Phần tiểu luận triết Lí luận về đảng cộng sản Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của đảng, do vậy ”họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. Cán bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng. Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng, Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được. Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đấu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng. Vai trò của đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Khi đảng cộng sản ra đời, thông quan sự lãnh đạo của đảng, giai cấp công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng toàn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt. Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương lĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm được quan điểm, đường lối của đảng để phổ biến tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương mẫu mà lôi kéo quần chúng vào các phong trào cách mạng. Vai trò của đảng cộng sản Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tếxã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 81979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Marx-Lenin , tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Marx-Lenin , tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua gần ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng ta lãnh đạo tiến hành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những kết quả tích cực. Đất nước vượt qua khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đánh giá vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước đã vượt qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội. Thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao vị thế của đất nước. Hiện nay, Ðảng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng, tạo xung lực mới thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Gần 86 năm đồng hành cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định được vai trò sứ mệnh lịch sử đối với cách mạng Việt Nam. Càng trong những hoàn cảnh khó khăn, bước ngoặt lịch sử thì bản lĩnh, trí tuệ, ý chí của Đảng càng tỏa sáng; đường lối, chủ trương của Đảng càng thể hiện sự đúng đắn, khoa học, bám sát thực tiễn đất nước và đòi hỏi bức thiết của nhân dân. Mỗi khi tình hình cách mạng có sự biến động, phát triển, Đảng đều chủ động điều chỉnh, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, phương thức lãnh đạo, đề ra chủ trương, giải pháp, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên, huy động sức mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức để lãnh đạo hoàn thành mục tiêu cách mạng đề ra. Điều đó đã thể hiện bản lĩnh của một Đảng được tôi luyện trong các phong trào đấu tranh cách mạng, đủ khả năng giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước trong bất kỳ hoàn cảnh nào.