Uploaded by Nguyen Hoang Minh

Tài-liệu-CNDVLS-USTH

advertisement
PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Học thuyết đó vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận
động phát triển xã hội, vạch ra phương pháp luận duy nhất khoa học để nhận
thức và cải tạo xã hội. Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chỉ đạo các
chính đảng và nhà nước vô sản xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương,
chính sách trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở khoa học của việc xác định con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay. Nghiên cứu nắm vững lý luận hình thái kinh tế - xã hội là vấn đề cơ
bản, quan trọng đối với cán bộ trung, cao cấp của Đảng ta.
1. Bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội
I.1. Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát
triển xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài
người. Đó là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần
nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá
trình sản xuất diễn ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Sự sản xuất xã hội bao gồm ba
phương diện không tách rời nhau là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và
sản xuất ra bản thân con người.
Ph.Ăngghen khẳng định: "… theo quan nịêm duy vật về lịch sử, nhân
tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất
ra đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế.
2
Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo ý nghĩa nhân tố kinh tế là nhân
tố quyết định duy nhất, thì người đó đã biến lời khằng định này thành một câu
trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa”1.
Các phương diện của sự sản xuất xã hội không tách rời nhau, không thể
thiếu phương diện nào. Mỗi phương diện có vị trí, vai trò khác nhau, trong đó
sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới
tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển
của con người.
Triết học Mác - Lênin khẳng định, vai trò của sản xuất vật chất là cơ sở,
nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người. Trước hết, sản xuất vật
chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người “nhằm duy trì
sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người
nói riêng. Theo Ph. Ăngghen: "Cái sự thật hiển nhiên mà cho mãi đến lúc đó
người ta vẫn bỏ quên mất, là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc,
nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước
khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học, v.v."2. Sản xuất vật chất là tiền
đề của mọi hoạt động lịch sử của con người. Hoạt động sản xuất vật chất là
cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó
hình thành nên các quan hệ xã hội khác. Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất
để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã đồng thời sáng tạo
ra toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự
phong phú và phức tạp của nó. Sản xuất vật chất đã tạo ra các điều kiện,
phương tiện bảo đảm cho hoạt động tinh thần của con người và duy trì, phát
triển phương thức sản xuất tinh thần của xã hội. Ph. Ăngghen chỉ rõ: "…
việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp ... tạo ra một cơ sở,
từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
1
2
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1997, t. 37, tr. 641
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 166
3
quyền, nghệ thụt và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người
ta"1.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người.
Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ,
nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo đức…Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản
quyết định nhất hình thành, phát triển phẩm chất xã hội của con người.
Chính vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định rằng, trên một ý nghĩa cao nhất, lao
động đã sáng tạo ra chính bản thân con người. Như vậy, nhờ lao động sản
xuất mà con người tách khỏi tự nhiên, hoà nhập với tự nhiên, cải tạo tự nhiên,
sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.
Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người là một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Do đó, để
giải thích mỗi hiện tượng của xã hội, phải xuất phát từ đời sống sản xuất,
từ nền sản xuất vật chất xã hội. Xét đến cùng, không thể dùng tinh thần để
giải thích đời sống tinh thần. Sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc
phòng, xét đến cùng phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất
xã hội. Phát triển kinh tế là cơ sở, nền tảng cho xây dựng quân đội.
Ph.Ăngghen khẳng định: "Không có gì lại phụ thuộc vào tiền đề kinh tế
hơn là chính ngay quân đội và hạm đội "2. “Toàn bộ việc tổ chức, phương
thức tác chiến và do đó thắng lợi hay thất bại của quân đội đều phụ thuộc
vào điều kiện vật chất, có nghĩa là điều kiện kinh tế”3.
1.2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách
thức nhất định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình,
đó là phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con người
thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của
xã hội loài người. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ đó mà người ta có thể
phân biệt được sự khác nhau của các thời đại kinh tế khác nhau. Thời đại đồ
đá, đồ đồng, đồ sắt, văn minh công nghiệp, văn minh tin học. C. Mác khẳng
1
2
3
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 50.
Ph. Ăngghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nxb QĐND. H. 1982, tập 1, tr. 20
Ph. Ăngghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nxb QĐND. H. 1982, tập 1, tr. 27
4
định: “ Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái
gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”1.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một
trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ “quan hệ song trùng" của nền sản xuất
vật chất của xã hội: quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con
người với nhau.
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động có
kinh nghiệm, kỹ năng và tri thức nhất định với tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động, tạo ra sức sản xuất và năng lực chinh phục tự nhiên của
con người. Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa lao động sống
với lao động vật hóa. Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế vật
chất giữa người với người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan hệ về sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với
nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Các mặt trong quan hệ sản
xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất
và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách
khách quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã
hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương
thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng
sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lương sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất
của sự vận động và phát triển xã hội.
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến
đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản
1
C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t. 23, tr. 269
5
xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển;
quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất
vận động, phát triển không ngừng (cả tính chất và trình độ) sẽ mâu thuẫn với
tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là
“hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành
“xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người bằng
năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự
phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao
hơn. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm
cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản
xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Lịch sử xã hội loài người phát triển từ phương thức sản xuất cộng
sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức
sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát
triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực
lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao
động. Muốn xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất
mới phải căn cứ từ tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên
ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh
tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí. Nhận thức đúng đắn quy
luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự
đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta.
1.3 . Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội
6
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội đó. Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản
xuất có vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị đặc
trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình
thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng
bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… cùng những thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác Các
yếu tố về quan điểm, tư tưởng và thiết chế xã hội cùng với những quan hệ
nội tại của chúng hợp thành kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có
quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ
tầng. Thực chất sự hình thành, vận động và phát triển của các quan điểm, tư
tưởng cùng với những thể chế chính trị xã hội tương ứng, phụ thuộc vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất các quan hệ kinh tế.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính
tất yếu kinh tế, quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội. Cơ sở hạ tầng quyết
định sự ra đời (nguồn gốc) của kiến trúc thượng tầng; quyết định cơ cấu của
kiến trúc thượng tầng; quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng; quyết
định sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng
quyết định. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối. Ý thức, tinh
7
thần khi ra đời, tồn tại có quy luật vận động nội tại của nó. Vai trò của kiến
trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể chế.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra
nó; ngăn chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ;
định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng.
Thực chất vai trò kiến trúc thượng tầng là bảo vệ duy trì, củng cố lợi ích kinh
tế của giai cấp thống trị xã hội.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng,
trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh
mẽ đối với kinh tế. Quan hệ kinh tế quyết định địa vị kinh tế của các giai
cấp khác nhau. Giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị về chính trị. Lợi ích
kinh tế, xét đến cùng là nguyên nhân của những hành động chính trị. Tính tất
yếu kinh tế sẽ quyết định tư tưởng chính trị và tổ chức chính trị tương ứng.
Sự vận động biến đổi của các quan hệ kinh tế sẽ quyết định sự thay đổi ít
nhiều nhanh chóng của tổ chức chính trị- xã hội. Giai cấp nào thống trị chính
trị, phải hoàn thành nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực kinh tế. Mặt khác,
giai cấp thống trị xã hội phải có lập trường chính trị, tư tưởng chính trị đúng
mới hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo trong lĩnh vực kinh tế. Mọi biến đổi trong
chế độ kinh tế phải thông qua kiến trúc thượng tầng về chính trị, thông qua
đường lối, quan điểm của đảng cầm quyền, của giai cấp thống trị, chính sách,
pháp luật của nhà nước. Lợi ích trọng yếu của giai cấp thống trị chỉ được
thoả mãn bằng cuộc cách mạng về chính trị (nắm được quyền lực chính trị là
điều kiện tiên quyết cho thực thi quyền lực kinh tế). Sự tác động của kiến
trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, trước hết và chủ yếu thông qua
đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy, V.I. Lênin viết:
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế ... Chính trị không thể không
chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế "1.
1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1977, t. 42, tr. 349
8
Trong nhận thức và thực tiễn nếu tách rời hoặc tuyệt đối hoá một yếu
tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Tuyệt đối hoá kinh tế, hạ thấp
hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường.
Trong thực tiễn sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương, pháp luật và
không tránh khỏi thất bại. Nếu tuyết đối hoá về chính trị, hạ thấp hoặc phủ
định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan,
đốt cháy giai đoạn và tất yếu cũng không tránh khỏi thất bại. Quân đội là một
bộ phận của kiến trúc thượng tầng về chính trị, có vai trò đặc biệt quan trọng,
là một cột trụ của chế độ xã hội chủ nghĩa, có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà
nước, bảo vệ hệ tư tưởng Mác - Lênin giữ vững ổn định chính trị. Quân đội
góp phần xây dựng kinh tế các doanh nghiệp quân đội góp phần giữ vững vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Phạm trù hình thái kinh tế
xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm
ba yếu tố cơ bản, phổ biến là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết
định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất là
quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội,
đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã
hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của xã hội.
9
Ba yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tác động qua lại một cách biện chứng, hình thành sự vận động tổng hợp
của hai quy luật cơ bản: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Sự vận động, phát triển của
xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là sự phát
triển của công cụ sản xuất, của về tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng của
người lao động. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo khả năng,
điều kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là yêu cầu khách quan của nền sản xuất xã hội. Khi lực lượng
sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát triển về chất của quan hệ sản xuất, tất
yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng
xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản (nhanh, chậm,
ít, nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái kinh tế xã hội cũ mất
đi, hình thái kinh tế xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy lịch sử xã hội
loài người là một tiến trình lịch sử tự nhiên nối tiếp nhau từ thấp đến cao của
các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thống nhất giữa quy luật
chung cơ bản phổ biến với quy luật đặc thù và quy luật riêng của lịch sử xã
hội. C. Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.
Hình thái kinh tế xã hội cộng chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan
của lịch sử xã hội. Phát triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội
loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang phát triển cuối cùng
của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư
bản đã quyết định sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Những
tiền đề vật chất cho sự vận động, phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong
lòng xã hội tư bản. Đó là lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội
1
C. .Mác và Ph Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1993, t. 23, tr. 21
10
hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng, đã phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phải thông qua
đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Xu hướng chung của sự vận động , phát triển lịch sử xã hội, loài
người là do sự chi phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung
với cái đặc thù và cái riêng), là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgíc
của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kế tiếp nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là con đường tất yếu của tiến bộ lịch
sử. Mặt khác, sự phát triển của xã hội loài người còn mang tính lịch sử. Các
hình thái kinh tế - xã hội như những trạng thái khác nhau về chất trong tiến
trình lịch sử (với các tiêu chí về sự phát triển của lực lượng sản xuất, kiểu
quan hệ sản xuất, kiểu kiến trúc thượng tầng). Sự phát triển phong phú,
nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế- xã hội cụ thể của các
giai đoạn xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước
quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua
những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.. V.I.Lênin viết: “Tính quy luật
chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại
còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm về hình thức
hoặc về trật tự của sự phát triển đó”1. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là
kết quả của sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội có giá trị khoa học bền vững và ý
nghĩa cách mạng. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc
cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung
của quan niệm duy vật về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm duy tâm, phi lịch sử
về xã hội trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương
pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội. Lý luận hình
thái kinh tế xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các chế
độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước
đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Đồng thời, chỉ ra động lực phát triển của
1
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1974, t. 45, tr. 431.
11
lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên
thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn
sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận
thức và tác động cả ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hoá một
yếu tố nào cũng sai lầm, xét đến cùng là bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển
lực lượng sản xuất.
Đây là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa học trong quán triệt quan
điểm, đường lối của Đảng ta. Mô hình, mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta
được xác định với các tiêu chí về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến
trúc thượng tầng. Đồng thời, xác định các phương hướng xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác
định con đường phát triển của nước ta, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính là sự lựa chọn duy nhất đúng
đắn, có khả năng và điều kiện để thực hiện. Đây cũng là cơ sở lí luận,
khoa học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái
về sự phát triển xã hội. Phê phán thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ đã tuyệt đối
hóa yếu tố kinh tế - kỹ thuật, xoá nhoà sự khác nhau về bản chất của các
chế độ xã hội nhằm chứng minh cho sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ tư
bản. Phê phán quan điểm tuyệt đối hoá cách tiếp cận xã hội bằng các nền
văn minh. Alvin Tôpplơ đã chia lịch sử ra thành ba "làn sóng" tức ba nền
văn minh lần lượt kế tiếp nhau: nông nghiệp, công nghiệp và sau công
nghiệp (còn gọi là văn minh tin học, văn minh trí tuệ), tức là tuyệt đối
hoá yếu tố lực lượng sản xuất, xem nhẹ yếu tố quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Cách tiếp cận nền văn minh có giá trị nhất định nhưng
không thấy được nguồn gốc, động lực của sự phát triển lịch sử xã hội.
Ngày nay, thực tiễn xã hội và sự phát triển của nhận thức khoa học đã bổ
sung, phát triển mới các quan niệm lịch sử xã hội, song lí luận hình thái
kinh tế- xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, là quan niệm khoa học và cách
12
mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, là cơ sở, nền
tảng lí luận cho chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tính tất yếu, khả năng và điều kiện của con đường phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tính tất yếu của con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã và đang bị chủ nghĩa cơ hội, xét
lại tìm mọi cách để bác bỏ. Các luận điểm sai trái ấy được thể hiện trong các
học thuyết “sự tận cùng của thế giới”, “ngõ cụt của lịch sử”, “chủ nghĩa xã
hội đẻ non”.. Plêkhanốp đã từng chỉ trích Đảng Bônsêvích do V.I. Lênin lãnh
đạo là chính quyền nước Nga chưa có sự chuẩn bị tốt cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, do vậy có thể đẩy xã hội tới “con đường tai hoạ lịch sử lớn
nhất”. Causky đã từng công kích xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
chẳng khác nào” một phụ nữ mang thai”, tìm mọi cách để” rút ngắn thời gian
mang thai dẫn đến đẻ non”. Một chủ nghĩa xã hội như vậy chẳng khác nào
một đứa trẻ đẻ non và thông thường không sống nổi.
Hiện nay, họ cho rằng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
sụp đổ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản còn khả năng phát triển, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa chưa lỗi thời, lạc hậu, phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa chưa tỏ rõ tính tiên tiến của nó và điều kiện chủ quan của chúng ta
chưa sẵn sàng, rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không phù hợp
với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, không đủ điều kiện vật
chất, văn hoá cần thiết cho sự phát triển..
Ở Việt Nam, những người theo quan điểm cơ hội, xét lại cho rằng quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá sớm và sai, do đó phải “quay lại chủ
nghĩa tư bản” như hiện nay ở Liên Xô và các nước Đông Âu “đang quá độ từ
chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa tư bản”! Quá độ lên chủ nghĩa ở Việt Nam không
phải là tất yếu, không có khả năng và chưa sẵn sàng các điều kiện để thực hiện .
Một dạng luận điểm khác, họ lấy căn cứ từ những tư tưởng của MácĂng ghen, song họ đã thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể về vấn đề này, rơi vào
13
quan điểm duy vật tầm thường, máy móc, siêu hình. Họ cho rằng, cứ để
nước ta phát triển chủ nghĩa tư bản, rồi do tiến trình lịch sử tự nhiên sẽ đưa
nước ta phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, hiện nay nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân tộc muốn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phải có đủ những điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan. Muốn thực hiện thành công quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trước hết trên thế giới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa đã ra đời và tỏ rõ sự ưu việt trong thực tế; chủ nghĩa tư bản phải bộc lộ
sự hạn chế, lỗi thời, phản động; phải có sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần
của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước. Cùng với điều kiện khách quan, các
quốc gia, dân tộc phải có đủ nhân tố chủ quan như vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản; đất nước đã sẵn sàng những yếu tố nội lực để thực hiện sự quá độ
lên chủ nghĩa xã hội…Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin để
xem xét tính tất yếu và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay, đòi hỏi phải tính đến cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của
nước ta trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới hiện nay.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử
Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát
triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới, cả sự phát triển “bỏ qua”
một hay vài hình thái kinh tế xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
Toàn bộ tiến trình lịch sử loài người vận động, phát triển theo một lôgíc
khách quan. Do sự chi phối của các quy luật khách quan, trước hết là các quy
luật cơ bản, xét đến cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất, lịch sử xã
hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao. Trong tiến trình lịch sử, các hình thái kinh tế - xã hội như
những trạng thái khác nhau về chất với các tiêu chí có thể xác định được về
sự phát triển của lực lượng sản xuất, kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng và kiểu
kiến trúc thượng tầng tiêu biểu cho xã hội đó.
14
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, của các giai
đoạn lịch sử xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể mang tính phong phú,
nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp. Sự phát triển của xã hội loài người trong lịch
sử bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí những bước thụt lùi lớn; bao
gồm cả khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định. Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa
lôgíc và lịch sử, giữa phát triển tuần tự và phát triển “bỏ qua”. Việt Nam
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua”
một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua
tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có. Nhưng do đặc
điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có
những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào
đó.
Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện
những trung tâm phát triển cao hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những
vùng, những quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp, thậm chí rất thấp.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, thời cổ đại đã từng xuất hiện và tồn tại những trung
tâm phát triển cao như Trung Quốc, Ấn Độ, La Mã. Giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản đã xuất hiện các nước Tây Âu với trình độ phát triển kinh tế – xã
hội cao như Anh, Pháp, Đức. Hiện nay, Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu là ba trung tâm
tư bản chủ nghĩa phát triển cao của thế giới. Bên cạnh đó có các vùng, các khu
vực vẫn ở trình độ phát triển thấp như các nước châu Phi, Mỹlatinh… Do sự
giao lưu, hợp tác quốc tế mà giữa các trung tâm, các khu vực, các quốc gia
xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử. Quy
luật kế thừa sự phát triển lịch sử luôn luôn cho phép các quốc gia, dân tộc có
thể bỏ qua các giai đoạn phát triển không cần thiết để vươn tới trình độ tiên
15
tiến của nhân loại. Tuy nhiên, việc phát triển bỏ qua một hay vài hình thái
kinh tế xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan của thời đại, còn phụ
thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nhân loại đã chứng kiến trong lịch sử, một số nước như: Nga, Ba Lan,
Đức… đã phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên chế độ phong kiến
không qua chế độ chiếm hữu nô lệ; Mỹ, Canađa…phát triển từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ tư bản chủ nghĩa không qua chế độ phong kiến; Trung
Quốc quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Lịch
sử cũng đã chứng minh Việt Nam từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ phát triển lên
chế độ phong kiến không qua phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ… Như vậy, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp
với quy luật phát triển rút ngắn trong lịch sử loài người. Bản chất của sự phát
triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh
loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là do tính tất yếu về chính trị và kinh tế.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam do nhân dân lao động tiến hành, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản trải qua các giai đoạn giành độc lập dân tộc và tiến
lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của chính lịch sử. Đầu thế kỷ XX, cách
mạng Việt Nam khủng hoảng đường lối, thiếu một đảng cách mạng lãnh đạo.
Lịch sử đã giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng là do chính thực tiễn cách mạng lựa chọn sau khi các phong trào cách
mạng theo tư tưởng phong kiến và tư sản đã thất bại. Để giải quyết mâu thuẫn
dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam gương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến
nay, cách mạng Việt Nam trải qua các giai đoạn giành độc lập dân tộc, tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với xu thế của thời đại. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi, tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng
chiến chống Mỹ thắng lợi là thành quả cách mạng của nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau thắng lợi của cách mạng giải
16
phóng dân tộc thì lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là tất yếu. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội thuộc về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Thành quả cách mạng không thể trao cho giai cấp tư sản và
các lực lượng phản động, bóc lột khác lái đất nước theo con đường tư bản chủ
nghĩa để nhân dân lao động trở lại thân phận những người bị áp bức bóc lột.
Như vậy, ở Việt Nam tính tất yếu chính trị giữ vị trí hàng đầu trong việc lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Xét về tiền đề kinh tế vật chất thì ở Việt Nam tiền đề đó đang trong
quá trình phát triển. Những cơ sở kinh tế, kỹ thuật và tài nguyên quốc gia
chúng ta đã bước đầu có được và giành được – là thành quả của nhân dân
lao động trải qua các cuộc đấu tranh cách mạng chống các thế lực xâm lược
Pháp, Mỹ và tay sai. Đó chính là tiền đề tất yếu của việc xây dựng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Những cơ sở kinh tế – xã hội đó còn
do chúng ta xây dựng được trong quá trình xây dựng đất nước từ trước đến
nay, có sự giúp đỡ của các nước anh em. Đó còn là thành quả của công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, cơ sở kinh tế
kỹ thuật nước ta đang trong quá trình phát triển, gắn với yếu tố thời đại. Đây
là tiền đề kinh tế - vật chất cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
không phải máy móc chờ đợi phát triển tư bản chủ nghĩa, càng không thể lặp
lại con đường tích luỹ nguyên thuỷ đầy máu và tội ác của chủ nghĩa tư bản.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bảo
đảm tốt nhất cho độc lập dân tộc thật sự ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử của Việt Nam hiện nay.
Nước ta thuộc nhóm nước kém phát triển của thế giới, đang xây dựng
chủ nghĩa xã hội, yêu cầu giữ vững độc lập dân tộc đặt ra gay gắt, bao gồm
cả giữ vững chủ quyền quốc gia, chủ quyền kinh tế, chính trị và văn hóa.
Thực tiễn chứng minh rằng, chỉ có lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa mới đảm
bảo cho ta đủ sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường quốc tế, hội nhập kinh tế quốc
tế; đủ sức mở cửa làm ăn với chủ nghĩa tư bản; đủ sức giải quyết các vấn đề xã
hội, giải quyết các “chấn động” kinh tế - xã hội; đủ sức động viên vật chất - tinh
thần để bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay. Độc lập dân tộc là cơ sở để
17
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội là điều
kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc thật sự ở Việt Nam.
2.2. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thời đại ngày nay mở ra khả năng khách quan cho các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra thời
đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
toàn thế giới, mở ra khả năng khách quan cho các dân tộc bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa đã xuất hiện và tỏ rõ tính ưu việt trên thực tế. Đó là
một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, dần dần tiến đến xóa bỏ hoàn
toàn áp bức, bóc lột vì tự do, hạnh phúc của con người. Thực tiễn cho
thấy, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đã có tốc độ phát triển
kinh tế xã hội nhanh. Liên Xô đã tiến hành công nghiệp hóa trong một
thời gian ngắn, Trung Quốc cải cách phát triển với tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm rất cao. Chế độ xã hội chủ nghĩa của Liên Xô đã góp
phần quan trọng trong việc đẩy lùi chiến tranh thế giới, đánh bại chủ
nghĩa phát - xít. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã từng là trụ cột của
phong trào độc lập dân tộc, thành trì của hoà bình thế giới. Hiện nay,
mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bị tan vỡ nhưng chủ nghĩa xã
hội vẫn là mục tiêu lý tưởng phấn đấu của hơn một tỷ người trên hành
tinh. Qua khủng hoảng, thoái trào phong trào xã hội chủ nghĩa đang nhận
thức lại cả lý luận và thực tiễn, tiến hành đổi mới cải cách, phát triển phù
hợp với xu thế của tiến bộ xã hội. Bước vào thế kỷ XXI, chủ nghĩa xã hội
thế giới đang có dấu hiệu phục hồi dần và phát triển, tuy chậm chạp và
rất khó khăn. Những thành tựu quan trọng trong cải cách, đổi mới của
các nước xã hội chủ nghĩa chứng tỏ chủ nghĩa xã hội có sức sống nội tại
của một chế độ xã hội hợp quy luật khách quan, hợp lợi ích, nguyện vọng
của quần chúng nhân dân.
18
Chủ nghĩa tư bản tuy lợi dụng được những thành quả của khoa học công
nghệ hiện đại, “điều chỉnh” các chính sách xã hội, “thích nghi” và còn “phát
triển” nhưng không hề thay đổi bản chất kinh tế và chính trị, không thể khắc
phục được những mâu thuẫn nội tại. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa lao động và bóc
lột, giữa tính chất xã hội hoá rất cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đã và đang tạo ra sự phân cực của thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ lúc xuất hiện cho đến nay luôn luôn gắn
liền với chiến tranh. Chủ nghĩa tư bản không thể là đỉnh cao sự phát triển lịch sử
xã hội, càng không phải là tương lai của loài người, nhất định bị thay thế bởi hình
thái kinh tế xã hội tiến bộ hơn - hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá tạo ra
khả năng khách quan cho các dân tộc đang phát triển và Việt Nam có thể
“phát triển rút ngắn”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của
nền kinh tế tri thức, các dân tộc đang đứng trước cả thời cơ và thách thức.Sự
phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, của nền kinh tế tri thức là phù
hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội vì hạnh phúc con
người. Thành tựu của trí tuệ loài người về khoa học và công nghệ hiện đại,
về kinh tế tri thức phải được sử dụng để phục vụ lợi ích chung của con
người. Trong điều kiện toàn cầu hoá, chúng ta có thể chủ động hội nhập, tận
dụng những thành tựu đó để đẩy nhanh, rút ngắn sự phát triển.
Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của
thé giới, thông qua giao lưu hợp tác quốc tế có thể tận dụng lợi thế để
phát triển.
Việt Nam có lợi thế về địa - kinh tế, địa - chính trị, nằm trong một khu
vực phát triển năng động nhất thế giới là vành đai Châu Á- Thái Bình Dương, và
khu vực Đông - Nam Á. Đây là một khu vực có nhiều cường quốc kinh tế, có
nhiều nước công nghiệp mới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, giao lưu, hợp tác quốc tế, chúng ta có
19
thể tận dụng lợi thế so sánh như về vị trí địa lý, dân số, lao động, tài nguyên, sự
ổn định chính trị để đi tắt, đón đầu và phát triển.
2.3. Điều kiện của sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Muốn thực hiện thắng lợi sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, biến khả năng đó thành hiện thực
phải có đủ điều kiện, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa điều kiện bên
trong và điều kiện bên ngoài.
Các điều kiện bên trong chủ yếu là có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân; có tiềm năng to lớn của đất nước và con người Việt Nam...
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản là nhân tố hàng đầu bảo đảm
cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
đã được chứng minh, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mặc dù
còn có những sai lầm khuyết điểm, nhưng những sai lầm khuyết điểm đó của
Đảng Cộng sản Việt Nam không phải do chủ nghĩa cơ hội, xét lại mà do năng
lực của Đảng, do thiếu kinh nghiệm trong quản lý kinh tế xã hội. Hiện nay,
Đảng đang tự chỉnh đốn để có đủ bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực thực
tiễn đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của sự nghiệp cách mạng. Sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới đất nước đã khẳng định đường lối đúng
đắn, sáng tạo của Đảng. Hiện nay, không thể có lực lượng chính trị nào đủ sức
gánh vác sứ mệnh lãnh đạo công cuộc đổi mới ở nước ta. Đảng là nhân tố chủ
quan năng động sáng tạo ở tầm chiến lược có thể biến khả năng khách quan
thành hiện thực. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng mà khơi dậy, quy tụ và nhân
lên sức mạnh nội lực của đất nước, tranh thủ được sức mạnh ngoại lực, liên kết
và giải quyết tốt mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực. Điều đó đòi hỏi Đảng ta
phải có đủ bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn mới có thể
hoàn thành trọng trách của mình.
20
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì
dân là công cụ chính trị mạnh mẽ nhất của nhân dân ta đang chứng minh trên
thực tế hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế xã hội. Vấn đề là phải khắc phục
những yếu kém của bộ máy nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực, đồng thời phải tiến hành cải cách nền hành chính quốc gia và xây dựng
được đội ngũ cán bộ, công chức ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
Đất nước và con người Việt Nam có tiềm năng to lớn về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lý, tài nguyên, quy mô dân số, nguồn nhân lực, phẩm chất
con người và sự ổn định chính trị xã hội… Đó là điều kiện bên trong thuận
lợi để có thể phát huy, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách
thức đưa đất nước phát triển.
Muốn thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, còn phải có
những điều kiện bên ngoài quan trọng, không thể thiếu được. Trước đây,
cách mạng Việt Nam có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa cả về tính
thần và vật chất. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, các nước xã
hội chủ nghĩa đã giúp đỡ về vật chất, kỹ thuật, về vũ khí trang bị, phương
tiện quân sự, về lương thực, thuốc men…và cả đào tạo nguồn nhân lực. Đây
là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
các nước anh em đã giúp đỡ về kinh tế kỹ thuật, kinh nghiệm và đào tạo con
người. Sự giúp đỡ đó là vô cùng quan trọng, không thể thiếu được trong điều
kiện cách mạng Việt Nam ở giai đoạn đầu đang gặp nhiều khó khăn. Ngày
nay, sự giúp đỡ đó trên nhiều mặt đã và đang tiếp tục phát huy hiệu quả. Đây
là một điều kiện rất quan trọng để nước ta có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong lúc tính tất yếu về chính trị có đủ nhưng tính tất yếu về kinh tế vật chất chưa đầy đủ.
Trong điều kiện quốc tế mới, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn
nữa, các quan hệ quốc tế của Việt Nam đã được đa dạng hoá, đa phương hoá.
Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam tham gia cơ chế thị trường quốc tế, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, nước ta có điều kiện hơn bao giờ hết
để mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu quốc tế. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã,
21
“bao cấp quốc tế mất”, trong cơ chế thị trường quốc tế mới đòi hỏi phải hợp tác,
làm ăn có hiệu quả hơn, phải sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất kỹ
thuật. Chúng ta đã chuyển hướng từ tư tưởng trông chờ ỷ lại “bao cấp quốc tế”
sang chiến lược dựa vào sức mình, dựa vào nguồn lực bên trong là chính.
Trên thế giới hiện nay, thế mạnh về khoa học và công nghệ hiện đại
đang nằm trong tay các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất. Do đó, đòi hỏi
chúng ta phải mở cửa, hợp tác, làm ăn trên cơ sở có nguyên tắc với các nước
có chế độ chính trị xã hội khác nhau mới có thể rút ngắn khoảng cách lạc hậu
về kinh tế, khoa học công nghệ. Phải phân biệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa
đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Loài người đang đứng trước những vấn đề toàn cầu của thời đại như
bảo vệ hoà bình thế giới, chống chạy đua vũ trang, chống khủng bố, bảo vệ
môi trường sống, chống cạn kiệt tài nguyên, chống đói nghèo, chống bệnh
tật, giải quyết vấn đề bùng nổ dân số, vấn đề phân cực, vấn đề nợ nần,
chống phân biệt chủng tộc, vấn đề bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
độc lập chủ quyền quốc gia, bảo vệ chủ quyền kinh tế, chính trị, văn hoá,
chống cường quyền, … Đòi hỏi phải hợp tác giữa các lực lượng, các quốc
gia mới có thể giải quyết được.
Hiện nay, nước ta muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa phải kết hợp tốt điều kiện bên trong với điều kiện bên
ngoài, kết hợp nội lực với ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, ngoại
lực là quan trọng không thể thiếu được. Trong các yếu tố của nội lực thì
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định đến thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, Đảng phải tiếp tục đường lối đổi mới
đúng đắn, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Thực chất và định hướng giải pháp của việc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực chất của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
22
Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”1.
Trước hết, đó là bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
thống trị. Trong phát triển kinh tế, một mặt phải thừa nhận sự tồn tại khách
quan của nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, đặc trưng
cho các quan hệ sản xuất khác nhau. Phải tạo điều kiện để các hình thức sở hữu
đó phát huy vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế . Mặt khác, từng bước
xác lập sự thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng cách làm cho
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo. Quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa là đặc trưng cho cơ sở hạ tầng xã hội mới. Quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa dưới nhiều hình thức, đang tồn tại và phát triển như những hình thức
“trung gian” “quá độ”, không thể xác lập sự thống trị. Có như vậy mới giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa còn là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, chúng ta tiếp thu những thành tựu về
văn hoá, khoa học, về những kinh nghiệm quản lý xã hội hiện đại, về kỹ
thuật tổ chức bộ máy nhà nước…nhưng quyết không xác lập sự thống trị của
giai cấp tư sản đối với nhà nước và xã hội, không chấp nhận chế độ đa
nguyên, đa đảng đối lập mà thực chất là tạo điều kiện để các thế lực chính trị
của giai cấp bóc lột phản động nắm chính quyền. Chúng ta từng bước củng
cố, tăng cường nhà nước kiểu mới trong đó quyền lực chính trị thuộc về nhân
dân lao động, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ậi biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 84
23
Tuy nhiên, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở nước ta không có nghĩa là phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản, mà là kế thừa
thành tựu nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa
học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Mặc dù dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa nhưng nhân loại đã đạt được những thành tựu nhất định về
phát triển kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, về khoa học công nghệ, về tổ
chức, quản lý nền sản xuất hiện đại, quản lý xã hội… Thông qua giao lưu,
hợp tác quốc tế, giải quyết các mối quan hệ lợi ích trên cơ sở giữ vững độc
lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể tận dụng được
những thành tựu tiến bộ của nhân loại để phát triển đất nước.
Bản chất của con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phát triển rút ngắn, cốt lõi là tăng
trưởng nhảy vọt lực lượng sản xuất, vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn phải
chống chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, đồng thời chống quan điểm
duy vật máy móc, duy vật kinh tế.
24
ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
VÀ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
1. Đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
1.1. Cục diện chính trị thế giới hiện nay
Cuối thể kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến
động hết sức to lớn, nhanh chóng và diễn biến phức tạp, khó lường làm
thay đổi cục diện chính trị thế giới. Bộ mặt của thế giới hiện nay được
biểu hiện ở nhiều đặc điểm mới, phức tạp.
Một là, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái trào;
chủ nghĩa tư bản đang tạm thời thắng thế; phong trào cách mạng thế
giới đang gặp những khó khăn phức tạp.
Vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX, do phạm phải những sai lầm
chủ quan trong cải tổ, đổi mới, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
đã sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan vỡ. Chủ nghĩa tư bản do
tận dụng được những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, có sự
điều chỉnh, thích nghi và phát triển. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ đang tìm mọi cách để phản kích phong trào cách mạng thế giới,
hòng xoá bỏ những thành quả cách mạng, xoá bỏ các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại. Một trật tự mới của thế giới đang trong quá trình hình
thành phức tạp. Sự đối đầu giữa hai hệ thống xã hội không còn nữa.
Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi một bước, nhưng chiến tranh cục
bộ, chiến tranh khu vực, chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố…có xu hướng tăng lên phức tạp.
Hiện nay, một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang tiến hành cải cách,
đổi mới, quyết tâm giữ vững định hướng phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới đang trong quá
trình nhận thức lại cả lý luận và thực tiễn, có khả năng phục hồi và phát triển, tuy
25
chậm chạp và ở trong điều kiện rất khó khăn. Cục diện chính trị mới của thế giới
đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội trên thế giới hiện nay.
Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang
tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm thay đổi mọi mặt
đời sống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm thay đổi cơ cấu
kinh tế trong mỗi nước và trên cả phương diện quốc tế, đẩy nhanh quá trình
quốc tế hoá nền sản xuất xã hội, tạo nên sự thay đổi cơ cấu xã hội-giai cấp
trong các nước phát triển và trên phạm vi toàn thế giới.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, giai cấp công nhân có sự
thay đổi về cơ cấu. Bộ phận công nhân trí thức (công nhân với tay nghề đòi
hỏi tri thức khoa học – kỹ thuật cao), công nhân dịch vụ tăng nhanh, công
nhân áo xanh (công nhân sản xuất trong nhà máy) ngày càng giảm. Điều kiện
làm việc của công nhân được cải thiện hơn trước. Một bộ phận công nhân đã
có điều kiện tham gia công ty cổ phần, hợp tác xã công nhân, tham gia quản
lý quá trình sản xuất… Do tận dụng được những thành quả của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, giai cấp tư sản có sự điều chỉnh nhất định về
quan hệ sản xuất, đã tạo ra bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bản. Sự phát
triển đó được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế
thậm chí cả những cải cách nhất định về đời sống chính trị xã hội trong giới
hạn của thiết chế dân chủ tư sản.
Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, quá trình quốc tế hóa sản xuất
cũng đưa lại cho họ những cơ hội nhất định trên con đường phát triển như:
tận dụng những yếu tố thuận lợi để khai thác vốn; kỹ thuật; công nghệ; kinh
nghiệm quản lý nền sản xuất v.v.. Song, vốn là những nước có trình độ sản
xuất thấp, lực lượng sản xuất lạc hậu, trong cuộc cạnh tranh hết sức quyết
liệt với các nước phát triển hiện nay, những cơ hội đó hầu như không được
khai thác, mà trái lại, các nước này ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào chủ
nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc đã biến các nước này trở thành những bãi
thải công nghiệp, nơi đổ những kỹ thuật công nghệ đã cũ kỹ, lạc hậu, đồng
26
thời tìm đủ mọi mánh khóe để vơ vét ngày càng nhiều hơn sức người, sức
của của họ. Sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc làm cho họ đã nghèo ngày càng
nghèo hơn, hố ngăn cách giữa giầu, nghèo càng sâu thêm. Khi chủ nghĩa đế
quốc đi xâm chiếm thị trường, thúc đẩy tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu
tư toàn cầu, khoảng cách giữa nước giàu và nước nghèo, người giàu và người
nghèo càng xa hơn. Rõ ràng, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mâu thuẫn
găy gắt nhất nổi lên hiện nay đó là mâu thuẫn giữa độc lập dân tộc với chủ
nghĩa đế quốc. Vì vậy, các nước này không thể phát triển được nếu còn bị
phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc.
Ba là, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển, sự tác động và
phụ thuộc giữa các quốc gia dân tộc, giữa các khu vực và toàn thế giới
ngày càng chặt chẽ.
Xu thế toàn cầu hóa mang tính khách quan do sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất xã hội đem lại. Thực tế cho thấy, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia đã hình thành từ lâu, song lúc đầu còn hạn hẹp trong khuôn khổ
một số quốc gia, hoặc một số lĩnh vực. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng chặt chẽ hơn, với
mức độ và trình độ cao hơn, với quy mô rộng hơn. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia trong giai đoạn hiện nay có những đặc điểm cơ bản: sự phụ thuộc
ấy bao hàm cả hai mặt vừa hợp tác, vừa đấu tranh; sự phụ thuộc lẫn nhau bao
hàm không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn về phương diện chính trị,văn
hoá, tư tưởng.
Bốn là, sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tác động của toàn
cầu hoá làm nẩy sinh những vấn đề toàn cầu liên quan đến sự tồn vong và
phát triển của nhân loại.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đã tạo ra những tiền đề
quan trọng cho con người cải tạo tự nhiên và xã hội, phục vụ cho cuộc sống
của mình. Những cũng chính từ hoạt động cải tạo đó làm nẩy sinh nhiều vấn
đề có liên quan đến sự tồn vong của nhân loại như: vấn đề chiến tranh hạt
nhân; sự bùng nổ dân số cùng với sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, thiên tai, bệnh tật. v.v.
27
Do tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, các nước công nghiệp có bước phát triển mạnh mẽ. Sự
gia tăng tác động của con người vào tự nhiên như: tình trạng khai thác rừng
một cách bừa bãi; không quan tâm đến việc xử lý các chất thải công
nghiệp… đã làm ô nhiễm môi trường sống, ảnh hưởng trầm trọng cho hệ
sinh thái bề mặt trái đất và bầu khí quyển. Cùng với vấn đề sinh thái, vấn đề
dân số cũng đang trở thành một vấn đề có tính thời sự cấp bách mang tính
toàn cầu. Bởi vì, vấn đề bùng nổ dân số trong những năm gần đây (nhất là ở
các nước chậm phát triển), trong khi đó sự phát triển của sản xuất, của thu
nhập quốc dân không đáp ứng kịp đã tác động không nhỏ đến chất lượng
sống của con người.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ chính là cơ sở quan trọng cho
con người, một mặt khắc phục được tình trạng mất cân bằng sinh thái, mặt khác
có thể làm gia tăng tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô
nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên đẫn đến mất cân bằng sinh thái. Nhu
cầu của sự tồn tại và phát triển bắt buộc các quốc gia phải có sự hợp tác với
nhau, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái mới có thể giải quyết được.
Trước những biến động đó của thế giới đã làm xuất hiện không ít quan
điểm cho rằng, thời đại ngày nay vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở
nên lỗi thời hoặc ít ra cũng bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Từ đó đi đến phủ
nhận tính chất của thời đại, phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân
và vai trò của đấu tranh giai cấp. Các thế lực thù địch lớn tiếng tuyên truyền
cho cái gọi là chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đã thay đổi bản chất; rằng
“chủ nghĩa tư bản đã vận động đến một hình thái kinh tế - xã hội mới không
còn là hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và cũng không phải là chủ
nghĩa xã hội”; “hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa tự ra đời không
cần đến đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội”...
1.2. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
Trong lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại, vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp đã được các nhà tư tưởng trước Mác phát hiện ra. Song, do hạn
28
chế về nhiều mặt, đặc biệt là hạn chế về lập trường giai cấp nên họ đã không
thể trả lời một cách khoa học về vấn đề này. Sai lầm cơ bản là ở chỗ, họ đã
lấy những tiêu chuẩn được lựa chọn một cách chủ quan để thay thế cho
những đặc trưng khách quan của giai cấp. Về thực chất, họ mưu toan làm mờ
đi sự phân biệt giai cấp và đối kháng giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích ích kỷ của
các giai cấp thống trị, bóc lột.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp là một phạm trù
lịch sử. Giai cấp gắn liền và là sản phẩm của nền sản xuất vật chất của xã
hội. C. Mác khẳng định rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với
những giai đoạn lịch sử nhất định của sản xuất…”1, khi sản xuất vật chất xã
hội tạo ra được những tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện ấy. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất làm xuất hiện "của dư" tạo ra khả năng phân chia xã hội
thành giai cấp. Nhưng nguyên nhân trực tiếp của sự hình thành các giai cấp
là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chừng nào và ở đâu còn
tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn có sự tồn tại của các
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Xã hội có giai cấp chỉ chấm dứt vai trò của nó
trong lịch sử khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoàn toàn bị xóa bỏ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không những đã vạch rõ cơ sở khách quan
của việc phân chia xã hội thành các giai cấp, mà đồng thời còn chỉ rõ thực
chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, thống trị và
bị thống trị, là tình trạng tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập
đoàn người khác do có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế-xã hội
nhất định. Sự đối kháng giữa những lợi ích cơ bản không thể điều hòa ấy
là nguyên nhân cơ bản của mọi xung đột xã hội từ khi lịch sử xã hội loài
người có sự phân chia thành các giai cấp cho đến nay. “Lịch sử tất cả các
xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ
cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị
áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh
không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ
1
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 28, tr. 662.
29
cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng
sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”1. Sự phát triển của nền
sản xuất xã hội tạo ra những tiền đề để xóa bỏ giai cấp.
Trên cơ sở vạch rõ tính tất yếu của việc phân chia xã hội thành giai
cấp và đấu tranh giai cấp, ngay từ những năm 50 của thế kỷ thứ XIX các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, trong xã hội tư bản, đấu
tranh giai cấp không những không biến mất, không dịu đi, mà trái lại, thời
đại tư bản chủ nghĩa càng làm cho đối kháng giai cấp sâu sắc hơn, đấu tranh
giai cấp quyết liệt hơn vì xã hội ngày càng phân chia thành “hai phe lớn” đối
địch nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Mặc dù thế giới có những biến động hết sức nhanh chóng và khó
lường, song tính chất của thời đại vẫn không hề thay đổi. Thời đại ngày nay
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới bắt đầu từ thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại, năm 1917. Thực tế lịch sử cho thấy, trong thời đại ngày nay,
những nguyên nhân của việc phân chia xã hội thành giai cấp và đấu tranh
giai cấp vẫn đang tồn tại. Điều đó được minh chứng bởi sự tồn tại, vận động
và phát triển của các mâu thuẫn cơ bản của nó. Những mâu thuẫn cơ bản của
thời đại không hề mất đi mà chúng được biểu hiện dưới những hình thái mới.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là mâu thuẫn cơ
bản lớn nhất của thời đại hiện nay. Thực chất là mâu thuẫn giữa chế độ xã
hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản
lãnh đạo với chế độ tư bản chủ nghĩa do giai cấp tư sản và chính đảng của nó
thống trị. Mâu thuẫn cơ bản này còn biểu hiện trên lĩnh vực tư tưởng là mâu
thuẫn giữa hai hệ tư tưởng đối địch – hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư
sản. Hiện nay, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tuy đã bị tan rã, nhưng các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang tiến hành cải cách đổi mới, đưa đất nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động đang tìm mọi cách để hòng thủ tiêu các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại, kể cả bằng diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, thậm chí bằng chiến
1
C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 596 – 597.
30
tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không những không mất đi, mà còn có
bước phát triển mới gay gắt hơn.
Trong xã hội tư bản hiện nay, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã
phát triển có tính chất xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt.
Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột. Trong điều kiện hiện
nay, sự bóc lột, thống trị của giai cấp tư sản cũng như sự bần cùng hoá của
giai cấp vô sản, sự phân cực giữa nhà tư bản và người công nhân đã có
những “điều chỉnh”, những hình thức mới, những biểu hiện phức tạp và tinh
vi hơn, nhưng bản chất của mâu thuẫn giai cấp là không hề thay đổi.
Mâu thuẫn giữa các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau
ngày càng gay gắt và biểu hiện những hình thức mới. Thực chất là mâu thuẫn
giữa những tập đoàn tư bản độc quyền đang tìm cách thống trị, bóc lột nhân
dân thế giới để thu lợi nhuận nhiều hơn và bảo vệ các lợi ích cơ bản của giai
cấp tư sản thống trị.
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát
triển ngày càng gay gắt. Sự phân cực giàu – nghèo giữa các nước này ngày
càng mở rộng. Sự bóc lột về kinh tế và sự áp đặt các giá trị, sự “xâm lăng”
về văn hoá ngày càng tinh vi và trắng trợn hơn. Thực chất là sự áp đặt ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản các nước phát triển đối với nhân dân lao động
các nước đang phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau.
Mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc với các dân tộc trên thế giới. Đây
là mâu thuẫn giữa một bên là các thế lực đế quốc phản động tìm mọi cách áp
đặt sự thống trị, nô dịch các dân tộc với một bên là các quốc gia dân tộc đang
tìm mọi cách để bảo vệ chủ quyền về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá.
Ngoài những mâu thuẫn cơ bản của thời đại còn có những mâu thuẫn
khác liên quan đến vận mệnh của nền văn minh nhân loại, được biểu hiện thông
qua những vấn đề có tính chất toàn cầu. Sự vận động tổng hợp của các mâu
31
thuẫn đó làm cho cuộc đấu tranh giai cấp có những nét mới so với thời kỳ
trước.
Như vậy, trong thời đại ngay nay, mâu thuẫn giai cấp không hề mất
đi. Trái lại mâu thuẫn đó càng sâu sắc hơn và biểu hiện dưới những hình
thức mới. Đấu tranh giai cấp là tất yếu, không phải do ý muốn chủ quan
của lực lượng xã hội nào áp đặt. Tuy nhiên, trong điều kiện mới của tình
hình thế giới, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay có những
nội dung và hình thức mới.
1.3. Nội dung, hình thức và vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời
đại ngày nay
Nội dung đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay là cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, đấu tranh “ai thắng ai” giữa
hai con đường: Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của cuộc đấu
tranh giai cấp trong thời đại ngày nay là xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Nội dung đấu tranh giai cấp bao gồm những phong trào đấu tranh cụ
thể nhằm giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Những phong trào
đấu tranh này luôn có sự hỗ trợ và gắn bó mật thiết với nhau tạo nên một
sức mạnh tổng hợp thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, giành thắng lợi cho
chủ nghĩa xã hội, giải phóng lao động, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột. Tuy
nhiên, do tình hình đã thay đổi nên cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
sản và quần chúng nhân dân lao động vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội có sự
gắn bó ngày càng chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải
quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại.
Vấn đề quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đã được
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác xem xét và giải quyết một cách khoa
học từ những năm đầu của thế kỷ XIX … Việc giải quyết vấn đề giai cấp có
ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc. “Hãy xóa bỏ tình
trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác
32
cũng sẽ bị xóa bỏ”1. Hồ Chí Minh, đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ biện chứng giữa đấu tranh giai cấp
và đấu tranh dân tộc, đã chỉ rõ: ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, sự nghiệp
giải phóng giai cấp phải được bắt đầu từ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”2.
Ngày nay, trước những biến động nhanh chóng của thế giới, chủ nghĩa
tư bản đã có những thay đổi nhất định các hình thức áp bức bóc lột đối với
các nước thuộc địa và phụ thuộc, các nước lạc hậu kém phát triển. Song, trên
thực tế, chúng không từ một thủ đoạn nào để vơ vét tài nguyên, chiếm đoạt
chất xám, xuất khẩu những kỹ thuật công nghệ lạc hậu, văn hóa lối sống đồi
trụy, thậm chí cả phát động chiến tranh xâm lược đối với các quốc gia,dân
tộc vì lợi ích ích kỷ của giai cấp tư sản. Đối với các nước này thì nhiệm vụ
giải phóng dân tộc phải đi trước một bước. Vì vậy, giải phóng dân tộc thực
sự trở thành một nhiệm vụ gắn liền, một nội dung quan trọng của cuộc đấu
tranh giai cấp trong thời đại ngày nay.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân
lao động trong thời đại ngày nay không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết
những vấn đề có tính chất toàn cầu. Thực tế cho thấy, có nhiều nguyên nhân
làm nẩy sinh những vấn đề mang tính chất toàn cầu có liên quan đến sự tồn
vong của nhân loại. Song, nguyên nhân quan trọng nhất, cơ bản và sâu xa
nhất là nguyên nhân thuộc về chế độ xã hội. Chủ nghĩa tư bản với chế độ
chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất, với quy luật cạnh tranh tự do
và bóc lột giá trị thặng dư tối đa, vẫn là thủ phạm chính của tình hình đó. Do
tận dụng một cách tối đa những thành tựu của cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại để bóc lột con người và giới tự nhiên, chủ nghĩa tư bản làm
cho những vấn đề này ngày càng trở nên trầm trọng thêm, đẩy nhân loại đến
bên bờ của sự diệt vong. Vì vậy, đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu
1
2
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 624.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 314.
33
của thời đại phải trở thành một nhiệm vụ quan trọng gắn liền với cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Những hình thức cơ bản của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
Để thực hiện thắng lợi nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong
thời đại ngày nay, giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động sử
dụng nhiều hình thức phong phú như: vừa hợp tác vừa đấu tranh; tham gia
vào các tổ chức quốc tế để đấu tranh; đoàn kết, ủng hộ các dân tộc chống
chủ nghĩa đế quốc…Tất cả các hình thức đấu tranh đó suy cho cùng đều
nằm trong ba hình thức đấu tranh cơ bản: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính
trị và đấu tranh tư tưởng.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đều giữa các quốc gia, dân tộc,
nên các hình thức đấu tranh này lại được biểu hiện ra ở những hình thức hết
sức cụ thể, đa dạng và phong phú. Trong các nước tư bản phát triển, cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động
trong các nước này được thể hiện ở các hình thức cơ bản như: đấu tranh
nhằm hạn chế sự bóc lột của giai cấp tư sản; đảm bảo việc làm; đấu tranh
phản đối chiến tranh xâm lược; đấu tranh đòi cải thiện quyền dân chủ; chuẩn
bị lực lượng vật chất và tinh thần để khi có thời cơ đến phát động quần
chúng lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa… Trong các nước thuộc địa và phụ thuộc,
đấu tranh giai cấp có các hình thức như: đấu tranh chống đói nghèo, bệnh tật;
xây dựng lực lượng cách mạng, giác ngộ quần chúng nhân dân, đấu tranh
giành độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, do đã giành được chính quyền về
tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nên cuộc đấu tranh giai cấp ở
các nước này về thực chất đó là cuộc đấu tranh “ai thắng ai”giữa một bên là
những nhân tố xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình hình thành, phát triển,
với một bên là các thế lực cản trở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đó là
cuộc đấu tranh nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
cải cách, đổi mới xã hội.
34
Thực tế cho thấy, mặc dù các hình thức đấu tranh này có sự khác
nhau về mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ cụ thể… song chúng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp tấn công
vào chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp cận vai trò động lực của đấu tranh giai cấp
từ hai góc độ cách mạng xã hội và tiến hoá xã hội. Để tránh một cuộc cách
mạng sẽ nổ ra, để tiếp tục duy trì sự tồn tại của mình, chủ nghĩa tư bản đã có
sự tự điều chỉnh nhất định. Trước hết, chủ nghĩa tư bản có sự điều tiết nhất
định về quan hệ sản xuất, bằng cách từng bước mở rộng chủ thể sở hữu tư
liệu sản xuất xã hội. Việc nới rộng chủ sở hữu tất yếu dẫn đến những cải
cách nhất định trong tổ chức phân công lao động và phân phối sản phẩm làm
ra.
Bên cạnh việc điều tiết về quan hệ sản xuất, chủ nghĩa tư bản đồng
thời tiến hành điều tiết các quan hệ xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Để
tránh cho mâu thuẫn kinh tế trở nên gay gắt, chủ nghĩa tư bản có chính sách
mềm dẻo hơn đối với người lao động. Chủ nghĩa tư bản còn có những cải
cách nhất định cơ chế dân chủ trong phạm vi cho phép của thiết chế dân chủ
tư sản. Vì vậy, đời sống của người lao động về hình thức có những cải thiện
nhất định. Trong quan hệ đối với các quốc gia, dân tộc, chủ nghĩa tư bản
cũng có sự điều chỉnh chiến lược của mình, cho phù hợp với sự phát triển
cao của lực lượng sản xuất và xu thế toàn cầu hóa.
Trên thực tế, sự tự điều chỉnh đó đã làm cho tính chất của mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phần nào “dịu
đi”. Đó chính là nguyên nhân làm cho chủ nghĩa tư bản có sự phát triển tiếp
tục trong những thập kỷ gần đây và phong trào đấu tranh giai cấp gặp không
ít những khó khăn nhất định. Song, xét về bản chất, quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa vẫn là quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là một chế độ áp bức bóc lột. Vì vậy, sự
35
tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản là có giới hạn không thể làm thay đổi
được bản chất của chế độ xã hội. Sự phát triển không ngừng của lực lượng
sản xuất làm cho tính chất của mâu thuẫn này càng ngày càng trở nên hết sức
gay gắt và theo quy luật chung sẽ đến một lúc nào đó đòi hỏi quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa phải bị phá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ra
đời mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mâu thuẫn trên lĩnh vực kinh tế được phản ánh vào trong lĩnh vực
xã hội đó là cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ đại diện cho
phương thức sản xuất mới với giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi thời lạc hậu. Trong cuộc đấu tranh đó,
giai cấp tư sản và các thế lực tìm mọi thủ đoạn để bảo vệ quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Chúng điên cuồng tấn công vào các lực lượng tiến bộ,
thậm chí phát động chiến tranh xâm lược vì lợi ích ích kỷ của chúng.
Chính vì vậy, mặc dù cuộc đấu tranh của các giai cấp tiến bộ tuy có gặp
nhiều khó khăn, song tính chất của nó là rất gay go và quyết liệt, một mất
một còn. Trong toàn bộ các giai cấp hiện có lợi ích đối lập với lợi ích của
giai cấp tư sản, chỉ có giai cấp vô sản là có lợi ích đối lập trực tiếp. Giai
cấp vô sản là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, nó là giai cấp cách mạng nhất,
giai cấp nắm ngọn cờ lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày
nay. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại
giai cấp tư sản và các thế lực phản động sẽ quyết định số phận của chủ
nghĩa tư bản, đưa loài người tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù con đường
quanh co phức tạp và rất lâu dài. Đấu tranh giai cấp vẫn là động lực trực
tiếp của sự phát triển xã hội trong xã hội có giai cấp.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay không chỉ thể
hiện trong những thời kỳ bão tạp cách mạng, mà còn được thể hiện ở cả quá
trình tiến hoá xã hội. Thực tiễn cho thấy, đấu tranh giai cấp có tác dụng tích
cực đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội về kinh tế chính trị, văn
hoá tư tưởng…
36
Đấu tranh giai cấp là cốt lõi trong toàn bộ cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Mỗi cuộc đấu tranh có những nội dung và hình
thức khác nhau, nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ vì mục tiêu chung
của sự phát triển của xã hội loài người.
2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay
2.1. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước
ta hiện nay
Trước những biến đổi nhanh chóng và phức tạp của tình hình trong
nước và thế giới hiện nay, một số quan điểm cho rằng, lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã lỗi thời. Họ bác bỏ một cách
công khai và dứt khoát quan điểm mácxít về giai cấp và thay vào đó lập
trường của chủ nghĩa dân tộc cực đoan hoặc cơ hội, xét lại.
Chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản đó là thời kỳ tiếp tục đấu tranh giai
cấp để đi đến một xã hội không còn giai cấp. Từ năm 1975, sau thắng
lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng
nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ ở nước ta là do những điều kiện kinh tế xã hội
của thời kỳ quá độ quy định.
Sau khi giành được chính quyền, mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản là xây dựng thành công xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn chưa đạt được. Bởi vì, đó là một cuộc cải biến cách mạng toàn
diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá.
Cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài và gian khổ
mới giành được thắng lợi cuối cùng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại
những cơ sở kinh tế xã hội khách quan cho sự tồn tại và phát triển của các
giai cấp. Đó là khuynh hướng “tự phát” của việc phân hoá giai cấp trên cơ sở
37
sự vận động của nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sự tồn
tại và phát triển tất yếu của một cơ cấu kinh tế – xã hội dựa trên cơ sở nền
sản xuất hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ, những tư tưởng, tâm lý và tập quán của các giai
cấp bóc lột và của xã hội cũ chưa bị quét sạch, vẫn còn tồn tại dai dẳng trong
đời sống tinh thần của quần chúng. Đó là tàn dư tư tưởng, tâm lý phong kiến,
tư sản, tiểu tư sản, thực dân cũ, thực dăn mới, sản xuất nhỏ. Cả những tư
tưởng, tâm lý nảy sinh do mặt trái của cơ chế thị trường. Thực tiễn cho thấy,
những tư tưởng, tâm lý, tập quán đó đã và đang là những trở lực lớn trên con
đường phát triển của cách mạng nước ta.
Trong thời kỳ quá độ, các giai cấp bóc lột tuy đã bị đánh đổ nhưng
chúng vẫn còn lực lượng và còn tiềm lực, chúng tìm mọi thủ đoạn chống phá
cách mạng hòng khôi phục lại địa vị thống trị đã mất. Bên cạnh đó, giai cấp
tư sản và bọn phản động quốc tế không từ bỏ âm mưu xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Chúng tìm đủ mọi thủ đoạn, mánh khoé để móc nối với các
thế lực phản động trong nước, giúp đỡ chúng về vật chất và tinh thần, phối
hợp hành động với chúng, tìm mọi cách gây khó khăn cho ta từ mọi phía, âm
mưu xoá bỏ thành quả của cách mạng nước ta…
Như vậy, trong thời kỳ quá độ ở nước ta, do mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội chưa hoàn thành và do những điều kiện kinh tế xã hội khách
quan, đấu tranh giai cấp là tất yếu. Những lực lượng cản trở chống đối đó
không tự động mất đi, phải thông qua một cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt
mới có thể quét sạch nó đi. Song, cuộc đấu tranh đó diễn ra trong những điều
kiện mới, với những nội dung mới và những hình thức mới.
2.2. Điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện cơ
cấu giai cấp-xã hội có sự biến đổi căn bản tạo nên so sánh lực lượng có lợi
cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
38
Giai cấp công nhân từ chỗ là giai cấp bị thống trị và bóc lột, nay trở
thành giai cấp lãnh đạo chính quyền nhà nước và lãnh đạo xã hội. Cùng với
sự phát triển của sự nghiệp cách mạng, giai cấp công nhân có sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Bộ phận công nhân có trình độ
chuyên môn cao ngày càng nhiều do tiếp nhận được những thành quả của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Giai cấp công nhân đã và đang
thể hiên rõ bản chất cách mạng của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
chế độ xã hội mới. Tuy nhiên, do bị quy định bởi đặc điểm chủ yếu của nước
ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản phát triển,
mà xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất kém phát triển, trải qua những cuộc chiến tranh chống xâm lược liên tục
và kéo dài, nên giai cấp công nhân còn bộc lộ khá nhiều những hạn chế như
thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế xã hội; trình độ lành nghề, thợ bậc cao còn
ít; tỷ lệ đoàn viên, đảng viên, công nhân tham gia trong bộ máy lãnh đạo
thấp. Một bộ phận không nhỏ trong giai cấp công nhân sự giác ngộ về lý
tưởng, về bản chất giai cấp chưa cao, thậm chí, trước tác động của mặt trái
nền kinh tế thị trường một bộ phận bị tha hóa, biến chất. Bên cạnh đó, sự vận
hành của nền kinh tế nước ta hiện nay, giai cấp công nhân cũng đang có sự
phân hóa. Một số ít giầu lên, thành lập công ty riêng, tham gia mua cổ phần,
làm việc với tư cách của người chủ sở hữu. Một bộ phận không nhỏ đang
phải làm thuê và chịu sự bóc lột của các chủ tư bản nước ngoài và các nhà tư
sản trong nước.
Bên cạnh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi.
Nhìn chung, sau khi được giải phóng, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, trình độ về mọi mặt của giai cấp nông dân có bước phát
triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, do đặc điểm của nước ta mà đặc điểm chủ yếu là
từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên giai cấp nông dân đang có sự
phân hóa khá rõ nét. Một bộ phận không nhỏ (đặc biệt là lớp trẻ) trở thành
39
công nhân làm trong các xí nghiệp, nhà máy; một số vươn lên trở giầu có,
thuê mướn lao động làm thuê, trở thành chủ các trang trại; một số ít, do
nhiều nguyên nhân, tách khỏi ruộng đất trở thành lực lượng lao động làm
thuê của xã hội. Nhưng do chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
đặc biệt là chính sách về quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu trong
nông nghiệp, nên dù có sự phân hóa như vậy song không thể dẫn đến xuất
hiện lại giai cấp địa chủ như trước.
Bên cạnh hai giai cấp cơ bản nói trên, đội ngũ trí thức ở nước ta cũng
có sự phát triển nhanh chóng. Trí thức Việt Nam có lòng yêu nước, nhiều
người ngay từ đầu đã tham gia cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, ngày nay tầng lớp này đang có nhiều đóng góp đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại bộ phận
tầng lớp trí thức xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp lao động, được đào tạo
trong chế độ mới, gắn bó với công nhân và nông dân. Vì vậy, khối liên minh
giữa công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức là nền tảng của xã hội mới.
Ở nước ta hiện nay, sự phát triển kinh tế tư bản còn là tất yếu; thành
phần kinh tế tư bản tư nhân không chỉ được Nhà nước ta thừa nhận mà còn
khuyến khích phát triển. Cùng với quá trình đó, trong xã hội ta hiện nay số
lượng các nhà tư sản tăng lên đáng kể. Khẳng định sự tồn tại và phát triển
của kinh tế tư bản ở nước ta hiện nay, điều đó đồng nghĩa với việc khẳng
định sự hiện diện của mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân; giữa tư bản và lao
động ở nước ta hiện nay. Trong xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao
động là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hòa vì bản chất của xã hội này
là bảo vệ lợi ích của kẻ đi bóc lột. Ngược lại, trong xã hội ta hiện nay, lợi ích
hợp pháp của các nhà tư sản về căn bản thống nhất với lợi ích chung của
cộng đồng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương sử dụng thành phần kinh tế tư bản để
phát triển lực lượng sản xuất, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Đảng, Nhà nước có chủ
trương, chính sách và pháp luật để một mặt quản lý thành phần kinh tế này
trong khuôn khổ định hướng xã hội chủ nghĩa, không cho nó phát triển một
cách tự phát, tự nó; mặt khác, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng và kết hợp hài
40
hòa lợi ích của người lao động làm thuê, lợi ích của nhà tư sản và lợi ích của
Nhà nước. Chính vì vậy, đa số các nhà tư sản đã có những đóng góp nhất
định vào phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết công ăn, việc làm, thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta trong những năm vừa qua. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực ấy, không loại trừ một số ít người trong tầng lớp của
họ có những hành động thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện
đất nước phát triển trong thế ổn định và vững chắc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta trong những năm qua đã
giành được những thắng lợi hết sức quan trọng: cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa
được củng cố và phát triển; chính trị - xã hội về cơ bản được ổn định; quốc
phòng - an ninh được tăng cường; hệ thống chính trị xã hội được củng cố; địa vị
của các giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa được
nâng cao; trận địa chính trị – tư tưởng của giai cấp công nhân được củng cố
vững chắc v.v.. Đảng ta khẳng định những thắng lợi đó đã làm “thay đổi bộ mặt
của đất nước và cuộc sống của nhân dân; củng cố vững chắc độc lập dân tộc và
chế độ xã hội chủ nghĩa”1 ở nước ta. Những thắng lợi đó đã tạo ra những điều
kiện hết sức thuận lợi cho cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh quốc tế
rất phức tạp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ những thành quả
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới,trong đó chúng coi nước ta là một
trọng điểm. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với xu
hướng khách quan, quốc tế hóa lực lượng sản xuất, tăng cường giao lưu và
hợp tác quốc tế… đang tạo ra cho đất nước ta cả những khả năng bỏ qua và
rút ngắn quá trình phát triển lịch sử và những thách thức gay gắt có thể bị tụt
hậu ngày càng xa hơn về kinh tế – xã hội so với sự phát triển của nhân loại.
1
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.16.
41
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có sự gắn bó mật thiết
hơn với cuộc đấu tranh dân tộc.
Lịch sử chứng minh rằng, ngay từ khi dân tộc ra đời thì đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp đã có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ sở của sự
thống nhất đó xuất phát từ việc phải thường xuyên đấu tranh với thiên nhiên,
đặc biệt là đấu tranh chống ngoại xâm vì sự tồn tại và phát triển của cả cộng
đồng. Từ khi cách mạng nước ta có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đến nay, sự gắn bó ấy càng khăng khít hơn. Ngay từ khi chưa có chính
quyền, giai cấp công nhân Việt Nam đã đặt lợi ích giải phóng dân tộc lên
trên hết. Từ khi có chính quyền do Đảng ta lãnh đạo, nội dung, nhiệm vụ đấu
tranh giai cấp vẫn luôn nhằm mục tiêu trước hết là hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam không thể
tách rời. Lợi ích giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc hòa quyện với nhau
trong cuộc đấu tranh bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc, cũng như trong cuộc
đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Độc lập dân
tộc cũng là nội dung của xây dựng chủ nghĩa xã hội; ngược lại, xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng là nội dung của sự nghiệp bảo vệ, củng cố độc lập dân tộc.
Những điều kiện đó vừa nói lên cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay là quá trình vừa tận dụng những yếu tố tiến bộ, vừa loại bỏ những yếu tố
tiêu cực, không phù hợp để phát triển xã hội.
2.3. Nội dung, hình thức mới của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta
hiện nay
Về nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước
ta hiện nay được Đảng ta xác định trong toàn bộ đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa và ngày càng được bổ sung phát triển. Nội dung xuyên suốt của
cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay đó là cuộc
đấu tranh nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định: “Nội dung chủ yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình
trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức,
42
bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động
tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành
một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”1.
Mục tiêu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung
đó là một phức hợp bao gồm nhiều nội dung cụ thể khác nhau, nhằm giải
quyết nhiều mâu thuẫn của quá trình vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Các nội dung này, tuy vị trí, vai trò không ngang bằng nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng thống nhất, nói lên thực chất cuộc đấu
tranh giai cấp ở nước ta , đó là cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh này diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa; nó hiện diện một cách
khách quan trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của mỗi con
người, mỗi giai cấp. Để thực hiện thắng lợi nội dung đó, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong hai
nhiệm vụ đó, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên không
thể thiếu được. Nhiệm vụ xây dựng là nhiệm vụ trung tâm luôn được
Đảng ta đặt lên hàng đầu, nhằm phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống cho
nhân dân, tạo cơ sở vật chất cho sự cải tạo toàn bộ xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài nhất và có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi hoàn toàn của đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều hình thức.
Tính chất phức tạp và quy mô rộng lớn của cuộc đấu tranh đó đòi hỏi
phải sử dụng tổng hợp và kết hợp các biện pháp, phương pháp linh hoạt
tùy điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đảng ta đã chỉ rõ: để giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh này “phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng
của V. I. Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 85.
43
nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa
dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội một cách vững chắc” 1.
Để thực hiện thắng lợi nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã xác định những phương hướng cơ bản:
Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước
của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và
cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu,
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền
thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, phản văn hóa tiến bộ, trái với
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự Thật,
H. 1994, tr. 24.
1
44
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên của chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng, phấn đấu vì sự
nghiệp dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Sáu là, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước. Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với các lực lượng đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Bảy là, luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
của cách mạng.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, làm cho Đảng thực sự vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của
cách mạng, đảm bảo cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta... Trong điều kiện hiện nay, để làm được
điều đó phải gắn liền với đổi mới, chỉnh đốn đảng, bao gồm cả đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng.
Sự hiện diện của các giai cấp và đấu tranh giai cấp ở xã hội ta hiện nay
là một thực tế khách quan. Cuộc đấu tranh đó đang diễn ra hết sức phức tạp
và quyết liệt. Những phương hướng cơ bản mà Đảng ta xác định là sợi chỉ đỏ
định hướng cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động trong
thực tiễn đấu tranh cần được quán triệt và nắm vững. Song, đây mới chỉ là
những định hướng chung nhất, có tính chất vĩ mô. Để hiện thực hoá những
phương hướng đó, đòi hỏi phải biết vận dụng linh hoạt vào các lĩnh vực cụ
thể, biết sáng tạo ra các hình thức đấu tranh phù hợp, trên nguyên tắc vì sự
thắng lợi của trật tự xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
45
HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quan niệm về nhà nước trong lịch sử
1.1. Những quan điểm ngoài mác xít về nhà nước
Nhà nước vốn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn
nhất”1, nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ
chính trị”2. Vì thế, ngay từ khi Nhà nước ra đời, con người đã không
ngừng đi vào tìm hiểu bản chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên,
do cách tiếp cận, do lợi ích của người đi phản ánh và do nhiều nguyên
nhân khác nên trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có rất nhiều những quan
điểm khác nhau về Nhà nước.
Trong thời kỳ cổ đại và trung đại, các nhà tư tưởng giải thích sự xuất
hiện và tồn tại của nhà nước theo hai khuynh hướng. Một số nhà tư tưởng
cho rằng, nhà nước là do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, nhà
nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là tuyệt đối, là vĩnh viễn,
vì vậy, sự phục tùng quyền lực là cần thiết và tất yếu. Một số người khác
không thừa nhận cách giải thích đó, song họ lại cho rằng, nhà nước là kết
quả của sự phát triển của gia đình. Những quan điểm tư tưởng trên đã đóng
một vai trò khá quan trọng trong xây dựng và bảo vệ các nhà nước chủ nô,
phong kiến.
Ngoài những quan điểm có tính chất phổ biến nêu trên còn có quan
điểm của một số học giả, họ cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử
dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến
thắng phải tạo ra một hệ thống cơ quan đặc biệt gọi là nhà nước. Nhà nước
xuất hiện là do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn luôn phụ
1
2
V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1979, t. 39, tr. 75.
. Sđd, tr. 76.
46
thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ... Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu
nhân có sứ mệnh lãnh đạo xã hội .v.v..
Đến thế kỷ XVI, XVII, XVIII, quan niệm của con người về nhà nước
từng bước phát triển mới. Để chống lại sự chuyên quyền độc đoán của nhà
nước phong kiến, đòi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia
nắm giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều cho rằng, nhà
nước ra đời là sản phẩm của một khế ước được ký kết, trước hết là giữa
những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Vì thế,
nhà nước phải phản ánh lợi ích của các thành viên sống trong xã hội và mỗi
thành viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ.
Thuyết “khế ước xã hội” dựa trên cơ sở thuyết về quyền tự nhiên mà tiêu
biểu là các nhà tư tưởng tư sản như: Lốccơ; Môngteskiơ; Điđrô… Mặc dù
còn rất nhiều những hạn chế, song lúc đó thuyết “khế ước xã hội” đã trở
thành cơ sở cho thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng
tư sản lật đổ nhà nước phong kiến và kiến tạo nhà nước tư sản.
Sau khi giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp địa chủ phong kiến,
xác lập quyền thống trị của mình. Để bảo vệ lợi ích giai cấp, các học giả
tư sản tìm mọi cách xuyên tạc bản chất của nhà nước. Họ cho rằng, nhà
nước là “hiện thực của quan niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực của
lý tính”, nhà nước xuất hiện như “người trọng tài công minh” đứng trên xã
hội để giải quyết mọi mâu thuẫn, mọi tranh chấp, để duy trì xã hội trong
tình trạng ổn định và phồn vinh. Nhà nước là người đại diện quyền lợi cho
mọi giai cấp, là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp, làm dịu sự xung đột
giữa các giai cấp.... Các nhà triết học xã hội học tư sản hiện nay thậm chí
còn cho rằng, nhà nước trong các nước tư bản chủ nghĩa đã khắc phục
được “những thiếu sót” của các nhà nước trước đây và đã trở thành một
nhà nước ngày càng hoàn thiện, phục vụ cho những nhu cầu của xã hội,
bảo đảm phúc lợi cho mọi thành viên.
Tất cả những cách giải thích trên về nhà nước đều không có căn cứ
khoa học, đều nhằm mục đích biện hộ cho sự thống trị của các giai cấp
bóc lột. Vì vậy, V.I.Lênin đã từng khẳng định: mong mỏi những nhà triết
47
học, xã hội học của các giai cấp thống trị, bóc lột phơi bày bản chất thật
của nhà nước thì cũng ngu ngốc không kém mong mỏi những thày tu,
những nhà thần học phơi bày bản chất thật của tôn giáo. Lần đầu tiên
trong lịch sử, với sự ra đời của học thuyết Mác - Lênin, vấn đề nhà nước
mới được luận giải một cách hoàn toàn khoa học.
1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhà nước
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu
lĩnh vực xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: Nhà
nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm
nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và
bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất cách
mạng và khoa học của lý luận Mác – Lênin về nhà nước được thể hiện thông
qua việc luận giải những nội dung chủ yếu sau đây:
Về nguồn gốc, bản chất của nhà nước
Trong những tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đinh, của chế độ tư hữu và của nhà nước”; “Nhà nước và
cách mạng”; “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”…, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng, không phải khi nào xã hội cũng
có nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà nước. Phù hợp
với tình trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, con người
sống trong các cộng đồng thị tộc và bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là
những tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của người đứng đầu những cơ
quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín, việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không
có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Như vậy, thể chế xã hội
trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thể chế tự quản của nhân dân.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, xã
hội có sự phân chia thành các giai cấp . Do đối lập về lợi ích, nên đấu tranh
giai cấp là hiện tượng không thể tránh khỏi. Đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy
cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã
48
hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời.
Đó là nhà nước.
Như vậy, nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có, không phải
là cái được sinh ra bên ngoài xã hội, áp đặt vào xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của nhà nước là tất yếu khách quan. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời của
nhà nước đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất dẫn đến sự ra
đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguyên nhân trực
tiếp là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. V.I.Lênin đã khẳng
định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì
nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”1. Chừng nào mà xã
hội còn tồn tại chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, thì chừng đó nhà nước
còn tồn tại. Nhà nước ra đời gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu và
đối kháng giai cấp đó là quy luật phổ biến của lịch sử xã hội loài người.
Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà quá trình
hình thành nhà nước cũng có những nét đặc thù riêng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Bản chất của nhà nước là
công cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị xã hội. Thực
tế lịch sử đã chững minh điều đó. Sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất chính là nguyên nhân dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai
cấp. Do lợi ích căn bản đối lập nhau nên đấu tranh giai cấp là điều không thể
tránh khỏi. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, đồng thời bắt các giai cấp khác
và toàn xã hội phải phục tùng lợi ích đó, giai cấp thống trị về kinh tế đã tổ chức
ra nhà nước – một công cụ để trấn áp giai cấp. Trong cuộc đấu tranh đó, giai
cấp thống trị về kinh tế luôn là số ít so với quảng đại quần chúng nhân dân lao
động. Để thống trị được đa số, bắt buộc đa số phải phục tùng lợi ích của thiểu
số, giai cấp thống trị đã tổ chức ra nhà nước - công cụ bạo lực để cưỡng bức
giai cấp . Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của
1
V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, t. 33, tr. 9.
49
một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân
chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”1. Hơn nữa, theo
V.I.Lênin thì bộ máy trấn áp đó không phải là cái gì khác hơn là một bộ máy
bạo lực có hệ thống. Bởi vì: “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy
trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với một giai cấp khác, hơn nữa lại là của
thiểu số đối với đa số. Một thiểu số người bóc lột muốn tiến hành có kết quả
việc trấn áp thường xuyên một đa số người bị bóc lột thì đương nhiên phải hung
ác, tàn bạo đến cực độ trong sự trấn áp..”2. Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất
của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động của
nhà nước, xét đến cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che đậy dưới hình
thức tinh vi như thế nào, thì nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng
cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp, nhà nước giữ một mức độ độc lập
nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt
tới thế cân bằng nhất định; hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thoả
hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp
khác…Những trường hợp như vậy là có tính chất ngoại lệ và tạm thời.
Sự phát triển của xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp nói
riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá
vỡ sự thoả hiệp tạm thời giữa các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập
trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định.
* Về đặc trưng của nhà nước.
Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng của nó. Theo Ph.
Ăngghen, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Bất kỳ một nhà nước nào cũng có một lãnh thổ riêng, có chủ quyền về
vùng lãnh thổ đó. Quản lý dân cư theo lãnh thổ khác về chất với quản lý của
1
2
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 22, tr. 290 – 291.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, t. 33, tr. 110 -111.
50
các thị tộc, bộ lạc trước đây. Nhà nước quản lý tất cả các thành viên của xã
hội bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào.
Nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc,
nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có bộ máy quyền lực chuyên
nghiệp. Trong số các cơ quan quyền lực đó, “những đội vũ trang đặc biệt”
(như quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang), nhà tù, và những cơ quan cưỡng
bức, hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương để thực hiện
chức năng cai trị buộc mọi người phải phục tùng ý chí của giai cấp cầm
quyền. Những cơ quan này từ xã hội mà ra, nhưng ngày càng thoát ly khỏi xã
hội và đối lập với xã hội. Chủ thể của quyền lực đó thuộc về giai cấp thống
trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó.
Nhà nước đặt ra thuế khoá và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức
bắt buộc là chủ yếu để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Bộ máy nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có nguồn nuôi dưỡng từ
thuế khoá. Thông qua việc thực hiện chính sách thuế khoá, quốc trái và các
hình thức bóc lột khác, nhà nước của giai cấp thống trị, bóc lột đã thể hiện rõ
không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc
lột giai cấp.
* Về chức năng của nhà nước
Chức năng nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cả bộ máy
nhà nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những
mức độ khác nhau. Chức năng của nhà nước có thể được xem xét dưới nhiều
góc độ khác nhau: đối nội; đối ngoại; kinh tế; chính trị; tư tưởng…
Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị,
nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực
hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm. Trong hai chức
năng đó thì chức năng chính trị-giai cấp là chức năng chủ yếu quyết định.
51
Vì vậy, sẽ là mơ hồ nếu không thấy được tính chất chính trị, tính chất giai
cấp trong các chủ trương, chính sách của nhà nước trong tổ chức quản lý
xã hội nói chung.
Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô,
nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức năng
đối nội nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác
hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước thực hiện
chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối
quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống nhất,
trong đó tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối
ngoại. Nhà nước thực hiện các chức năng của mình đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị.
* Về kiểu và các hình thức của nhà nước
Kiểu nhà nước chính là muốn nói đến nhà nước ấy là của giai cấp nào,
tồn tại trên cơ sở kinh tế xã hội nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội
nào. Lịch sử xã hội có giai cấp đã trải qua ba hình thái kinh tế – xã hội,
tương ứng với ba hình thái kinh tế – xã hội, đó là ba kiểu nhà nước (nhà
nước nô lệ; nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản). Tuy nhiên trên thực tế
không phải quốc gia nào cũng trải qua tuần tự cả ba hình thái kinh tế – xã hội
đó, vì thế sự tồn tại các kiểu của nhà nước ở mỗi quốc gia cũng có sự khác
nhau. Lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam cho thấy, do không trải qua xã
hội nô lệ và tư bản, nên ở Việt Nam chỉ tồn tại hai kiểu nhà nước cơ bản đó
là nhà nước phong kiến và nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hình thức nhà nước là nói đến cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước. Nói một cách khác, hình thức nhà nước chính là
hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Trong hiện thực, mỗi kiểu nhà
nước được tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú (nhà nước quân chủ; nhà
nước cộng hoà…).
Mặc dù các kiểu, các hình thức...phong phú đến đâu đi chăng nữa,
song bản chất chỉ là một đó là: Nhà nước- công cụ thống trị của một giai cấp,
giai cấp đó là giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
52
*Về nhà nước vô sản
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản và xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện
đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, để xây
dựng một xã hội không có giai cấp, không có người bóc lột người, sau
khi đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải tổ chức ra
nhà nước của mình. Mác viết: “…giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản”1.
Thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng
nhân dân lao động, đặc biệt là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã
chứng minh tính đúng đắn kết luận trên của C. Mác. Nhà nước đã đóng một
vai trò cực kỳ quan trọng trong cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Tổ chức ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, đó là quy luật phổ biến của mọi
quốc gia dân tộc khi tiến vào chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều
kiện của mỗi giai cấp, dân tộc khác nhau, vì vậy hình thức tổ chức nhà nước
cũng hết sức phong phú và đa dạng. Song dù hình thức tổ chức của nhà nước
có phong phú đến đâu đi chăng nữa, về bản chất chỉ là một - đó là nhà nước
do giai cấp vô sản tổ chức ra và lãnh đạo.
Nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức ra (nhà nước xã hội chủ nghĩa) là
nhà nước kiểu mới, khác về bản chất so với các nhà nước của các giai cấp
bóc lột trước đây. Trước hết, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,
do dân và vì dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa hai chức năng: trấn
áp và tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu.
1
C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 47.
53
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính
quốc tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước “tự tiêu vong”.
Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước vẫn
giữ nguyên giá trị khoa học của nó và là cơ sở lý luận, phương pháp luận
quan trọng cho chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhằm tăng
cường sức mạnh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
2.1. Các quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện từ rất sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư
tưởng và ngày càng được hoàn thiện theo sự phát triển của lịch sử. Các quan
điểm này được hình thành và phát triển từ nhu cầu phát triển của xã hội và
đặc biệt là việc cần thiết phải bảo vệ lợi ích của công dân trong xã hội.
Ở thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã đã tìm kiếm
những nguyên tắc, hình thức, những cơ chế của mối quan hệ tương hỗ giữa
pháp luật với tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Tuy chưa có
được một quan niệm đầy đủ về nhà nước pháp quyền, song họ cũng đã nói
lên được một sự thật rằng: Nhà nước cần phải quản lý xã hội bằng pháp luật
và chỉ có pháp luật mới làm cho quyền của con người không bị xâm phạm.
Tuy nhiên, tất cả những tư tưởng đề cao pháp luật trong mối quan
hệ với quyền lực nhà nước ra đời lúc bấy giờ mới chỉ dừng lại ở mơ ước
của con người về sự chiến thắng của công lý đối với bạo lực, của chính
nghĩa đối với gian tà, của cái thiện đối với cái ác, xuất phát từ một thực tế
trong đời sống xã hội là nhà nước ngày càng trở thành nhà nước chuyên
chế và độc tài. Nhà nước ngày càng vi phạm các quyền của con người với
tính cách là những công dân của xã hội.
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo,
chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền
tiếp tục có sự phát triển và dần dần hình thành một cách rõ ràng và thành
hệ thống trong các học thuyết chính trị xã hội.
54
Có thể nói rằng, các nhà tư tưởng trong thời kỳ này đã có những tiến
bộ nhất định trong lý giải về nhà nước pháp quyền. Họ đã vạch ra được
những dấu hiệu hết sức quan trọng của nó đó là: đề cao pháp luật trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nhà nước pháp quyền được tổ chức
ra nhằm bảo vệ quyền tự do, bình đẳng của mọi công dân, (đây chính là cơ
sở lý luận, phương pháp luận cho giai cấp tư sản trong xây dựng nhà nước
pháp quyền tư sản)… Song, do hạn chế về nhận thức, đặc biệt là hạn chế về
lập trường giai cấp, nên quan niệm của họ về nhà nước pháp quyền mang
tính chất duy tâm, phi lịch sử.
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của nhân loại về vấn đề này, các
nhà nghiên cứu đã tranh luận và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về nhà nước pháp
quyền như: Vấn đề về tính tất yếu của nhà nước pháp quyền; bản chất của
nhà nước pháp quyền; vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước pháp quyền
v.v.. Đây là cơ sở lý luận quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền, sự khác nhau cơ bản giữa
nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, các nhà khoa học tuy còn những ý kiến khác nhau về vấn
đề nhà nước pháp quyền và tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền, song họ
đều có quan niệm thống nhất về bản chất của nó. Theo họ, bản chất của nhà
nước pháp quyền được thể hiện ở một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do
pháp luật quy định. Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp
luật (các đảng phái, tổ chức, tôn giáo… phải được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật). Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nhà nước có hệ thống pháp luật đầy
đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều
chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung).
Từ những dấu hiệu đó rút ra định nghĩa: Nhà nước pháp quyền là nhà
nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp
55
luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi của bất cứ tổ chức xã hội hoặc
cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều
chỉnh của pháp luật1.
Khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập chủ yếu đến phương thức tổ
chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước nói chung thông qua hệ
thống pháp luật. Nhà nước pháp quyền chỉ là một hình thức tổ chức của
quyền lực nhà nước, trong đó lấy pháp luật và coi pháp luật là công cụ chủ
yếu để thực hiện chức năng của mình đối với toàn bộ xã hội. Nhà nước pháp
quyền không phải là một kiểu nhà nước. Xét về bản chất, nhà nước pháp
quyền trong xã hội có giai cấp vẫn là công cụ thống trị và áp bức giai cấp. Sự
phát triển của xã hội nói chung, bắt buộc giai cấp thống trị phải có sự thay
đổi hình thức cầm quyền. Nhà nước pháp quyền xuất hiện thay thế cho nhà
nước độc tài, chuyên chế… là một bước tiến bộ trong xã hội có giai cấp.
Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội theo khuôn khổ của pháp luật và
bản thân nhà nước, phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của nó cũng
bị ràng buộc bởi pháp luật.
Phương tiện chủ yếu của nhà nước pháp quyền trong quản lý xã hội đó
là pháp luật. Nhưng nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với mọi nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong lịch sử, nhiều nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật (pháp trị) như các nhà nước độc tài, nhà nước chuyên chế.
Những nhà nước này không phải là nhà nước pháp quyền. Những nhà nước
này vốn từ xã hội mà ra song ngày càng vượt ra ngoài xã hội, đứng trên xã
hội, dùng pháp luật để thống trị xã hội và bản thân nó lại đứng ngoài pháp
luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Trong khi đó, pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc; do đó, sẽ không có mô hình chung, những tiêu
chí chung về nhà nước pháp quyền cho tất cả các nước khác nhau. Bản chất
1
Website Tạp chí Cộng sản, số 60, tháng 6/2004.
56
của mỗi nhà nước pháp quyền phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, hệ
thống quan điểm, mục đích, nhiệm vụ , điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình nhà nước pháp quyền cơ bản. Đó
là nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do
có sự khác nhau về bản chất xã hội, nên hai loại nhà nước này khác nhau về
chất. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ
chức, xây dựng và vận hành của nhà nước có sự khác nhau căn bản. Pháp
luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực và
chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể
duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của quốc hội, chính phủ
hoặc tổ chức ra quốc hội và chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, hiến
pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân đứng đầu nhà
nước có quyền giải tán quốc hội hoặc chính phủ.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều
phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý
chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền tư sản,
nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng
pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý
chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ
phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước
là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để
57
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho
quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản
còn có sự khác nhau về hệ thống pháp luật. Bên cạnh sự khác nhau về tính
chất giai cấp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận những
quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và
thủ tục nhất định; trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án
lệ” hoặc “tập quán” như một loại quy phạm pháp luật bất thành văn.
2.3. Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử.
Lịch sử xã hội cho thấy, sự phát triển của sản xuất vật chất là nhân tố
xét đến cùng quyết định không chỉ sự vận động phát triển của xã hội từ thấp
đến cao, mà còn quyết định đến cả bộ mặt; cơ cấu tổ chức của xã hội trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của
sản xuất vật chất hết sức thấp kém, nên tổ chức xã hội lúc đó là chế độ làm
chung, ăn chung, các thành viên trong xã hội đều có quan hệ họ hàng với
nhau. Phù hợp với xã hội như vậy, có một cơ quan quản lý và điều hành xã
hội gọn nhẹ, bao gồm những tù trưởng được toàn thể các thành viên trong
xã hội tín nhiệm bầu ra.
Sự phát triển của sản xuất vật chất làm xuất hiện chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, xã hôi có sự phân chia thành giai cấp và đấu tranh
giai cấp, có sự phân hoá sâu sắc về lợi ích giữa các tập đoàn người.v.v. trong
điều kiện như vậy, quản lý, điều hành xã hội như trước không còn phù hợp
nữa, xã hội cần có một tổ chức mới, có khả năng duy trì được sự tồn tại và
phát triển tiếp theo của nó. Tổ chức quản lý thị tộc tất yếu phải nhường chỗ
cho quản lý xã hội bằng nhà nước. Nhà nước ra đời chính là đáp ứng yêu cầu
đó của lịch sử.
58
Ra đời từ xã hội, song nhà nước đã nhanh chóng vượt lên trên xã hội
và trở thành lực lượng đối lập với xã hội. Sự tăng cường tính chất độc tài,
chuyên chế của nhà nước là nguyên nhân đẩy mâu thuẫn giữa giai cấp thống
trị và các lực lượng đối lập ngày càng trở nên găy gắt. Mâu thuẫn đó phản
ánh một sự thật là trong khi tìm mọi cách để bóc lột giai cấp, giai cấp bóc lột
đã xâm phạm thô bạo đến quyền lợi của đa số thành viên trong xã hội. Trong
khi đó, xét về mặt tự nhiên, lẽ đương nhiên, sống trong xã hội, con người có
các quyền tự do cá nhân, các quyền tự nhiên của mình như quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc… là những quyền tạo hoá ban cho không ai có thể
xâm phạm được kể cả nhà nước. Thực tế cho thấy, trong xã hội có đối kháng
giai cấp, xã hội càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng trở nên gay gắt. Để
giải quyết mâu thuẫn đó xã hội đòi hỏi phải thay thế nhà nước độc tài,
chuyên chế bằng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật. Thắng
lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế, độc tài
và vô pháp luật, và sự ra đời của của nhà nước pháp quyền tư sản đã chứng
minh cho khuynh hướng phát triển tất yếu đó.
Tuy nhiên, trên thực tế nhà nước pháp quyền tư sản đã không giải
quyết được triệt để vấn đề dân chủ và bảo vệ quyền con người. Vì quyền lợi
của giai cấp vô sản, của quần chúng nhân dân lao động tất yếu phải thay thế
nhà nước pháp quyền tư sản bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Điều này đã được chủ nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách khoa học.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của sự thay thế đó
được xây dựng dần dần dựa vào kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động chống giai cấp tư sản. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ
thứ XIX, trong các tác phẩm của mình như: “Sự khốn cùng của triết học”;
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”…, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra những
luận điểm về một nhà nước xã hội chủ nghĩa, nêu lên quy luật đấu tranh giai
cấp trong lịch sử và tất yếu của việc giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền.
Giai cấp vô sản không thể nào lật đổ được giai cấp tư sản, nếu trước hết không
giành lấy chính quyền, không thiết lập được sự thống trị về chính trị của mình.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, vấn đề mới chỉ được đặt ra một cách chung nhất với
59
những lập luận như: thay bộ máy nhà nước bằng việc “tổ chức giai cấp vô sản
thành giai cấp thống trị; “bằng việc giành lấy dân chủ”… Nhưng giai cấp vô
sản thực hiện điều đó bằng cách nào; tổ chức chính quyền của giai cấp vô sản ra
sao ... còn chưa được giải đáp một cách cụ thể.
Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản, đặc
biệt là cách mạng tư sản Pháp, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận cần
phải đập tan bộ máy nhà nước tư sản trong quá trình làm cách mạng vô sản
chứ không thể sử dụng nó phục vụ cho giai cấp vô sản được. Những tư tưởng
trên được trình bày tập trung trong hai tác phẩm lớn: “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”; “Ngày 18 tháng Sương mù của LuiBônapáctơ”. Như vậy, đến đây
vấn đề được đặt ra một cách cụ thể hơn, kết luận rút ra hết sức chính xác về
mặt thực tiễn. Nhưng lấy cái gì để thay thế nhà nước của giai cấp tư sản đã bị
đập tan đó? Câu hỏi đó vẫn chưa được trả lời. Theo V.I.Lênin, kinh nghiệm
lịch sử lúc đó chưa cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen làm được điều đó.
Tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari, trong tác phẩm “Nội chiến ở
Pháp” C.Mác đã trình bày quan điểm về vấn đề đó. Theo C.Mác, sau khi đập
tan nhà nước của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải tổ chức ra nhà nước của
mình. Đó là nhà nước kiểu công xã, một nhà nước mà quyền lực thật sự của nó
thuộc về nhân dân. Nhà nước đó khác về chất so với các nhà nước của các giai
cấp thống trị trước đây. Theo C. Mác, Công xã là một hình thức nhà nước đỡ
tốn kém nhất trong lịch sử. Bởi vì, nó xóa bỏ quân đội thường trực bằng nhân
dân tự vũ trang, hệ thống viên chức do bầu cử và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc
nào…Đánh giá về phát hiện đó, V.I.Lênin đã viết: “Công xã là hình thức mà
cách mạng vô sản rốt cuộc đã tìm ra, hình thức khiến cho có thể giải phóng
được lao động về phương diện kinh tế"1. Sự thay thế nhà nước cũ bằng nhà
nước mới như vậy "là một sự thay thế vĩ đại: thay những cơ quan này bằng
những cơ quan khác hẳn về nguyên tắc. Đó chính là một trong những trường
hợp lượng biến thành chất"2.
1
2
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M 1976, t. 33, tr. 69.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M 1976, t. 33, tr. 52.
60
Phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã trở thành
chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản đã thành trực tiếp, V. I. Lênin đã có
những đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác về vấn đề nhà nước.
Trong khi phê phán các quan điểm sai lầm của bọn cơ hội, bọn
“Mensevích”, cũng như bọn vô chính phủ, V.I.Lênin đã tìm ra hình thức nhà
nước phù hợp với nước Nga là Cộng hoà Xôviết và khẳng định, giai cấp vô
sản phải dùng bạo lực cách mạng để thủ tiêu bộ máy bạo lực của giai cấp tư
sản; xóa bỏ nhà nước tư sản, phải giành lấy dân chủ. Nhà nước Cộng hoà Xô
viết phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân… Sự phát triển của cách
mạng nước ta tất nhiên cũng không ngoài quy luật chung đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay xuất
phát từ mục tiêu và thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác - Lênin con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Người chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác – con đường cách mạng vô sản”. Theo Người, cuộc cách
mạng ở nước ta sau khi hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc, xóa bỏ
chế độ thực dân, phong kiến, phải tiếp tục tiến lên thực hiện nhiệm vụ của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là cuộc cách mạng do giai
cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành, thực hiện xóa bỏ chế độ xã
hội có áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội mới không có giai cấp
áp bức và bóc lột, giải phóng xã hội và con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, bất bình đẳng. Thực tiễn cho thấy, một trong những tiền đề quan trọng
đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công đó là quyền lực nhà
nước phải thuộc về nhân dân.
Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp với tư
tưởng của thời đại “nhân dân nắm quyền tự quyết”, tự do, bình đẳng, bác ái,
ngay từ những năm đầu của thế kỷ thứ XX, Hồ Chí Minh đã kiên quyết phê
phán chế độ thực dân nói chung và bộ máy cai trị, chính quyền thuộc địa nói
61
riêng. Tư tưởng đó được thể hiện trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp” viết 1925. Bên cạnh việc phê phán đó, Hồ chí Minh đã chỉ ra sự cần
thiết phải xây dựng bộ máy nhà nước của dân, phải đề cao vai trò của pháp
luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong tác phẩm “Đường Kách
mệnh”, Người chỉ rõ: Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho
đến nơi, nghĩa là làm xong cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì
dân chúng mới được hạnh phúc. Trong yêu sách của nhân dân An Nam viết
1922, yêu sách thứ bảy Người viết “Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật”1. Và yêu cầu này đã được diễn ca trong bài “Việt Nam yêu cầu
ca” là: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”2. Những tư tưởng đó là cơ
sở lý luận, phương pháp luận quan trọng cho chúng ta xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa sau khi cách mạng nước ta bước vào giai đoạn
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền,
đã có một thời gian dài vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền chưa được
đặt ra. Điều đó do nhiều nguyên nhân: Một là, do chịu ảnh hưởng của những
quan điểm sai lầm về Nhà nước pháp quyền của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em lúc bấy giờ, nên chúng ta chưa quan tâm, chưa đi sâu nghiên cứu về
nhà nước pháp quyền. Hai là, sau khi giành được chính quyền, nước ta tiếp
tục phải tiến hành cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm. Ba là, do trong hàng ngũ
chúng ta, nhận thức về nhà nước pháp quyền chưa thật đúng đắn, thậm chí có
người còn đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, không thấy
được nhà nước pháp quyền là thành tựu của nhân loại về kỹ thuật tổ chức bộ
máy nhà nước. Ngược lại, có quan điểm muốn tiếp thu một cách máy móc,
sao chép dập khuôn nhà nước pháp quyền tư sản.
Từ năm 1975, sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách
mạng nước ta cho thấy, để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn,
đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước toàn diện, nhất thiết phải xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nước ta đang phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì tất yếu nhà nước phải là nhà
1
2
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 436.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 438.
62
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới. Có như vậy mới có thể hoàn thành vai
trò là công cụ chính trị, công cụ quản lý kinh tế xã hội có hiệu lực và hiệu quả.
Chính vì vậy, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dần dần được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc,
được chính thức đưa vào các văn kiện của Đảng. Vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân được khẳng
định trở thành một quan điểm chỉ đạo xây dựng Nhà nước ta và được đưa
vào Hiến pháp. “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”1.
Trên cơ sở phương hướng đó, trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Nhà nước ta đã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, đã
thể hiện được sức mạnh của mình trong tổ chức quản lý xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do xã hội ta đi vào chủ nghĩa xã hội ở
trình độ thấp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng tức là bỏ qua giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một nhiệm vụ hết sức
mới mẻ khó khăn và phức tạp.
2. 4. Những nội dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Điều đó đã được hiến pháp của
nước ta ghi nhận: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và
xã hội”.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001). Nxb
CTQG, H. 2002, tr. 13.
1
63
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền với
đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm cả đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo. “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương,
các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”.
Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân, giữ vững kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Thực hiện nội dung này là để giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước
ta trong quá trình đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước. Đổi mới, cải cách
nhưng không làm biến dạng bộ máy nhà nước.
Đối với nhà nước ta tính chất giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc
và tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân
là do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đoàn
kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước; “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc”, “chở thuyền, lật thuyền
đều là dân”, “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”…
Để thực hiện nội dung này cần quán triệt tốt một số nguyên tắc căn bản đó là:
Nhà nước ta là nhà nước do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra và giám sát.
Nhà nước ta hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của
mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết toàn dân. Mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc đó cần được phê phán
một cách triệt để. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo rằng: “Chúng ta phải
hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công
bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu
dân…”1.
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 56.
64
Thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Đây vừa là nội dung có tính chất chỉ đạo quá trình xây dựng bộ máy nhà
nước ta, vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó. Thực chất quan điểm này
thể hiện ở chỗ: Hoạt động của nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền như
trong chính thể nhà nước cộng hoà tư sản khác, mà thực hiện nguyên tắc quyền lực
thống nhất, quyền lực đó thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực
hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực thống nhất không có nghĩa là không có sự
phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan này tuy có chức năng quyền hạn riêng,
song giữa chúng có quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau đảm bảo nguyên tắc
thống nhất quyền lực nhà nước và phân công, phối hợp chặt chẽ ba quyền đó.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước.
Đây là nguyên tắc nền tảng trong tổ chức, hoạt động của hệ thống
chính trị nói chung và của bội máy nhà nước ta nói riêng. Một trong số
những nội dung căn bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ phải
được quán triệt trong toàn bộ quá trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền
lực của Nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này phải cân nhắc,
xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực
của nguyên tắc; đặc biệt là phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá
nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền. Xa rời nguyên
tắc này bộ máy nhà nước sẽ kém hiệu lực và sức mạnh.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp
luật, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
Đây là quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo suốt quá
trình cải cách, xây dựng nhà nước ta hiện nay. Bởi vì, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa… chính là cái đảm bảo cho nhà nước ta giữ vững bản chất
giai cấp, quyền lực nhà nước thống nhất và tập trung ở nơi nhân dân và
65
nguyên tắc tập trung dân chủ mới trở thành hiện thực. Với bản Hiến pháp
được thông qua, hệ thống pháp luật ở nước ta trên thực tế đã trải qua bốn giai
đoạn phát triển và cải cách. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò của pháp
luật được thể hiện ở những mức độ khác nhau nhưng ở mọi thời kỳ, pháp
luật luôn là một trong những công cụ quan trọng để nhà nước quản lý xã hội,
củng cố kỷ cương và tăng cường dân chủ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc
có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản
trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà
nước với các tổ chức xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được tiến
hành một cách đồng bộ trên cả ba mặt: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật
và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện tích cực
các quy định của pháp luật, sống và làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi khách
quan đối với mọi công dân.
Bên cạnh việc quản lý xã hội bằng pháp luật, nhà nước phải coi trọng
giáo dục nâng cao đạo đức, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư
tưởng, nâng cao dân trí kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần
chúng. Đây chính là nét đặc sắc trong tư tưởng văn hóa pháp lý truyền thống
của các thế hệ người Việt Nam được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử.
Để thực hiện thắng lợi nội dung trên trước mắt cần tập trung thực hiện
tốt một số phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà
nước; cải cách nền hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của
nhà nước; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng…
Mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một
trong những nhân tố quan trọng làm nên nội lực trong nước đưa sự nghiệp
cách mạng của nước ta phát triển. Thực tế trong quá trình đổi mới đất nước,
Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của
đông đảo cán bộ và nhân dân, thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để
mất dân chủ, tạo ra sự bất mãn trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó
khăn và dẫn tới những hậu quả đáng tiếc. Để “làm sao cho nhân dân biết hưởng
66
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”1 cần thiết
phải: Hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống,
tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành; Đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; Tạo ra những điều kiện vật chất và tinh
thần, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân; phát huy dân chủ với tăng cường
pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật.
Cùng với việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
thì đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản
lý của nhà nước giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy, đường lối,
chính sách đúng đắn của Đảng, pháp luật của Nhà nước là điều kiện tiên quyết,
song nếu không có một nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách, luật
pháp dù đúng cũng không thể đi vào cuộc sống. Hiện nay, nền hành chính của
ta còn nhiều yếu kém, điều đó cản trở lớn đến sự phát triển của sự nghiệp cách
mạng nói chung, do đó cải cách nền hành chính đang là một yêu cầu bức xúc.
Cải cách nền hành chính ở nước ta hiện nay là một quá trình, phải được quán
triệt và tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt. Những vấn đề bức xúc nổi lên hiện
nay cần đặc biệt quan tâm giải quyết đó là: Nâng cao trách nhiệm và trình độ
nhận thức cho đội ngũ cán bộ viên chức của Nhà nước; Cải cách thủ tục hành
chính, hoàn thiện chế độ công vụ; sắp xếp, sử dụng một cách khoa học đội ngũ
cán bộ, thực hiện tinh giảm biên chế v.v..
Sức mạnh, hiệu quả của nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh
của việc thi hành pháp luật, mặt khác còn dựa vào sự gương mẫu, trong sạch
về đạo đức của người cầm quyền. Vì vậy, xây dựng đạo đức cách mạnh,
chống các biểu hiện tiêu cực là một vấn đề có tính quy luật trong xây dựng
sức mạnh của nhà nước ta.
Hiện nay, một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đang rơi vào tham
nhũng, thoái hóa, biến chất, làm giảm đi sức mạnh và hiệu lực của nhà nước,
phá hoại niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh
chống lại các biểu hiện tiêu cực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để
triệt xóa tận gốc các hiện tượng này cần có những giải pháp đồng bộ, trong
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 12, tr. 223.
67
đó đặc biệt coi trọng cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên
đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ,
không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không
xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị,
xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn… thành thử có
mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ
đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung
túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí…”1.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhiệm
vụ chung của mọi lực lượng xã hội. Quân đội nhân dân Việt Nam với tư cách
là một bộ phận không tách rời của nhà nước, cần phải quán những vấn đề có
tính nguyên tắc chung đó để tự hoàn thiện mình, tự nâng cao trách nhiệm của
mình trong thực hiện các nhiệm vụ do cách mạng giao phó. Mặt khác, với
tính cách là một lực lượng tiên tiến của xã hội, cần tham gia tích cực vào
hoạt động xây dựng Nhà nước ta nói chung.
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 6, tr. 489 - 490.
68
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Con người là hiện tượng có một không hai trong thế giới hiện thực,
nơi có sự tác động tổng hợp của cả quy luật tự nhiên và quy luật xã hội. Vấn
đề con người được nổi lền hàng đầu của sự tìm tòi khoa học, là điểm tất cả
phải xuất phát và phải quay về đó. Đối với triết học, con người là đối tượng
nghiên cứu của mọi trào lưu triết học. Các học thuyết triết học từ thời cổ đại
cho đến nay đã đặt ra và tìm cách lý giải bằng nhiều cách khác nhau về
những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất của con người. Triết học Mác - Lênin
là triết học xuất phát từ con người và vì con người. Thực chất chủ nghĩa Mác
- Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là học thuyết giải phóng
con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.
1. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và nhân tố con người
1.1. Các quan điểm triết học ngoài mácxít về con người
1.1.1. Triết học phương Đông quan niệm về nguồn gốc, bản chất con
người
Trong lịch sử tư tưởng triết học phương Đông đã có nhiều quan điểm
khác nhau về nguồn gốc con người. Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo, con
người do một vị thần tối cao sinh ra và chịu sự điều khiển của vị thần đó.
Quan niệm đó được phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp trong Kinh Vêđa (Ấn
Độ) và Kinh thi (Trung Quốc). Theo quan niệm duy vật mộc mạc, con người
do Thái cực, Ngũ hành hoặc do nước, khí… tạo thành.
Trong Nho giáo, quan niệm về nguồn gốc con người đã phát triển theo hai
khía cạnh khác nhau. Về khía cạnh duy tâm, Khổng Tử cho rằng con người có số
mệnh do trời quy định và mỗi người có một mệnh khác nhau. Về khía cạnh duy
vật, Tuân Tử cho rằng khí là nguồn gốc của vạn vật, kể cả con người. Trong quan
69
niệm của Lão Tử, đạo như là tính quy luật khách quan, là nguồn gốc vạn vật và
cũng là nguồn gốc của con người. Quan niệm của Phật giáo không thừa nhận đấng
sáng thế tạo ra con người. Con người do luật nhân quả, sinh ra, chết đi do luân hồi.
Như vậy, trong triết học phương Đông cổ đại, các quan điểm duy tâm,
tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh, do lực lượng siêu nhiên tạo
ra, cuộc sống con người do Trời, thần sắp đặt, an bài. Ngược lại, các quan
niệm duy vật về nguồn gốc con người còn mộc mạc, ngây thơ, chưa có cơ sở
khoa học vững chắc.
Triết học phương Đông đã có những quan điểm khác nhau về bản chất
con người. Đạo giáo coi con người là một bộ phận của tự nhiên và thần bí hoá
bản chất xã hội của con người. Phật giáo coi con người khác con vật là có tâm
và có thức. Nho giáo tìm bản chất con người ở phương diện đạo đức. Đồng
thời, cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết hợp quần. Tuy Nho giáo đã
xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, song không thấy được con
người trong quan hệ kinh tế. Mặc Tử coi con người khác con vật là ở chỗ con
người có lao động. Như vậy, triết học phương Đông đặt vấn đề nghiên cứu bản
chất xã hội của con người rất sớm, mặc dù cách giải thích khác nhau và còn rất
đơn giản.
Trong triết học phương Đông, tính người là một khía cạnh thuộc bản
chất con người được quan tâm bàn đến. Vấn đề tính người được Nho giáo
quan tâm và giải thích theo các khuynh hướng khác nhau. Khổng Tử cho
rằng tính người gần nhau, do tập nhiễm mà xa nhau. Tính người có thiện, có
ác. Sau thời kỳ Chiến quốc, quan điểm về tính người của Nho giáo có bước
phát triển. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người là thiện, do không biết tu
dưỡng và do ảnh hưởng của tập quán mà trở nên ác, qua tu dưỡng có thể giữ
được cái tốt. Ngược lại, Tuân Tử cho rằng, bản tính con người là ác, nhưng
có thể cải biến được cái ác để trở thành tốt. Đến thời kỳ nhà Hán, Đổng
Trọng Thư chia tính người làm ba loại: toàn thiện; có thiện, có ác; chỉ có ác.
Theo Hàn Dũ, tính người có tam phẩm: thượng phẩm (toàn thiện); trung phẩm (có
thiện, có ác); hạ phẩm (chỉ có ác). Chu Hy phân biệt tính người có tính trời đất và
có tính khí chất.
70
Trong quan niệm của Lão Tử, tính người không thiện cũng không ác.
Thiện ác là do hoàn cảnh và giáo dục tạo ra. Phật giáo cho rằng, tính người
có hai thuộc tính: tính Phật và tính trần tục. Hàn Phi Tử cho rằng, tính người
ích kỷ, cá nhân, vụ lợi.
Như vậy, hai quan điểm về tính người tuy khác nhau nhưng có điểm
chung là đã khẳng định: Tính người có thể cải biến được, giữ được cái tốt
(thiện). Điểm khác nhau là ở con đường cảm hoá con người, hoặc là bằng giáo
huấn đạo đức, hoặc là bằng luật pháp.
Trong triết học phương Đông còn có thuyết “Thiên nhân hợp nhất”,
tức là trời và người là một và thuyết “con người là một tiểu vũ trụ”, tức là
con người là một bộ phận của tự nhiên, mang các tính chất của tự nhiên và
chịu sự chi phối của tự nhiên. Có nhiều cách giải thích khác nhau về các
quan điểm này, song từ khía cạnh duy vật thì đây là những quan điểm đúng
đắn, có giá trị khoa học, là một đóng góp có giá trị cho tư tưởng triết học về
nguồn gốc, bản chất con người. Mặc dù vậy, do trình độ khoa học còn hạn
chế mà các quan điểm đó chưa được lý giải đầy đủ và sâu sắc.
1.1.2. Triết học phương Tây trước Mác quan niệm về nguồn gốc, bản
chất con người.
Quan niệm về con người ở phương Tây đã có những tiền đề xuất hiện
rất sớm từ trong xã hội nguyên thuỷ. Đây là thời kỳ tiền triết học, tư tưởng
thống trị vẫn là duy tâm, thần bí trong quan niệm về nguồn gốc, bản chất con
người. Quan niệm về nguồn gốc con người trong xã hội nguyên thuỷ nhìn
chung cho rằng, có một sức mạnh siêu nhiên, huyền bí sinh ra con người, định
đoạt số phận con người, ban phát ân huệ, trừng phạt mọi hành vi của con người
và quyết định cả phúc, hoạ của con người sau khi chết. Mặt khác, có tư tưởng
duy vật gắn liền với thực tiễn, tin vào sức mạnh của con người trong đấu tranh với
tự nhiên để tồn tại.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại, bằng nhiều cách, giải thích nguồn gốc, bản
chất con người theo quan điểm duy vật chất phác, mộc mạc. Theo quan điểm
của các nhà triết học duy vật, con người là một bộ phận cấu thành của tồn tại,
71
của thế giới, là một bản nguyên vật chất xác định. Phái nguyên tử luận, tiêu
biểu là Đêmôcrít cho rằng, mọi sinh vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Linh hồn con
người cũng là vật chất, được cấu tạo từ nguyên tử.
Chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại đã có những quan niệm khác nhau về
nguồn gốc, bản chất con người. Theo Pitago, mọi vật và con người có nguồn
gốc từ con số. Con người có thể xác và linh hồn, trong đó linh hồn là bất tử.
Xôcrát cho rằng có hai hạng người đối lập, trong đó chỉ có quý tộc là có đạo
đức chân chính, còn nô lệ không có đạo đức. Quan niệm của Platôn, con
người có thể xác và linh hồn. Thân thể là nhà tù của linh hồn. Aritxtốt cho
rằng mọi sinh vật đều có linh hồn, thực vật có linh hồn thực vật; động vật có
linh hồn cảm tính; con người có linh hồn lý tính. Vị trí linh hồn là ở trái tim.
Đặc biệt, với quan niệm con người là một động vật chính trị, ông đã đặt vấn
đề nghiên cứu cả mặt tự nhiên và mặt xã hội của con người.
Trong triết học thời kỳ trung cổ, quan niệm con người bị chi phối bởi
quan điểm duy tâm của tôn giáo. Theo giáo lý Kitô, con người do Chúa sáng
tạo ra, con người có thể xác và linh hồn. Thể xác mất đi, linh hồn sẽ còn lại.
Thể xác và linh hồn đối lập nhau như cái thấp hèn và cái cao thượng. Con
người phải cứu vớt linh hồn của mình, phải chăm lo phần linh hồn cao quý.
Nhà thần học Ôguýtxtanh cho rằng Chúa là lực lượng siêu tự nhiên, định
đoạt mọi số phận của con người, ban phước hoặc trừng phạt con người. Theo
Tômát Đacanh, Chúa Trời sinh ra giới tự nhiên và con người, con người là
hình ảnh của Chúa. Linh hồn con người được tạo ra cùng với Chúa tạo ra con
người. Trật tự các sự vật do Chúa sắp đặt là: Chúa Trời – thần thánh – con
người – các sự vật không có linh hồn.
Trong triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng - Cận đại, quan niệm về
con người có bước phát triển. Đây là thời kỳ nhận thức về nguồn gốc, bản
chất con người có bước tiến đáng kể, phản ánh những vấn đề do khoa học
và thực tiễn đặt ra. Các nhà triết học duy vật, dựa trên cơ sở những thành
tựu của khoa học tự nhiên đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và tôn
giáo về vấn đề nguồn gốc, bản chất con người. Theo Bêcơn, con người là
một thực thể vật chất. Đềcáctơ cho rằng, tư duy trí tuệ là bản chất con
72
người. Điđrô khẳng định ý thức từ vật chất sinh ra, là thuộc tính của vật
chất. Theo quan niệm của Henvêtyúyt, trí tuệ con người do giáo dục chứ
không phải do tự nhiên, bẩm sinh.
Trong triết học cổ điển Đức, quan niệm con người đã phát triển mạnh
mẽ cả hai khuynh hướng duy tâm và duy vật. Hêghen tuyệt đối hoá con người
lý tính, cho rằng ý niệm tuyệt đối tha hoá thành tự nhiên, xã hội và con người.
Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần sinh ra vũ trụ và con người. Phoiơbắc đã
phê phán quan điểm duy tâm, tôn giáo về nguồn gốc, bản chất con người:
“Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con
người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người”. Chủ nghiã duy vật nhân
bản đã phê phán quan niệm duy tâm về vấn đề này và khẳng định ý thức là sản
phẩm của bộ óc, tinh thần là sản phẩm của vật chất, đã tuyệt đối hoá con người
tự nhiên, sinh vật, không thấy bản chất xã hội – lịch sử của con người, không
thấy vai trò hoạt động thực tiễn của con người. Như vậy, tất cả các quan điểm
trước Mác về con người chưa thoát khỏi quan điểm vật siêu hình hoặc duy tâm
thần bí. Tuy nhiên, lịch sử triết học đã để lại những tư tưởng quý giá về nguồn
gốc, bản chất con người, làm cơ sở, tiền đề cho triết học Mác kế thừa, phát
triển, đưa ra quan điểm khoa học về con người.
1.2. Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người và nhân tố con người
1.2.1. Khái niệm con người và nhân tố con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác – Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội.
Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm cao nhất
trong quá trình tiến hoá của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng
tạo mọi thành tựu văn hoá trên trái đất. Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu
tố cơ bản cấu thành con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Con người có
mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật, tộc loại…Đồng thời, con người có mặt
xã hội, tinh thần, ngôn ngữ, ý thức, tư duy, lao động, giao tiếp, đạo đức…Hai mặt đó hợp
thành một hệ thống năng động, phức tạp, luôn luôn biến đổi, phát triển. Về vai trò của
73
con người, triết học Mác – Lênin khẳng định con người là chủ thể hoạt động
thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo ra mọi của cải vật
chất, tinh thần, đồng thời sáng tạo ra bộ óc và tư duy của mình.
Quan niệm về con người của triết học Mác – Lênin đã bao hàm trong
đó sự khẳng định vai trò chủ thể lịch sử xã hội của con người. Điều đó đòi
hỏi tất yếu từ quan niệm chung về con người, cần phải có một quan niệm cụ
thể hơn về nhân tố con người. Nhân tố con người là hệ thống các thuộc tính,
các đặc trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con
người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà
những đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong quá trình phát
triển lịch sử. Quan niệm nhân tố con người trong triết học Mác – Lênin đã
chỉ ra sự thống nhất giữa hai mặt là hoạt động và phẩm chất, năng lực của
con người. Hoạt động của con người bao gồm hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn; hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Phẩm chất và năng
lực của con người bao gồm: phẩm chất chính trị, đạo đức…và năng lực nhận
thức, tư duy, hành động…Giữa mặt hoạt động và mặt phẩm chất, năng lực có
mối quan hệ biện chứng. Trong đó, hoạt động là cơ sở để hình thành, phát
triển phẩm chất và năng lực của con người. Ngược lại, phẩm chất và năng
lực của con người là cơ sở cho hoạt động của con người đạt hiệu quả. Cả
hoạt động, phẩm chất và năng lực là những đặc trưng xã hội quy định vai trò
chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng
tạo của con người. Chính vì vậy, nhân tố con người là cội nguồn của mọi sự phát
triển, của mọi nền văn minh xã hội.
1.2.2. Các quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin trong tiếp cận
nguồn gốc, bản chất con người
* Sự hình thành, phát triển con người là một quá trình gắn liền với
lịch sử sản xuất vật chất
Triết học Mác – Lênin xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về
lịch sử đã tiếp cận và luận giải sự hình thành, phát triển con người trong lịch sử gắn
với quá trình phát triển của sản xuất vật chất. Từ đó, khẳng định lao động là điều
74
kiện chủ yếu quyết định sự hình thành, phát triển của con người. Chính trong lao
động, thông qua lao động mà con người biến đổi điều kiện tự nhiên bên ngoài; làm
biến đổi bản chất tự nhiên, cải tạo bản năng sinh học của con người; đồng thời hình
thành và phát triển những phẩm chất xã hội của mình.
Con người khác con vật ở chỗ, con vật sống dựa hoàn toàn vào tặng
phẩm của tự nhiên, còn con người phải bằng lao động sản xuất để cải tạo
tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu ngày càng phát
triển của mình. Lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người cải tạo
tự nhiên phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. C.Mác khẳng
định: “Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó
(con người) và thực tại của nó”1, làm cho tự nhiên “có tính người”, tự
nhiên được “nhân loại hoá”. Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó hữu cơ
với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Chính vì vậy, C. Mác nói:
“Con người không bao giờ đứng trước một tự nhiên có tính chất lịch sử và
một lịch sử có tính chất tự nhiên”2.
Triết học Mác – Lênin khẳng định, thông qua lịch sử sản xuất vật chất,
nhờ lao động mà một loài sinh vật mới ra đời, đó là Homo sapiens – con người
có lý tính, mang tính chất xã hội. Lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ
tiên loài người. Khoa học đã chứng minh rằng, con người là một tổ chức sinh
vật có trình độ phát triển cao nhất trên hành tinh, từ một loài sinh vật có xương
sống phát triển lên, là một nấc thang cao nhất trong lịch sử tiến hoá của các
giống loài qua hàng trăm triệu năm. Lao động đã cải tạo bản năng sinh học của
con người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển bản năng con người thành
một trạng thái mới về chất. C. Mác cho rằng, “trong con người, ý thức thay thế
bản năng, hoặc bản năng con người là bản năng đã được ý thức”3. Lao động là
điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của con
người. Trong lao động tất yếu hình thành quan hệ xã hội, thông qua hoạt động
giao tiếp hình thành lên ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, ý chí và cả phương
pháp tư duy của con người…. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen khẳng định: “…trên
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, t. 42, tr .137.
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr. 60.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t 3, tr. 44.
4 C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 641.
1
2
75
một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động sáng tạo ra bản thân con
người”1.
Nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hoà nhập với
tự nhiên trở thành một thực thể sáng tạo. Hoạt động lịch sử đầu tiên mang ý
nghĩa sáng tạo chân chính của con người là chế tạo ra công cụ lao động. Con
người bắt đầu lịch sử của mình từ đó. Nhờ công cụ lao động tư liệu của mọi
tư liệu – sức mạnh vật chất đầu tiên mà con người tách khỏi tự nhiên, tách
khỏi loài vật với tư cách là một chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Đồng
thời, bằng hoạt động cải tạo tự nhiên, con người hoà nhập với tự nhiên, biến
“tự nhiên thứ nhất” thành “tự nhiên thứ hai”, “tự nhiên thứ ba”…, sáng tạo ra
của cải, tri thức, tinh thần. Như vậy, sáng tạo là thuộc tính tối cao của con
người. Bản chất con người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của
nó.
* Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong tính toàn vẹn, khẳng
định con người là một chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội. Đây là một chỉnh thể phức tạp, năng động, luôn
luôn vận động, phát triển.
Về mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các
hiện tượng sinh lý, di truyền, thần kinh, điện - hoá và các quá trình khác của
cơ thể. Về mặt này, con người phục tùng các quy luật của tự nhiên, sinh học. Về mặt xã
hội, con người tồn tại ở cấp độ nhân cách, biểu hiện trong những quá trình ý
thức, tính cách, tính khí…là chủ thể quan hệ xã hội, lao động, giao tiếp, tinh
thần…Về mặt này. con người phục tùng các quy luật xã hội.
Con người tồn tại và phát triển trong tính toàn vẹn thống nhất của
hai quá trình sinh học và xã hội. Sự hình thành, phát triển con người
thông qua một quá trình thống nhất giữa cơ chế di truyền và hoạt động xã
hội. Cơ chế di truyền quyết định quá trình tiến hoá sinh học của con
76
người, tạo nên cơ sở sinh học cho sự tiến hoá xã hội. Quá trình gia nhập
hoạt động xã hội, gia nhập vào bối cảnh văn hoá lịch sử của quần thể xã
hội đã quyết định sự hình thành phát triển những phẩm chất xã hội của
con người. Đây là một quá trình thống nhất và phức tạp. Trong đó, cơ
chế di truyền không chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu mà còn
gắn liền với sự hình thành phát triển bản năng xã hội của con người.
Ngược lại, quá trình tập nhiễm trong cuộc sống xã hội không chỉ quyết
định mặt xã hội của con người mà còn cải biến mặt sinh học, làm cho cái
sinh học thích nghi với hoạt động xã hội. Vì vậy, Ph. Ăngghen viết “Giới
tự nhiên đạt đến trình độ tự nhận thức được mình: đó là con người”1.
* Con người tồn tại, phát triển trong môi trường cư trú và mang thuộc
tính xã hội- hành tinh- vũ trụ.
Triết học Mác – Lênin tiếp cận con người trong hệ thống con người –
môi trường cư trú, từ trái đất đến vũ trụ. Môi trường là điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại và phát triển của con người. Đó là toàn bộ hoàn cảnh tự nhiên
và xã hội được thu hút vào quá trình đời sống con người. Theo nghĩa rộng
nhất, môi trường bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Con người tồn tại trong hệ thống tương tác của tất cả các lực lượng
tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, giao tiếp với tự nhiên
và phụ thuộc vào tự nhiên. Con người thuộc về giới tự nhiên, nằm trong
giới tự nhiên, sống trên hành tinh và phụ thuộc vào các quá trình cơ, lý,
hoá, sinh học của hành tinh. Con người phụ thuộc vào các hiện tượng tự
nhiên mà trong đó nhiều hiện tượng ở trình độ khoa học hiện nay chưa
giải thích được. Con người giao tiếp và phụ thuộc vào tự nhiên ở cả cấp
độ chức năng - cơ thể và cấp độ cảm xúc- tinh thần. Khoa học tự nhiên
đã phát hiện sự tương tác giữa “nhịp điệu vũ trụ” với “nhịp điệu sinh
học”. Điều đó nói lên con người mang thuộc tính xã hội – hành tinh – vũ
trụ và phụ thuộc vào môi trường.
1
C..Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, t. 20, tr. 475.
Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 3, tr. 25.
2 C.
77
Con người tồn tại trong môi trường xã hội, thông qua xã hội mà thích
nghi với tự nhiên. Bởi vì, xã hội là một bộ phận của giới tự nhiên, một kết
cấu vật chất đặc thù của giới tự nhiên. Toàn bộ quần thể xã hội hoạt động
trong giới tự nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hài hoà
với tự nhiên. C. Mác khẳng định: “Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì
lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau”1. Như vậy, bản chất con
người là tổng hoà các thuộc tính sinh học – xã hội.
* Con người là một thực thể cá nhân - xã hội.
Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất
của hệ thống các quan hệ xã hội. Đó là một hệ thống năng động, phát triển
thống nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng. Trước hết, con người là một
nhân cách mang đặc trưng chung, đại biểu cho nhân loại, tộc loại. Thuộc tính
chung nhất và cao nhất của con người là sáng tạo. Con người mang những
phẩm chất đặc thù đại biểu cho một xã hội lịch sử - cụ thể, đại biểu cho một dân
tộc, giai cấp, tập đoàn xã hội, tập thể, nhóm xã hội, gia đình…Những phẩm chất
xã hội của con người mang dấu ấn của một thời đại lịch sử và những quan hệ xã
hội cụ thể. Những phẩm chất riêng có của mỗi người là cái đơn nhất, cái đặc thù
của cá nhân tạo nên kinh nghiệm, tính đơn nhất về tâm lý xã hội của mỗi người.
Cái riêng của con người do đặc điểm di truyền, do điều kiện sống riêng của mỗi
người quy định. Nhờ những phẩm chất riêng mà phân biệt được giữa cá nhân
này và cá nhân khác về trí tuệ, tình cảm, ý chí, động cơ hành động, tính
cách…Bởi vì, theo C. Mác, con người là một thực thể xã hội mang tính cá
nhân.
* Sự thống nhất biện chứng giữa con người giai cấp và con người nhân loại
Con người mang tính nhân loại. Đây là thuộc tính vốn có hình thành
trong suốt chiều sâu lịch sử của cuộc sống cộng đồng phổ biến rộng lớn
nhất. Tính nhân loại thể hiện trong thuộc tính chung nhất cao nhất của con
người là sáng tạo và trong những giá trị văn hoá chung mà nhân loại đạt
được. Tính nhân loại còn được thể hiện trong những quy tắc chuẩn mực
78
của cuộc sống chung được hình thành như những đạo lý. Tính nhân loại
thể hiện trong những giá trị chung mà con người quan tâm như nhân đạo,
dân chủ, công bằng xã hội, hoà bình, bảo vệ môi trường sinh thái… Cơ sở
của tính nhân loại là từ bản chất xã hội của con người, do yêu cầu khách
quan của cuộc sống cộng đồng là con người phải dựa vào người khác,
nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển.
Trong xã hội có giai cấp, con người mang tính giai cấp. Mỗi người là
một thành viên của giai cấp mang địa vị kinh tế xã hội của giai cấp đó. Địa vị
kinh tế xã hội mang tính khách quan, do toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất
quy định, mặc dù mỗi thành viên giai cấp có thể ý thức được hoặc không ý
thức được địa vị của mình.
Tính giai cấp và tính nhân loại trong con người vừa đồng nhất vừa khác
biệt. Con người tồn tại thông qua những cá nhân hiện thực với tư cách là các chủ
thể hành động xã hội. Tính nhân loại vĩnh hằng. Bởi vì, trật tự kinh tế, chính trị xã
hội có thể bị thay đổi, nhưng con người luôn luôn phải biết dựa vào người khác,
khai thác sự phong phú của người khác để tồn tại, làm phong phú cho mình là
không bao giờ mất đi. Mặt khác, trong xã hội còn chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, còn quan hệ đối kháng giai cấp thì con người còn mang tính giai cấp. Các
giai cấp và các hệ thống xã hội tương ứng vẫn là chủ thể chủ yếu của xã hội hiện
thực. Không bao giờ có một “lợi ích nhân loại thuần khiết”. Nó được phản ánh
trong nhận thức, trong hoạt động thực tiễn không tách rời lợi ích các giai cấp.
* Con người là sự thống nhất biện chứng giữa tất yếu và tự do.
Hoạt động của con người bị chi phối bởi tính tất yếu. Tính tất yếu tồn tại
dưới hình thức các quy luật khách quan. Mặc dù con người nhận thức được quy
luật khách quan hay không thì lịch sử xã hội vẫn vận động phát triển theo quy
luật. Hoạt động của con người biểu hiện ra như là tất yếu “mù quáng”. Con
người tự do là con người nhận thức sâu sắc quy luật và hoạt động tự giác. Tự do
là tiền đề, điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người.
Hoạt động của con người có sự thống nhất giữa tất yếu và tự do. Hoạt
động con người có ý thức là hoạt động tiếp cận dần, nắm bắt quy luật khách
79
quan làm tiền đề cho sự sáng tạo. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử con
người vươn lên giành lấy tự do ngày càng cao hơn. Con người muốn tự do,
trước hết phải được giải phóng về mặt xã hội, phải có chế độ kinh tế xã hội
tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động con người vươn tới tự do. Một xã hội
bao gồm trong đó những con người phát triển tự do, toàn diện chính là mục
tiêu của chủ nghĩa cộng sản.
* Hiện tượng sự tha hoá của con người
Triết học Mác – Lênin nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người
trong quá trình lịch sử, khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sáng
tạo, còn có hiện tượng con người bị tha hoá. Tha hoá là quá trình xã hội trong
đó hoạt động của con người và sản phẩm của nó biến thành một lực lượng độc
lập thù địch và thống trị lại con người.
Nguồn gốc của tha hoá là do sự phát triển của phân công lao động xã
hội và sự xuất hiện chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những dấu
hiệu đặc trưng của sự tha hoá từ các phương diện: Sự tha hoá của điều kiện lao
động; sự tha hoá của kết quả lao động, sự tha hoá của thiết chế chính trị xã hội;
sự tha hoá của tư tưởng; sự tha hoá của tự nhiên… Khắc phục sự tha hoá là một
quá trình lâu dài, gắn liền với xoá bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác – Lênin
chính là lý luận triết học về khắc phục sự tha hoá của con người, trước hết là
lý luận giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Như vậy, triết học Mác – Lênin trên cơ sở quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử, tiếp cận con người trong tính chỉnh thể của nó, đem lại một
hình ảnh toàn vẹn, đúng đắn về con người, khôi phục lại địa vị vốn có của
con người trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự giải
phóng con người, vì hạnh phúc con người. Đây là cơ sở để bác bỏ những
luận điểm tư sản, xét lại cho rằng triết học Mác bỏ quên vấn đề con người,
không xây dựng học thuyết về con người, chỉ xây dưng học thuyết về giai cấp và đấu
tranh giai cấp .
2. Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất
nước
80
2.1. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam
Con người, tự do và hạnh phúc của con người là vấn đề trung tâm của
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất, bao trùm của chủ nghĩa xã hội là độc
lập, tự do, hạnh phúc của con người. Đó là lợi ích lớn nhất của con người
Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trải qua giai đoạn giành độc lập dân tộc,
tiến lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng vì mục đích giải phóng con
người . Theo Hồ Chí Minh, để giải phóng con người phải đi từ giải phóng
những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ.
Lý tưởng phấn đấu của chủ nghĩa xã hội là không trừu tượng mà cụ thể và
gắn liền lợi ích của con người, vì con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”1. Mục đích vì hạnh phúc con người được khẳng định trong những đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng ,
dân chủ, văn minh.
Xuất phát từ quan điểm coi con người là vốn quý nhất của chủ nghĩa
xã hội, trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí
Minh luôn luôn coi con người là vốn quý nhất, trong đó nhấn mạnh nhân
dân. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2. Con người được giác ngộ,
được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả! “Người là gốc của
làng nước”3. Từ quan điểm coi con người, trước hết nhân dân lao động là
vốn quý, đòi hỏi phải kính trọng nhân dân, vì lợi ích nhân dân: “ Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”4.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh
giành thắng lợi cho cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nối tiếp truyền
thống nhân đạo của dân tộc, có quan điểm nhất quán luôn luôn bảo vệ con
người, hạn chế mức thấp nhất sự hy sinh xương máu của nhân dân, trân trọng
1
2
3
4
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4. tr. 56.
Sđd, t. 8, tr. 276.
Sđd, t. 5, tr. 99.
Sđd, t. 4. tr. 56 – 57.
81
sinh mệnh con người, tiếp kiệm sức người và luôn quan tâm đến chính sách
khoan thư sức dân.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh là luôn luôn
tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin tưởng sức mạnh tuyệt đối
của nhân dân. Trên cơ sở nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực của con người và tin
tưởng ở con người, kể cả những người trong hoàn cảnh nhất định bị lầm đường
lạc lối, cần phải có lòng khoan dung rộng lớn đối với con người. Từ đó tin
tưởng vào sức mạnh của toàn dân được tổ chức, đoàn kết đấu tranh. Ngay thời
kỳ đầu thế kỷ XX, trong lúc bôn ba đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có
câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết
họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập .
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, Đảng và Hồ Chí Minh đã tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh
truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam, khẳng định: Công nông là
gốc cách mạng, nước lấy dân làm gốc. Thực chất đó là tư tưởng coi con
người là động lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi, đòi hỏi phải có
phương thức phát huy, sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người. Đảng
cộng sản Việt Nam đã giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực; giữa
mục tiêu gần và mục tiêu xa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đã cụ thể hoá mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
phù hợp giai đoạn mới của cách mạng. Đồng thời, từng bước hiện thực hóa mục
tiêu đó. Trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng, có sự kết hợp giữa lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó coi trọng phát huy vai trò động lực chính
trị- tinh thần. Để phát huy vai trò nhân tố con người, cần tổ chức mọi hoạt động
trên cơ sở khoa học, chú trọng tuyên truyền giáo dục, động viên kịp thời các
hành động tích cực của con người. Đảng và Nhà nước đã thi hành các chính
sách xã hội hướng tới con người, phát động các phong trào cách mạng, thông
qua đấu tranh cách mạng để phát huy nhân tố con người. Đồng thời phát hiện,
khắc phục các nhân tố tiêu cực, chống chủ nghĩa cá nhân.
82
2.2. Về chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chiến lược con người là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế-xã
hội. Trong giai đoạn đổi mới đất nước toàn diện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, con người được đặt ở vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Xây dựng con người có tầm quan trọng đặc biệt, phải đi trước một bước so với
hoàn cảnh kinh tế xã hội. Thực chất là chuẩn bị nhân tố con người cho sự phát triển xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa”1.
Mục tiêu của chiến lược con người là phát triển con người toàn diện,
vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong đó ưu tiên đạo đức cách mạng, coi đức là
gốc. Đào tạo ra những người công dân và những cán bộ tốt, kế tục xứng
đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong chiến lược con
người, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc phải đặt lên hàng
đầu, “công việc gốc của Đảng”. Phải đào tạo được những con người biết
làm việc, làm người, làm cán bộ. Đặc biệt, quan tâm đến giáo dục- đào tạo
thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước.
Mô hình con người xã hội chủ nghĩa là con người kế thừa, phát triển
những giá trị truyền thống và giá trị cách mạng lên tầm cao mới. Nhân cách
con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được Hồ Chí Minh khái quát là
Đức và Tài, tức là phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức là cái gốc của
người cách mạng. “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”2.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam được biểu hiện ở các đặc
trưng: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với Tổ quốc, nhân dân
và Đảng; có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có
đạo lý truyền thống con người Việt Nam: nhân ái, bao dung, hiếu thảo,
khiêm tốn, trung thực, giản dị, đoàn kết cộng đồng, dễ thích nghi; dũng cảm,
mưu trí sáng tạo; yêu lao động; có ý thức tổ chức kỷ luật; ham học hỏi, cầu tiến
1
2
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 448.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 283.
83
bộ; có năng lực chuyên môn tốt; có tri thức hiện đại; có đời sống văn hoá - tinh
thần lành mạnh, phong phú và có khả năng hội nhập trong đời sống xã hội hiện
đại.
Phẩm chất và năng lực con người Việt Nam gắn với nhiệm vụ cách
mạng và từng giai đoạn lịch sử cụ thể, được khái quát thành mô hình nhân
cách cụ thể như nhân cách đảng viên, nhân cách người cán bộ, quân nhân,
công an, phụ nữ, nông dân, công nhân, thanh niên, học sinh, nhi đồng... Đó là mô
hình nhân cách của những người làm những chức trách, nhiệm vụ khác nhau.
Hiện nay, phương thức xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện đổi
mới, cần coi trọng tác động đến nhu cầu, lợi ích; lấy tự tu dưỡng, tự rèn luyện là
chính. Thông qua tập thể, thông qua phong trào thi đua, thông qua hoạt động thực
tiễn để đào tạo bồi dưỡng con người. Thực hành thường xuyên phê bình và tự
phê bình, noi gương người tốt, việc tốt. Giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách
mạng, đồng thời kết hợp với chống chủ nghĩa cá nhân. Tiếp tục chỉnh đốn
Đảng, lấy việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên làm nòng cốt.
2.3. Những động lực lớn phát huy nhân tố con người trong đổi mới đất
nước và trong xây dựng quân đội
* Trước hết là quan tâm đến lợi ích của con người.
Theo quy luật chung, lợi ích là động lực tích cực hoá nhân tố con
người. Quan tâm lợi ích con người, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người chính là hiện thực hoá quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh coi con
người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển của cách mạng Việt Nam.
Mục đích chủ nghĩa xã hội là vì tự do, hạnh phúc con người, thoả mãn nhu
cầu ngày càng cao của con người cả vật chất và tinh thần. Quan tâm lợi ích con
người để con người trở thành chủ thể tích cực xây dựng xã hội mới. Con người
vừa là vốn quý, vừa là nguồn sức mạnh vô tận của sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.
Đòi hỏi kết hợp giáo dục giá trị và đổi mới hoàn thiện chính sách xã hội.
Định hướng giá trị - lợi ích cho con người. Chỉ có trên cơ sở quan niệm giá
trị đúng đắn, phù hợp với lợi ích chân chính, con người mới có nhận thức và
84
hành động đúng đắn. Định hướng giá trị – lợi ích còn để khắc phục sự lệch
chuẩn giá trị trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
làm cho con người có mục tiêu, lý tưởng, có hoài bão phấn đấu đúng đắn,
góp phần tích cực vào sự phát triển xã hội.
Thực hiện chính sách xã hội nhằm kết hợp hài hoà các lợi ích, điều chỉnh
quan các hệ xã hội. Các chế độ, chính sách, pháp luật nhà nước phải được cụ
thể hoá để thực sự trở thành công cụ thực hiện công bằng xã hội, từng bước
hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội.
* Thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội. Dân chủ hoá đời
sống xã hội là một quá trình xây dựng những tiền đề, điều kiện cho mọi hoạt
động của con người được thực hiện trên cơ sở dân chủ, bảo đảm cho giá trị
dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện đầy đủ trong đời sống xã hội nhằm
phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
Để thực hiện dân chủ hoá cần tập trung một số giải pháp cơ bản.
Trước hết cần phải thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, thực sự làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ xã hội mới. Phối
hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Khắc phục mọi biểu hiện
dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để chống lại chế độ.
Phát huy dân chủ đi đôi tăng cường kỷ luật, pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Lấy dân chủ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước làm nòng cốt cho
dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà
nước- công cụ của nhân dân lao động làm chủ xã hội, khắc phục biểu hiện
quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ
sở, tăng cường dân chủ, giải phóng mọi năng lực sáng tạo nhằm ổn định
chính trị xã hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi...
* Đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục đào tạo. Phải thực sự coi giáo
dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển toàn diện con người Việt
Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục là sự
85
nghiệp có tính chiến lược. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”1.
Mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển nhân
lực, đào tạo nhân tài, trên nền tảng phát triển nhân cách con người Việt Nam
vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Phương hướng nhiệm vụ của sự nghiệp giáo dục
là phải giải quyết tốt quan hệ đào tạo và sử dụng, giải quyết tốt việc làm cho
người lao động. Nâng cao trình độ dân trí và phát triển nguồn nhân lực.
Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đào tạo. Tiếp tục đổi mới toàn diện
công tác giáo dục đào tạo phù hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại, quan điểm triết học Mác – Lênin về con người và phát huy
nhân tố con người là toàn diện, phong phú và sâu sắc. Toàn bộ mục đích cao
nhất và bao trùm nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, và giải phóng con người. Tư tưởng về con người và phát huy
nhân tố con người đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh phát
triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan
điểm triết học Mác - Lênin vì con người và phát huy nhân tố con người có ý
nghĩa khoa học và cách mạng to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước và
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 9, tr. 222.
86
87
Download