PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Khái niệm và đối tượng của triết học Mác - Lênin 1.1. Khái niệm triết học Mác - Lênin Do nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải tìm cách thích nghi và cải tạo thế giới. Chính vì vậy, con người luôn luôn phải tìm hiểu về thế giới xung quanh và tìm hiểu bản thân mình. Quá trình tìm tòi, giải đáp các vấn đề nói trên luôn luôn diễn ra trong tiến trình lịch sử, đã hình thành và phát triển nên những quan niệm nhất định về thế giới và con người. Kể từ khi xã hội phân chia giai cấp, có sự tách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, triết học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội mới thực sự xuất hiện. Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó. Lịch sử triết học có nhiều cách trả lời khác nhau đối với các vấn đề của thế giới xung quanh ta, nhưng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là duy vật hoặc duy tâm; hai phương pháp nhận thức chính là biện chứng hoặc siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng chính là sự phát triển của trình độ quan điểm nhận thức, của phương pháp tư duy nhân loại thông qua cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đây cũng là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, tạo nên động lực bên trong của sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Đó là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại, là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan 2 điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội. Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau. Với tư cách là chủ nghĩa duy vật, triết học Mác - Lênin là hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học - chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tư cách là phép biện chứng, triết học Mác - Lênin là hình thức cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học - phép biên chứng duy vật. Triết học Mác - Lênin ra đời là kết quả của sự kế thừa và phát triển những thành tựu của tư duy triết học nhân loại. Đồng thời, là kết quả của sự khái quát hoá những thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của lực lượng vật chất - xã hội năng động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công nhân để nhận thức và cải tạo xã hội. Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin đang đứng ở đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất của các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác - Lênin là học thuyết về sự phát triển thế giới, đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại. 1.2. Đối tượng của triết học Mác - Lênin Với tư cách là một khoa học, triết học có đối tượng nghiên cứu của mình. Đối tượng của triết học là một vấn đề vẫn đang tranh luận từ trước đến nay trong lịch sử triết học. Triết học Mác - Lênin mang bản chất khoa học và cách mạng, kể từ khi ra đời đến nay đã khẳng định đối tượng của mình. Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 3 Đối tượng của triết học Mác - Lênin thể hiện sự thống nhất giữa biện chứng khách quan với biện chứng chủ quan. Do giải quyết vấn đề cơ bản của triết học triệt để trên lập trường duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin chỉ ra được các quy luật vận động, phát triển chung nhất của thế giới. Cả thế giới khách quan và nhận thức, tư duy của con người đều tuân theo những quy luật biện chứng. Các quy luật biện chứng của thế giới, về nội dung là khách quan nhưng về hình thức phản ánh là chủ quan. Biện chứng chủ quan là sự phản ánh của biện chứng khách quan. Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ ra những quy luật chung nhất của cả tự nhiên và cả lịch sử xã hội. Các quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng là những quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của thế giới. Các quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là quy luật chung nhất chi phối sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội; đó là quy luật biện chứng của lịch sử. Đối tượng của triết học Mác - Lênin chứa đựng trong đó vấn đề con người. Triết học Mác - Lênin xuất phát từ con người, từ thực tiễn, chỉ ra những quy luật của sự vận động, phát triển của xã hội và của tư duy con người. Mục đích của Triết học Mác- Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình nhận thức và thực tiễn nhằm phục vụ lợi ích con người. Triết học Mác - Lênin chứa đựng sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Trong triết học Mác- Lênin, những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy đã thể hiện sự đồng nhất giữa biện chứng của thế giới với biện chứng của quá trình nhận thức và biện chứng của quá trình tư duy. Tuy nhiên đây là sự đồng nhất trong khác biệt. Trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp. Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng hoà quyện với nhau tạo nên một lý luận thống nhất - lý luận biện chứng duy vật. Trong lịch sử triết học chỉ có triết học Mác - Lênin mới có được sự thống nhất hữu cơ này. Các học thuyết, trường phái triết học trước đó về nguyên tắc là không kết hợp được chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã loại trừ phép biện chứng. Phép biện chứng duy tâm đã loại trừ chủ 4 nghĩa duy vật. Cả hai rốt cuộc đều duy tâm về xã hội và xuyên tạc phép biện chứng. Với tính cách là hệ thống lý luận, triết học Mác - Lênin là lý luận phản ánh khái quát quá trình vận động, phát triển của thế giới hiện thực. Với tư cách là hệ phương pháp, triết học Mác - Lênin là phương pháp biện chứng duy vật trong nhận thức và cải tạo thế giới. Ngay trong phương pháp biện chứng duy vật, cả phương pháp biện chứng và phương pháp duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng. Với triết học Mác - Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa học cụ thể đã được phân biệt. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động cả ba lĩnh vực trên đây. Triết học Mác - Lênin với các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, không những không loại trừ nhau mà còn bổ sung cho nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất định. Triết học Mác - Lênin là sự khái quát bậc cao những kết quả của khoa học cụ thể, vạch ra những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy trở thành cơ sở thế giới quan, phương pháp luận cho những khoa học cụ thể. Quan hệ giữa quy luật của triết học và quy luật của khoa học cụ thể là quan hệ cái chung và cái riêng. Sự kết hợp giữa hai loại khoa học, hai loại tri thức nói trên là tất yếu. Bất cứ một khoa học cụ thể nào, dù tự giác hay tự phát đều phải dựa vào một cơ sở triết học nhất định. Kết cấu của triết học Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng chung nhất về thế giới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử vừa là sự vận dụng, vừa là sự mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nhận thức lịch sử xã 5 hội. Sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm cho triết học Mác - Lênin là triết học duy vật biện chứng thực sự sâu sắc, hoàn bị và triệt để. Ngoài hai bộ phận chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử còn có các nội dung khác thuộc bộ môn triết học Mác Lênin là: lịch sử triết học, lôgíc học, đạo đức học, chủ nghĩa vô thần khoa học, mỹ học, học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội. 2. Chức năng của triết học Mác - Lênin 2.1. Chức năng thế giới quan Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, hệ thống quan điểm duy vật mácxít là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Đây chính là “cặp kính” triết học để con người xem xét, nhận dạng thế giới, xét đoán mọi sự vật, hiện tượng và xem xét chính mình. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống. Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình. Trên một ý nghĩa nhất định, thế giới quan cũng đóng một vai trò của phương pháp luận. Giữa thế giới quan và phương pháp luận trong triết học Mác - Lênin có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là một tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định. 6 Các khoa học đều góp phần giúp con người hình thành thế giới quan đúng đắn. Trong đó, thế giới quan triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan của con người phát triển như một quá trình tự giác. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động. 2.2. Chức năng phương pháp luận Phương pháp luận là hệ thống về những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn. Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, những quy tắc, những yêu cầu, những chỉ thị của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật. 2.3. Các chức năng khác của triết học Mác - Lênin Ngoài hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận, triết học Mác - Lênin còn có các chức năng khác như: chức năng nhận thức; giáo dục; chức năng dự báo khoa học; chức năng đánh giá - phê phán... Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng nhận thức.Việc trang bị một hệ thống tri thức triết học sẽ giúp cho con người có khả năng bao quát dưới hình thức lý luận chung nhất kho tàng tri thức nhân loại. Hệ thống tri thức triết học sẽ giúp cho con người nâng cao khả năng tích 7 hợp các tri thức của khoa học cụ thể và là cơ sở để nhận thức sâu sắc hệ thống tri thức đó. Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng giáo dục con người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Trên cơ sở thế giới quan khoa học, con người sẽ có một nhân sinh quan tích cực. Các quy luật của triết học là quy luật chung nhất, phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, được khái quát dựa trên cơ sở những kiến thức của khoa học cụ thể. Do vậy, quy luật của triết học mang trong mình chức năng dự báo khoa học, chỉ đạo, định hướng cho các khoa học cụ thể tiếp tục đi sâu khám phá bản chất thế giới. Với thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, triết học Mác Lênin là chuẩn mực khoa học để phê phán mọi thế giới quan duy tâm, sai lầm và phương pháp siêu hình. Với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn, triết học Mác - Lênin không chỉ có khả năng tích hợp được kiến thức khoa học cụ thể mà còn làm chuẩn mực để đánh giá về mặt triết học các kiến thức khoa học cụ thể và phê phán các quan điểm sai lầm, duy tâm, phản động trong các khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là một đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học con người cần phải có tri thức khoa học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động xã hội. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn không được xem thường hoặc tuyệt đối hoá triết học. Nếu xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ mất phương hướng, thiếu chủ động, sáng tạo trong công tác. Nếu tuyệt đối hoá vai trò triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng sẽ giúp mỗi người tránh được những sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra. 3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết về lý luận và thực tiễn hiện nay 3.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của đời sống xã hội 8 Trong thời đại ngày này, vai trò của triết học Mác - Lênin không giảm đi mà trái lại ngày càng được nâng cao. Điều đó, trước hết do những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại quy định. Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang phát triển mạnh mẽ. Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải biến về chất các lực lượng sản xuất trên cơ sở biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đặc điểm nổi bật của nó là sự tăng lên mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền sản xuất vật chất và các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo thời cơ và thách thức cho các quốc gia, dân tộc trên con đường phát triển. Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài người bước vào thế kỷ XXI với những giới hạn nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc. Trước tình hình đó, triết học Mác - Lênin đóng một vai trò rất quan trọng, là cơ sở lý luận – phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp, tích luỹ và truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Dù tự giác hay tự phát thì khoa học hiện đại phát triển phải dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời những giới hạn mới của hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi triết học Mác - Lênin phải có bước phát triển mới. Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá xã hội đang không ngừng tăng lên. Bản chất của toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động, phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà nguyên nhân đồng thời cũng là biểu hiện của nó là sự phát triển và chi phối của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, một xu thế bổ sung và phản ứng lại là xu thế khu vực hoá. Toàn cầu hoá đem lại sự ra đời của hàng loạt tổ chức quốc tế và khu vực. 9 Toàn cầu hoá là một qúa trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia, dân tộc, đặc biệt là các nước kém phát triển. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực tư bản chủ nghĩa đang lợi dụng toàn cầu hoá để âm mưu thực hiện toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, toàn cầu hoá là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc với các nước đang phát triển, các dân tộc chậm phát triển. Trong bối cảnh đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận khoa học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, tương quan so sánh lực lượng bất lợi cho các lực lượng cách mạng, tiến bộ. Chủ nghĩa đế quốc đang tạm thời thắng thế. Đế quốc Mỹ đang ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Mặc dù vậy, phong trào công nhân, phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc vẫn tồn tại, phục hồi dần, đang tập hợp, phát triển lưu lượng, tìm tòi các phương thức và phương pháp đấu tranh mới. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá cùng với những vấn đề toàn cầu, thời đại đang làm cho tính chỉnh thể của thế giới tăng lên, hợp tác và đấu tranh trong xu thế cùng tồn tại hoà bình. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại nhưng đã mang những đặc điểm mới, hình thức mới. Cùng với nó là một loạt các mâu thuẫn khác mang tính toàn cầu cũng đang nổi lên gay gắt. Thế giới trong thế kỷ XXI vẫn tồn tại và phát triển trong hệ thống mâu thuẫn đó, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, loài người phải có lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Lý luận đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. 10 Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kể từ khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tỏ rõ tính ưu việt của một mô hình xã hội mới do con người, vì hạnh phúc con người. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội hiện thực, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã bộc lộ những hạn chế của nó mà nổi bật nhất là một cơ chế xã hội mang tính tập trung, quan liêu, bao cấp. Chính trong tình trạng hiện nay, cần phải có một cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng để lý giải, phân tích sự khủng hoảng, xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới và phương hướng khắc phục để phát triển. Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. Công cuộc đổi mới toàn diện xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa được mở đường bằng đổi mới tư duy lý luận, trong đó có vai trò của triết học Mác - Lênin. Triết học phải góp phần tìm được lời giải đáp về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời qua thực tiễn để bổ sung, phát triển tư duy lý luận. Triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học của đổi mới tư duy đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng quốc phòng và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Cuộc cách mạng trên lĩnh vực quân sự hiện đại đem đến sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật quân sự cũng như về khoa học nghệ thuật quân sự và sự thay đổi nhanh chóng phương thức tiến hành chiến tranh. Điều đó đòi hỏi tất yếu phải đổi mới mạnh mẽ và sâu sắc về tư duy quốc phòng và quân sự. Thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội trong giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi phải đổi mới tư duy lý luận nói chung và tư duy triết học Mác - Lênin nói riêng một cách đúng đắn, sáng tạo. Vai trò của triết học Mác - Lênin rất quan trọng còn do chính yêu cầu đổi mới nhận thức triết học hiện nay. Bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận, việc nhận thức và vận dụng lý luận Mác - Lênin, trong đó có triết học, sau một thời gian dài mắc phải giáo điều, xơ cứng, lạc hậu, bất cập, là một 11 trong những nguyên nhân của sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới. Nhiều vấn đề lý luận, do những hạn chế của điều kiện lịch sử mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác chưa luận giải mọt cách đầy đủ hoặc chưa thể dự báo hết. Do đó việc tiếp tục bổ sung, đổi mới là nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học Mác – Lênin trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của triết học Mác - Lênin ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin để phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước. 12 VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT 1. Phạm trù vật chất Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng trải qua một lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của khoa học và thực tiễn. 1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất Các nhà triết học duy tâm, cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan, từ thời cổ đại, trung đại đến thời hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng. Họ cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự vật, hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại khác của ý thức, do đó về mặt nhận thức luận, con người hoặc là không thể, hoặc là chỉ nhận thức được cái bóng, cái bề ngoài của sự vật, hiện tượng. Thậm chí quá trình nhận thức của con người theo họ, chẳng qua chỉ là quá trình ý thức đi “tìm lại” chính bản thân mình dưới hình thức khác mà thôi. Như vậy về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất, qua đó chống lại chủ nghĩa duy vật bằng cách phủ nhận phạm trù nền tảng của nó. Thế giới quan trên đây rất gần với thế giới quan tôn giáo và tất yếu dẫn họ đến với thần học. Trái lại, việc khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan không lệ thuộc vào ý thức con người lại là quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật. Nếu chủ nghĩa duy tâm phủ nhận đặc tính khách quan của vật chất, dựa vào lực lượng tinh thần để giải thích thế giới, thì chủ nghĩa duy vật thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C. Mác sớm đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. 13 Tuy vậy, cùng với những tiến bộ của lịch sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng từng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hơn. Khuynh hướng chung trong phương pháp và quan niệm của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm ra và đồng nhất vật chất với một vật thể cụ thể đặc biệt, hay một nguyên thể nào đó. Vật thể này vừa là bản nguyên đầu tiên sinh ra mọi sự vật, hiện tượng khác; vừa là thực thể duy nhất mà mọi sự vật, hiện tượng sẽ hoá thành khi phân huỷ, diệt vong. Vật thể hay thực thể đó, chẳng hạn với Talét là nước, với Anaximen là không khí, còn với Hêraclít lại là lửa. Trong cuốn "Bàn về những nguyên lý của sự sống", Hêraclít viết: “Thế giới, một chỉnh thể gồm mọi vật, không phải là do bất cứ một thần thánh, hoặc là bất cứ một người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ còn là một ngọn lửa vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy luật…”(1). Bên cạnh khuynh hướng chung trên đây, một số nhà triết học duy vật cổ đại khác, nhất là ở phương Đông lại cho rằng thế giới các sự vật, hiện tượng là do một đa nguyên thể hay một số yếu tố vật chất đầu tiên tạo thành. Chẳng hạn, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Empeđôclơ (khoảng 490 – 430 trước CN) và trường phái triết học Lôkayata ở ấn Độ cổ đại đều cho rằng, bốn yếu tố: đất, nước, lửa (hay ánh sáng), không khí (hay gió) sinh ra mọi vật. Còn thuyết Ngũ hành ở Trung Quốc cổ đại lại cho rằng, mọi vật là do năm yếu tố: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tạo nên. Trong một chừng mực nhất định, so với quan niệm nhất nguyên thể thì quan niệm đa nguyên thể là hợp lý hơn, vì đã chú ý đến tính phức tạp trong cấu trúc của vật chất. Bước tiến mới trên con đường xây dựng quan niệm duy vật về vật chất được thể hiện trong quan niệm của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximan. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn đó là Apeirôn. Theo ông, Apeiyrôn luôn ở trong trạng thái vận động không ngừng và từ đó nảy sinh ra những mặt đối lập chất chứa trong nó như nóng và lạnh, khô và ướt, sinh ra và chết đi v.v.. Đây là một cố gắng muốn thoát ly cách nhìn trực quan về vật (1) V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, tập 29, tr. 371. 14 chất, muốn tìm một bản chất sâu sắc hơn đằng sau mặt cảm tính bên ngoài các hiện tượng. Tuy nhiên, khi Anaximan cho rằng Apeirôn là một cái gì đó ở giữa nước và không khí thì ông vẫn chưa vượt khỏi hạn chế của các quan niệm trước đó về vật chất. Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại là Lơxíp (khoảng 500 – 440 trước CN) và Đêmôcrít (khoảng 427 – 374 trước CN). Hai ông cho vật chất là nguyên tử, căn nguyên của vật chất là nguyên tử. Nguyên tử theo họ là những hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác nhau về chất, tồn tại vĩnh viễn và sự phong phú của chúng về hình dạng, tư thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật. Theo thuyết nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là một lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng. Quan niệm này không những thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết học duy vật trong quá trình tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất mà còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học tài tình của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng khác với các quan niệm về vật chất đương thời, thuyết nguyên tử vẫn được các triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ Phục hưng và cận đại (thế kỷ XV – XVIII) như Galilê, Bêcơn, Hốpxơ, Xpinôda, Hônbách, Điđơrô, Niutơn… tiếp tục nghiên cứu, khẳng định trên lập trường duy vật. Đặc biệt, những thành công kỳ diệu của Niutơn trong vật lý học cổ điển (nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên) và việc khoa học vật lý thực nghiệm chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử càng làm cho quan niệm trên đây được củng cố thêm. Song, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên nhìn chung các nhà triết học duy vật thời kỳ cận đại đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn từ những thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời. Họ thường đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ 15 học như những chân lý không thể thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần tuý cơ học; xem vật chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối liên hệ nội tại với nhau… Cũng có một số nhà triết học thời kỳ này cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên tử (chẳng hạn như Đềcáctơ, Cantơ…) nhưng không nhiều và không thể làm thay đổi căn bản cái nhìn cơ học về thế giới, không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới về phạm trù vật chất. 1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử. Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến, mà thay đổi theo vận tốc vận động của nguyên tử. Năm 1898 – 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium. Những phát hiện vĩ đại đó chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hoá. Năm 1905, thuyết tương đối hẹp và năm 1916, thuyết tương đối tổng quát của A Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Thế giới vật chất không có và không thể có những vật thể không có kết cấu, tức là không thể có đơn vị cuối cùng, tuyệt đối đơn giản và bất biến để đặc trưng chung cho vật chất. Thế giới ấy còn nhiều điều “kỳ lạ” mà con người đã và đang tiếp tục khám phá, chẳng hạn như: sự chuyển hoá giữa hạt và trường, sóng và hạt, hạt và phản hạt, “hụt khối lượng”, quan hệ bất định, v.v.. Điều này đã khẳng định dự đoán thiên tài của V. I. Lênin cho rằng “điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận”1 là hoàn toàn đúng đắn. Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng: 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 323 16 nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, mà có thể bị phân chia, tan rã, bị “mất đi”, do đó vật chất cũng có thể biến mất; có hiện tượng không có khối lượng cơ học, hạt chuyển thành trường, cũng có nghĩa là vật chất chỉ còn là năng lượng, là sóng phi vật chất; quy luật cơ học không còn tác dụng gì trong thế giới vật chất “kỳ lạ”, thế giới tồn tại không có quy luật, mọi khoa học trở thành thừa và nếu có chăng cũng chỉ là sự sáng tạo tuỳ tiện của tư duy con người; khách thể tiêu tan, chủ thể trở thành cái có trước, cái còn lại duy nhất là chúng ta và cảm giác cùng tư duy của chúng ta để tổ chức những cảm giác đó. Theo đó, E.Makhơ phủ nhận luôn tính hiện thực khách quan của điện tử. Ốtvan phủ nhận sự tồn tại thực tế của nguyên tử và phân tử. Còn Piếcsơn thì định nghĩa: “Vật chất là cái phi vật chất đang vận động”(!). Đây chính là cuộc khủng hoảng vật lý học hiện đại mà thực chất của nó, như V. I. Lênin khẳng định: “là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”2. Tình hình trên đã làm cho nhiều nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm. V. I. Lênin gọi đó là “chủ nghĩa duy tâm vật lý học” và coi đó là “một bước ngoặt nhất thời”, là “thời kỳ ốm đau ngắn ngủi”, là “chứng bệnh của sự trưởng thành”, là “một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác”. Để khắc phục cuộc khủng hoảng này; V. I. Lênin cho rằng: “Tinh thần duy vật cơ bản của vật lý học, cũng như của tất cả các khoa học tự nhiên hiện đại, sẽ chiến thắng tất cả mọi thứ khủng hoảng, nhưng với điều kiện tất yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”3. 1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về phạm trù vật chất C. Mác và Ph. Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đã đưa ra những tư tưởng hết sức thiên tài về vật chất. Theo Ph. Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự phân 2 3 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 318. Sđd, tr.379. 17 biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học, một sáng tạo của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực, tức vật chất với tính cách là vật chất, với bản thân các sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới vật chất. Bởi vì “vật chất với tính cách là vật chất, một sáng tạo thuần tuý của tư duy, và là một trừu tượng thuần tuý… Do đó, khác với những vật chất nhất định và đang tồn tại, vật chất với tính cách là vật chất không có sự tồn tại cảm tính”1. Đồng thời, Ph. Ăngghen cũng chỉ ra rằng, bản thân phạm trù vật chất cũng không phải là sự sáng tạo tuỳ tiện của tư duy con người, mà trái lại, là kết quả của “con đường trừu tượng hoá” của tư duy con người về các sự vật, hiện tượng “có thể cảm biết được bằng các giác quan”2. Đặc biệt, Ph. Ăngghen khẳng định rằng, xét về thực chất, nội hàm của các phạm trù triết học nói chung, của phạm trù vật chất nói riêng chẳng qua chỉ là “sự tóm tắt trong chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung”3 của tính phong phú, muôn vẻ nhưng có thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất. Ph. Ăngghen chỉ rõ, các sự vật, hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất - tính tồn tại, độc lập không lệ thuộc vào ý thức. Để bao quát được tất cả hết thảy các sự vật, hiện tượng cụ thể, thì tư duy cần phải nắm lấy đặc tính chung này và đưa nó vào trong phạm trù vật chất. Ph. Ăngghen giải thích: “Ête có tính vật chất không? Dù sao nếu ête tồn tại thì nó phải có tính vật chất, nó phải nằm trong khái niệm vật chất”4. Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V. I. Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn hoặc xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất, mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển xuất sắc quan niệm duy vật biện chứng về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật. 1 2 3 4 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 751. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 751. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 751. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 751. 18 Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V. I. Lênin đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Thông thường, để định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta thực hiện theo cách quy khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó rồi chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của nó. Nhưng, theo V. I. Lênin, vật chất thuộc loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên không thể có một khái niệm nào rộng hơn nữa. Do đó, không thể định nghĩa khái niệm vật chất theo phương pháp thông thường mà phải dùng một phương pháp đặc biệt định nghĩa nó thông qua khái niệm đối lập với nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý thức. V. I. Lênin viết: “Không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước”1. Với phương pháp nêu trên, trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V. I. Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”2. Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung sau đây: Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, ở bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức. Khi nói vật chất là một phạm trù triết học là muốn nói phạm trù này là sản phẩm của sự trừu tượng hoá, không có sự tồn tại cảm tính. Nhưng khác về nguyên tắc với mọi sự trừu tượng hoá mang tính chất duy tâm chủ nghĩa về phạm trù này, V. I. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái “Đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta”3. Nói cách khác, tính 1 2 3 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 171. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 151. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 321. 19 trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, do đó, không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức của con người. Vật chất là hiện thực chứ không phải là hư vô và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan. Đây cũng chính là cái “phạm vi hết sức hạn chế” mà ở đó, theo V. I. Lênin sự đối lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối. Tuyệt đối hoá tính trừu tượng của phạm trù này sẽ không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy tâm. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá tính hiện thực cụ thể của phạm trù này sẽ đồng nhất vật chất với vật thể, và đó là thực chất quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vấn đề này. Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng từ vi mô đến vĩ mô, từ những cái đã biết đến những cái chưa biết, từ những sự vật “giản đơn nhất” đến những hiện tượng vô cùng “kỳ lạ”, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, nghĩa là đều thuộc phạm trù vật chất, đều là các dạng cụ thể của vật chất. Cả con người cũng là một dạng vật chất, là sản phẩm cao nhất trong thế giới tự nhiên mà chúng ta đã biết. Xã hội loài người cũng là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Khẳng định trên đây có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phê phán thế giới quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng làm phong phú tri thức của con người về thế giới. Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác. Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật chất, V. I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện thực của mình dưới dạng các thực thể. Các thực thể này do những đặc tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại cho con người những cảm giác. Chủ nghĩa duy vật triết 20 học không bàn đến vật chất một cách chung chung, mà bàn đến nó trong mối quan hệ với ý thức của con người. Trong đó, xét trên phương diện nhận thức luận thì vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất, là cội nguồn của cảm giác (ý thức); còn cảm giác (ý thức) là cái có sau, là tính thứ hai, là cái phụ thuộc vào vật chất. Đó cũng là câu trả lời theo lập trường nhất nguyên duy vật của V. I. Lênin đối với mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học. Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức của con người có thể phản ánh được. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức…), lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy (nội dung của chúng) chẳng qua cũng chỉ là chép lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan. Như vậy, cảm giác là cơ sở duy nhất của mọi sự hiểu biết, song bản thân nó lại không ngừng chép lại, chụp lại, phản ánh hiện thực khách quan, nên về nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có cái gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biết và những cái chưa biết, do hạn chế của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Cùng với sự phát triển của khoa học, các giác quan của con người ngày càng được “nối dài”, giới hạn nhận thức của các thời đại bị vượt qua, bị mất đi chứ không phải vật chất mất đi như những người duy tâm quan niệm. Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Ngày nay, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới mẻ càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của V. I. 21 Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất nói chung và định nghĩa vật chất của V. I. Lênin nói riêng, không những đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp những nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này. Đồng thời, nó còn tạo cơ sở cho sự liên kết giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết là các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa quy luật khách quan của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người. 2. Các hình thức tồn tại của vật chất 2.1. Vận động Sự tồn tại của thế giới vật chất hết sức phong phú và phức tạp. Vì thế, với tư cách là một khái niệm triết học khái quát hình thức tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng vật chất, vận động không được hiểu như một hình thức vận động cụ thể nào đó mà phải được hiểu theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Ph. Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Trước hết, vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất. Không ở đâu và ở nơi nào lại có thể có vật chất không vận động. Các dạng tồn 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr.751. 22 tại cụ thể của vật chất không thể không có thuộc tính vận động. Thế giới vật chất, từ những thiên thể khổng lồ đến những hạt cơ bản vô cùng nhỏ, từ giới vô cơ đến giới hữu cơ, từ hiện tượng tự nhiên đến hiện tượng xã hội, tất cả đều ở trạng thái không ngừng vận động, biến đổi. Sở dĩ như vậy là vì, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu nhất định giữa các nhân tố, các khuynh hướng, các bộ phận khác nhau, đối lập nhau. Trong hệ thống ấy, chúng luôn tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và chính sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau ấy gây ra sự biến đổi nói chung, tức vận động. Như thế, vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú muôn vẻ vô tận. Do đó, con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật, hiện tượng bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động. Nhận thức sự vận động của một sự vật, hiện tượng chính là nhận thức bản thân sự vật, hiện tượng đó. Nhiệm vụ của mọi khoa học, suy đến cùng và xét về thực chất là nghiên cứu sự vận động của vật chất trong các phạm vi, lĩnh vực, trình độ, kết cấu khác nhau. Ph. Ăngghen khẳng định: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ ra qua vận động; về một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả”1. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng có vận động mà không có vật chất, tức là có lực lượng phi vật chất vận động bên ngoài thế giới vật chất. Một số nhà duy tâm còn viện dẫn cả những thành tựu của khoa học hiện đại để minh chứng cho quan điểm của chủ nghĩa duy năng vốn ra đời từ thế kỷ XIX. Họ giải thích mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa khối lượng và năng lượng thành sự biến đổi của khối lượng thành năng lượng phi vật chất. V. I. Lênin cho rằng, quan niệm trên đây của các nhà triết học duy tâm chẳng qua chỉ là “thử dùng thuật ngữ “mới” để ngụy trang cho những sai lầm cũ về mặt nhận thức luận”2. 1 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 743. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18 , tr. 334. 23 Vận động là một thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất, do đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm về tính không thể tạo ra và không bị tiêu diệt của vận động đã được các nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Theo quy luật này, thì vận động của vật chất được bảo toàn cả về số lượng và chất lượng. Bảo toàn về lượng của vận động có nghĩa là tổng số vận động của vũ trụ là không không thay đổi, lượng vận động của sự vật này mất đi thì cũng ngang bằng lượng vận động của các sự vật khác nhận được. Bảo toàn về chất của vận động là bảo toàn các hình thức vận động và bảo toàn khả năng chuyển hoá của các hình thức vận động. Một hình thức vận động cụ thể thì có thể mất đi để chuyển hoá thành hình thức vận động khác, còn vận động nói chung thì tồn tại vĩnh viễn gắn liền với bản thân vật chất. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng, được biểu hiện ra với các quy mô, trình độ và tính chất hết sức khác nhau. Việc khám phá và phân chia các hình thức vận động của vật chất diễn ra cùng với sự phát triển nhận thức của con người. Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã chia vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội. Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh, nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp. Việc phân chia các hình thức vận động cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân chia đối tượng và xác định mối quan hệ giữa các ngành khoa học, đồng thời cũng cho phép vạch ra các nguyên lý đặc trưng cho sự tương quan giữa các hình thức vận động của vật chất. Trong tương lai, khoa học hiện đại có thể sẽ phát hiện ra những trình độ tổ chức vật chất mới, và do đó, cũng có thể tìm ra những hình thức vận động mới (chẳng hạn như hiện nay người ta đang coi thông tin như là hình thức vận động mới của vật chất), 24 cho nên có thể và cần phải phát triển, bổ sung cho sự phân loại nói trên của Ph. Ăngghen, mặc dù những nguyên tắc căn bản của sự phân loại đó vẫn giữ nguyên giá trị. Các hình thức vận động tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời nhau. Giữa hai hình thức vận động cao và thấp có thể có hình thức vận động trung gian, đó là những mắt khâu chuyển tiếp trong quá trình chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động. Tuy nhiên, những kết cấu vật chất đặc thù bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản nhất định và khi đó các hình thức vận động khác chỉ tồn tại như những nhân tố, những vệ tinh của hình thức vận động cơ bản. Vì vậy, vừa phải thấy mối liên hệ giữa các hình thức vận động, vừa phải phân biệt sự khác nhau về chất của chúng. Các nhà triết học duy vật thế kỷ XVII và XVIII, do quan niệm máy móc và siêu hình, đã quy mọi hình thức vận động thành một hình thức duy nhất là vận động cơ học. Họ coi hoạt động của giới tự nhiên và của cả con người không gì khác hơn là hoạt động của một cỗ máy. Việc quy hình thức vận động phức tạp thành hình thức vận động giản đơn được gọi là chủ nghĩa cơ giới. Quan niệm sai lầm của chủ nghĩa cơ giới là nguyên nhân dẫn đến bế tắc trong việc lý giải những biến đổi của thế giới sinh vật và xã hội. Đến giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội, một biến tướng của chủ nghĩa cơ giới, lại quy vận động xã hội thành vận động sinh học, coi con người như là một sinh vật thuần tuý. Họ cho rằng sự tồn tại phát triển của xã hội là quá trình chọn lọc tự nhiên, trong đó con người cắn xé, tiêu diệt lẫn nhau để sinh tồn, kẻ nào mạnh, thích ứng được thì tồn tại, ngược lại sẽ bị tiêu diệt. Rõ ràng, thuyết tiến hoá của Đác-uyn là một khoa học chân chính; còn chủ nghĩa Đácuyn xã hội là sai lầm, bịa đặt vì nó hạ con người xuống hàng con vật. Sự ra đời của chủ nghĩa Đácuyn xã hội có nguồn gốc nhận thức, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân giai cấp. Nó là cơ sở lý luận cho sự áp đặt trật tự tư bản, biện hộ cho chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. V. I. Lênin cho 25 rằng dựa vào những khái niệm như “đấu tranh sinh tồn”, “đồng hoá”, “dị hoá” thì sẽ không hiểu gì về khoa học xã hội, và do đó không thể dán nhãn hiệu “sinh vật học” lên những hiện tượng xã hội như khủng hoảng kinh tế, cách mạng xã hội và đấu tranh giai cấp. Bởi vậy, nghiên cứu sự thống nhất và khác nhau của các hình thức vận động của vật chất vừa là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, giúp chúng ta đề phòng và khắc phục những sai lầm trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn xã hội. Vận động và đứng im. Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại còn bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. Như vậy, đứng im chỉ có tính tạm thời, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một thời điểm, chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó, ở một lúc nào đó, chứ không phải cùng một lúc đối với mọi hình thức vận động. Hơn nữa, đứng im chỉ là sự biểu hiện của một trạng thái vận động – vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Nói cách khác, đứng im là một dạng của vận động, trong đó sự vật chưa thay đổi căn bản về chất, nó còn là nó chứ chưa chuyển hoá thành cái khác. Quan niệm của phép biện chứng duy vật về vận động của vật chất đòi hỏi phải quán triệt quan điểm vận động vào nhận thức và thực tiễn. Quan điểm vận động đòi hỏi phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, đồng thời khi tiến hành cải tạo sự vật, hiện tượng phải thông qua những hình thức vận động vốn có, đặc trưng của chúng. 2.2. Không gian và thời gian 26 Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động, được con người khái quát khi nhận thức thế giới. Không có không gian và thời gian thuần tuý tách rời vật chất vận động. V. I. Lênin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”1. Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của nó. Cũng không thể có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại không có quảng tính, kết cấu nhất định. Tính chất của không gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, không gian và thời gian, về thực chất là một thể thống nhất không – thời gian. Vật chất có ba chiều không gian và một chiều thời gian. Sự phát triển của triết học và khoa học đã bác bỏ quan niệm sai lầm của Niutơn về một không gian, thời gian thuần tuý, đồng nhất. Đặc biệt, những hệ quả rút ra từ thuyết tương đối của A. Anhxtanh đã chứng minh rằng không gian, thời gian có tính khả biến, phụ thuộc vào tốc độ, khối lượng, trường hấp dẫn của các đối tượng vật chất và các quá trình vật chất khác nhau. Do vậy, vật chất vận động quy định không gian, thời gian chứ không phải không gian là cái “thùng rỗng”, cái “khung cứng” bất biến chứa đầy vật chất bên trong như quan niệm của những người máy móc, siêu hình. 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 209. 27 Không gian và thời gian của vật chất nói chung là vô tận, xét về cả phạm vi lẫn tính chất. Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng trong thế giới không ở đâu có tận cùng về không gian, cũng như không ở đâu có ngưng đọng, không biến đổi hoặc không có sự tiếp nối của các quá trình. Không gian và thời gian của một sự vật, hiện tượng cụ thể là có tận cùng và hữu hạn. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất vận động. Quan niệm đó đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc phương pháp luận về tính lịch sử, cụ thể trong việc xác định không gian và thời gian của sự vật, hiện tượng. 28 Ý THỨC, MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 1. Phạm trù ý thức Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản mà mọi triết học đều quan tâm nghiên cứu, nhưng tuỳ theo cách lý giải khác nhau mà có những quan niệm rất khác nhau, đặt nền móng hình thành nên các trường phái triết học khác nhau, đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nắm vững những thành tựu của khoa học và bám sát thực tiễn xã hội, triết học Mác - Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý thức, mối quan hệ vật chất và ý thức. 1.1. Nguồn gốc của ý thức Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm khách quan với những đại biểu như Platôn, G. Hêghen đã tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, khẳng định thế giới "ý niệm", hay "ý niệm tuyệt đối" là bản thể, sinh ra toàn bộ thế giới hiện thực. Ý thức của con người chỉ là sự "hồi tưởng" của "ý niệm", hay "tự ý thức" lại "ý niệm tuyệt đối". Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan với những đại biểu như G.Béccơli, E.Makhơ lại tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, coi cảm giác là tồn tại duy nhất, tiên thiên, sản sinh ra thế giới vật chất. Ý thức của con người là do cảm giác sinh ra, nhưng cảm giác theo họ quan niệm không phải là sự phản ánh thế giới khách quan, mà chỉ là cái vốn có của mỗi cá nhân tồn tại tách biệt với thế giới bên ngoài. Đó là những quan niệm hết sức phiến diện, sai lầm, phản khoa học, là cơ sở lý luận của chủ nghĩa ngu dân, tôn giáo. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình. Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ xuất phát từ 29 thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý thức. Tuy nhiên, do trình độ phát triển khoa học của thời đại mà họ đang sống còn nhiều hạn chế và bị phương pháp siêu hình chi phối nên những quan niệm về ý thức còn nhiều sai lầm. Các nhà duy vật siêu hình đã đồng nhất ý thức với vật chất. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra. Chẳng hạn, từ thời cổ đại, Đêmôcơrít quan niệm ý thức là do những nguyên tử đặc biệt (hình cầu, nhẹ, linh động) liên kết với nhau tạo thành. Các nhà duy vật tầm thường thế kỷ XVIII (Phôgtơ, Môlétsốt, Buykhơne...) lại cho rằng: "Óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật". Một số nhà duy vật khác thuộc phái "Vật hoạt luận" (Rôbinê, Hếchken, Điđơrô) lại quan niệm ý thức là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất - từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, mà cao nhất là con người. Có chăng sự khác nhau ấy giữa các giống, loài chỉ là ở cấp độ biểu hiện ra bề ngoài bằng ngôn ngữ hay không mà thôi. Theo Điđơrô: "Cảm giác là đặc tính chung của vật chất hay là sản phẩm của tính tổ chức của vật chất"1. Triệt để lợi dụng những sai lầm, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm, duy vật siêu hình trong quan niệm về ý thức, các giai cấp thống trị lấy đó làm cơ sở lý luận, công cụ để nô dịch tinh thần quần chúng lao động. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học - thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Óc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức là không thể tách rời. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường. Sinh lý và ý thức là hai mặt của một quá 1 V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr 32. 30 trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc người mang nội dung ý thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin. Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hoá lâu dài dẫn đến sự xuất hiện con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ thấp đến cao, và cao nhất là trình độ phản ánh - ý thức. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động; đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Các kết cấu vật chất càng phát triển thì thuộc tính phản ánh của nó càng được hoàn thiện. Lịch sử tiến hoá của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất. Giới tự nhiên vô sinh có kết cấu vật chất đơn giản, do vậy trình độ phản ánh đặc trưng của chúng là phản ánh vật lý, hoá học. Đó là trình độ phản ánh mang tính thụ động, chưa có sự định hướng, lựa chọn. Giới tự nhiên hữu sinh ra đời với kết cấu vật chất phức tạp hơn, do đó thuộc tính phản ánh cũng phát triển lên một trình độ mới khác về chất so với giới tự nhiên vô sinh. Đó là trình độ phản ánh sinh học trong các cơ thể sống có tính định hướng, lựa chọn, giúp cho các cơ thể sống thích nghi với môi trường để tồn tại. Trình độ phản ánh sinh học của các cơ thể sống cũng bao gồm nhiều hình thức cụ thể cao thấp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện, đặc điểm cấu trúc của các cơ quan chuyên trách làm chức năng phản ánh: ở giới thực vật, là sự kích thích; ở động vật có hệ thần kinh, là sự phản xạ; ở động vật cấp cao có bộ óc, là tâm lý. Tâm lý động vật là trình độ phản ánh cao nhất của các loài động vật bao gồm cả phản xạ không có điều kiện và có điều kiện. Tuy nhiên, tâm lý động vật chưa phải là ý thức, mà đó vẫn là trình độ phản ánh mang tính bản năng của các loài động vật bậc cao, xuất phát từ nhu cầu sinh lý tự nhiên trực tiếp của cơ thể động vật chi phối. Mặc dù ở một số loài động vật bậc cao, bước đầu đã có trí khôn, trí nhớ, biết 31 "suy nghĩ" theo cách riêng của chúng, nhưng theo Ph. Ăngghen, đó chỉ là "cái tiền sử" duy nhất gợi ý cho chúng ta tìm hiểu "bộ óc có tư duy của con người" đã ra đời như thế nào. Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và không có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ óc con người. Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Tuy vậy, sự ra đời của ý thức không phải chỉ là sản phẩm thuần tuý tự nhiên như các nhà duy vật trước đây quan niệm. Sự phát triển của giới tự nhiên chỉ mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực phản ánh, là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: "Con người cũng có cả "ý thức" nữa. Song đó không phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức "thuần tuý"... Do đó, ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại"1. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng, ý thức không những có nguồn gốc tự nhiên mà còn là và chủ yếu là một hiện tượng mang bản chất xã hội. Để tồn tại con người phải tạo ra những vật phẩm để thoả mãn nhu cầu của mình. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời ý thức của con người: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người"2. Thông qua hoạt động lao động cải tạo thế giới 1 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 3, tr. 43. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 646. 32 khách quan mà con người đã từng bước nhận thức được thế giới, có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới đó. Ý thức hình thành không phải là quá trình con người tiếp nhận thụ động các tác động từ thế giới khách quan vào bộ óc của mình, mà chủ yếu từ hoạt động thực tiễn, con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng hiện thực bắt chúng phải bộc lộ thành những hiện tượng, những thuộc tính, kết cấu... nhất định, tác động vào bộ óc để con người phân loại, nhận biết nó ngày càng sâu sắc. Ph. Ăngghen đã khẳng định: "Nhưng cùng với sự phát triển của bàn tay thì từng bước một đầu óc cũng phát triển, ý thức xuất hiện, trước hết về những điều kiện của các kết quả có ích thực tiễn và về sau,...là về những quy luật tự nhiên, chi phối các hiệu quả có ích đó"1. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn lâu dài, trong những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với nhiều loại đối tượng khác nhau; cùng với sự phát triển của tri thức khoa học, các phương pháp tư duy khoa học cũng dần được hình thành, phát triển giúp nhận thức lý tính của loài người ngày càng sâu sắc. Nhận thức lý tính phát triển làm cho ý thức ngày càng trở nên năng động, sáng tạo hơn. Ý thức không chỉ là sự phản ánh tái tạo mà còn chủ yếu là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Thông qua thực tiễn những sáng tạo trong tư duy được con người hiện thực hoá, cho ra đời nhiều vật phẩm chưa có trong tự nhiên. Đó là "giới tự nhiên thứ hai" in đậm dấu ấn của bàn tay và khối óc con người. Là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội. Từ nhu cầu đó, bộ máy phát âm, trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con người được hình thành và hoàn thiện dần. Ph. Ăngghen viết: "Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ"2. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành "vỏ vật chất" của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là 1 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 476. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 645. 33 phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời vừa là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái quát, trừu tượng hoá, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng với nhau, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội tích luỹ được qua các thế hệ, các thời kỳ lịch sử. Ý thức là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người. Nhưng không phải cứ có thế giới khách quan và bộ óc người là có ý thức, mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, một hiện tượng xã hội đặc trưng của loài người. Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã hội, hoặc ngược lại chỉ nhấn mạnh mặt xã hội mà quên đi mặt tự nhiên của nguồn gốc ý thức đều dẫn đến những quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy tâm hoặc siêu hình, không thể hiểu được thực chất của hiện tượng ý thức, tinh thần của loài người nói chung, cũng như của mỗi người nói riêng. Chính vì và chỉ vì có hoạt động thực tiễn phong phú của loài người mà ý thức mới hình thành và khẳng định sức mạnh sáng tạo của nó. Với ý nghĩa đó, ý thức được quan niệm có bản chất xã hội - lịch sử. Nghiên cứu nguồn gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức. 1.2. Bản chất của ý thức 34 Do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý thức nên chủ nghĩa duy tâm đã có những quan niệm hết sức sai lầm về bản chất của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm đã cường điệu vai trò của ý thức một cách thái quá, trừu tượng đến mức thoát ly đời sống hiện thực, để rồi biến nó thành một thực thể tồn tại độc lập, là thực tại duy nhất, là nguồn gốc từ đó sinh ra toàn bộ thế giới vật chất. Còn chủ nghĩa duy vật siêu hình thì ngược lại, đã tầm thường hoá vai trò của ý thức. Họ coi ý thức cũng chỉ là một dạng cấu trúc của vật chất; hoặc coi ý thức chỉ là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất, tách rời thực tiễn xã hội rất phong phú, sinh động. Những quan niệm hết sức sai lầm đó đã không cho phép con người hiểu được bản chất đích thực của ý thức, không hiểu được biện chứng quá trình phản ánh ý thức của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững lý thuyết phản ánh đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không tách rời. Do vậy, muốn hiểu đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan1, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người. Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về thế giới đó, là tính thứ hai. Đây là căn cứ quan trọng 1 V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 138. 35 nhất để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, phê phán chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình trong quan niệm về bản chất của ý thức. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng vật chất nhưng với các chủ thể khác nhau, có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau...thì kết quả phản ánh trong ý thức cũng rất khác nhau. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Trên thực tế, bất kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc điểm về thể chất và tinh thần của tác giả"1. Trong ý thức chủ thể, sự phù hợp giữa tri thức và khách thể chỉ là tương đối, biểu tượng về thế giới khách quan có thể đúng đắn hoặc sai lầm, và cho dù phản ánh chính xác đến đâu thì đó cũng chỉ là sự phản ánh gần đúng. Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người với trình độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã hội, ý thức hình thành, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn xã hội phong phú. Thế giới không thoả mãn con người và con người đã quyết định biến đổi thế giới bằng hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú của mình. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ động khám phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh. Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, bằng những thao tác của tư duy trừu tượng sẽ đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 57 36 động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên thứ hai" in đậm dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người. Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Ý thức không phải là cái không thể nhận thức được như chủ nghĩa duy tâm quan niệm, nhưng nó cũng không phải cái tầm thường như người duy vật tầm thường gán cho nó. Thực chất, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có con người mới có ý thức. Loài người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt động; cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy ý thức hình thành và không ngừng phát triển. Không có bộ óc của con người, không có hoạt động thực tiễn xã hội thì không thể có ý thức. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. 1.3. Kết cấu của ý thức Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức. Các lớp cấu trúc của ý thức. Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...; trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. 37 Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn. Theo Mác, "phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó"1. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về tự nhiên, xã hội, con người và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học v.v... Tích cực tìm hiểu, tích luỹ tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật. Cùng với quá trình nhận thức sự vật, trong ý thức còn nảy sinh thái độ của con người đối với đối tượng phản ánh. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm tạo nên tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Nhận thức không phải một quá trình dễ dàng, phẳng lặng, mà là quá trình hoạt động có mục đích với nhiều khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường nhân thức. Muốn vượt qua mọi khó khăn để đạt tới mục đích, đòi hỏi chủ thể nhận thức phải có ý chí, quyết tâm cao. Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận thức và cải tạo thế giới. 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 42, tr. 236. 38 Các cấp độ của ý thức. Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức... Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người. Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con người cũng tự phân biệt, tách mình, đối lập mình với thế giới đó để đánh giá mình thông qua các mối quan hệ. Nhờ vậy, con người tự ý thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác, đang tư duy; tự đánh giá năng lực và trình độ hiểu biết của bản thân về thế giới, cũng như các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, hành vi, đạo đức và lợi ích của mình. Qua đó, xác định đúng vị trí, mạnh yếu của mình, ý thức về mình như một cá nhân - chủ thể có ý thức đầy đủ về hành động của mình; luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi của mình trong tác động qua lại với thế giới khách quan. Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau (như: một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí cả xã hội) về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình. Chủ nghĩa duy tâm, phản động coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, sẵn có trong cá nhân, là sự tự hướng về bản thân mình, khẳng định cái tôi, tách rời khỏi những quan hệ xã hội, trở thành cái tôi thuần tuý, trừu tượng trống rỗng. Thực chất của những quan điểm đó là nhằm phủ định bản chất xã hội của ý thức, biện hộ cho chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, cực đoan của các thế lực phản động hiện nay. Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức của chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm 39 soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng trong đời sống và tư duy khoa học. Tiềm thức gắn bó rất chặt chẽ với loại hình tư duy chính xác, được lặp lại nhiều lần. Khi tiềm thức hoạt động sẽ góp phần giảm bớt sự quá tải của đầu óc, khi công việc lặp lại nhiều lần, mà vẫn đảm bảo độ chính xác cao và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng điều khiển những hành vi thuộc về bản năng, thói quen... trong con người thông qua phản xạ không điều kiện. Con người là một thực thể xã hội có ý thức, nhưng không phải mọi hành vi của con người đều do lý trí chỉ đạo. Trong đời sống của con người, có những hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói quen đến mức chúng tự động xảy ra ngay cả khi không có sự điều khiển của lý trí. Vô thức là những trạng thái tâm lý ở tầng sâu điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự can thiệp của lý trí. Vô thức biểu hiện ra thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, lỡ lời, nói nhịu,... Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải toả những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần quan trọng trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, dày vò mặc cảm, "libiđô"... Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho con người luôn làm chủ đời sống nội tâm, có phương pháp kiềm chế đúng quy luật những trạng thái ức chế của tinh thần. Vô thức là hoạt động tầng sâu của tâm lý - ý thức, có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó, nó giúp cho con người giảm bớt sự căng thẳng không cần thiết của ý thức, do thần kinh làm việc quá tải. Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên không có sự khiên cưỡng. Vô thức có ý 40 nghĩa quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ, trong hoạt động khoa học và nghệ thuật. Tuy nhiên, không nên cường điệu hoá, tuyệt đối hoá và thần bí hoá vô thức. Vô thức là vô thức trong con người xã hội có ý thức, nên vô thức không thể là hiện tượng cô lập, tách rời với ý thức và thế giới bên ngoài, càng không thể là cái quyết định ý thức cũng như hành vi của con người. Trong hoạt động của con người, ý thức vẫn giữ vai trò chủ đạo, quyết định hành vi của cá nhân. Nhờ có ý thức điều khiển, các hiện tượng vô thức được điều chỉnh, hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người. 2. Mối quan hệ vật chất và ý thức Mối quan hệ vật chất và ý thức là "Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại"1. Tuỳ theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa chúng mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính đảng trong triết học, V. I. Lênin đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng phái đang đấu tranh với nhau, về thực chất, - mặc dù thực chất đó bị che giấu bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu xuẩn là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm”2. 2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình Trong lịch sử triết học, khi lý giải mối quan hệ vật chất - ý thức, các nhà triết học đã phạm nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không hiểu được bản chất thực sự của vật chất và ý thức. Khi nghiên cứu các tư tưởng triết học trong lịch sử, Trong "Luận cương về L. Phoiơbắc", C. Mác đã chỉ rõ hạn chế của cả chủ nghĩa duy vật trực quan và chủ nghĩa duy tâm: "Sự vật, hiện thực cái có thể cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể, hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn - không được nhận thức về mặt chủ quan... Vì vậy, mặt năng động được chủ nghĩa duy tâm phát triển một cách trừu tượng, vì 1 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập., Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 21, tr. 403. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 445. 41 chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu hoạt động hiện thực, cảm giác được"1. Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo, chủ nghĩa ngu dân. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với "đấng sáng thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan. Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ khách quan chủ nghĩa, thụ động, ỷ lại, trông chờ. 2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện chứng, luôn theo sát và kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng, mặc dù vai trò không ngang bằng nhau. Về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 19 42 đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối"1. Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính của chính nó. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh. "Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức"2. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại. Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại , mà còn ý thức được cả những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khái quất ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của 1 2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 173. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 37. 43 thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hoá của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển không ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin. Nhưng sau khi ra đời, ý thức không tồn tại thụ động mà có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của con người, chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con người thông qua thực tiễn. Theo chỉ dẫn của C. Mác: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện được tư tưởng, thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn"1. Vai trò của ý thức cải tạo thế giới sẽ rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng phản ánh hiện thực khách quan là đúng đắn hoặc sai lầm. Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực khách quan. Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 211. 44 Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và biết vận dụng linh hoạt lý luận khoa học đó vào trong hoạt động thực tiễn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách quan - chủ quan đem lại hiệu quả trong hoát động thực tiễn. Khẳng định tính độc lập và vai trò to lớn của ý thức tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức đó. Thế giới không thoả mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình1. Do đó về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội là có tính chất thực tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ bản hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt đối lập với khách quan. Biện chứng khách quan - chủ quan là vấn đề mấu chốt của mối quan hệ giữa hiện thực đang được nhận thức và cải tạo theo nhu cầu của con người với bản thân con người - chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng tạo để duy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn sức mạnh của bản thân mình. Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, định kiến, thiếu trung thực. Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Để thực hiện tốt nguyên tắc khách quan, chúng ta cần nắm vững một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận khoa học: phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đồng thời phát huy tính năng động, 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 229. 45 sáng tạo chủ quan trong nhận thức và cải tạo thế giới. Nhận thức đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể từng bước cải biến khách quan theo mục đích đặt ra. Đó là thực chất của nguyên tắc khách quan của triết học mácxít. Mặt khác cần khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí, cũng như thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ trong các hoạt động của con người. Để khắc phục có hiệu quả bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ, thói quen ỷ lại, đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Kết hợp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu. Luôn phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người. Nguyên tắc khách quan không bài trừ mà trái lại còn đòi hỏi con người luôn phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức. Để nhận thức được sâu sắc và cải biến được thế giới khách quan theo nhu cầu của mình, con người phải hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình. Để nâng cao được hiệu quả của hoạt động của mình, con người phải có chiến lược giáo dục nhằm nâng cao trình độ tri thức khoa học cho toàn dân và trình độ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ ngày nay. Mặt khác phải bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho nhân dân, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học, phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng. 46 QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI Chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ rõ phát triển là quá trình mất đi của cái cũ và sự xuất hiện của cái mới. Cách thức và trạng thái của quá trình đó được luận giải trong quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại - một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. 1. Chất và lượng của sự vật, hiện tượng Để có một quan niệm thực sự khoa học về phạm trù chất và lượng là cả một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phát triển trong quan niệm của con người về cách thức, trạng thái tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lịch sử tư tưởng nhân loại cho thấy rằng, trong khi cố gắng giải thích bản chất của thế giới, ngay từ thời cổ đại, nhhiều nhà triết học đã đề cập đến vấn đề lượng và chất. Tuy nhiên, chính Arixtốt mới là người đầu tiên trong lịch sử triết học đã quan tâm đến việc luận giải phạm trù chất và lượng một cách tương đối có hệ thống. Theo ông, chất là tất cả những gì làm cho sự vật là nó, còn lượng là tất cả những gì có thể phân chia (thành số lượng và đại lượng). Arixtốt còn là người đầu tiên đưa ra quan niệm về tính nhiều chất của sự vật. Ông đã đạt được những thành tựu quan trọng trong tiếp cận nghiên cứu sự thống nhất không thể phân chia giữa chất và lượng của sự vật cơ sở hình thành phạm trù “độ”. Quan niệm biện chứng về chất và lượng đạt được bước phát triển mới trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học G. Hêghen. Với quan điểm biện chứng, G.Hêghen cho rằng chất phát triển từ “chất thuần tuý” đến “chất được xác định” và đỉnh cao của sự phát triển ấy thì ra đời lượng. Lượng cũng không ngừng tiến hoá, “số lượng” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá của lượng. G. Hêghen cũng xem xét tính độc lập tương đối giữa sự thay đổi về 47 lượng và sự thay đổi về chất trong một khoảng nhất định. Đây là sự luận giải có tính khoa học về phạm trù “độ”. Trong diễn tiến của quá trình này, G. Hêghen đặc biệt chú ý đến phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng này của G. Hêghen, mà V.I.Lênin đã rút ra một kết luận quan trọng rằng, việc có thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay quan điểm siêu hình về sự phát triển. Tất nhiên, mặc dù những luận giải trên đây của G. Hêghen đã vượt lên trên quan niệm có tính chất kinh viện về “những chất bị che dấu” trong thời trung cổ và khắc phục được tính chất máy móc, siêu hình về mối quan hệ giữa lượng và chất của các nhà triết học thế kỷ XVII – XVIII, nhưng với tư cách là nhà triết học duy tâm, ông đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “ý niệm tuyệt đối” tách rời hoàn toàn khỏi hiện thực khách quan. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong quan niệm về chất, lượng và quy luật về mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung. Theo đó, chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính thành tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, làm cho nó là nó mà không phải là cái khác. Trước hết, chất của sự vật, hiện tượng được tạo nên bởi các thuộc tính của nó, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó. Nhưng thuộc tính của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua mối quan hệ của sự vật đó với sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn, khi ta cho đường vào nước thì đường tan trong nước, khi ta nếm thấy đường có vị ngọt... Như vậy, tính tan, vị ngọt là những thuộc tính của đường. Những thuộc tính đó cùng với các thuộc tính khác cho ta biết chất của đường. Những thuộc tính của đường tồn tại vốn có nhưng chúng chỉ bộc lộ ra thông qua quan hệ của đường vơí nước, hoặc đường với vị giác của con người. 48 Như vậy, để nhận thức chất của sự vật với tư cách là tổng hợp của các thuộc tính vốn có của nó, cần nhận thức sự vật trong tổng hợp các mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác. Chất của sự vật không phải là một thuộc tính, cũng không phải là sự cộng lại giản đơn các thuộc tính, mà là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Chẳng hạn, tổng hợp các thuộc tính như: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có trình độ kỹ thuật, chiến thuật quân sự tốt; có ý thức tổ chức - kỷ luật tự giác, nghiêm minh, v. v. nói lên chất của một quân nhân cách mạng, để phân biệt với thành viên của các tổ chức khác. Chất của sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì, các sự vật khác nhau có những đặc trưng, thuộc tính, những tính quy định khác nhau. Ví dụ: mọi động vật và thực vật đều có đặc trưng là đồng hoá và dị hóa, di truyền và biến dị... còn đối với giới vô cơ thì không có đặc trưng trên. Con người không chỉ khác động vật ở cấu tạo hình thể, hình dạng... mà còn ở khả năng lao động sáng tạo, có ý thức. Cũng như vậy, chúng ta phân biệt chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản ở tính chất của những quan hệ kinh tế, ở đời sống tư tưởng chính trị, ở mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội. Đó là những thuộc tính nói lên chất của sự vật và những sự vật đó có sự khác nhau về chất. Mỗi sự vật tồn tại trong những điều kiện khác nhau, trong những mối quan hệ khác nhau được biểu hiện ở nhiều thuộc tính khác nhau. Nhưng mỗi thuộc tính của sự vật lại có sự tổng hợp những đặc trưng về chất của nó, do đó, mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Các thuộc tính của sự vật biểu hiện những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ lại, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản mà tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo nên chất căn bản của sự vật. ở mỗi sự vật chỉ có một chất căn bản, đó là chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật. Ví dụ: chất căn bản của nền kinh tế tư bản là sản xuất vì giá trị thặng dư, khi đặc trưng đó mất đi nền kinh tế không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi diễn đạt tính không thể tách rời giữa chất và sự vật cũng như tính 49 nhiều chất của nó Ph. Ăngghen viết: “những chất lượng không tồn tại, mà sự vật có chất lượng hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại”1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn chỉ rõ chất của sự vât không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Trong thực tế chúng ta thấy rằng có những sự vật xét về các yếu tố cấu thành chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất. Thí dụ: kim cương và than chì đều do các bon tạo thành, nhưng lại có sự khác nhau căn bản về chất. Kim cương cứng có thể cắt được hầu hết mọi kim loại, có giá trị kinh tế rất cao, còn than chì thì không có được những đặc trưng tương tự. Như vậy, sự khác nhau về chất ấy được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các phân tử các bon. Cho nên, chất của sự vật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Trong thực tế để làm biến đổi chất của sự vật ta không chỉ cải tạo các yếu tố cấu thành, mà còn làm biến đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Cùng với tính quy định về chất, bất kỳ sự vật nào cũng có tính quy định về lượng. Đó là phạm trù triết học để chỉ số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, các đại lượng biểu thị tính quy định vốn có của sự vật, để phân biệt sự vật này với sự vật khác về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật đó. Lượng của sự vật tồn tại khách quan gắn với chất của sự vật, bất kỳ một sự vật nào cùng với những tính quy định về chất bao giờ cũng có những tính quy định về lượng. Ví dụ: hai chiếc bàn giống nhau về chất liệu, hình dáng nhưng lại khác nhau về kích thước, v. v.. Triết học Mác - Lênin chỉ rõ, lượng của sự vật vừa biểu hiện tính cụ thể, vừa biểu hiện tính trừu tượng. Thật vậy, nhận thức về lượng của sự vật có thể thông qua đong, đo, đếm được bằng các dụng cụ đo lường. Ví dụ, ta có thể đếm được năm cái bàn , mười cái ghế, đo được ba khối nước, bốn mét 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, tập 20, tr. 360. 50 vải...đó là biểu hiện tính cụ thể về lượng. Nhưng tính quy định về lượng của sự vật cũng biểu hiện dưới dạng trừu tượng, khái quát như: đánh giá trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất đạo đức của một con người; trình độ phát triển của một xã hội v. v.. Do đó, để nhận thức đúng về lượng của sự vật đòi hỏi phải có sự trừu tượng hóa cao với một phương pháp luận khoa học. Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối tuỳ quan hệ xem xét. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là biểu hiện chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn, số lượng học viên giỏi trong một lớp cũng sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần tuý về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật. 2. Nội dung cơ bản của quy luật Trong quá trình vận động phát triển của sự vật, cả lượng và chất của nó đều biến đổi. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi bản chất của sự vật. Cả lý luận và thực tế đều cho thấy, lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định nào đó mà chất của nó về căn bản vẫn không thay đổi. Đó chính là giới hạn mà lượng và chất của sự vật là thống nhất với nhau, sự vật vẫn là nó chứ chưa trở thành cái khác. Chẳng hạn, khi ta xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau (nước đá, nước lỏng, hơi nước), ứng với chất trạng thái đó, lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù lượng có thay đổi trong phạm vi (00 C < t0 C < 1000 C) thì nước vẫn ở trạng thái lỏng, tức là chưa biến thành trạng thái hơi. Tấ nhiên, sự thay đổi về lượng chỉ cần vượt qua một giới hạn xác định nào đó (đôi khi rất nhỏ) cũng có thể làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ (hay giới hạn xác định) mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, được gọi là “độ”. Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. 51 Nhưng sự thống nhất giữa lượng và chất là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một sự vật. Với tư cách là cái đặc trưng cho quy mô, tính chất, nhịp điệu của sự vật nên lượng thường xuyên biến đổi hơn chất. Sự biến đổi về lượng diễn ra từ từ, nhỏ nhặt, chậm chạp theo đường tiệm tiến trong sự phát triển. Trong thực tế sự biến đổi về lượng diễn ra thường khó thấy và là quá trình biến đổi để tích tụ dần các thuộc tính mới, mở rộng dần quy mô, tăng dần nhịp điệu vận động theo hướng hình thành sự vật mới trong giới hạn “độ” của sự vật cũ. Trong hoạt động thực tiễn và trong nghiên cứu khoa học, cái khó không phải là nhận thức được chất của sự vật mà ở chỗ tìm ra được quy luật phát triển về lượng, tìm ra cái điểm nút của sự phát triển về lượng trong quá trình biến đổi về chất. Mặc dù, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất, nhưng bất kỳ sự biến đổi nào về lượng cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật, đến các thuộc tính của nó. Khi sự thay đổi về lượng đạt tới một độ giới hạn nào đó sẽ làm cho trạng thái tồn tại vốn có của s vật trở nên chật hẹp, bất ổn. Khi đó, lượng trở nên mâu thuẫn gay gắt với chất cũ, đòi hỏi phá vỡ chất cũ để mở đường cho sự phát triển. C. Mác viết: những thay đổi đơn thuần về lượng đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hoá thành sự khác nhau về chất. Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với những điểm nút mới. Sự liên kết giữa các điểm nút sẽ cho ta một đường nút trong quá trình vận động, phát triển vô cùng tận của các sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Xét về bản chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn của tính tiệm tiến về lượng, là sự tích hợp giữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự phát triển. 52 Trong lịch sử do tuyệt đối hoá tính tiệm tiến, tính liên tục của sự biến đổi về lượng nên các nhà siêu hình đã phủ nhận sự tồn tại của những bước nhảy. Hêghen cho rằng tính tiệm tiến chỉ là sự thay đổi về lượng và chỉ bằng phạm trù tiệm tiến thì không thể giải thích được sự xuất hiện của chất mới. Từ đó ông khẳng định rằng, bất kỳ sự thay đổi về chất nào cũng phải thông qua bước nhảy. Tư tưởng này của G. V. Ph. Hêghen được V. I. Lênin đánh giá rất cao và ông nhấn mạnh: “tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”... “phân biệt bằng cách nào, một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không biện chứng? bằng bước nhảy vọt ... bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến”1. Sau khi ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. V. I. Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược lại”2. Sở dĩ như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới, những quan hệ mới của sự vật, hiện tượng. Những thuộc tính và quan hệ mới này, đến lượt nó, sẽ tạo ra những khả năng mới và những khả năng này, trong những điều kiện, hoàn cảnh mới sẽ thúc đẩy quy mô, tính chất, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, nước đến nhiệt độ 1000C thì chuyển từ nước lỏng thành hơi nước. ở trạng thái hơi các phân tử nước vận động với tốc độ rất cao và tạo nên áp lực lớn hơn rất nhiều ở thể lỏng. So với hình thái xã hội trước, hình thái xã hội sau là một chất mới tiến bộ hơn, nó mở đường, tạo ra những điều kiện mới, khả năng mới cho lực lượng sản xuất phát triển với nhịp độ mới cao hơn. Khi nói về phương thức thống trị tư bản chủ nghĩa như một chất mới so với phương thức thống trị của các giai cấp trước đó trong lịch sử phát triển xã hội, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản C. Mác so sánh: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”3. Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi 1 2 3 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981 tập 29, tr. 133. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 240. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 199, tập 4, tr. 357. 53 về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy tại điểm nút; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng 3. Các hình thức của bước nhảy Thế giới vật chất tồn tại phong phú, đa dạng, muôn vẻ. Do đó, sự thay đổi về chất của các sự vật trên thế giới cũng diễn ra thông qua nhiều hình thức bước nhảy khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được quy định bởi tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn vốn có của nó, bởi những điều kiện diễn ra sự thay đổi về chất khác nhau. Trong tự nhiên bước nhảy diễn ra một cách tự động, còn trong xã hội bước nhảy diễn ra thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Trong tính đa dạng của những hình thức thay đổi về chất, chúng ta lưu ý tới một số lợi bước nhảy cơ bản sau đây: đột biến và dần dần, toàn bộ và cục bộ. Xét về mặt thời gian của sự thay đổi về chất của sự vật và dựa trên tính chất, nhịp điệu của sự thay đổi có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biến là sự biến đổi diễn ra một cách nhanh chóng, trong một thời gian ngắn làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Ví dụ: phản ứng dây chuyền dẫn tới vụ nổ nguyên tử diễn ra trong thời gian hết sức nhanh chóng là bước nhảy đột biến. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, trong lịch sử diễn ra quá trình chuyển hoá từ vượn trở thành người; quá trình cách mạng đưa nước ta từ nền kinh tế lạc hậu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự khác nhau giữa bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần không chỉ ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, mà cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Khi nghiên cứu bước nhảy dần dần cần phân biệt với sự thay đổi dần dần về lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ của chất, còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hoá từ chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặt trong quá trình phát triển. 54 Xét về quy mô của sự biến đổi về chất của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất trên tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy toàn bộ làm thay đổi cả một thời kỳ lịch sử, cả một giai đoạn phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng. Ví dụ, trong xã hội, sự chuyển hoá từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn là bước nhảy toàn bộ. Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật. Trong xã hội những bước nhảy về chất trên từng mặt khác nhau trong khuôn khổ xã hội là bước nhảy cục bộ. Phân biệt bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ chỉ có gianh giới tương đối, tuỳ theo quan hệ đem xét. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc, về những bộ phận cấu thành... bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ. Quá trình cách mạng của nước ta quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội đang diễn ra từ những thay đổi cục bộ để đi đến thay đổi toàn bộ. Trong xã hội xem xét sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất còn có thể tiếp cận sự thay đổi mang tính chất cách mạng và sự thay đổi mang tính chất tiến hoá. Cách mạng là sự thay đổi của xã hội mà trong quá trình đó diễn ra sự cải tạo căn bản về chất. Tiến hoá là sự thay đổi về lượng cùng với những biến đổi nhất định về chất trong xã hội. Như vậy, khái niệm cách mạng có ngoại diên hẹp hơn phạm trù bước nhảy. Phạm trù bước nhảy dùng để chỉ mọi sự thay đổi về chất, còn cách mạng là sự cải tạo chất căn bản của nó. Mặt khác, không phải bất kỳ sự thay đổi căn bản về chất cũng là cách mạng mà chỉ những thay đổi mang tính tiến bộ, tiến lên mới là cách mạng. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng của quy luật Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết kiên trì tích luỹ về lượng, biết chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho sự biến đổi về chất. Bởi vì, sự vận động, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu và diễn ra từ sự tích luỹ, biến đổi dần dần về lượng, đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy về chất. Cần 55 chống tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, "đốt cháy giai đoạn", v. v. không chịu tích luỹ về lượng hoặc tích luỹ chưa đủ độ đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Đại hội Đảng IX đã khẳng định: "phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Trong hoạt động thực tiễn khi thời cơ xuất hiện, tức là sự biến đổi về lượng đã đến điểm nút, phải nhanh chóng nắm bắt và chớp thời cơ để thực hiện bước nhảy về chất. Phải chống bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh, ngại đổi mới v. v.. coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. Trong lĩnh vực xã hội phải thấy được mối quan hệ giữa quá trình tiến hoá và cách mạng. Sự phát triển của xã hội phải đi từ tiến hoá đến cách mạng và cách mạng là kết quả của sự tiến hoá. Đây là cơ sở phương pháp luận cho việc đề ra đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng ta. Vì chất của sự vật còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, do đó, trong hoạt động thực tiễn phải biết nghiên cứu hoàn chỉnh và tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó để tao nên sự biến đổi về chất theo hướng phục vụ lợi ích của chủ thể. Một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay là phải thấy được âm mưu và tính chất nguy hiểm của chiến lược "diễn biến hoà bình" do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến hành đối với cách mạng nước ta hiện nay. Sự chống của kẻ thù diễn ra lâu dài, từ từ, ngấm dần, với chiến thuật "mưa dầm thấm lâu" trên tất cả các mặt của đời sống xã hội cả về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, tôn giáo, dân tộc, v. v. tích tụ dần thành các “điểm nóng xã hội”, qua đó tạo cớ để gây ra các cuộc bạo loạn chính trị, chuẩn bị cho các hành động can thiệp quan sự từ bên ngoài vào nước ta. Do đó, nếu chúng ta không nhận thức đúng tính chất nguy hiểm, không cảnh giác chống lại ngay từ đầu thì hậu quả sẽ rất lớn, thậm chí có thể dẫn tới mất chế độ, mất nước. 56 QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong ba quy luật cơ bản, giữ vai trò hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển trong thế giới. Khi bàn về vị trí, vai trò của quy luật này, V.I. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”1. 1. Mặt đối lập và mâu thuẫn Mặt đối lập và mâu thuẫn là hai phạm trù có quan hệ chặt chẽ với nhau những không phải là một. Để có được một quan niệm thực sự khoa học về hai phạm trù này cũng như mối quan hệ nội tại giữa chúng là cả một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phát triển quan niệm của con người về nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Như chúng ta đã biết, thế giới hiện thực vốn không phải là một chỉnh thể đồng nhất tuyệt đối, mà trái lại, luôn bao hàm trong đó vô vàn sự khác nhau và đối lập giữa các mặt. Các mặt đối lập này, do tính tất yếu nội tại của nó quy định, lại thường biểu hiện ra dưới hình thức hữu hình. Vì thế, ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán khá sâu sắc về sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập và xem đó như là cơ sở vận động, phát triển của thế giới. Có thể tìm thấy tư tưởng này ở cách luận giải về tính biến dịch của vạn vật thông qua sự chuyển hoá âm – dương trong triết học Trung Hoa cổ đại; ở quan niệm của Hêraclít về khuynh hướng chuyển sang mặt đối lập trong quá trình vận động của sự vật, hiện tượng; hay ở quan niệm của Platôn về sự tồn tại thông qua cái đối lập của các khái niệm… 1 V. I. Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr . 249 57 Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó trong học huyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là ở triết học của I. Cantơ và G.Hêghen. Bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng, I.Cantơ đã lập ra một hệ thống các phán đoán trái ngược nhau về cùng một sự vật, trong cùng một quan hệ – nghĩa là chúng được coi là các mặt đối lập khác nhau về chất – nhưng cả hai đều được chứng minh là đúng. I.Cantơ gọi đó là các antinômi. Nhưng do không giải quyết được vấn đề “vô lý” trên, nên ông đã từ bỏ luôn vấn đề thừa nhận mâu thuẫn khách quan, xem sự tồn tại của chúng như là bằng chứng nói lên sự bất lực của con người trong quá trình nhận thức hiện thực. Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, G.Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất. Theo ông, bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Hơn nữa, ông khẳng định: “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động, mới có sung lực và hoạt động”, rằng “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”. Bằng việc kết thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn và bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn lên một tầm cao mới. Theo đó, mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn trong phép biện chứng, trước hết được cấu thành bởi các mặt đối lập. Đó là những mặt (những thuộc tính, sự vật, hệ thống sự vật…) có những đặc điểm, những thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhưng sự đối lập giữa các mặt không phải là nội hàm chính của khái niệm mâu thuẫn biện chứng, cũng như mâu thuẫn không phải được tạo dựng từ những sự đối lập bất kỳ. Trái lại, chỉ những mặt đối nằm trong sự liên hệ, sự tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Đặc trưng đó cho thấy sự khác biệt rất cơ bản giữa quan điểm duy vật 58 biện chứng và quan điểm duy tâm, siêu hình về mâu thuẫn cũng như sự khác biệt về chất giữa mâu thuẫn biện chứng với các loại mâu thuẫn khác. 2. Nội dung cơ bản của quy luật Việc nghiên cứu thực chất mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập và vai trò của chúng đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng cho phép chúng ta vạch ra quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi tắt là quy luật mâu thuẫn). Trước hết, hai mặt đối lập tuy có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy s tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Nói cách khác, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời nhau của hai mặt đó. Chẳng hạn, về vấn đề này C. Mác giải thích: “Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập. Với tính cách như vậy, chúng hợp thành một chỉnh thống nhất nào đó… Là chế độ tư hữu, là sự giàu có, chế độ tư hữu không thể không duy trì sự tồn tại của bản thân nó, do đó cũng không thể không duy trì sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản… Trái lại, với tư cách là giai cấp vô sản, giai cấp vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân mình, do đó tiêu diệt cả cái mặt đối lập của nó – tức là chế độ tư hữu - đang chi phối nó và làm cho nó thành giai cấp vô sản”1. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Đó là một biểu hiện khác về sự thống nhất của các mặt đối lập. Do có sự “đồng nhất” này mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia (khi xét về một vài đặc trưng nào đó). Ví dụ, sự phát triển của kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. 1 C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 11995, tập 2, tr. 54 59 Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Tồn tại trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng lại có khuynh hướng vận động trái ngược nhau, do đó, đến một lúc nào đó trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, tương quan giữa các mặt đối lập là cân bằng và chúng có vai trò, tác dụng ngang nhau đối với sự vật. Trong thực tế tình hình này thường được biểu hiện ra ở điều kiện tương đối “hoà bình”, trước khi xảy ra những thay đổi có tính chất bước ngoặt trong tiến trình phát triển của sự vật. Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa chúng. Như vậy, trong một mâu thuẫn, “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là mặt đối lập với sự “thống nhất” của chúng. Sự thống nhất duy trì tính nương tựa vào nhau, đồng nhất và tác dụng ngang nhau, còn đấu tranh lại phá vỡ hiện trạng ấy bằng việc làm gia tăng sự khác nhau và đối lập giữa các mặt của mâu thuẫn. Phương thức theo đó các mặt đối lập đấu tranh và chuyển hoá lẫn nhau là hết sức phong phú và đa dạng. Tính chất phong phú và đa dạng này, một mặt là do tính chất của mâu thuẫn, mặt khác là do tính chất của điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định. Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng hướng tới sự phá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, và vì thế, bất cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn giữa hai mặt đối lập. Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn định tạm thời của mâu thuẫn, do đó, nó là cơ sở, tiền đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự đấu tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu thuẫn, do đó, nó vừa là thực chất, vừa là nội lực quy định sự thay thế lẫn nhau của các trình độ thống nhất. Điều đó cũng có nghĩa, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Khi xem xét các mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là có 60 điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”1. Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Nhưng không phải sự thống nhất thuần tuý mà là sự thống nhất gắn bó hữu cơ với đấu tranh; cũng không phải là sự đấu tranh chung chung mà là sự đấu tranh gắn bó hữu cơ với sự thống nhất mới là nguyên nhân chân chính, cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của mọi mâu thuẫn nói chung, do đó, cũng là nguyên nhân chân chính cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của từng sự vật, hiện tượng nói riêng. C.Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”2. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định những tính chất ấy của sự vật. Khi coi “thống nhất” như là một trường hợp đặc biệt của “đấu tranh” thì hoàn toàn có thể định nghĩa: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”3. Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn nội tại; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển. 3. Phân loại mâu thuẫn Mâu thuẫn trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy hết sức đa dạng. Tính đa dạng của các mâu thuẫn được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện mà trong đó sự tác động qua 1 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 379 – 380. 2 C.Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 4, tr. 191 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 379 3 61 lại giữa các mặt đối lập được triển khai, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lạp đối với một sự vật, người ta phân loại các mâu thuẫn thành những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Thí dụ, sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá của một sinh vật là mâu thuẫn bên trong, sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường – khi xét cơ thể là một sự vật – là mâu thuẫn bên ngoài. Song, việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối. Liên quan tới thí dụ về mâu thuẫn bên ngoài vừa nêu, nếu chúng ta xét cơ thể và môi trường như một chỉnh thể, mâu thuẫn đó lại là mâu thuẫn bên trong. Do vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài, trước hết cần xác định phạm vi sự vật cần xem xét. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động trong sự tác động lẫn nhau. Mỗi bước giải quyết mâu thuẫn này lại tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. Vì thế, phảo đồng thời giải quyết cả mâu trhuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngời. Coi trọng giải quyết mâu thuẫn bên trong, đồng thời chú ý thoả đáng giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Trong thực tế, ở những điều kiện cụ thể, nhiều khi việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài lại có vai trò đặc biệt với sự tồn tại và phát triển của sự vật. Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. 62 Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận dộng và phát triển của một mặt nào đó của sự vật Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thư yếu). Sự phát triển hơn nữa của sự vật, sự chuyển hoá của nó sang giai đoạn tồn tại khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu mới này sinh. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mau thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định; việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản. Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, người ta chia các mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa địa chủ và nông dân, giữa tư sản và vô sản. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Thí dụ, mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí óc và lạo động chân tay, giữa thành thị và nông thôn… ở nước ta hiện nay. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng với mâu thuẫn khôg đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mọi 63 ý định dùng phương pháp giải quyết loại mâu thuẫn này vào việc giải quyết mâu thuẫn có bản chất khác nhau đều là sai lầm – sẽ rơi vào sai lầm “tả” khuynh hoặc “hữu” khuynh. Trong cả hai trường hợp đó, mâu thuẫn không được giải quyết, mà thường trở nên trầm trọng thêm. Trong quá trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn của nó là cực kỳ quan trọng. Bởi vì, trong tiến trình nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng ta nhận thức sự vật như mậot thực thể đồng nhất. Tiếp đó, khi phân tích sau hơn ta phát hiện ra sự khác nhau, trong những khác nhau đó lại thấy những đối lập, nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập ta biết được mâu thuẫn của nó và biết được nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn; tìm hiểu những điều kiện làm cho những mặt đó biến đổi; đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả mâu thuẫn trong từng giai đoạn; xem những mặt đối lập đó có những yếu tố gì chúng; xem mâu thuẫn đó có gì giống với những mâu thuẫn khác và có những đặc điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác. Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muôpì của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế. Mâu thuẫn chỉ được gải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; cũng không để cho việc giải quyêt mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chính muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết. Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu 64 thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng mâu thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt, những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phải nhận thức rõ vai trò của từng mâu thuẫn và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn, điều kiện chuyển hoá giữa chúng. Trên cơ sở đó tìm ra phương thức, phương tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Tạo ra những điều kiện thúc đẩy mâu thuẫn phát triển chín muồi; tìm phương thức phù hợp để giải quyết; không thủ tiêu, né tránh, điều hoà mâu thuẫn. Phải tìm các hình thức linh hoạt, tạo ra các đều kiện nhằm chuyển hoá các mặt đối lập phù hợp với từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn và mối quan hệ lẫn nhau của mâu thuẫn; hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mẫu thuẫn phải căn cứ trình độ phát triển của mẫu thuẫn. Mẫu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi; không chủ quan, nóng vội. Mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện phát triển của mâu thuẫn theo chiều hướng có lợi, giải quyết mâu thuẫn khi có đủ các điểu kiện. 65 QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó chỉ rõ khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ trong quá trình phát triển. 1. Phủ định và phủ định biện chứng Trong sự vận động, phát triển của thế giới vật chất luôn diễn ra sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng. Sự thay thế đó diễn ra như một xu hướng tất yếu và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Quá trình phát triển, trong đó sự vật cũ mất đi, được thay thế bằng sự xuất hiện của sự vật mới được triết học khái quát trong phạm trù phủ định. Với nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự bác bỏ, xoá bỏ, tiêu diệt một sự vật, hiện tượng hoặc một ý kiến, một tư tưởng nào đó. Theo nghĩa triết học phủ định là sự bài trừ, gạt bỏ và thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển của thế giới. Trong lịch sử triết học đã có nhiều cách lý giải khác nhau về sự phủ định và về nguyên nhân của sự thay thế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng. Các nhà triết học duy tâm thường luận giải nguyên nhân của sự phủ định từ ý thức, tinh thần hoặc từ một lực lượng siêu tự nhiên ở bên ngoài sự vật, hiện tượng. Tư tưởng về sự phủ định đã được G. Hêghen luận giải khá sâu sắc trong hệ thống triết học duy tâm, tư biện khi phát triển các khái niệm trong “Khoa học lôgíc”. G. Hêghen đã phân tích và dự đoán sự ra đời của cái mới dựa trên cơ sở của cái cũ thông qua việc đưa ra khái niệm “lọc bỏ”, một khái niệm quan trọng diễn đạt ý nghĩa và nội dung của phủ định biện chứng trong tiến trình phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo G. Hêghen, “lọc bỏ” có nghĩa là giữ lại, bảo tồn và đồng thời là ngừng lại, chấm dứt; cái có trước đồng thời vừa bị phủ định, vừa được bảo tồn trong cái mới. Nhờ sự “lọc bỏ” mà cái mới có liên hệ với cái cũ, cái mới vừa phủ định cái cũ vừa giữ lại một số đặc trưng, tính chất của cái cũ dưới dạng đã được cải tạo. Tuy nhiên, do hạn chế 66 bởi thế giới quan duy tâm và hệ thống triết học tư biện, G. Hêghen chỉ thừa nhận tư tưởng về sự phủ định trong giới hạn của ý niệm tuyệt đối, tự triển khai và tự tha hoá trong sự tự vận động, phát triển của lực lượng tinh thần. Các nhà triết học siêu hình cũng đã bàn đến quan niệm về sự phủ định và sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất, song họ lại quan niệm đó là một sự phủ định sạch trơn, không có kế thừa, lọc bỏ. Họ phủ nhận tính khách quan của quá trình phủ định, họ hiểu nguyên nhân của sự phủ định là từ bên ngoài, làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của sự vật; không thừa nhận sự phát triển là do những nguyên nhân bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân hạn chế trên là do phương pháp xem xét siêu hình, phiến diện, không thấy các mối liên hệ của sự vật; xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, bất động, không thấy được những mối liên hệ bên trong là nguồn gốc gây nên sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sự vận động, phát triển của thế giới vật chất luôn diễn ra sự thay thế lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng; cái cũ mất đi, cái mới ra đời là do quá trình tích luỹ liên tục về lượng, đến một giới hạn nhất định tạo nên những biến đổi về chất, do sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng. Sự vật mới ra đời là kết quả của một quá trình phủ định nhằm xoá bỏ những mặt, những yếu tố không còn phù hợp, đã tỏ ra lỗi thời, lạc hậu, đồng thời kế thừa có chọn lọc những yếu tố tiến bộ, tích cực trong lòng sự vật cũ, để bổ sung, hoàn thiện trong quá trình phát triển của sự vật mới. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học chỉ quá trình tự phủ định, tự phát triển do nguyên nhân bên trong mỗi sự vật, hiện tượng, cái cũ mất đi, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tiến bộ và tích cực trong lòng cái cũ, tạo ra điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Trước hết, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của sự phủ định biện chứng. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời là do quá trình chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, quá trình chuyển hoá đó lại xuất phát từ nguyên nhân bên trong của mỗi sự vật, hiện tượng, là do sự đấu tranh giữa 67 các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập tự bài trừ, phủ định lẫn nhau để giải quyết các mâu thuẫn vốn có tồn tại của mỗi sự vật, hiện tượng. Kết quả của quá trình giải quyết các mâu thuẫn đó đã làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Do đó, phủ định biện chứng không phải là yếu tố xa lạ từ bên ngoài đưa vào sự vật, mà là một yếu tố tất yếu, vốn có nảy sinh trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Do đó, phủ định biện chứng mang tính khách quan, không lệ thuộc vào ý thức của con người, hoặc lệ thuộc vào bất cứ một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào. Mọi áp đặt từ bên ngoài vào sự phát triển của sự vật, hiện tượng đều trái với đặc trưng của phủ định biện chứng. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng. Các hình thức của phủ định biện chứng cũng được diễn ra phổ biến trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người. Ở đâu có sự vật, hiện tượng, ở đâu có sự vận động phát triển thì ở đó diễn ra sự phủ định biện chứng, “không có lĩnh vực nào lại có thể có sự phát triển mà không phủ định những hình thức tồn tại đã có từ trước”. Trong tự nhiên phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các giống loài sinh vật là điều kiện tiền đề cho quá trình tiến hoá từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của bản thân các giống loài sinh vật đó. Trong xã hội phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, các phương thức sản xuất vật chất và sản xuất ra đời sống tinh thần của xã hội. Trong tư duy phủ định biện chứng là sự thay thế lẫn nhau của các tư tưởng, của nhận thức, lý luận. Trong lịch sử tư tưởng triết học loài người, sự phát triển của phép biện chứng là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời cổ đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện chứng duy vật. Phủ định biện chứng được nảy sinh trong quá trình giải quyết mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng, do vậy, mỗi sự vật, hiện tượng có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào quá trình giải quyết mâu thuẫn nảy sinh của bản thân sự vật ấy. Tính chất của sự phủ định tuỳ thuộc vào đặc điểm, nội 68 dung, kết cấu của mỗi sự vật, hiện tượng cũng như toàn bộ những điều kiện cụ thể quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật đó. Ph. Ăngghen cho rằng, “Phương thức phủ định ở đây như thế nào, trước hết là do tính chất chung của quá trình, hai là do tính chất riêng của quá trình quyết định”1 và “mỗi loại sự vật có phương thức phủ định riêng biệt của nó”. Điều này có nghĩa là, những “phương thức phủ định riêng biệt” đó sẽ không giống nhau về các khâu trung gian, về hình thức và tốc độ của sự phủ định, v.v.. bởi vì, những sự phủ định đó diễn ra theo con đường tự thân, hay là sự tự phủ định. Phủ định biện chứng được thực hiện bằng con đường tự thân phủ định, tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có bên trong sự vật, hiện tượng, cho nên cái mới ra đời không thủ tiêu hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để phát triển (ra đời cái mới), quá trình phủ định biện chứng không đoạn tuyệt hoàn toàn với cái cũ mà nó giữ lại những nội dung tích cực, tiến bộ của cái bị phủ định, làm cho cái mới phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa, đây là một tiêu chí căn bản để phân biệt phủ định biện chứng và phủ định siêu hình. Tính kế thừa là một đặc trưng cơ bản, là nhân tố duy trì mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa cái phủ định và cái khẳng định, giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật, hiện tượng, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Nội dung kế thừa trong phủ định biện chứng là giữ lại, bảo tồn, duy trì những yếu tố tích cực, tiến bộ và hợp quy luật và khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng, giữ lại, duy trì những yếu tố tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển tiếp theo. Đồng thời, kiên quyết loại bỏ những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện mới, làm cản trở đến sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy, tính kế thừa trong phủ định biện chứng vừa là quá trình gạt bỏ những yếu tố cũ, không phù hợp, vừa là bảo tồn, cải tạo, duy trì và khẳng định yếu tố tích cực, tiến bộ trong cái mới; vừa khắc phục những yếu tố lạc hậu, vừa bảo tồn những yếu tố đồng thuận, có 1 C. Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1994, tập 20, tr. 201. 69 lợi cho sự phát triển. Với ý nghĩa ấy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, phủ định những mặt tiêu cực, lạc hậu, bảo thủ, khẳng định những mặt tích cực, tiến bộ. Điều đó có nghĩa là cái mới ra đời từ cái cũ, trong lòng cái cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, từ ý niệm tuyệt đối hay từ thần thánh, chúa trời. Do đó, phủ định biện chứng là vòng khâu của sự liên hệ, vòng khâu của sự phát triển. Phủ định biện chứng đi sâu nghiên cứu sự chuyển hoá từ cái cũ sang cái mới và làm rõ vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới. V. I. Lênin viết: “...Không phải là sự phủ định sạch trơn, không phải là sự phủ định không suy nghĩ, không phải là sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự phủ định coi như vòng khâu của sự liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”1. Biểu hiện sự kế thừa trong tự nhiên là sự di truyền của các giống loài sinh vật, các thế hệ con cái đều có sự kế thừa những yếu tố tốt đẹp, ưu việt của bố, mẹ. Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng luôn diễn ra sự kế thừa mạnh mẽ và tất yếu những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trước. Chủ nghĩa xã hội ra đời là kết quả của sự kế thừa những thành tựu phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản: lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học và văn hoá, v.v.. Tất nhiên, những yếu tố đó phải được cải biến trên cơ sở của một cái mới, cho phù hợp với sự phát triển của xã hội mới. Trong lĩnh vực nhận thức, các học thuyết khoa học ra đời sau bao giờ cũng phải kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết khoa học ra đời trước, v.v.. Trong xã hội có giai cấp, sự kế thừa mang nội dung giai cấp sâu sắc. Trong quá trình phát triển của xã hội, tuỳ thuộc vào lợi ích các giai cấp sẽ quyết định yếu tố nào trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội sẽ bị loại bỏ, yếu tố nào sẽ được giữ lại để làm tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Do đó, trong lĩnh vực xã hội không phải sự kế thừa nào cũng dẫn đến sự phát triển, sự tiến bộ, sự đi lên. Khi sự kế thừa chỉ là 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 245. 70 bảo lưu, giữ lại những tư tưởng lạc hậu, phản động thì nó trở thành sự bảo thủ và kìm hãm sự phát triển của xã hội. 2. Nội dung cơ bản của quy luật Chủ nghĩa duy vật biện chứng không những khẳng định phủ định biện chứng là một vòng khâu, một giai đoạn của sự phát triển mà còn khẳng định cơ chế nội tại, theo đó các lần phủ định biện chứng gắn kết với nhau để đem đến sự phát triển chính là tính chất chu kỳ của chúng. Cái mới ra đời thay thế cái cũ bao giờ cũng diễn ra theo chu kỳ từ khẳng định đến phủ định và từ phủ định đến phủ định của phủ định. Tính chu kỳ của sự phát triển, con đường phát triển thông qua phủ định của phủ định đã được một số nhà triết học trước C. Mác với phương pháp tư duy biện chứng thừa nhận luận giải, đặc biệt là G. Hêghen, người đầu tiên trình bày tương đối đầy đủ nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định, qua đó ông đã có những phỏng đoán thiên tài về sự vận động, phát triển của thế giới thông qua những chu kỳ của sự phát triển. Tuy nhiên, G. Hêghen đã trình bày quy luật này trên cơ sở thế giới quan duy tâm , tư biện theo một sơ đồ máy móc theo kiểu tam đoạn thức cứng nhắc, bất di bất dịch. Quy luật phủ định của phủ định trong tư tưởng của G. Hêghen không phải là một quy luật tồn tại khách quan và phổ biến trong giới tự nhiên và trong lịch sử xã hội loài người, mà nó chỉ được luận giải trong một giới hạn đặc biệt, luẩn quẩn và không có lối thoát của ý niệm tuyệt đối mà thôi. Những luận giải về quy luật phủ định của phủ định và do đó, về toàn bộ phép biện chứng của G. Hêghen "không tránh khỏi tính chất gò ép, giả tạo, hư cấu và bị xuyên tạc"1. Trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, cách mạng, C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã loại bỏ được những yếu tố duy tâm, thần bí và hư vô, đồng thời giữ lại, kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng G. Hêghen trong đó có tư tưởng về phủ định của phủ định. C. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã luận giải quy luật phủ định của phủ định trong giới tự nhiên, trong xã hội và lĩnh vực tư duy của con, qua đó 1 C. Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1994, tập 20, tr. 41. 71 đã khẳng định tính khách quan và phổ biến của quy luật này, "Một quy luật phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà nó có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn"1. Trong tác phẩm: "Chống Đuyrinh", Ph. Ăngghen đã đưa ra rất nhiều ví dụ sinh động để chứng minh cho tính khách quan và phổ biến của quy luật phủ định của phủ định. Từ những ví dụ rất đơn giản về quá trình phủ định của phủ định trong sự phát triển của hạt đại mạch, đến vòng đời ngắn ngủi của con tằm trong lĩnh vực sinh học và đến những ví dụ phức tạp hơn đang diễn ra trong lĩnh vực hoá học, vật lý học, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy của con người. Từ đó, Ph. Ăngghen kết luận: “Phủ định của phủ định là quy luật phát triển của tự nhiên, lịch sử và tư duy”, nó “diễn ra khắp mọi lúc mọi nơi”, và biểu hiện rất phong phú đa dạng trên các lĩnh vực”2. Như vậy, tính chu kỳ, tính lặp lại diễn ra trong các sự vật, hiện tượng là biểu hiện và đặc trưng quan trọng nhất của sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng. Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều, ít khác nhau tuỳ theo từng sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể, nhưng về thực chất, trong một chu kỳ phủ định của phủ định phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau: phủ định lần một và phủ định lần hai. Phủ định lần một là quá trình phủ định biện chứng nhằm chuyển hoá cái xuất phát ban đầu (cái khẳng định) sang cái đối lập với nó (cái phủ định) để tạo ra bước trung gian trong sự phát triển của sự vật. Cái mới ra đời thông qua cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập, loại bỏ được những mặt tiêu cực và kế thừa những yếu tố tích cực, cơ bản của cái cũ để tạo ra cái đối lập với sự vật ban đầu cả nội dung và hình thức. Sự kế thừa trong phủ định lần thứ nhất này còn mang tính phiến diện, Do vậy, kết quả của phủ định lần thứ nhất chưa nói rõ được sự phát triển. Theo V. I. Lênin, đó chỉ là một “bước tiến về phía đối lập”. Phủ định lần một, mặc dù chưa nói lên sự phát triển nhưng rất 1 2 C. Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG. Hà Nội 1994, tập 20, tr. 202. C. Mác và Ph.Ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG. Hà Nội 1994, tập 20, tr. 191, 193, 200. 72 quan trọng, vì nó tạo điều kiện, tiền đề cho bước phủ định biện chứng lần thứ hai. Phủ định lần hai nhằm chuyển hoá khâu trung gian (cái phủ định) sang cái đối lập với nó, sự vật mới ra đời dường như lặp lại cái ban đầu (cái khẳng định), nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định lần hai là sự tổng hợp các nhân tố tích cực đã được phát triển vững chắc trong cái phủ định và được bổ sung nhiều nhân tố mới. Sự vật mới ra đời có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn cái khẳng định ban đầu và cái phủ định. Do vậy, kết quả của phủ định lần hai đã nói rõ được sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định lần hai được gọi là phủ định của phủ định. Sau phủ định lần hai, sự vật, hiện tượng đã kết thúc một chu kỳ phủ định của phủ định - một chu kỳ của sự phát triển, đồng thời lại là điểm khởi đầu của một chu kỳ phát triển tiếp theo, cứ như vậy làm cho sự vật, hiện tượng vận động phát triển không ngừng. Về nguyên tắc, một chu kỳ của sự phát triển (phủ định của phủ định) phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản, khác nhau về chất. Sau mỗi lần phủ định cơ bản đó, sự vật, hiện tượng phải chuyển hoá sang cái đối lập với cái xuất phát ban đầu, từ cái khẳng định sang cái phủ định, hoặc từ cái phủ định trở lại cái khẳng định nhưng trên cơ sở cao hơn. Nhưng không phải mọi chu kỳ phát triển bao giờ cũng diễn ra trực tiếp bằng hai lần phủ định biện chứng cơ bản, mà có sự vật phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng không cơ bản, được gọi là các hình thức trung gian, quá độ, mới thực hiện được một chu kỳ của sự phát triển. Tuỳ theo từng sự vật, hiện tượng cụ thể, với những điều kiện hoàn cảnh cụ thể tác động mà sự phát triển phải trải qua nhiều lần phủ định không cơ bản, nhiều hình thức trung gian, quá độ. Các hình thức phủ định không cơ bản nhiều hay ít, dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào tính chất, quy luật đặc thù và kết cấu của sự vật bị phủ định, cũng như kết cấu của sự vật sắp ra đời. Việc thực hiện tốt các hình thức phủ định không cơ bản đó sẽ là điều kiện để từng bước hoàn thiện các hình thức phủ định cơ bản. Mỗi bước phủ định không cơ bản dù chưa phản ánh đầy đủ về sự phát triển, chưa tạo nên bước ngặt, song nó cũng đánh dấu một giai đoạn phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng. Điều đó có nghĩa là trong xem xét và 73 cải tạo sự vật, hiện tượng tuyệt đối không được hạ thấp hoặc bỏ qua các bước trung gian, quá độ của sự phát triển. Trong hoạt động thực tiễn nếu không nhận thức đầy đủ các bước phủ định không cơ bản sẽ dẫn đến hành động chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, chắc chắn sẽ thất bại. Sau lần phủ định cơ bản thứ hai sự vật dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đây là đặc điểm quan trọng của phủ định của phủ định. Tuy nhiên, sự lặp lại ở đây không phải lặp lại máy móc, nguyên xi cái ban đầu, mà trên cơ sở cao hơn. Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới hình thức khác, ở một trình độ cao hơn. Sự phát triển không bao giờ quay lại cái ban đầu, trở về với cái cũ, mà xét thực chất chỉ là sự lặp lại một số yếu tố, đặc trưng, đặc tính của sự vật ban đầu, bản thân các đặc trưng, đặc tính này cũng đã được bổ sung, cải tạo và phát triển hoàn thiện hơn trong sự vật mới. Theo V. I. Lênin, đó chỉ là “Sự lặp lại, ở giai đoạn cao, của một số đặc trưng, đặc tính v.v. của giai đoạn thấp và sự quay trở lại dường như với cái cũ (phủ định của phủ định)”1. Trong tự nhiên đó là sự lặp lại của các giống loài sinh vật, sự lặp lại của các yếu tố di truyền và của các thế hệ kế tiếp nhau. Trong xã hội là sự lặp lại của các nhân tố tích cực, tiến bộ biểu hiện trong các lĩnh vực chính trị, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật… ngay cả trong lĩnh vực thời trang, nếu nghiên cứu kỹ chúng ta cũng rễ ràng nhận thấy có những yếu tố dường như lặp lại trong sự thay đổi của các mốt thời trang trong mỗi dân tộc và trong cả xã hội loài người. Trong tư duy là sự lặp lại của quá trình nhận thức được diến ra trong suốt chiều dài lịch sử phát triển tư tưởng nhận thức của nhân loại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật ra đời dường như lặp lại chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thời cổ đại, tuy nhiên đó không phải là sự lặp lại một cách giản đơn mà là thành quả của quá trình nhận thức tự giác dựa trên các thành tựu phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên và là sự tổng kết những giá trị triết học hơn 2000 năm lịch sử. Do tính chất chu kỳ phủ định của phủ định, do tính lặp lại một số mặt, một số yếu tố ban đầu trên cơ sở mới cao hơn, nên sự vận động, phát triển 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ M. 1981, tập 29, tr. 240 74 của sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất không diễn ra theo đường thẳng, mà có những bước quanh co, phức tạp theo đường “xoáy ốc”. Hình thức xoáy ốc là biểu thị khuynh hướng và con đường tiến lên trong quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng. V. I. Lênin viết: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng”1. Hình thức “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng cơ bản của quá trình phát triển thông qua phủ định của phủ định: tính chu kỳ, tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước, nhưng không bao giờ trùng khít lên nhau. Mỗi vòng “xoáy ốc” thể hiện mối liên hệ ràng buộc không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Điểm cuối cùng của một vòng xoáy ốc này ghép chặt với điểm khởi đầu của một vòng khác ở trên nó. Nói cách khác, điểm cuối cùng của một chu kỳ này cũng là điểm khởi đầu của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Mỗi vòng “xoáy ốc” là một biểu hiện của một chu kỳ phủ định của phủ định. Sự tiếp nối nhau của các vòng thể hiện tính vô tận và tính liên tục của sự phát triển, của sự tiến lên từ thấp đến cao. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà là một quá trình biện chứng, bao hàm tính quanh co phức tạp, bởi vì sự phát triển được thực hiện thông qua sự thống nhất và đấu tranh quyết liệt giữa các mặt đối lập bên trong mỗi sự vật, hiện tượng, đó là cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ, tích cực với cái bảo thủ, lạc hậu, giữa cái mới và cái cũ, giữa cái cái khẳng định và cái phủ định, mà kết quả, đôi khi cái mới lại chưa thể chiến thắg hoàn toàn cái cũ, mặt tiến bộ, tích cực lại bị mặt tiêu cực, lạc hậu phủ định. Sự thống nhất và đấu tranh giữa cái khẳng định và cái phủ định đã 1 V. I. .Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 26, tr. 65. 75 tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển và làm cho sự phát triển diễn ra theo đường "xoáy ốc". Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động tiến lên, nhưng những yếu tố riêng lẻ của sự vận động đó có thể không tiến lên, mà thụt lùi, thoái bộ. Nói cách khác, phát triển là khuynh hướng chung của toàn bộ thế giới vật chất, nhưng từng sự vật, hiện tượng cụ thể thì có sự phát sinh, phát triển và diệt vong. Do vậy, Sự phát triển còn bao hàm cả khả năng thụt lùi tạm thời, đi xuống của mỗi sự vật, hiện tượng. Đôi khi là sự quay trở lại cái cũ, hoặc thậm trí là sự diệt vong của cả một đất nước, chế độ xã hội. Xét về mặt lý luận, nó phản ánh cuộc đấu tranh gay go các quyết liệt, một mất một còn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái khẳng định và cái phủ định. Xét về mặt thực tiễn, cần phải thấy bước lùi tạm thời đó là hợp quy luật của sự phát triển, nằm trong trạng thái của sự phát triển. Bước lùi, sự thoái bộ chính là điều kiện, tiền đề để chuẩn bị cho một bước phát triển vững chắc tiếp theo. Với ý nghĩa đó, Ph. Ăngghen viết: sự chết chính là tiền đề cho sự sống. Phủ định của phủ định không chỉ diễn tả tính chất chu kỳ, tính phức tạp, tính lặp lại, mà còn khẳng định phát triển là một quá trình tất yếu dẫn đến sự ra đời của cái mới. Phát triển dù có quanh co phức tạp nhưng cuối cùng cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ. Bởi vì, cái mới là cái tiến bộ, tích cực, đại diện cho xu hướng đi lên, là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, biểu hiện khuynh hướng phát triển tất yếu và là kết quả của quá trình phát triển hợp quy luật của các sự vật, hiện tượng. Do vậy, cái mới thay thế cái cũ là tất yếu trong xu thế phát triển của sự vật, đóng vai trò là động lực của sự phát triển. Có thể lúc đầu, khi mới xuất hiện, cái mới còn có mặt non yếu, chưa vững chắc nên có lúc chưa thể chiến thắng cái cũ, bị cái cũ phủ định. Theo V. I. Lênin: “Trong lúc cái mới vừa nảy sinh ra thì cái cũ trong một thời gian nào đó vẫn cứ còn mạnh hơn cái mới”1. Nhưng trong quá trình vận động, biến đổi đến một giai đoạn nhất định, khi đã hội đủ những yếu tố cần thiết, thì cái mới nhất định chiến thắng cái cũ. Cái mới là cái 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Sự thật, H. 1981, tập 29, tr. 476. 76 tất thắng, nảy sinh và phát triển, còn cái cũ là cái tất yếu bị tiêu diệt và mất đi trong sự vận động và phát triển vô cùng vô tận của thế giới vật chất. Nghiên cứu sự xuất hiện của cái mới cũng cần phân biệt cái mới đích thực với cái mới giả hiệu, cái giả mới. Cái giả mới, cái mới giả hiệu, thực chất là cái cũ, cái lỗi thời được nguỵ trang, đội lốt và được tái tạo lại dưới hình thức mới. Trong đời sống xã hội thường bắt gặp sự xuất hiện của những cái tưởng chừng như là cái mới, cái tiến bộ, nhưng khi xem xét đến bản chất bên trong thì lại là cái cũ, không có gì mới. Sự tồn tại của cái giả mới gây cản trở rất lớn đến sự phát triển của tiến bộ xã hội. Nhận diện đúng đắn và phân biệt cái mới và cái giả mới có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Từ những sự phân tích trên có thể khái quát nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau: Phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ; cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những hạt nhân hợp lý trong lòng cái cũ theo chu kỳ phủ định của phủ định để khẳng định sự tiến lên; con đường tiến lên trong quá trình phát triển, do đó, không theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”; cái mới là cái tất thắng. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu đúng xu hướng của sự phát triển, do đó xem xét sự vật phải phân tích bản chất của nó để vạch ra chiều hướng phát triển cơ bản, đồng thời dự kiến được những bước quanh co trong sự phát triển, đặc biệt là sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Trong hoạt động thực tiễn cần chú ý đến tất cả các bước phủ định cơ bản và các khâu trung gian, quá độ của sự vật, hiện tượng, phải thấy được tính lô gíc, mối liên hệ chặt chẽ giữa các lần phủ định liên tiếp nhau, “phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định thứ hai vẫn sẽ còn hay có thể có được”1. Trong khi phủ định cái cũ, cần biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý, những tinh hoa của cái cũ; chống thái độ phủ định sạch trơn, không thấy mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. 1 C. Mác và Ph.ăng ghen, toàn tập, Nxb CTQG. Hà Nội 1994, tập 20, tr. 201. 77 Nhận thức đúng đắn con đường của sự phát triển thông qua những chu kỳ phủ định của phủ định là cơ sở để xây dựng thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học trong xem xét các vấn đề thời đại, xây dựng lòng tin vào tương lai, vào sự tất thắng của cái mới với tinh thần lạc quan cách mạng, xây dựng ý chí quyết tâm, tính vững vàng, kiên định trước những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Trong hoạt động thực tiễn cần tích cực phát hiện ra cái mới, tin tưởng vào cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện để cái mới nảy sinh, chiến thắng cái cũ. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước Đông Âu và Liên Xô vừa qua là một bước lùi của lịch sử nhân loại, nhưng không thể phủ nhận được con đường phát triển tiến lên của lịch sử. Chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù đã được điều chỉnh, thích nghi và đang tiếp tục phát triển, song với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhân tố tiến bộ với tính cách là các mặt đối lập bên trong bản thân chủ nghĩa tư bản, nó đã, đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền móng cho một xã hội tốt đẹp hơn trong tương lai, cũng như nó đã từng phủ định xã hội phong kiến thối nát trước đây trong lịch sử. Đối với đất nước ta, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản không những phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử xã hội loài người, mà còn là một nhu cầu bức thiết của Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta. Thực chất của sự “bỏ qua” này là bỏ qua tư bản với tính cách là một chế độ thống trị (cả về kinh tế và chính trị). Điều đó cũng có nghĩa là, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cùng với việc giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc trong định hướng quá trình đổi mới, chúng ta phải biết kế thừa những thành tựu mà loài người đã đạt được trong tiến trình lịch sử, nhất là những thành tựu dưới chủ nghĩa tư bản. Quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực quân sự, một lĩnh vực hoạt động đặc thù của xã hội, luôn vận động, biến đổi thường xuyên và hết sức phức tạp. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những yếu tố hợp thành sức mạnh chiến đấu của quân đội luôn có sự biến đổi và phát triển nhanh chóng. Sự ra đời của cái mới trong 78 lĩnh vực quân sự là quá trình phủ định cái cũ, cái bảo thủ và lạc hậu, đồng thời luôn luôn kế thừa những yếu tố hợp lý trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự và các hình thức chiến thuật… nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. 79 LÝ LUẬN NHẬN THỨC Lý luận nhận thức là một trong những bộ phận căn bản của triết học Mác - Lênin, nó không những giúp cho con người trong nhận thức thế giới khách quan, mà còn có ý nghĩa to lớn giúp cho con người trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn. 1. Nhận thức 1.1. Quan niệm ngoài mácxít về nhận thức Trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề con người có thể nhận thức, phản ánh được thế giới khách quan hay không cũng như cơ sở nền tảng của nhận thức là gì, luôn diễn ra gay go, phức tạp với nhiều quan điểm khác nhau. Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Ph. Bêcơn, T. Hôpxơ, đặc biệt là L. Phoiơbắc đã đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật. Họ thừa nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Song, do hạn chế bởi điều kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của họ còn thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan, máy móc trong giải quyết các vấn đề về nhận thức, chưa phản ánh đúng bản chất và mối quan hệ giữa các giai đoạn nhận thức. Đặc biệt, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là không đề cập được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên giải thích một cách siêu hình mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức. L. Phoiơbắc đánh giá cao vai trò của cảm giác trong nhận thức và chỉ ra nguồn gốc, cơ sở khách quan của nó, song, lý luận nhận thức của ông còn mang tính duy giác luận, trực quan, cảm tính, chỉ thừa nhận yếu tố sinh vật trong cảm giác của con người mà không thấy mặt xã hội của nó. Ông không phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính, hiểu chưa đầy đủ về vai trò thực tiễn là cơ sở của nhận thức, nên đồng nhất cảm giác với tư duy, phủ nhận vai trò tích cực của ý thức. 80 Trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức nên đã phủ định khả năng nhận thức thế giới của con người, hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt, chi phối từ những lực lượng “siêu nhiên” và kết quả nhận thức không phải sự phản ánh hiện thực khách quan. Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức thế giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan, mà chỉ là “tự nhận thức” của ý niệm, còn tư tưởng là sự tồn tại ở đâu đó ngoài con người. G. Hêghen đã coi "ý niệm tuyệt đối" là linh hồn của nhận thức khoa học chân chính; nhận thức của con người là “ý niệm tuyệt đối tự nhận thức bản thân mình". Ông còn quy “thực tiễn” vào hoạt động tinh thần; hơn nữa, do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp nên ông không đánh giá đúng về thực tiễn, đặc biệt là vai trò sản xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội. Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn thủ tiêu khách thể khi đề cập đến nhận thức luận. Họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là "phức hợp cảm giác" của con người. G. Béccơli (1685-1753) cho rằng “tồn tại có nghĩa là cảm giác được”, đối tượng nhận thức và cảm giác chỉ là một. Tất cả mọi cái từ cảm giác mà ra, và sự vật là sự kết hợp của những cảm giác chủ quan; không có chủ thể thì không có khách thể. Cũng như G. Béccơli, nhà duy tâm chủ quan và nhà bất khả tri luận Đ. Hium (1711-1766) đã tuyệt đối hoá vai trò của cảm giác, theo ông, năng lực chủ quan là kim chỉ nam cho cuộc sống, nhận thức chỉ là quá trình tâm lý xảy ra trong con người; thậm chí mối liên hệ nhân quả cũng không phải là quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý. Những nhà bất khả tri luận khẳng định thế giới là không thể biết được; lý trí con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác, con người không thể biết được gì. E. Cantơ cho rằng con người chỉ nhận thức được “hiện tượng”, còn “vật tự nó” thuộc về “siêu nghiệm”, tuyệt đối không biết được, không phải là đối tượng nhận thức; cảm giác chủ quan là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, là cái đứng giữa chủ thể và “vật tự nó”. Chủ nghĩa thực chứng - biến tướng của chủ nghĩa bất khả tri - đã quy nhiệm vụ của nhận thức về sự mô tả các tri giác cảm tính với tính cách là thực 81 tại duy nhất, coi kinh nghiệm và khoa học là tổng hợp những cảm giác, biểu tượng và thí nghiệm chủ quan, phủ nhận những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, khoa học chỉ còn có tác dụng mô tả. 1.2 Quan niệm duy vật biện chứng về bản chất nhận thức C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc nền tảng khi trình bày về lý luận nhận thức. C. Mác đã vạch ra khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc: “... sự vật, hiện thực, cái có thể cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”1; đồng thời, ông phê phán chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hoá vấn đề tư duy, tuyệt đối hoá “lực lượng tinh thần” ngoài con người. C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra quan điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của nó đối với nhận thức, nhận thức khoa học; hai ông đã thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: nhận thức là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người; đời sống xã hội về bản chất là có tính thực tiễn; ý thức, nhận thức chỉ là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người, v.v.. V. I. Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen, đồng thời phát triển sâu sắc lý luận về nhận thức và xác định nhận thức là bộ phận cấu thành hệ thống triết học mácxít hoàn chỉnh. Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V. I. Lênin kết luận: “1) Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta... 2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận thức và cái chưa được nhận thức... 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1985, tập 3, tr.9. 82 3) Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn...”1. Cùng với kết luận trên, V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”2. Với tinh thần đó, V. I. Lênin đã chỉ ra những vấn đề bản chất nhất của nhận thức như: đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người, sự thống nhất giữa nhận thức với thực tiễn và biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức. Điều đó khẳng định rõ tính thứ nhất của vật chất và làm rõ vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi khái quát về khả năng nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, V. I. Lênin đã phê phán sâu sắc các quan điểm duy vật siêu hình, duy tâm, thuyết không thể biết. Như vậy, nhận thức hiểu theo nghĩa chung nhất là sự hiểu biết của con người đối với hiện thực khách quan, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Bản chất nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan và óc người trên cơ sở thực tiễn. Nhận thức không phải là hiện thực khách quan mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách tích cực sáng tạo, điều này vừa khẳng định trình độ nhận thức của con người đối với hiện thực, vừa thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể nhận thức trên cơ sở thực tiễn. Chủ thể nhận thức không phải những người riêng lẻ, trừu tượng ngoài xã hội, mà chính là những con người, những thành viên của những cộng đồng xã hội nhấn định. Với chủ quan của mình, chủ thể nhận thức đã tác động tích cực tới khách thể, làm cho nó bộc lộ bản chất, quy luật và như vậy chủ thể nhận thức sẽ có sự hiểu biết về khách thể. Quá trình nhận thức diễn ra mang tích tích cực, chủ động, sáng tạo. Điều này được thể 1 2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr.117. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr. 167. 83 hiện ở sự nhận thức có mục đích; sự phản ánh vượt trước thông qua hoạt động thực tiễn; nội dung phản ánh là do hiện thực khách quan quy định, nhưng sự phản ánh đó đã thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, là “cái vật chất được di chuyển vào óc người” nhưng đã được cải biến ở trong đó”. Để khắc phục những giới hạn của các giác quan, con người luôn luôn chế tạo ra công cụ, “nối dài các giác quan của mình” để khám phá thế giới - đây cũng là vấn đề căn bản thể hiện tích tích cực, chủ động, sáng tạo của quá trình nhận thức. Nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng phức tạp của con người đối với hiện thực khách quan, thông qua các giai đoạn và mối quan hệ chặt chẽ giữa các giai đoạn. Theo V. I. Lênin: “Nhận thức là quá trình xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên vô cơ, để làm cho giới tự nhiên ấy chịu sự chi phối của chủ thể và để khái quát (nhận thức cái chung trong các hiện tượng của tự nhiên ấy)…”1. “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, không mâu thuẫn, mà là quá trình trong vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết các mâu thuẫn đó”2. Là sự phản ánh thế giới vật chất phong phú, phức tạp luôn vận động biến đổi cho nên nhận thức của con người cũng có một quá trình “vĩnh viễn của vận động”, từ chưa hoàn thiện tới ngày càng hoàn thiện. Những thành quả nhận thức của những thế hệ kế tiếp nhau đã làm cho tri thức của nhân loại ngày càng phong phú, sâu sắc và đầy đủ hơn. Quá trình nhận thức thế giới là kết quả tổng hợp tri thức của mỗi cá nhân, của các thế hệ kế tiếp nhau và chịu sự chế ước của điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con người ngày càng nhận thức sâu sắc những thuộc tính và mối liên hệ mới của thế giới. Song, con người không thể nhận thức được hết thế giới khách quan, bởi vì nhận thức là “quá trình vô hạn của việc tìm ra những mặt mới, những quan hệ mới”3, là “quá trình vô hạn của sự đi sâu nhận thức của con người về các 1 2 3 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 206 – 207. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 207 - 208. Sđd tr. 240 84 sự vật, hiện tượng”1, đó là sự tiến gần mãi mãi và vô hạn của tư duy đến khách thể, là quá trình xâm nhập của lý trí vào hiện thực, là quá trình không ngừng làm phong phú trí tuệ của nhân loại bằng tri thức mới. Quá trình phản ánh đó theo trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ hiện tượng tới bản chất, từ bản chất kém sâu sắc tới bản chất sâu sắc hơn. 1.3. Các cấp độ nhận thức Trên cơ sở trình độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Đây là hai trình độ nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh. Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và lao động sản xuất. Còn tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận – kết quả của nhận thức lý luận – thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”2. Trong mối quan hệ đó thì nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận 1 2 Sđd, tr. 240. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tập 5, tr..234. 85 thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Nhận thức kinh nghiệm gắn bó chặt chẽ với thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp, mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Cho nên, nhận thức kinh nghiệm “tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”1. Ngược lại, được tổng kết từ kinh nghiệm, nhận thức lý luận mang tính hệ thống, khái quát cao. Đồng thời, do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống của con người. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến. Việc nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Do nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn Đảng ta đã luôn chủ động đi sâu tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận một cách sáng tạo, đó là một trong những yếu tố làm nên thắng lợi trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Căn cứ vào tính chất tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân chia ra thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 718. 86 chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau. Nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, vì thế nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội. Khác với nhận thức thông thường, nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgíc, là các khái niệm, các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, có tính hệ thống, có căn cứ và chân thực. Nhận thức khoa học sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu, sử dụng cả ngôn ngữ thông thường, thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển từ nhận thức thông thường thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, nhận thức khoa học, xâm nhập vào nhận thức thông thường, làm cho nó không ngừng phát triển. 2. Thực tiễn và vai trò thực tiễn đối với nhận thức 2.1. Phạm trù thực tiễn Thực tiễn là một trong những phạm trù trung tâm, nền tảng, không chỉ trong lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác-Lênin. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi giải thích quá trình nhận thức, mà mang nhiều ý nghĩa về mặt thế giới quan. 87 Các trào lưu triết học trong lịch sử không có quan niệm đúng đắn về phạm trù này. Chủ nghĩa duy tâm coi thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người, chứ không xem xét là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử - xã hội. Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hoạt động vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu và không có vai trò gì đối với nhận thức của con người. Kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã có quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Theo quan điểm mácxít, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất diễn ra ngoài đầu óc con người song luôn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động tinh thần, tư tưởng. Hoạt động thực tiễn được thực hiện thông qua việc con người sử dụng những công cụ vật chất tác động trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo những mục đích nhất định. Hoạt động này được thực hiện một cách tất yếu, khách quan và không ngừng phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử, vì vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động có mục đích và mang tính lịch sử – xã hội. Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác 88 nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động mà con người tạo ra những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động “nguyên thuỷ” nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất định trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất của con người. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức. 2.2. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức Quan điểm về thực tiễn giữ vai trò cơ bản nhất trong việc xây dựng lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác. Sở dĩ như vậy là vì: "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp"1. Trước hết, thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người bắt đầu quan hệ với tự nhiên không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn, chính trong quá trình thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức lý luận của con người mới được hình thành và phát triển. Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu của mình con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn, trong quá trình đó con người 1 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 29, tr. 230. 89 cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy lôgic, trí tuệ không ngừng được củng cố và phát triển; theo đó, con người ngày càng đi sâu nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc hơn tri thức của mình. Có thể nói, thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh nghiệm, tìm kiếm tri thức, khái quát lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học. Trên cơ sở thực tiễn con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công cụ, phương tiện phục vụ cho quá trình nhận thức - hoạt động tinh thần không thể có khả năng trực tiếp về vấn đề đó. Với hệ thống công cụ, phương tiện ngày càng hiện đại giúp con người có khả năng nhận thức một cách nhanh hơn, xa hơn, trong những điều kiện khó khăn phức tạp hơn, nhận thức ngày một hiệu quả hơn. Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện, khả năng nhận thức. V. I. Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí ẩn với con người nếu không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức; mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn không những là cơ sở mà còn là động lực của quá trình nhận thức. Thông qua thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu vật chất, tinh thần và nhu cầu đó ngày càng cao. Tuy nhiên, khả năng của chủ thể nhận thức luôn có hạn, điều này đã thúc thẩy sự nỗ lực về tri thức, trí tuệ để thoả mãn nhu cầu của mình. Cùng với vấn đề đó, thông qua thực tiễn đã tạo ra những tiền đề, điều kiện thúc đẩy quá trình nhận thức. Với những ý nghĩa đó thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức. 90 Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã bị quy định bởi nhu cầu sống. Để sống, để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, đồng thời những tri thức khoa học – kết quả nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa đích thực khi nó được vận dụng vào sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và thực nghiệm khoa học... Với nghĩa đó thực tiễn là mục đích của nhận thức. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình”1. Trong Luận cương thứ hai về L. Phoiơbắc, C. Mác còn khẳng định rằng, nếu đứng ngoài thực tiễn mà xem xét chân lý khách quan có phù hợp với tư duy con người hay không, thì như thế là triết học kinh viện. Thực tiễn luôn vận động biết đổi không ngừng, do vậy chân lý cũng thường xuyên bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn mới. Ngày nay, để bảo đảm yêu cầu trước sự phát triển phong phú, phức tạp của tri thức người ta có thể lấy “tiêu chuẩn lôgíc”, “tính không mâu thuẫn” của tư duy… làm tiêu chuẩn của chân lý. Tuy nhiên, những cách kiểm nghiệm này suy đến cùng đều phải trên cơ sở thực tiễn. Qua phân tích vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức trên đây, đòi hỏi chủ thể hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực tiễn dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại. Trong lĩnh vực quân sự mà cụ thể là thực tiễn quân sự luôn gắn với thời gian, không gian, điều kiện hoàn cảnh quân sự cụ thể, bao gồm thực tiễn chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, thực tiễn công tác chính trị tư tưởng và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự. Trong các hình thức 1 C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1995, tập 3, tr. 9 - 10. 91 thực tiễn quân sự đó, thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu là hình thức cơ bản nhất. Thông qua hoạt động thực tiễn quân sự, các mối quan hệ, các thành phần, các thuộc tính… trong lĩnh vực quân sự được bộc lộ, cung cấp cho chủ thể quân sự những nhận biết để từ đó khái quát thành lý luận quân sự, đồng thời làm cho chủ thể quân sự phát triển năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn quân sự luôn vận động, biến đổi không ngừng, thường xuyên xuất hiện những đối tượng và tình huống mới buộc chủ thể phải nâng cao khả năng nhận thức đáp ứng yêu cầu thực tiễn quân sự đặt ra. Thực tiễn quân sự còn có vai trò kiểm nghiệm nhận thức và lý luận quân sự. Nhận thức quân sự qua kiểm nghiệm bằng thực tiễn quân sự mới khẳng định được tính chân lý. Cần phải quán triệt tốt quan điểm thực tiễn, quan điểm thực tiễn quân sự; qua đó giúp cho chủ thể nhận thức quân sự tránh được những sai lầm cực đoan như chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan, hoặc chủ nghĩa tương đối trong lĩnh vực quân sự. 3. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và các hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân hoá thành các cấp độ khác nhau như: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Tuy nhiên, biện chứng của quá trình nhận thức được hiểu theo nghĩa chung nhất như V. I. Lênin đã chỉ ra: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý của sự nhận thức hiện thực khách quan”1. Theo Hồ Chí Minh, nhận thức diễn ra một quá trình: “Thực hành sinh hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận chỉ đạo thực hành”2. 1 2 V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, tập 29, tr.179. Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTGQ, H. 1996, tập 6, tr. 681. 92 Như vậy, nhận thức diễn ra một cách liên tục, biện chứng qua các giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính, từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn và trên cơ sở thực tiễn mới nhận thức lại tiếp tục phát triển. 3.1. Từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, mà chủ thể tiếp cận, phản ánh trực tiếp các đối tượng. Nhờ chức năng của các giác quan con người có thể phản ánh được những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng. Sự phản ánh diễn ra khi các đối tượng trực tiếp tác động vào các giác quan. Phản ánh của giai đoạn nhận thức cảm tính thông qua các hình thức: cảm giác, tri thức, biểu tượng. Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Tri giác là hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là tổng hợp của nhiều cảm giác, là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn cảm giác. Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người về sự vật khi nó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu tượng là “hình ảnh lưu trữ của tri giác” là hình thức chuyển tiếp trung gian từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính. Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những quá trình kế tiếp nhau của nhận thức cảm tính. Những hình thức này là tiền đề là quá trình tiến tới giai đoạn nhận thức cao hơn. Nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo nhưng cao hơn về chất so với nhận thức cảm tính, nó phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng. Tư duy trừu tượng dựa vào những tài liệu cảm tính, thông qua các thao tác tư duy để khái quát tìm ra bản chất, quy luật của sự vật. Đây là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng hiện thực khách quan, chủ thể không trực tiếp với khách thể, mà chỉ dựa vào những tài liệu cảm tính để phân tích, so sánh, tổng hợp, tìm ra cái chung, cái bản chất và quy luật của 93 khách thể. Giai đoạn tư duy trừu tượng của quá trình nhận thức diễn ra qua các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy luận. Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy, nó liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. Suy luận cũng là hình thức cơ bản của tư duy, liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Khái niệm, phán đoán, suy luận là các hình thức cơ bản kế tiếp nhau trong giai đoạn nhận thức lý tính có mối quan hệ thống nhất với nhau. Như vậy, bằng phương pháp trừu tượng hoá người ta có thể tách ra để nghiên cứu các giai đoạn trực quan sinh động và tư duy trừu tượng – là những nấc thang hợp thành trong quá trình nhận thức. Trên thực tế các giai đoạn này có mối quan hệ hữu cơ không tách rời. Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề cung cấp tài liệu trực tiếp cho nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính thường xuyên tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó được định hướng và bảo đảm sự chính xác trong quá trình phản ánh. Tuy nhiên, từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính phải có bước nhảy vọt về chất trên cơ sở đủ tài liệu chính xác và khả năng khái quát cao của tư duy. 3.2. Từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn Thực tiễn với tư cách là cơ sở, nền tảng của quá trình nhận thức, nó vừa tham gia vào các giai đoạn, vừa là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý. Nhận thức xuất phát từ thực tiễn, song nó tiếp tục trở về thực tiễn để phát huy chức năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nhận thức lý tính trở về thực tiễn thông qua việc tham gia vào mọi hình thức của thực tiễn, định ra mục đích, nhiệm vụ, phương hướng cho hoạt động thực tiễn, từ đó nhận thức lý tính được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Những tri thức được kiểm nghiệm đúng sẽ trở thành chân lý, tri thức sai lầm hoặc không phù hợp sẽ bị loại bỏ, tri thức mới phù hợp thực tiễn sẽ được bổ sung phát triển. Cũng thông qua thực tiễn sẽ đặt ra những vấn đề tiếp tục phải giải quyết về mặt nhân thức. 94 Từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn là một công việc khó khăn, đòi hỏi phải qua bước nhảy với ý chí, quyết tâm cao và có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của con người. Tóm lại, biện chứng giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính trên cơ sở thực tiễn là quá trình vô tận của nhận thức. Đó là quá trình quanh co theo những chu kỳ kế tiếp nhau, chu kỳ sau cao hơn chu kỳ trước; là quá trình con người mãi mãi tiến gần tới khách thể, cho nên phải luôn chống chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý trong quá trình nhận thức. Tuân thủ con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Nó cung cấp cho chúng ta cơ sở khoa học trực tiếp để luận giải nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, bảo đảm cho nhận thức luôn xuất phát từ thực tiễn và phục vụ đắc lực cho thực tiễn của con người trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Lĩnh vực quân sự là lĩnh vực xã hội đặc thù, biểu hiện tập trung nhất sự đối kháng giai cấp, sự nguy hiểm và ác liệt nhất, thể hiện quan hệ người với người trong sử dụng công cụ đặc biệt và phương pháp đặc biệt, nó ảnh hưởng lớn và toàn diện tới mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, hoạt động trong lĩnh vực quân sự luôn đòi hỏi cao hơn bất cứ lĩnh vực nào về sự vận dụng sáng tạo giữa nhận thức và thực tiễn. Mỗi thành viên trong lĩnh vực quân sự, đặc biệt là đội ngũ sĩ quan và các cơ quan trong lĩnh vực quân sự phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên tắc lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn quân sự. Đồng thời, phải nâng cao khả năng xem xét, nắm bắt thực tiễn để thường xuyên đúc rút kinh nghiệm, tổng kết, khái quát về lý luận.