Uploaded by nguyennhom9

Nhà nước

advertisement
NỘI DUNG TRÌNH BÀY
KHÁI NIỆM
VỀ POLIS
NỀN DÂN
CHỦ ATHEN
NỀN CỘNG
HÒA LA MÃ
POLIS
KHÁI NIỆM POLIS
NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN POLIS
ĐẶC ĐIỂM CỦA POLIS
NHỮNG POLIS HIỆN ĐẠI
KHÁI NIỆM VỀ POLIS
• Tiếng Hy Lạp gọi là polis, tiếng Pháp viết là ville-état, tiếng Anh là city-state, ở Việt Nam, đã được
dịch là quốc gia-thành thị, thành bang, thị quốc;
• Ngoài ra theo cách dịch khác, poleis nghĩa là tự quản.
• Là một thực thể độc lập hoặc tự trị, không do một chính quyền địa phương khác quản lý cho dù lãnh
thổ của chính quyền đó bao gồm thực thể này và có thể là vùng lãnh thổ bao quanh nó. Là một hệ
thống chính trị bao gồm một thành phố độc lập có chủ quyền đối với lãnh thổ tiếp giáp và đóng vai
trò là trung tâm và nhà lãnh đạo đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa.
• Nó cũng có thể biểu thị một cơ quan công dân. Trong sử học hiện đại, polis thường được sử dụng để
chỉ các thành bang Hy Lạp cổ đại , chẳng hạn như Athens Cổ điển và các thành phố cùng thời với nó,
và do đó thường được dịch là "thành bang". Các thành phố này bao gồm một trung tâm thành phố
kiên cố được xây dựng trên một đô thị hoặc bến cảng và các vùng đất xung quanh được kiểm soát.
• Hạt nhân cơ bản của mỗi quốc gia thành bang là một thành thị với tư cách vừa là trung tâm chính trị,
vừa là trung tâm kinh tế công thương nghiệp, có kết hợp và mở rộng với các vùng phụ cận.
• Các polis thường sẽ có những bức tường thành phố tách các
trung tâm đô thị từ môi trường xung quanh nông nghiệp. Một
polis có thể có một Acropolis ở trung tâm, và người ta thường
mong chờ để tìm một ngôi đền, chia sẻ không gian dân sự (thị
trường, miếu, phòng tắm, sân, vv) trong polis trung tâm.
• Các công dân, là những cư dân bản địa, được ghi lại của thành
phố với quyền bỏ phiếu, đề xuất luật, phát biểu công khai về
các vấn đề công dân nhưng có nghĩa vụ bảo vệ thành phố của
họ, nộp thuế, v.v.
Đã có hơn 1.000 thành bang ở Hy Lạp cổ đại, có thể kể đến chính là Athína
(Athens), Spárti (Sparta), Kórinthos (Corinth), Thíva (Thebes), Siracusa
(Syracuse), Égina (Aegina), Ródos ( Rhodes), Árgos, Erétria và Elis. Mỗi
thành phố-tiểu bang tự cai trị. Họ khác nhau rất nhiều về triết lý và sở thích
điều hành. Ví dụ, Sparta được cai trị bởi hai vị vua và một hội đồng các trưởng
lão (diarchy). Nó nhấn mạnh việc duy trì một quân đội mạnh, trong khi Athens
coi trọng giáo dục và nghệ thuật. Ở Athens, mọi công dân nam đều có quyền
bầu cử, vì vậy họ được cai trị bởi một nền dân chủ . Thay vì có một quân đội
mạnh, Athens duy trì lực lượng hải quân của họ.
•
NGUYÊN
NHÂN
XUẤT HIỆN
POLIS
• Nhà nước Hy Lạp xuất hiện trên cơ sở tan rã của xã hội
thị tộc và hầu như không có sự can thiệp của bạo lực từ
phía ngoài. Chế độ tư hữu được thiết lập và phát triển, sự
phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc, triệt để đã làm cho
xã hội thị tộc dần dần tan vỡ từng bước một.
• Do những đặc trưng riêng, điều kiện tự nhiên và xu thế
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế công thương nghiệp,
mậu dịch hàng hải của chính Hy Lạp. Trong những điều
kiện đó lại không bị các thế lực bên ngoài tấn công, can
thiệp, nên ngay từ đầu và trong suốt chiều dài lịch sử, yêu
cầu thống nhất các vùng đất Hy Lạp (vốn bị điều kiện địa
hình tự nhiên xé nhỏ) thành một quốc gia thống nhất
không được đặt ra một cách bức thiết.
• Địa hình ở Hy Lạp bị đứt gãy và nhiều đồi núi, gây khó khăn cho việc đi lại
từ vùng này sang vùng khác.
• Những rào cản địa lý này khiến các trung tâm dân cư tương đối cách biệt với
nhau. Biển thường là cách dễ nhất để di chuyển từ nơi này sang nơi khác.
Một lý do khác khiến các thành bang được hình thành, thay vì một chế độ
quân chủ tập trung, bao trùm , là tầng lớp quý tộc Hy Lạp cố gắng duy trì sự
độc lập của các thành bang của họ và không thể khuất phục được bất kỳ bạo
chúa tiềm tàng nào.
• Nhà nước ở Hy Lạp, về cơ bản, là những quốc gia thành bang, có sắc thái
riêng, có sự phát triển khá chênh lệch, và cũng có những vận mệnh lịch sử
khác nhau.
ĐẶC ĐIỂM CỦA POLIS
• Đặc điểm của thành phố ở Polis là có những bức tường bên ngoài
để bảo vệ, cũng như một không gian công cộng bao gồm các đền
thờ và các tòa nhà chính phủ. Các đền thờ và các tòa nhà chính phủ
thường được xây dựng trên đỉnh đồi, hoặc thành cổ. Một ví dụ còn
sót lại của một cấu trúc trung tâm của một đô thị cổ đại là Parthenon
nổi tiếng của Athens. Parthenon là một ngôi đền được xây dựng để
tôn vinh nữ thần Athena. Phần lớn dân số của Polis sống trong
thành phố, vì nó là trung tâm của thương mại, thương mại , văn hóa
và hoạt động chính trị.
ĐỀN PARTHENON
• Diện tích của một thành bang không lớn (lớn nhất cũng
không quá 8.000 km2) với một số lượng cư dân vừa phải
(khoảng từ 30-40 vạn người). Mặc dù nhỏ, hẹp về diện
tích, dân cư chưa đông, nhưng mỗi thành bang đều có
những đặc trưng của một Nhà nước hoàn chỉnh: có
đường biên giới lãnh thổ, có chính quyền, quân đội, luật
pháp, hệ thống kinh tế, đo lường, tiền tệ riêng và cũng có
những thần bảo hộ riêng. Mỗi thành bang có xu thế phát
triển kinh tế khác nhau và vận mệnh lịch sử cũng không
hoàn toàn giống nhau.
NHỮNG POLIS HIỆN ĐẠI
• Monaco LÀ một thành phố-nhà nước của Hy Lạp cổ đại.
• Công quốc Monaco và thành phố Monaco (mỗi thực thể có quyền lực cụ thể) quản
lý cùng một lãnh thổ. Ngày 28 tháng 6 năm 1919, Pháp và Monaco ký một hiệp
ước, theo đó chính sách của Monaco sẽ định hướng cho phù hợp với lợi ích chính
trị, quân sự và kinh tế của Pháp. Năm 1993, Monaco trở thành thành viên
của Liên Hợp Quốc với quyền bỏ phiếu đầy đủ. Năm 2002, Pháp và Monaco ký
hiệp ước mới nêu rõ rằng nếu Monaco không có người thừa kế làm chủ đất
nước thì công quốc này vẫn tồn tại với tư cách quốc gia độc lập thay vì trở về với
Pháp như điều khoản của hiệp ước cũ quy định. Tuy vậy, Pháp vẫn đảm trách
nhiệm vụ bảo vệ Monaco. Ngày 16 tháng 2 năm 2006, Monaco tiếp nhận đại sứ
Pháp đầu tiên.
• Singapore là một thành bang ở Đông Nam Á. Với 5,2 triệu dân sống và làm việc trong lãnh thổ có
diện tích chỉ khoảng 700 km², nước này là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao hàng
đầu thế giới, chỉ đứng sau Monaco. Trước thế kỷ 19, Singapore là một phần nhỏ bé của nhiều
vương quốc khác nhau, bao gồm các vương quốc Srivijaya, Majapahit, Malacca và Johor. Từ 1826
đến 1942, Singapore là thủ phủ Các khu định cư Eo biển do Anh thiết lập tại vùng eo biển Malacca.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore trở thành một thuộc địa lẻ loi sau khi hai thuộc địa còn
lại sáp nhập với nhau để thành lập Liên bang Mã Lai. Năm 1963, Singapore cùng Liên bang Mã
Lai, Sabah và Sarawak thành lập Malaysia. Tuy nhiên, do hàng loạt vấn đề nảy sinh mà Singapore
đã bị khai trừ khỏi liên bang vào năm 1965 và trở thành nước cộng hòa độc lập.
• Sau ngày độc lập, Singapore nhảy vọt về kinh tế và trở thành một trong "Bốn con rồng châu Á". Cả
hòn đảo có chức năng như một vùng đô thị. Bao quanh trung tâm thành phố là các đô thị vệ
tinh, công viên, hồ chứa nước và khu công nghiệp, tất cả kết nối lẫn nhau qua hệ thống đường giao
thông, đường cao tốc và tàu điện ngầm hiện đại. Singapore là nhà nước tập quyền và đơn nhất với
quốc hội độc viện. Nước này cũng duy trì một lực lượng vũ trang đáng kể và mạnh tay chi tiêu cho
quốc phòng. Singapore là thành viên của Liên Hợp Quốc, Khối thịnh vượng chung Anh và Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á.
• Cho đến năm 1870, thành phố Roma vẫn do Giáo hoàng kiểm soát như một
phần của Lãnh thổ Giáo hoàng. Khi Vua Vittorio Emanuele II của Ý chiếm
thành phố vào năm 1870, Giáo hoàng Piô IX từ chối công nhận Vương quốc
Ý vừa thành lập. Do Piô IX không thể đi đâu mà lại không công nhận quyền
hành của nhà vua nên ông và người kế vị đều tự tuyên bố xem mình là "Tù
nhân trong Vatican" nên không thể rời nội phi địa có diện tích 0,44 km² của
Giáo hoàng một khi đã lên ngôi.
• Thế bế tắc này được giải quyết vào năm 1929 nhờ Hiệp ước Latêranô giữa
Vua Vittorio Emanuele III của Ý và Giáo hoàng Piô XI, dưới sự thương
thuyết của nhà độc tài Benito Mussolini. Theo hiệp ước này, Vatican được
công nhận là một nhà nước độc lập có nguyên thủ là Giáo hoàng. Thành
Vatican có công dân riêng, có đoàn ngoại giao, có quốc kỳ và có tem thư.
Đây được xem là quốc gia nhỏ nhất thế giới.
NỀN DÂN CHỦ ATHEN
CẢI CÁCH CỦA SOLON
CẢI CÁCH CỦA CLISTHENES
NỀN DÂN CHỦ
ATHEN
CẢI CÁCH CỦA PERICLES
NHẬN XÉT
CẢI CÁCH
CỦA
SOLON
Về kinh tế, Solon ban hành sắc lệnh xoá bỏ
mọi nợ nần trong xã hội, nhổ hết những thẻ
cầm cố ruộng đất cắm khắp các cánh đồng,
cấm quí tộc chủ nô biến nông dân phá sản
thành nô lệ; công bố sắc lệnh thừa nhận quyền
tư hữu tài sản, quyền chuyển nhượng tài sản,
qui định mức chiếm hữu tối đa của một quí tộc
chủ nô và cho thực hiện cải cách về tiền tệ,
khuyến khích trồng nho, ôliu, sản xuất đồ gốm,
đẩy mạnh nội, ngoại thương.
CẢI CÁCH CỦA
CLISTHENES
Clisthennes sinh vào khoảng giữa thế kỷ VI TCN,
thuộc tầng lớp quí tộc chủ nô mới. Ông được bầu
làm chấp chính quan vào năm 509 TCN. Ông đi
theo con đường cải cách của Solon, tiếp tục củng
cố và phát triển nền dân chủ ở Athens. Trong thời
gian giữ chức chấp chính, Clisthennes đã tiến hành
cải cách (509-507 TCN) nhưng tập trung chủ yếu
trên lĩnh vực chính trị xã hội.
CẢI CÁCH
CỦA
PERICLES
• Pericles tăng cường quyền lực cho cơ quan
Đại hội Nhân dân/công dân. Trong Đại hội
Công dân, các thành viên đều có quyền thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng
của nhà nước. Qui định này tạo điều kiện cho
mọi công dân đều có thể tham gia giữ các chức
vụ trong bộ máy nhà nước. Ông cũng là người
đầu tiên tiến hành việc cấp lương cho nhân
viên cơ quan nhà nước và thực hiện một cách
rộng rãi chế độ phúc lợi xã hội cho công dân
nghèo gặp khó khăn như phát lương thực, cấp
tiền cho họ mua vé xem hát…
NHẬN XÉT
• Hy Lạp là dân tộc đầu tiên trên thế giới sáng tạo ra chính thể cộng hòa
(république), còn thị quốc Athens xây dựng nhà nước theo mô hình cộng
hòa, dân chủ và nó được hoàn thiện dần từ đầu thế kỷ VI đến nửa sau thế kỷ
V TCN. Chính thể này đã góp phần quan trọng cho Hy Lạp đạt được và trở
thành đỉnh cao văn minh vào thế kỷ V TCN.
• Tuy nhiên tính chất dân chủ của nhà nướcAthens cũng có nhiều hạn chế: Trước hết số
lượng công dânAthens chỉ chiếm khoảng 1/4 dân số (khoảng 90.000 dân tự do), còn
lại 3/4 dân số (khoảng 365.000 nô lệ, 45.000 kiều dân, phụ nữ, nam công dân
18 nhưng cha hoặc mẹ không phải là người Athens…) không được xem là
công dân, tức là bị gạt ra khỏi đời sống chính trị, xã hội, mặc dù họ là lực
lượng lao động, đóng thuế… quan trọng của Athens.
NỀN CỘNG HÒA LA MÃ
• Người La Mã thành lập một nước cộng hòa trong 509 BC Hình
thức bán đại diện của chính phủ trong thời kỳ Cộng hòa đã bao
gồm một cơ quan lập pháp lưỡng viện với: 1) một comitia , một
hội đồng các đại diện tạo thành công dân nam bầu, nhiều trong số
đó những người đàn ông quân đội; và 2) "Thượng viện và Nhân
dân Rome," bao gồm các đại diện được bầu với nhiệm kỳ một
năm. Hầu hết các thành viên Thượng viện là những người yêu
nước, thành viên của các tầng lớp thượng lưu. Trụ sở của chính
phủ là ở "thủ đô". Hình thức chính phủ của Đảng Cộng hòa tồn tại
trong 460 năm (509 đến 49 trước Công nguyên) cho đến khi
Julius Caesar từ bỏ nó.
QUYỀN
CÔNG DÂN
• Trên thực tế, việc những người bên ngoài thành phố giành
được quyền bầu cử không có nhiều ý nghĩa đối với tất cả
những người giàu có. Tư cách thành viên trong các hội đồng La
Mã không được thực hiện bằng bầu cử - đó là một nền dân chủ
trực tiếp. Việc bỏ phiếu được thực hiện bởi các bộ lạc, và tất cả
các công dân được chỉ định vào một bộ lạc cụ thể (thường dựa
trên sự giàu có), nơi mỗi bộ lạc bỏ phiếu là một. Tuy nhiên, để
bỏ phiếu, một người phải trực tiếp xuất hiện, điều mà chỉ những
người giàu có mới đủ khả năng làm. Nhưng quyền công dân
không phải là vĩnh cửu. Nếu cần thiết, quyền công dân của một
cá nhân có thể bị thu hồi; điều kiện sau này chủ yếu dành cho
tội phạm.
LUẬT PHÁP LA MÃ
• Luật La Mã bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống
hàng ngày. Họ quan tâm đến tội phạm và trừng phạt, quyền
sở hữu đất đai và tài sản, thương mại, các ngành công
nghiệp hàng hải và nông nghiệp, quyền công dân, tình dục
và mại dâm, nô lệ và hành hạ, chính trị, trách nhiệm pháp lý
và thiệt hại đối với tài sản, và gìn giữ hòa bình. Ngày nay
chúng ta có thể nghiên cứu những luật này nhờ vào các văn
bản luật cổ, văn học , giấy cói, bia ký và bia ký.
• Luật La Mã được thiết lập thông qua nhiều phương
thức khác nhau, chẳng hạn như thông qua các đạo
luật, quyết định của quan tòa, sắc lệnh của hoàng đế,
nghị định của thượng nghị viện, cuộc bỏ phiếu của hội
đồng, phiên họp toàn thể và sự cân nhắc của cố vấn
pháp lý chuyên nghiệp, do đó trở nên đa diện và đủ
linh hoạt để đối phó với sự thay đổi hoàn cảnh của thế
giới La Mã, từ nền chính trị cộng hòa đến đế
quốc, thương mại địa phương đến quốc gia , và chính
trị nhà nước đến liên bang.
• Có lẽ một trong những lợi ích lớn nhất của luật La Mã
và các hệ thống pháp luật của nó là, khi đế chế phát
triển và dân số ngày càng đa dạng hơn, luật pháp và
sự bảo vệ công dân của nó đóng vai trò như một lực
lượng ràng buộc đối với các cộng đồng và thúc đẩy kỳ
vọng rằng các quyền của công dân (và trong thời gian,
ngay cả quyền của một người không phải là công dân)
sẽ được duy trì và một hệ thống được thiết lập để
những sai trái có thể được giải quyết.
LUẬT LA MÃ
• MƯỜI HAI BẢNG LÀ MỘT DANH SÁCH CÁC LUẬT BAO GỒM
HẦU HẾT CÁC LĨNH VỰC CỦA LUẬT TƯ VÀ TẬP TRUNG VÀO
CÁC MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CÔNG DÂN CÁ NHÂN.
Download