
sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy
định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau
khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo
hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
– Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự
cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
1.5.3.6
Tha tù trước thời hạn có điều kiện và chế định xóa án tích
Có thể nhận thấy, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS
năm 2015) được ban hành đã thể hiện được những tư tưởng quan trọng của Hiến pháp năm
2013 với trọng tâm là đề cao, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Một trong những
điểm mới cơ bản của BLHS năm 2015 là lần đầu tiên BLHS năm 2015 đã quy định về tha
tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 64) nhằm tạo cho phạm nhân có cơ hội được trở về
với cộng đồng sớm hơn nhưng phải chịu sự giám sát của chính quyền cơ sở khi về sinh
sống tại cộng đồng, điều này góp phần bảo đảm an ninh trật tự, hạn chế khả năng tái
phạm của họ. Thực tế trong BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng đã quy định
một số giải pháp rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt đối với người chưa chấp hành hình
phạt tù trong trại giam, đó là những quy định về miễn chấp hành hình phạt (Điều 57), giảm
mức hình phạt đã tuyên (Điều 58). Tuy nhiên, những quy định này của BLHS năm 1999
vẫn chưa thực sự chú trọng nhiều đến việc phòng ngừa tái phạm.
Nhằm thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khắc phục những bất cập trong chính sách đặc xá, giảm gánh nặng cho công tác thi
hành án phạt tù hiện nay nhưng vẫn bảo đảm được sự công bằng, nghiêm minh của pháp
luật, đồng thời không làm thay đổi mục đích của hình phạt là giáo dục và trừng trị hành
vi phạm tội, Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới về tha tù trước thời hạn có
điều kiện.
Mặc dù là một chế định hoàn toàn mới được quy định trong BLHS năm 2015, nhưng tha
tù trước thời hạn có điều kiện cũng là một trong những giải pháp để rút ngắn thời gian phải
chấp hành hình phạt tù trong trại giam. Theo nội dung chế định này, người chấp hành án
phạt tù đã thi hành án được một thời gian nhất định, thỏa mãn những điều kiện quy định,
có thể được xem xét để trả tự do, thời gian thử thách đúng bằng thời gian còn lại của hình
phạt tù; và nếu trong thời gian thử thách người được tha tù có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa
vụ của người được tha tù có điều kiện 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt hành chính từ 02 lần
trở lên, thì có thể bị Tòa án quyết định buộc người được tha tù quay trở lại trại giam để thi
hành phần hình phạt tù còn lại.
Nội Dung của chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện:
1. Điều kiện về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Điều kiện đầu tiên để người đang chấp hành án phạt tù được trả tự do trong
trường hợp này thì hành vi phạm tội của người đó là phạm tội lần đầu. Tuy
nhiên, hiểu phạm tội lần đầu là thế nào? phạm tội lần đầu là lần đầu tiên trong
cuộc đời người đó thực hiện hành vi phạm tội hay hành vi phạm tội không
thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm? Căn cứ quy định về xóa án
tích, quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì có thể cho rằng phạm tội
lần đầu là hành vi phạm tội của người bị kết án không thuộc trường hợp tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, có thể một người đã bị kết án và đã được xóa án tích, lại phạm tội
mới và phải thi hành án phạt tù hoặc người đang có án tích nhưng lại bị kết
án về tội mới là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do vô ý thì vẫn
được tính là thuộc trường hợp phạm tội lần đầu.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp phạm tội lần đầu đều thỏa mãn điều
kiện về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mà còn phụ thuộc
vào tội danh, loại tội, mức án. Vì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
một số hành vi phạm tội rất lớn nên pháp luật quy định không cho phép áp
dụng biện pháp tha tù trước thời hạn có điều kiện (dù đã thỏa mãn điều kiện
là “phạm tội lần đầu”) với các đối tượng phạm một số tội danh hoặc một số
tội phạm là tội nghiêm trọng trở lên, cụ thể:
– Người bị kết án về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định
tại Chương XIII của Bộ luật hình sự; tội khủng bố quy định tại Điều 299 Bộ
luật hình sự; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật hình sự;
– Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp không phải
thi hành án tử hình quy định tại khoản 3 Điều 40[1] của BLHS;
– Người phải thi hành án có mức án từ 10 năm tù trở lên đối với một trong
các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người quy định
tại Chương XIV của Bộ luật hình sự do cố ý (cụ thể là các tội quy định tại
các điều: Điều 123 (Tội giết người), Điều 127 (Tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ), khoản 2 Điều 130 (Tội bức tử), khoản 4,5,6 Điều 134
(Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác);
khoản 2, 3, 4 Điều 141 (Tội hiếp dâm); Điều 142 (Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi); khoản 2, 3, 4 Điều 143 (Tội cưỡng dâm); Điều 144 (Tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); khoản 2 Điều 145 (Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi); khoản 3 Điều 146 (Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi);
khoản 3 Điều 147 (Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm);
khoản 2, 3 Điều 149 (Tội cố ý truyền HIV cho người khác); Điều 150
(Tội mua bán người); Điều 151 (Tội mua bán người dưới 16 tuổi); khoản 3
Điều 152 (Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi); khoản 2, 3 Điều 153 (Tội chiếm
đoạt người dưới 16 tuổi); khoản 2, 3 Điều 154 (Tội mua bán, chiếm đoạt mô
hoặc bộ phận cơ thể người);
– Người thi hành án có mức án từ 07 năm tù trở lên đối với một trong các
tội: tội cướp tài sản (Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều
169); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái
phép chất ma túy (Điều 251); tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252).
2. Điều kiện về kết quả thi hành án:
BLHS năm 2015 quy định người đang chấp hành án phạt tù phải có nhiều
tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt. Cơ sở để đánh giá là người đang chấp hành án
có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt phải căn cứ vào quy định của pháp luật
về thi hành án hình sự, cụ thể là phải căn cứ Luật Thi hành án hình sự năm
2010 và Thông tư số 40/2011/TT-BCA ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại
chấp hành án phạt tù cho phạm nhân. Tuy nhiên, cần phải thống nhất nhận
thức để đánh giá người chấp hành án phạt tù có nhiều tiến bộ, có ý thức cải
tạo tốt phải thể hiện qua kết quả xếp loại của nhiều tháng, nhiều quý liên tục
trước khi được quyết định áp dụng biện pháp tha tù có điều kiện chứ không
thể căn cứ vào việc xếp loại cải tạo khá, tốt 01 hoặc 02 kỳ trước khi được
quyết định tha tù có điều kiện.
Ngoài ra, để được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người đang chấp hành
án phải thỏa mãn điều kiện đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù ít
nhất là 01 lần đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này có 02 vấn đề
cần thống nhất nhận thức, thứ nhất, người bị kết án về tội nghiêm trọng trở
lên là người đang chấp hành mức án từ trên 03 năm tù trở lên. Đối chiếu với
quy định về thời hạn tiến hành tố tụng thì người phải chấp hành mức án từ
03 năm tù trở lên là khoảng thời gian đủ để xếp loại cải tạo sau khi đã trừ
thời hạn bị tạm giam và cũng là khoảng thời gian đủ để đánh giá người chấp
hành án có tiến bộ, có ý thực cải tạo tốt và kết quả cải tạo thể hiện qua việc
đã được Tòa án xét giảm mức hình phạt đã tuyên ít nhất là 01 lần; thứ hai,
quy định đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết
án không áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, bởi lẽ, mức hình
phạt tù cao nhất đối với người phạm tội ít nghiêm trọng là 03 năm nhưng
thực tế thi hành án phạt tù cho thấy số phạm nhân bị phạt tù về tội ít nghiêm
trọng có mức hình phạt tù từ 03 năm trở xuống tương đối lớn[2]. Theo quy
định của BLTTHS về thời gian tiến hành điều tra, truy tố, xét xử 01 vụ
án hình sự và thực tế thi hành Luật thi hành án hình sự năm 2010 cho thấy,
thời gian từ lúc bị bắt giam đến khi chuyển giao số đối tượng này đi thi hành
án ở các trại giam thường kéo dài từ 09 tháng đến hơn 01 năm. Như vậy, với
thời hạn giam giữ ở trại tạm giam bị kéo dài, khi đến thi hành án ở các trại
giam số đối tượng này chưa đủ điều kiện xem xét để được Tòa án xét giảm
thời hạn chấp hành hình phạt và đến khi được giảm thì cũng đã gần hết thời
gian chấp hành hình phạt tù. Trong khi đó, số đối tượng này đa số là phạm
tội lần đầu, phạm tội ít nghiêm trọng, trót lỡ lầm mà phạm tội, nói cách khác
là tính nguy hiểm trong hành vi tội phạm của số đối tượng này là thấp và nếu
được giáo dục trong môi trường xã hội thì khả năng trở thành người có ích
xã hội sẽ cao hơn nếu để thi hành án ở các trại giam. Do đó, BLHS năm 2015
quy định chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện trước hết với mục đích
ưu tiên áp dụng với đối tượng chấp hành mức án từ 03 năm tù trở xuống.
Điều kiện về kết quả thi hành án còn được thể hiện ở quy định người được
tha tù trước thời hạn có điều kiện phải “đã chấp hành được ít nhất là một
phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp
bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn. Trường hợp
người phạm tội là người có công với cách mạng, thân nhân của người có
công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc
khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải
chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất
là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm
xuống tù có thời hạn”. Như vậy, người đang chấp hành án phạt tù để được
xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện thì phải thực tế chấp hành một thời
gian thi hành phạt tù nhất định. Vấn đề đặt ra là trường hợp người đang chấp
hành án phạt tù đã được xét giảm thời hạn thi hành án thì khoảng thời gian
đã được giảm này có được tính vào thời gian đã chấp hành án không?
Tôi quan điểm cho rằng, thời gian người chấp hành án được xét giảm mức
hình phạt đã tuyên cần được tính vào thời gian đã chấp hành án vì như vậy
sẽ phù hợp với quy định về xác định thời gian thi hành án. Mặt khác, quy
định này sẽ bảo đảm sự công bằng giữa người đang chấp hành án phạt tù về
tội ít nghiêm trọng (không có điều kiện phải “đã được giảm thời hạn chấp
hành hình phạt”) với người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Điều kiện về nơi cư trú
Một trong các điều kiện để người đang chấp hành án được áp dụng biện pháp
tha tù có điều kiện là phải có nơi cư trú rõ ràng. Vấn đề đặt ra, hiểu thế nào
là nơi cư trú rõ ràng và ý nghĩa của việc quy định điều kiện này như thế nào?
vấn đề này trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015 được thảo luận và xác
định nơi cư trú rõ ràng của người được áp dụng biện pháp tha tù có điều kiện
là nơi mà người được tha tù về sinh sống, cư trú sau khi được tha tù.
Nơi cư trú này có thể là nơi mà người bị kết án đã thường trú trước khi phạm
tội hoặc có thể là nơi khác với nơi mà người đang chấp hành án đã cư trú,
sinh sống trước khi phạm tội (ngoại trừ trường hợp người được áp dụng biện
pháp tha tù có điều kiện còn phải thi hành hình phạt bổ sung là cấm cư trú ở
một hoặc một số địa phương nhất định). Việc xác định nơi cư trú của người
được tha tù có điều kiện là một việc làm bắt buộc, phải thể hiện trong quyết
định tha tù có điều kiện, chứ không phải chỉ căn cứ vào nơi cư trú thể hiện
trong hồ sơ thi hành án của người chấp hành án. Việc thực hiện quy định này
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định người được tha tù trước thời hạn
có điều kiện có thực hiện đúng các nghĩa vụ trong thời gian thử thách không?
hay xác định cơ quan, cá nhân nào sẽ chịu trách nhiệm theo dõi việc người
bị kết án thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách? hay xác định thẩm
quyền, thủ tục cho phép người được tha tù trước thời hạn có điều kiện thay
đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách.
4. Điều kiện chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại và án phí
Việc thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, hình phạt bổ sung là hình
phạt tiền, đã nộp đủ án phí là điều kiện bắt buộc đối với người đang chấp
hành án phạt tù là người đủ 18 tuổi trở lên, để được xem xét áp dụng biện
pháp tha tù có điều kiện (nghĩa vụ này không áp dụng với người đang chấp
hành án phạt tù là người dưới 18 tuổi[3]). Cơ sở để BLHS năm 2015 quy
định nghĩa vụ này xuất phát từ kết quả thực tế thi hành phần dân sự trong bản
án hình sự thu được rất thấp nhưng qua các đợt đặc xá, thì kết quả thi hành
phần nghĩa vụ bồi thường dân sự, hình phạt tiền, án phí lại đạt tỷ lệ rất cao
vì đây là một điều kiện bắt buộc khi xem xét quyết định đặc xá[4]. Mặt khác,
trong điều kiện ở nước ta hiện nay, Nhà nước chưa quản lý được tài sản của
cá nhân nên việc tài sản của người này được đứng tên người khác hoặc bị cất
giấu là một thực tế. Bên cạnh đó, việc quy định người đang chấp hành án
phạt tù phải thi hành xong nghĩa vụ bồi thường dân sự cũng là biện pháp để
tránh xung đột phát sinh giữa người được tha tù có điều kiện khi về địa
phương sinh sống với người bị hại hoặc đại diện người bị hại nhất là đối với
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc tội xâm phạm sở hữu. Do đó,
việc quy định trong BLHS năm 2015 nghĩa vụ này là một trong các điều kiện
để áp dụng biện pháp tha tù có điều kiện là cần thiết.
5. Thời gian thử thách và hậu quả pháp lý nếu người được tha tù có điều
kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc bị xử phạt hành chính hoặc
phạm tội mới
– BLHS năm 2015 quy định người được áp dụng biện pháp tha tù trước thời
hạn có điều kiện phải chịu một thời gian thử thách. Thời gian thử thách này
được xác định là thời gian chấp hành phần hình phạt tù còn lại theo bản án
mà người đó đang thi hành. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là thời
điểm người phải chấp hành án chính thức được trả tự do từ cơ sở giam giữ.
– Trong thời gian thử thách, có 02 hậu quả pháp lý xảy ra nếu người được
tha tù vi phạm, đó là:
+ Thứ nhất, người được tha tù có điều kiện nếu cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính từ 02 lần trở lên
thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện
đối với họ và buộc họ phải quay trở lại trại giam để chấp hành phần
hình phạt tù còn lại chưa chấp hành mà không được xem xét trừ thời
gian đã được tạm tha vào thời gian thi hành án phạt tù còn lại. Tuy
nhiên, trong trường hợp này khả năng người được tha tù bị hủy bỏ
quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện chỉ là “có thể” vì còn
phụ thuộc vào sự đánh giá của Tòa án về mức độ vi phạm của người
được tha tù trước thời hạn có điều kiện, nhất là trong trường hợp bị
xử phạt vi phạm hành chính.
+ Thứ hai, trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện
thực hiện hành vi phạm tội mới. Trong trường hợp này, hậu quả
người được tha tù bị hủy bỏ biện pháp tha tù có điều kiện là “đương
nhiên”. Tòa án xét xử buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án
mới và tổng hợp hình phạt của bản án mới với phần hình phạt chưa
chấp hành của bản án trước theo quy định về tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án tại Điều 56 của BLHS.
Việc quy định vấn đề này trong BLHS năm 2015 nhằm bảo đảm tính
khả thi của việc áp dụng chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện
trong thực tế, có ý nghĩa răn đe buộc người được tha tù trước thời
hạn có điều kiện phải tích cực lao động, chấp hành nghiêm chỉnh
quy định của pháp luật trong thời gian thử thách và có tác dụng rất
lớn trong việc phòng ngừa người phải chấp hành án tiếp tục phạm
tội mới.
6. Quy định về rút ngắn thời gian thử thách của người được tha tù có
điều kiện
Việc BLHS năm 2015 quy định về biện pháp tha tù có điều kiện thể hiện
một sự thay đổi lớn trong chính sách hình sự, mang tính nhân đạo, khuyến
khích sự tham gia của gia đình người phạm tội và cộng đồng xã hội tham
gia giáo dục, giúp đỡ và giám sát người được tha tù trước thời hạn có điều
kiện tích cực cải tạo, nhận thức ra lỗi lầm của mình, chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, trở thành công dân có ích cho xã hội. Để tạo điều kiện cho
người được tha tù trước thời hạn có điều kiện có thêm động lực học tập cải
tạo, sớm tái hòa nhập cộng đồng trở thành công dân tự do, có ích cho xã
hội, BLHS năm 2015 quy định việc giảm thời hạn thử thách cho người
được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Theo đó, người được tha tù trước
thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian
thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình
sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Chế định xóa án tích
Xóa án tích là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam. Quy
định về xóa án tích ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị kết án vì trong một số
trường hợp nếu người bị kết án thuộc trường hợp có án tích nhưng chưa được xóa án tích
là một trong những cơ sở để định tội, định khung hình phạt hoặc quyết định hình phạt.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản chế định xóa án tích cho người bị
kết án theo hướng mở rộng đối tượng được xóa án tích hoặc được coi là chưa có án tích,
nhân đạo, khoan hồng đối với người bị kết án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bị
kết án tái hòa nhập cộng đồng, sớm ổn định để làm ăn, sinh sống. Cụ thể:
– Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự 2015 đã điều chỉnh định nghĩa về người được xóa án
tích coi như chưa bị kết án và bỏ đi quy định về việc phải “được Tòa án cấp giấy chứng
nhận” như trong BLHS trước đây. Với quy định mới này, BLHS năm 2015 đã giải quyết
được những khó khăn đối với người chấp hành xong bản án; rút bớt các thủ tục, đồng thời
chuyển trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích của người bị kết án sang cho các cơ quan
quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (khoản 4 Điều 70)
– Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 quy định rõ 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là
có án tích. Đó là: (1) Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng; (2) Người được miễn hình phạt; (3) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết
án không kể về tội gì; (4) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; (5) Người
dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Như vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi đối tượng xác định mang án tích
so với trước đây. Theo đó, đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ khi bị kết án về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị áp dụng hình
phạt mới phải mang án tích và đối với họ được áp dụng hình thức xóa án tích đương nhiên.
Đối với người đã thành niên thì họ phải mang án tích trong trường hợp bị kết án về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị kết án do lỗi cố ý về tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
– Khoản 2 Điều 70 quy định giữ nguyên thời hạn 01 năm để được xóa án tích đối với
trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng
án treo; nhưng rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 02 năm đối với trường
hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15
năm và 05 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình
nhưng đã được giảm án. Đồng thời, quy định rõ hơn đối với trường hợp người bị kết án
đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải
chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào
thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xoá án tích nếu từ khi chấp hành
xong hình phạt chính hoặc hết thời hiệu thi hành bản án người đó không thực hiện hành vi
phạm tội mới trong thời hạn (a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt
cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; (b) 01 năm trong trường
hợp bị phạt tù đến 05 năm; (c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15
năm; (d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm (Khoản 2 Điều 107).
– Thời hạn xóa án tích được tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách
án treo hoặc khi hết thời hiệu thi hành bản án. Đây là quy định mới và có lợi người cho
người bị kết án trong cách tính thời hạn xóa án tích trong Bộ luật Hình sự năm 2015 vì theo
quy định trước đây thì thời hạn xóa án tích được tính khi người phạm tội chấp hành xong
bản án.
Ngoài ra, trong thời hạn xóa án tích thì người bị kết án không được thực hiện hành vi phạm
tội mới. Tội phạm mới này có thể là bất kỳ loại tội phạm nào cũng như có thể được thực
hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Nếu như người bị kết án chưa được xóa án tích lại phạm tội
mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ
được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo
của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành (khoản 2 Điều 73 Bộ luật
Hình sự năm 2015).
– Xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71): được áp dụng đối với người bị kết án
về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm
chiến tranh khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết
thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện:
+ Tòa án quyết định xóa án tích căn cứ vào tính chất tội phạm đã thực hiện, thái độ
chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.
+ Thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án được xác định là từ khi chấp
hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong
hình phạt bổ sung và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn: (a) 01 năm nếu
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; (b) 03
năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; (c) 05 năm nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến
15 năm, (d) 07 năm nếu bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã
được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú,
tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn trên thì thời hạn
được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Đối với trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới
được xin xóa án tích; bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.
– Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72): người bị kết án có những biểu hiện tiến
bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền
địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người
đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2
Điều 71 của Bộ luật hình sự 2015.
Download