Ảnh hưởng của livestream chia sẻ/giải trí tới tình yêu thương hiệu Tóm tắt Livestream nói riêng và livestream chia sẻ/giải trí ngày càng phổ biến và được ưa chuộng tại Việt Nam, đặc biệt với đối tượng giới trẻ. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam hầu như chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu sự ảnh hưởng của livestream, cụ thể là livestream chia sẻ/giải trí tới tình yêu thương hiệu. Vì vậy, nghiên cứu sẽ là đề tài tiên phong trong chủ đề này tại bối cảnh Việt Nam. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu sự ảnh hưởng của livestream chia sẻ/giải trí tới tình yêu thương hiệu qua mô hình gồm 4 yếu tố. Đó là: Biến độc lập (Giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng), biến trung gian (niềm tin thương hiệu) và biến phụ thuộc (tình yêu thương hiệu). Qua 600 phiếu khảo sát hợp lệ; 20 đáp viên trong phỏng vấn chuyên sâu, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng livestream chia sẻ/giải trí có ảnh hưởng tích cực đến tình yêu thương hiệu thông qua niềm tin thương hiệu. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp đối với doanh nghiệp và người phát trực tiếp nhằm nâng cao tình yêu thương hiệu qua livestream chia sẻ/giải trí. Từ khóa: Livestream, Livestream chia sẻ/giải trí, niềm tin thương hiệu, tình yêu thương hiệu. 1. Giới thiệu Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, các thương hiệu ngày nay đang dần thay đổi các chiến dịch marketing từ truyền thống sang kỹ thuật số. Các thiết bị di động đã thay đổi lối sống của người tiêu dùng, họ dành nhiều thời gian hơn mỗi ngày để sử dụng Internet. Các công ty nhận ra được những lợi ích từ việc sử dụng các mạng xã hội như một công cụ để giao tiếp với khách hàng mục tiêu (Kim và Ko, 2012; Ashley và Tuten, 2015; Felix, Rau Schnabel, và Hinsch, 2017). Trong một báo cáo hàng năm của lĩnh vực truyền thông marketing, Stelzner (2016) chỉ ra rằng 60% nhà marketing sử dụng video và 75% các nhà marketing muốn hiểu thêm về việc sử dụng video và có kế hoạch tăng mức sử dụng video trong năm tới. Từ tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, đặc biệt là Internet và tầm quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả video marketing đã dẫn đến sự gia tăng của hoạt động phát trực tiếp. Phát trực tiếp là nguồn đáng tin cậy bởi vì người tiêu dùng tham gia trên cơ sở thời gian thực qua các thiết bị kết nối mạng với những người phát trực tiếp và thúc đẩy người tiêu dùng chú ý hơn đến sản phẩm được quảng cáo (Todd và Melancon, 2018). Cũng giống như “marketing”, “livestream” ngày càng được chấp nhận và sử dụng rộng rãi và dần dần thay thế cho thuật ngữ “phát trực tiếp”. Vì vậy, để tạo sự thống nhất, xuyên suốt công trình này, nhóm tác giả sẽ 1 sử dụng thuật ngữ “livestream” để thay thế cho thuật ngữ “phát trực tiếp”. LazLive với tần suất đều đặn. Theo thống kê, trong tháng 5/2020, tỉ lệ thao tác “bỏ vào giỏ hàng” từ livestream trên Lazada tăng 128% so với tháng 2/2020 (trước khi giãn cách xã hội). Shopee cũng tổ chức những buổi livestream định kỳ cho người xem săn xu, săn sale vào các khung giờ cố định, mạnh tay mời cả Ronaldo giao lưu trên sóng trực tiếp. Bộ đôi Tiki và Sendo cũng không thua kém khi tổ chức các gameshow livestream, mời các streamer nổi tiếng trong giới game đến giao lưu. Theo Nghiên cứu IAB năm 2018, 67% người sử dụng Internet trên toàn cầu xem các video livestream và 47% trong số đó cho rằng tần suất xem video livestream với nội dung chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, trải nghiệm sản phẩm, video game hay các chương trình tài năng, thể thao, âm nhạc khác…Theo Go-Global, đến cuối năm 2020, livestreaming dự kiến sẽ chiếm 82% tổng lưu lượng truy cập Internet toàn cầu. Ngoài ra, ở Việt Nam, các livestream của những người nổi tiếng hay những người có ảnh hưởng cũng rất phổ biến. Thông qua các buổi livestream này, những người có ảnh hưởng tới dư luận chia sẻ kinh nghiệm, trải nghiệm của chính bản thân mình, đưa ra những lời khuyên hay chỉ đơn giản là nói chuyện, tương tác với người hâm mộ của mình. Các thương hiệu có thể hợp tác với những người gây ảnh hưởng này để họ giới thiệu sản phẩm trong livestream của mình một cách tinh tế. Theo thống kê của Marketing AI (2021), 80% độc giả thích xem livestream trên mạng xã hội ở mọi lĩnh vực vì livestream giúp khách hàng có cái nhìn trực quan về sản phẩm và tương tác ngay với thương hiệu. Theo báo Kinh doanh và Tiếp thị, tính đến năm 2020, ở Việt Nam có khoảng 500 – 700 streamers hoạt động thường xuyên, với thu nhập tương đối ổn định và trở thành ước mơ của nhiều người trẻ. Ông Phạm Ngọc Duy Liêm, nhà đồng sáng lập Gostream, công ty cung cấp dịch vụ livestream chuyên nghiệp nhận định, phải đến nửa cuối năm 2017 và năm 2018, tại Việt Nam, livestream mới bắt đầu có xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt trong lĩnh vực bán hàng (sales) và tiếp thị (marketing). Theo báo Đầu tư Việt Nam (tháng 1/2021), ở thị trường Việt Nam, live commerce một hình thức kết hợp giữa livestream và thương mại điện tử đang cho thấy nhiều dấu hiệu tích cực, mỗi ngày có khoảng 70.000 - 80.000 phiên livestream bán hàng. Theo báo Vietnam.net, một phần nhỏ trong số đó (khoảng 2.000 - 3.000 phiên) diễn ra trên các nền tảng điện tử như Shopee Live, Tiki Live, Lazada, Sendo,…Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã dẫn đến sự chuyển mình của hàng loạt thương hiệu khi bắt đầu xuất hiện trên sóng trực tiếp trên các sàn thương mại điện tử. Lazada có hẳn một kênh livestream riêng được biết với tên gọi LazLive, hiện đang có hơn 150 thương hiệu nổi tiếng đang hoạt động. Livestream không còn là địa bàn độc quyền của các cửa hàng online nhỏ lẻ nữa. Các hãng mỹ phẩm nổi tiếng thế giới như L’oreal, Vichy, Laneige… cũng đã bắt đầu xuất hiện trên Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn nhiều diễn biến phức tạp, livestream cũng được sử dụng phổ biến hơn bao giờ hết, từ sự kiện thể thao, buổi hòa nhạc, trò chơi điện tử đến các hoạt động mang tính chính trị. Theo báo cáo của Q&Me, năm 2020, số lượng khán giả xem các video 2 livestream với chủ đề giải trí, gameshow, truyền hình thực tế, trò chuyện,... lên tới 48% trên tổng số người xem livestream tại Việt Nam. Đối tượng chính của dạng livestream với nội dung như vậy chủ yếu là giới trẻ bởi đây là đối tượng thường xuyên tiếp xúc với công nghệ, họ nắm bắt thông tin rất nhanh và rất nhạy cảm với những xu hướng mới. Internet và mạng xã hội đã trở thành một phần của trong cuộc sống của họ, thậm chí còn là công cụ hỗ trợ trong học tập, làm việc và giải trí. Như vậy, các thương hiệu có thể tận dụng mức độ phổ biến của livestream nói chung cũng như livestream chia sẻ/giải trí nói riêng để giới thiệu các sản phẩm tới giới trẻ thông qua những người ảnh hưởng (influencer). Đề tài tập trung mang lại một số ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn như sau: Ý nghĩa khoa học Thứ nhất, nhóm tác giả đã tổng hợp các nghiên cứu trước đây liên quan đến livestream nói chung và livestream chia sẻ/ giải trí nói riêng. Ngoài ra, đề tài cũng hệ thống hóa, bổ sung và hoàn thiện hơn cơ sở lý thuyết giúp cải thiện cái nhìn về livestream trên nhiều khía cạnh khác nhau, được toàn diện, khách quan và cụ thể hơn. Thứ hai, xác định được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong livestream chia sẻ/ giải trí hướng đến tình yêu thương hiệu sẽ giúp đánh giá tốt hơn về vai trò của livestream tại các thương hiệu Việt Nam, có cái nhìn đúng đắn cho việc chọn lựa loại hình livestream để có được kết quả tốt nhất. Với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, dạng livestream với những nội dung giải trí, chia sẻ, tương tác có tác động như thế nào tới suy nghĩ và tâm lý của người tiêu dùng với thương hiệu? Livestream chia sẻ/giải trí có đóng vai trò là một trong những cơ sở để tạo dựng tình cảm của người xem với thương hiệu? Liệu doanh nghiệp nên làm thế nào để tận dụng sức mạnh của loại hình livestream này phục vụ cho công cuộc marketing của mình? Và những người sản xuất nội dung livestream, còn gọi là người phát trực tiếp hay streamer - cầu nối giữa doanh nghiệp với người xem - cần làm gì để có thể duy trì, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa doanh nghiệp với những người theo dõi livestream? Để trả lời thấu đáo cho những câu hỏi trên, nhóm tác giả lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của livestream chia sẻ/giải trí tới tình yêu thương hiệu” để tiến hành nghiên cứu. Trong đó, nhóm tập trung nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội. Thứ ba, nhóm tác giả nhận thấy chưa có nhiều nghiên cứu về livestream, đặc biệt là chưa có nghiên cứu nào liên quan đến livestream chia sẻ/giải trí tại Việt Nam. Vậy nên, kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp về mặt tổng quan, làm nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về livestream chia sẻ/giải trí tại Việt Nam Ý nghĩa thực tiễn Thứ nhất, kết quả của nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các thương hiệu tại Việt Nam nhằm vận dụng các nhân tố thích hợp, từ đó đưa ra những giải pháp, chính sách phù hợp nhất để nâng cao hơn nữa chất lượng livestream trong doanh nghiệp mình, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu khách hàng. Thứ hai, kết quả nghiên cứu cung cấp cho người phát trực tiếp các giá trị mà người xem tìm kiếm để người phát trực tiếp có thể cải thiện, bổ sung và nâng cao nội dung của mình để phù hợp với người xem. 3 Thứ ba, nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu về livestream và tình yêu thương hiệu đối với giảng viên trong việc tìm hiểu hành vi người xem nói chung. ảnh hưởng của livestream chia sẻ/giải trí tới tình yêu thương hiệu thông qua niềm tin thương hiệu. 2.2. Livestreamvà livestream chia sẻ/giải trí Aleksi (2018) cho rằng, xu hướng sử dụng marketing kỹ thuật số và marketing trong thời gian thực (real-time marketing) của các doanh nghiệp, tức chuyển từ phương thức truyền thông theo phong cách “người gửi đến người nhận” truyền thống sang phương thức truyền thông hai chiều chính là lý do quan trọng dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của livestream nói chung và livestream chia sẻ/giải trí nói riêng như hiện nay. Các nhãn hàng ngày nay có thể hưởng lợi rất lớn từ livestream. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Xác định khoảng trống nghiên cứu Hiện nay, các công trình nghiên cứu về livestream đa phần do nước ngoài thực hiện. Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của livestream tới tình yêu thương hiệu vẫn chưa được khai thác sâu. Phần lớn các công trình đã thực hiện trước đây tập trung nghiên cứu theo hai phần chính. Phần thứ nhất nhận định, đánh giá về livestream chia sẻ/giải trí. Phần thứ hai nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tình yêu thương hiệu. Livestream bao gồm truyền âm thanh và hình ảnh phương tiện truyền thông qua Internet trong thời gian thực (Hamilton, Garretson và Kerne, 2014). Bên cạnh đó, livestream được dùng để tạo nội dung mà người xem hoặc người nghe sẽ sử dụng chúng ngay lập tức. Bên cạnh đó, theo Brandlive (2016), livestream cũng có thể tạo ra tác động tích cực vì nó cho thấy rằng nội dung được tạo ra bởi một con người đích thực, chứ không phải một cỗ máy. Livestream bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2016. Đến nay, cho dù livestream đã phát triển khá mạnh mẽ nhưng nhóm tác giả chưa tìm thấy tài liệu công bố nào tại Việt Nam tập trung nghiên cứu về chủ đề này. Từ tổng kết trên, cho thấy còn thiếu nghiên cứu hỗn hợp về livestream chia sẻ/giải trí và tác động của dạng livestream này đến tình yêu thương hiệu trong bối cảnh cụ thể như Việt Nam. Nhóm giả phát hiện đây là khoảng trống trong nghiên cứu và là cơ sở để lựa chọn chủ đề và xác định mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của livestream chia sẻ/giải trí đến tình yêu thương hiệu. Nhưng đã có một số công bố về ảnh hưởng của livestream đến niềm tin thương hiệu và ảnh hưởng của niềm tin thương hiệu tới tình yêu thương hiệu nên nhóm tác giả lựa chọn niềm tin thương hiệu là biến trung gian, làm cầu nối giữa livestream chia sẻ/giải trí và tình yêu thương hiệu. Như vậy, nghiên cứu sẽ tập trung xác định Lu và cộng sự (2018) khi nghiên cứu về livestream đã đưa ra bốn dạng livestream chính dựa theo mục đích sử dụng: Livestream giải trí (Pan-entertainment) Livestream chia sẻ kiến thức cá (Knowledge sharing) Livestream chia sẻ trải nghiệm cá nhân (Personal experience sharing) Livestream thương mại (e-commerce) Ngoài ra, Fraser và cộng sự (2019) đã nêu ra thêm một loại livestream nữa, đó là livestream sáng tạo. 4 Trong khuôn khổ của bài nghiên cứu, nhóm tác giả lựa chọn tìm hiểu và nghiên cứu rõ các khía cạnh của loại hình livestream chia sẻ/giải trí. Qua tổng hợp và kế thừa các nghiên cứu của các tác giả trước đây, nhóm tác giả sử dụng định nghĩa về livestream chia sẻ/giải trí như sau: người xem có thể nhận được những thông tin bổ ích, hỗ trợ để giải quyết những vấn đề họ đang gặp phải trong cuộc sống. Ngoài ra, những người phát trực tiếp có thể chia sẻ những hoạt động ngoài trời (khám phá tự nhiên, phiêu lưu, săn bắn,..) hay các chuyến du lịch của họ. Người xem thích cảm giác hồi hộp và mới lạ vì những địa điểm chân thực xuất hiện trong video là những nơi có thể họ chưa tới hoặc mong muốn tới. Livestream chia sẻ bao gồm livestream chia sẻ kiến thức (Knowledge sharing) và livestream chia sẻ trải nghiệm cá nhân (Personal experience sharing). Livestream chia sẻ bao gồm các dạng như sau: Livestream giải trí là hình thức livestream liên quan đến việc người phát trực tiếp thể hiện các tài năng của họ như: ca hát, nhảy, chơi game, hội họa,... thậm chí là ngủ hay ăn uống với mục đích mang đến sự giải trí, niềm vui cho người xem livestream. Livestream giải trí bao gồm các dạng như sau: Livestream chia sẻ kiến thức (Knowledge Sharing) Theo Lu và cộng sự (2018), những buổi phát trực tiếp này giống như các bài giảng, buổi đào tạo, nơi người phát trực tiếp nói về một chủ đề, hướng dẫn quy trình hoặc thông tin cần thiết để trả lời trực tiếp các câu hỏi từ người xem. Các chủ đề trong việc chia sẻ kiến thức có thể là: kiến thức chính thống (tâm lý học, học ngoại ngữ, luyện thi hay kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng bán hàng) và kiến thức không chính thống (cách nấu ăn, chăm sóc da, trang điểm,...). Ví dụ qua việc chia sẻ của người phát trực tiếp, người xem có thể học được các kỹ năng trang điểm và cách nấu một món ăn mà không cần qua đào tạo chính thống. “Buổi biểu diễn” tài năng (Performance) Theo Fraser và cộng sự (2019), tại buổi phát trực tiếp, các nghệ sĩ thể hiện tài năng và tác phẩm của họ như âm nhạc, nghệ thuật diễn xuất... Các “buổi biểu diễn” này khác với các bản ghi âm không trực tiếp ở chỗ chúng thường có hình thức ngẫu hứng thông thường hơn là biểu diễn theo kịch bản (ví dụ: “các buổi giao lưu” âm nhạc hoặc diễn xuất ngẫu hứng). Chia sẻ video chơi game (Video Gaming) Livestream chia sẻ trải nghiệm cá nhân (Personal experiences sharing) Hình thức livestream các trò chơi điện tử đã xuất hiện từ lâu và là một hoạt động phổ biến. Người xem có thể học được các kỹ năng, chiến lược trong trò chơi, gặp gỡ những người chơi khác và thậm chí, thưởng thức trò chơi mà không cần chơi. Những người phát trực tiếp trò chơi điện tử sẽ liên tục thay tục thay đổi nội dung vì sẽ rất nhàm chán nếu như chỉ phát liên tục cùng một trò chơi. Các chủ đề của hình thức livestream này rất đa dạng từ một buổi trò chuyện (talkshow) chia sẻ, nói chuyện cùng người nổi tiếng hay đơn giản là livestream tự phát và không có dàn dựng. Các nội dung có thể là cách đối phó với áp lực từ công việc, gia đình; cân bằng giữa công việc và cuộc sống; lập kế hoạch và phát triển nghề nghiệp;... Qua những cuộc trò chuyện tâm sự này những 5 Tóm lại, các dạng livestream chia sẻ và livestream giải trí không xuất hiện yếu tố thương mại, mua bán mà mục đích chính là mang đến cho người xem một lượng kiến thức về một hoặc một vài lĩnh vực nào đó hay giúp họ đạt được sự giải trí đơn thuần. Tuy nhiên, các sản phẩm hoặc thương hiệu vẫn có thể xuất hiện trong livestream qua sự giới thiệu, chia sẻ của người phát trực tiếp bất khi nào, có thể được kiểm soát hoặc không với đa dạng hình thức khác nhau bằng một cách hết sức “tự nhiên”. Hình thức livestream này thường nhận được sự tin cậy và yêu thích cao của người xem do sự hữu ích mà livestream mang lại. Nhận thấy những sự tương đồng trong mục đích cũng như giá trị mà hai dạng livestream này mang đến cho người xem cũng như thương hiệu, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tạm gọi tên hai dạng livestream chia sẻ và livestream giải trí dưới tên gọi livestream chia sẻ/giải trí. giá hơn (Thomson và cộng sự, 2005; Batra và cộng sự, 2012), chống lại thông tin tiêu cực về thương hiệu (Batra và cộng sự, 2012) và tham gia vào truyền miệng tích cực (Carroll và Ahuvia, 2006; Batra và cộng sự, 2012). Một cách hiểu khác về tình yêu thương hiệu đến từ Carroll và Ahuvia (2006). Tình yêu thương hiệu là “mức độ của tình cảm và sự gắn bó mà người tiêu dùng hài lòng dành cho tên một thương hiệu cụ thể”. Tình yêu thương hiệu là tình cảm mãnh liệt, vượt lên trên những ảnh hưởng đơn giản về thương hiệu như là “thích”, “hài lòng”, loại bỏ những cảm giác tiêu cực về thương hiệu (ví dụ như: không thích, ghét,..). Batra và cộng sự (2012) đã xác định nhiều khía cạnh của tình yêu thương hiệu: hành vi thụ động, tích hợp thương hiệu bản thân, kết nối cảm xúc tích cực, mối quan hệ lâu dài, sự xa cách được dự đoán trước, thái độ tổng thể và thái độ mạnh mẽ. Ngoài ra, tình yêu thương hiệu còn bao gồm mối quan hệ lâu dài với thương hiệu - sự sẵn lòng sử dụng thương hiệu trong một thời gian dài sắp tới, điều này cũng thể hiện lòng trung thành chung thủy như Oliver (1999) đã định nghĩa. Hơn nữa, Batra và cộng sự (2012) cũng coi tình cảm gắn bó và nỗi đau chia ly là hai khía cạnh của tình yêu thương hiệu. 2.3. Tình yêu thương hiệu Trong các nghiên cứu trước đây về tình yêu thương hiệu, các tác giả đã chỉ ra rằng tình cảm của một người đối với một thương hiệu có cấu trúc song song với cảm xúc tình yêu giữa các cá nhân với nhau (Brakus và cộng sự, 2009; Carroll và Ahuvia, 2006; Keh và cộng sự, 2007; Shimp và Madden, 1988). Theo đó, tình yêu thương hiệu là một loạt các cảm xúc và thái độ tích cực đối với thương hiệu (Batra và cộng sự, 2012), giúp giải thích và dự đoán sự thay đổi trong hành vi mong muốn sau tiêu dùng giữa những người tiêu dùng hài lòng (Carroll và Ahuvia, 2006). Những cảm xúc và thái độ tích cực đó có liên quan đến ý định mua lại lớn hơn (Thomson và cộng sự, 2005; Carroll và Ahuvia, 2006; Batra và cộng sự, 2012; Loureiro và cộng sự, 2012), ít nhạy cảm về 2.4. Niềm tin thương hiệu Trong các tài liệu về thương hiệu hiện nay, có rất nhiều cách giải thích về khái niệm niềm tin thương hiệu. Trong nghiên cứu của Dastan (2014), niềm tin thương hiệu được định nghĩa là việc khách hàng sẵn sàng tin tưởng vào một thương hiệu với tất cả những rủi ro phải gánh chịu vì những kỳ vọng vào thương hiệu sẽ dẫn đến kết quả tích cực. Niềm tin thương hiệu là khả 6 năng của một thương hiệu được người tiêu dùng tin tưởng rằng sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu và lợi ích của họ. Arief, Suyadi và Sunarti (2017) lại cho rằng niềm tin thương hiệu là niềm tin của người tiêu dùng rằng trong một sản phẩm có những lợi ích nhất định, niềm tin này hình thành do nhận thức lặp đi lặp lại và sự hiện diện của học hỏi và kinh nghiệm trước đó. “Giá trị thực dụng” đề cập đến mức độ mà sản phẩm hoặc dịch vụ cung cấp tiện ích mong đợi. Giá trị thực dụng được đo lường qua 6 khía cạnh bao gồm tính xác thực của sản phẩm, sự dễ dàng hình dung, sự thuận tiện trong tìm kiếm thông tin, sự cập nhật và hữu ích của thông tin trong livestream và sự phản hồi trực tiếp. “Tính xác thực” đề cập đến tính chân thực, thực tế và độc đáo của một thứ gì đó thể hiện một cách tự nhiên (Boyle, 2003; Fine, 2003; Kennick, 1985). Livestream cho phép người xem thấy khuôn mặt và biểu cảm, bối cảnh của người phát trực tiếp (ví dụ: quần áo, không gian phát trực tiếp), cũng như các nội dung cung cấp, không thể ghi hình hoặc chỉnh sửa trước khi được giới thiệu trong video phát trực tiếp. Tính xác thực liên quan đến nguồn gốc và xuất xứ của sản phẩm và được cho là rất quan trọng đối với lòng tin thương hiệu (Eggers, O'Dwyer, Kraus, Vallaster và Güldenberg, 2013). Theo Hess (1995), trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng và thương hiệu, lòng tin phản ánh những giả định về độ tin cậy, sự trung thực và lòng vị tha mà người tiêu dùng gán cho thương hiệu. Cấu trúc này bao gồm cả yếu tố nhận thức và tình cảm. Khía cạnh nhận thức chỉ ra rằng thương hiệu sẽ đáp ứng kỳ vọng của người tiêu dùng và tôn trọng các nghĩa vụ của nó (Chaudhuri và Holbrook, 2001); thay vào đó, khía cạnh tình cảm liên quan tới sự trung thực và lòng vị tha (Delgado-Ballester và cộng sự, 2003). 2.5. Xây dựng các giả thuyết Người xem livestream không thể chạm, kiểm tra hoặc thử các sản phẩm trong video, điều này làm tăng rủi ro nhận thức khi mua sắm trực tuyến (Lee, Kim, và Fiore, 2010). Một số người phát trực tiếp còn tự thao tác, sử dụng các sản phẩm (ví dụ như thoa kem dưỡng da, thử trang phục) để giúp người xem trải nghiệm thông tin cảm quan của sản phẩm (Lee và cộng sự, 2010; Park, Stoel và Lennon, 2008). Qua đó, người xem có thể hình dung mặt hàng đó trông như thế nào, sử dụng ra sao và sau đó đưa ra quyết định. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, livestream chia sẻ/giải trí cung cấp chủ yếu cho người xem những trải nghiệm vô hình. Do đó, nhóm tác giả lựa chọn cách tiếp cận đa chiều về khái niệm giá trị cảm nhận để nghiên cứu đề tài. Cụ thể, dựa theo nghiên cứu của các tác giả trước đây về thành phần của giá trị cảm nhận, nhóm tác giả nhận định giá trị của livestream chia sẻ giải trí bao gồm: giá trị thực dụng và giá trị cảm xúc (giá trị tinh thần) (Babin và cộng sự, 1994) và giá trị xã hội (giá trị biểu tượng) (Holbrook (1999). Nhóm tác giả sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của các giá trị cảm nhận qua livestream chia sẻ/giải trí đến niềm tin thương hiệu và qua đó, ảnh hưởng đến tình yêu thương hiệu. Sự thuận tiện trong tìm kiếm thông tin liên quan đến việc khán giả tìm thấy một thông tin cần thiết cho nhu cầu ngay trong video phát trực tiếp mà không phải tốn thời gian, công sức tìm kiếm ở các nguồn khác. Thông tin trong livestream chia 2.5.1. Giá trị thực dụng (Utilitarian value) 7 sẻ/kiến thức là cập nhật và hữu ích vì nó được chia sẻ từ kinh nghiệm hay những trải nghiệm đã trải qua của người phát trực tiếp - những điều mà khán giả có thể chưa biết và đang tò mò. Thông tin càng được cập nhật và càng hữu ích, người xem sẽ càng tin tưởng hơn. Cuối cùng, người xem livestream có thể nhận được câu trả lời ngay lập tức. Do đó, khả năng đáp ứng là một phẩm chất quan trọng trong việc livestream và có thể tăng lưu lượng truy cập trực tuyến của xem, ảnh hưởng tới thái độ và ý định hành vi (Van Noort, Voorveld và Van Reijmersdal, 2012). dùng cảm thấy như họ đã vượt qua một thử thách (Arnold và Reynolds, 2003). Nhiều người phát trực tiếp cũng tổ chức các trò chơi và người xem hào hứng chờ đợi liệu họ có may mắn nhận được món quà này hay không. Người xem livestream chia sẻ/giải trí có thể chỉ vì họ yêu thích người phát trực tiếp đó (có thể là một gương mặt nổi tiếng, người gây ảnh hưởng) hoặc do cách nói chuyện thân thiện, hài hước của người phát trực tiếp thu hút họ. Tóm lại, giá trị tinh thần cũng ảnh hưởng rất nhiều đến hành vi của người tiêu dùng, đặc biệt là liên quan đến cảm xúc và tình cảm. Trên thực tế, trước khi tin tưởng hoặc mua thứ gì đó, người tiêu dùng phải có cảm giác hạnh phúc với sản phẩm và điều này sẽ dẫn đến sự hài lòng (Chitturi, Raghunathan, và Mahajan, 2008). Tương tự, việc cảm thấy vui vẻ khi xem livestream cũng sẽ ảnh hưởng tới mức độ tin tưởng của người xem với người phát trực tiếp cũng như thương hiệu xuất hiện trong livestream. Từ đó, giả thuyết được đưa ra là: Hầu hết trong số sáu khía cạnh đã đề cập ở trên có thể được coi là các giá trị thực dụng liên quan đến livestream, dường như ảnh hưởng đến một chiều của niềm tin (Wongkitrungrueng và Assarut, 2018). Từ đó, giả thuyết được đưa ra là: [H1] Giá trị thực dụng của livestream chia sẻ/giải trí ảnh hưởng tích cực đến niềm tin của thương hiệu. 2.5.2. Giá trị tinh thần (Hedonic value) “Giá trị tinh thần” phản ánh các lợi ích giải trí, cảm xúc và trải nghiệm của hoạt động xem trực tiếp. [H2] Giá trị tinh thần của livestream chia sẻ/giải trí ảnh hưởng tích cực đến niềm tin của thương hiệu. “Vui vẻ” hay thích thú có thể được định nghĩa là mức độ trải nghiệm vui vẻ, thú vị hoặc dễ chịu (Moon và Kim, 2001) và kết hợp cả niềm vui, sự phấn khích (Mathwick, Malhotra, và Rigdon, 2001; Menon và Kahn, 2002). Những buổi nói chuyện vui vẻ hay những nội dung hài hước khiến người xem livestream chia sẻ/giải trí trở nên thoải mái và dễ chịu, và họ xem đó như một cách để giải trí. Một số video trực tiếp cung cấp các voucher giảm giá cho những người mua sắm xem luồng của họ trực tiếp trong thời gian thực. Nhận được một món hời có thể khiến người tiêu 2.5.3. Giá trị biểu tượng (Symbolic value) Ngoài giá trị thực dụng và tinh thần, “giá trị biểu tượng” có thể bắt nguồn từ việc xem livestream như là một dạng tiếp cận thông tin mới. Xem livestream là một hành động xã hội trong đó có thể tạo ra các ý nghĩa biểu tượng, các quy tắc xã hội, các mối quan hệ, và bản thân của người tiêu dùng (Firat và Venkatesh, 1993). Do tính năng livestream vẫn chưa phổ biến hoặc chưa được sử dụng rộng rãi, nên những người tham gia 8 livestream có thể tự nhận mình là người sáng tạo và bắt kịp xu hướng. Niềm tin thương hiệu đã được nghiên cứu rộng rãi trong lĩnh vực marketing, đặc biệt là tác động trung gian của nó đối với phản ứng thuận lợi của khách hàng, chẳng hạn như lòng trung thành với thương hiệu (Chaudhuri và Holbrook, 2001; Laroche và cộng sự, 2012; Sirdeshmukh và cộng sự, 2002). Niềm tin thương hiệu, trong nghiên cứu này, được định nghĩa là “cảm giác an toàn của người tiêu dùng khi họ tương tác với thương hiệu, dựa trên nhận thức rằng thương hiệu đáng tin cậy và có trách nhiệm đối với lợi ích và phúc lợi của người tiêu dùng” (Delgado-Ballester và cộng sự, 2003). Khi xem livestream, khán giả hình thành nhận thức không chỉ về bản thân mà còn về người phát trực tiếp và những người cùng xem khác. Sự phù hợp giữa hình ảnh người người phát trực tiếp và quan niệm về bản thân của một cá nhân (tức là sự tương đồng) đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá nội dung livestream. Sự tương đồng trong suy nghĩ và quan điểm giữa người xem và người phát trực tiếp càng cao thì nội dung livestream càng được tin tưởng. Người xem livestream chia sẻ/giải trí cũng tương tác với những người xem khác thông qua các cuộc đối thoại dựa trên văn bản để trao đổi suy nghĩ của họ về thông tin xuất hiện trong livestream (Hamilton, Garretson và Kerne, 2014). Từ đó, giúp người xem suy ra đặc điểm của những khán giả khác, mức độ tin cậy của thông tin trong livestream và cách mà người xem khác tương tác với người phát trực tiếp. Trong mối quan hệ giữa các cá nhân, sự tin tưởng dẫn đến tình yêu giữa mọi người (Hazan và Shaver, 1987; Shaver, Schwartz, Kirson và O'connor, 1987). Tương tự, trong các nghiên cứu về mối quan hệ giữa người tiêu dùng và thương hiệu (Patwardhan và Balasubramanian, 2011; Albert và Merunka, 2013) chỉ ra rằng những người tiêu dùng tin tưởng một thương hiệu cũng có thể yêu thích nó. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết: [H4] Niềm thương hiệu có ảnh hưởng tích cực đến tình yêu thương hiệu. Nhìn chung, livestream sẽ mang lại giá trị biểu tượng vì người xem có thể gán các ý nghĩa tượng trưng về bản thân, người phát trực tiếp và những người xem khác. Qua đó, họ nhận thấy sự giống nhau về nhận thức và mức độ đồng cảm với nhu cầu của mình nên nhóm tác giả dự đoán rằng giá trị biểu tượng có thể làm gia tăng niềm tin với thương hiệu của người xem. Vì vậy, giả thuyết được đưa ra là: 3. Phương pháp nghiên cứu Nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để kiểm định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu đề xuất cũng như kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Sau khi có kết quả của phương pháp nghiên cứu định lượng, nghiên cứu định tính được tiến hành nhằm giải thích những kết quả của nghiên cứu định lượng và làm rõ ý nghĩa của những kết quả đó trong bối cảnh cụ thể. [H3] Giá trị biểu tượng của livestream chia sẻ/giải trí ảnh hưởng tích cực đến niềm tin của thương hiệu. 2.5.4. Niềm tin thương hiệu ảnh hưởng đến tình yêu thương hiệu Xây dựng mô hình nghiên cứu Mô hình bao gồm 4 khái niệm với 26 biến quan sát bao gồm: 3 giá trị cảm nhận của người xem 9 qua livestream chia sẻ/giải trí (giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng), niềm tin thương hiệu và tình yêu thương hiệu. hiệu” được xây dựng từ nghiên cứu của Algharabat (2017). 3.1. Nghiên cứu định lượng Mẫu nghiên cứu: Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả lựa chọn phương pháp chọn mẫu phi xác suất. Trong đó, mẫu nghiên cứu được lựa chọn bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Nhóm nghiên cứu đã phát hơn 600 bảng hỏi cả online và offline đến các đối tượng nghiên cứu, sau đó tiến hành loại bỏ những bảng hỏi lỗi (điền thiếu thông tin, vi phạm câu hỏi kiểm định,...) và thu được 400 bảng hỏi chất lượng để tiến hành phân tích dữ liệu. Livestream chia sẻ/giải trí Giá trị thực dụng Giá trị tinh thần (+) H1 Niềm tin thương hiệu H2 (+) Giá trị biểu tượng Tình yêu thương hiệu (+) H4 H3 (+) Hình 3.1. Mô hình nghiên cứu Cách thức thu thập dữ liệu: Thu thập được thông tin thông qua phiếu khảo sát cá nhân online và offline. Xây dựng bảng câu hỏi đo lường Dựa vào cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu cùng các công trình nghiên cứu trước đây, nhóm lựa chọn các thang đo phù hợp với các biến đã xác định trong bài nghiên cứu: Thang đo thứ tự (sắp xếp mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong câu hỏi, sử dụng thang đo Likert năm mức độ) và thang đo biểu danh (độ tuổi, giới tính, nơi sinh sống). Tuy nhiên, để phù hợp hơn với bối cảnh của nghiên cứu này nhóm cũng thực hiện một số chỉnh riêng. Xử lý và phân tích dữ liệu: Để kết quả phân tích khách quan nhất, quy trình phân tích dữ liệu định lượng được tính hành thông qua các bước sau: Bước 1: Mã hóa dữ liệu Bước 2: Làm sạch dữ liệu. nhóm nghiên cứu tiến hành loại bỏ các bảng trả lời không đầy đủ hoặc có các đáp án giống nhau đối với những câu hỏi khác nhau hay vi phạm câu hỏi kiểm định bằng cách sử dụng phần mềm SPSS với các phương pháp như dùng bảng tần số, bảng kết hợp (crosstabs). Tất cả thang đo của các biến được nêu tại phụ lục 1. Trong đó, các thang đo của 3 biến độc lập (giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng) được xây dựng từ nghiên cứu của Wongkitrungrueng và Assarut (2018); Jie Cai và cộng sự (2018); thang đo của biến trung gian “niềm tin thương hiệu” được xây dựng từ nghiên cứu của Delgado-Ballester (2011); Bagozzi và cộng sự (2013); Zhang và cộng sự (2020) và thang đo của biến phụ thuộc “tình yêu thương Bước 3: Thực hiện các phân tích đối với dữ liệu đã làm sạch bằng phần mềm SPSS 20.0 và Excel. - Phân tích thống kê mô tả nhằm có cái nhìn tổng quát về đối tượng nghiên cứu - Kiểm định hệ số tin cậy của thang đo (Cronbach’s Alpha) nhằm phản ánh mức độ 10 tương quan chặt chẽ giữa các biến quan sát của cùng một nhân tố và loại đi các biến quan sát được coi là rác. thoại (Ghi âm để phục vụ cho việc lưu trữ thông tin). Xử lý và phân tích dữ liệu: Để kết quả phân tích khách quan nhất, quy trình phân tích dữ liệu định tính được tính hành thông qua các bước sau: - Phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm loại đi những yếu tố không phù hợp với mô hình. Bước 1: Mã hóa dữ liệu - Phân tích hồi quy các nhân tố để kiểm định lại các giả thuyết và xây dựng mô hình hồi quy chung cho toàn bài nghiên cứu. Bước 2: Làm sạch dữ liệu. Nhóm nghiên cứu tiến hành gỡ băng toàn bộ bản ghi âm của cuộc phỏng vấn sâu và ghi chép dữ liệu vào phần mềm Excel. Sau đó loại bỏ các bảng trả lời không đầy đủ hoặc có các câu trả lời giống nhau. - Phân tích One way – Anova để xem xét sự khác nhau giữa các nhóm tuổi. Bước 3: Thực hiện các phân tích đối với dữ liệu đã làm sạch. 3.2. Nghiên cứu định tính Việc nghiên cứu định tính được thực hiện sau khi nhóm đã thực hiện kiểm định bằng nghiên cứu định lượng đối với các yếu tố trong mô hình đề xuất và những giả thuyết đề xuất. Lúc này, nhóm tác giả tiến hành chỉnh sửa bảng câu hỏi định tính bao gồm nhóm câu hỏi về thân nhân, ba biến độc lập bao gồm giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng, biến trung gian là niềm tin thương hiệu, biến phụ thuộc là tình yêu thương hiệu và những câu hỏi liên quan đến các giả thuyết nghiên cứu. 4. Kết quả và thảo luận 4.1. Thông tin về mẫu nghiên cứu Tiêu chí Giới tính Độ tuổi Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu từng cá nhân. Mẫu nghiên cứu Số lượng Tỷ lệ (%) Nam 122 30.5 Nữ 278 69,5 Khác 0 0 Từ 16 đến 18 tuổi 70 17.5 Từ 19 đến 22 tuổi 244 61 Từ 23 đến 30 tuổi 86 21.5 Bảng 4.1. Thông tin về mẫu nghiên cứu 4.2. Hành vi xem livestream ở giới trẻ (từ 16 30 tuổi) hiện nay Mẫu nghiên cứu: Đối với phương pháp nghiên cứu định tính, nhóm tác giả lựa chọn phương pháp lấy mẫu có mục đích, cụ thể: chọn phỏng vấn sâu 20 đối tượng trong nhóm tuổi từ 16-30 và là những người đã từng xem livestream chia sẻ/giải trí nhằm có được những câu trả lời có ý nghĩa. Tần suất xem livestream: tỷ lệ người xem livestream hàng tuần là lớn nhất (51%), xếp sau đó tỷ lệ xem livestream với tần suất hàng ngày, hàng tháng, hiếm khi lần lượt là 23%, 11%, 15%. Mục đích xem livestream: các mục đích chính khi xem livestream là giải trí (45%), nâng cao kiến thức (14%), giao lưu tương tác (22%), mua sắm (19%). Cách thức thu thập dữ liệu: Sử dụng phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp hoặc qua điện 11 Nền tảng xem livestream: Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy, mạng xã hội có vẻ vẫn là các nền tảng chủ yếu khi xem livestream chia sẻ/giải trí với 37% người xem trên Facebook, 27% người xem trên Youtube và 21 % người xem trên Instagram. Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA cho phép phân tích mức độ kết dính, liên kết giữa các biến quan sát trong cùng một nhân tố và những biến quan sát có thể nhóm gọn thành số nhóm nhân tố ít hơn hay không. Kết quả kiểm định EFA với các biến độc lập (Giá trị thực dụng, Giá trị tinh thần, Giá trị biểu tượng) đều thỏa mãn các điều kiện: hệ số KMO = 0.841 (>0.5), kiểm định Bartlett: Sig. = 0.000 < 0.05 (đạt yêu cầu), giá trị Eigenvalues = 1.129 (Eigenvalue > 1), phương sai trích được = 67.598% >50% (đạt yêu cầu), ba nhân tố được trích ra giải thích được xấp xỉ 59,532% biến thiên của dữ liệu. Hệ số tải nhân tố của mỗi biến quan sát đều > 0.5, đồng thời cũng hội tụ và phân biệt với nhau. 4.3. Kết quả nghiên cứu định lượng Kết quả phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha Mô hình nghiên cứu đề xuất ban đầu gồm có ba biến độc lập: Giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng; một biến trung gian “Niềm tin thương hiệu” và một biến độc tập “Tình yêu thương hiệu”. Kết quả thực hiện kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha lần đầu với các biến quan sát cho thấy biến quan sát “Thucdung6” của giá trị thực dụng và biến quan sát “Tinhyeu5” của tình yêu thương hiệu có hệ số tương quan biến tổng nhỏ hơn 0.3. Sau khi loại bỏ hai biến quan sát vừa nêu, kết quả thực hiện kiểm định Cronbach’s Alpha cho thấy 5 biến được sử dụng trong mô hình đều đạt yêu cầu và các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến tổng > 0.3. Do đó, tất cả 5 biến đều được giữ lại cho phân tích EFA. Số biến Cronbach’s Alpha Giá trị thực dụng 5 0.707 Giá trị tinh thần 4 0.804 Giá trị biểu tượng 3 0.795 Niềm tin thương hiệu 6 0.817 Tình yêu thương hiệu 5 0.806 Yếu tố Kết quả kiểm định KMO và Barlett’s cho biến trung gian “Niềm tin thương hiệu” cho thấy giá trị KMO trong trường hợp này đạt 0.789 > 0.5, Sig. của Bartlett's test = 0.000 < 0.05, phương sai trích = 52.742 % và chỉ số Eigenvalues = 3.165 đảm bảo điều kiện kết quả phân tích nhân tố được chấp nhận. Kết quả phân tích EFA cho thấy hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều lớn hơn 0.5 và cùng hội tụ về một biến, do đó nhân tố đề xuất là phù hợp. Cuối cùng, kết quả kiểm định KMO và Barlett’s đối với biến phụ thuộc “Tình yêu thương hiệu” là 0.817 > 0.5, Sig. của Bartlett's test = 0.000 < 0.05, chỉ số Eigenvalues = 2.840 và phương sai trích = 56.799% đảm bảo kết quả phân tích nhân tố được chấp nhận. Kết quả phân tích EFA cho thấy hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều lớn hơn 0.5 và cùng hội tụ về một biến, do đó nhân tố đề xuất là phù hợp. Bảng 4.2. Kết quả phân tích hệ số Cronbach’s Alpha Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA Kết quả hồi quy tuyến tính bội 12 Phân tích hồi quy tuyến tính bội được thực hiện với ba biến độc lập và một biến trung gian. Biểu đồ phân tán Scatter Plot giữa các phần dư chuẩn hóa và giá trị dự đoán chuẩn hóa được phân bố ngẫu nhiên quanh đường tung độ 0 và hình dạng tạo thành một đường thẳng, vì vậy giả định về quan hệ tuyến tính không bị vi phạm. Giá trị Sig tương quan Spearman giữa các biến độc lập và phần dư đã chuẩn hóa (ABS1) lần lượt là: 0.949 (đối với biến độc lập Thucdung), 0.170 (đối với biến độc lập Bieutuong), 0.683 (đối với biến độc lập Tinhthan) và đều lớn hơn 0.05, do đó mô hình hồi quy được đề xuất không vi phạm giả định phương sai phần dư không đổi. Trong biểu đồ P-P Plot, các điểm phân vị trong phân phối chuẩn của phần dư cũng tập trung thành một đường chéo khẳng định phần dư được phân phối chuẩn. Giá trị Durbin - Watson của phân tích hồi quy này là 1.956 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, vì vậy không có hiện tượng tự tương quan xảy ra và giả định về sự độc lập của phần dư không bị vi phạm. Hệ số phóng đại phương sai VIF của cả biến độc lập đều nằm trong khoảng từ 1.2 đến 1.6 và nhỏ hơn 2 do đó không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập. Như vậy, phân tích hồi quy tuyến tính bội được thực hiện thỏa mãn 5 giả định của phân tích hồi quy. Mô hình Constant Giá trị thực dụng Giá trị biểu tượng Giá trị tinh thần Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Hệ số hồi quy đã chuẩn hóa Beta Sai số tiêu chuẩn Beta 0.835 0.133 0.122 0.38 0.105 0.003 1.279 0.270 0.29 0.353 0.000 1.446 0.382 0.31 0.474 0.000 1.535 Sig. VIF Bảng 4.3. Ảnh hưởng của các giá trị cảm nhận qua livestream chia sẻ/giải trí ảnh hưởng đến tình yêu thương hiệu Mô hình có giá trị R bình phương hiệu chỉnh là 0.606, như vậy các biến độc lập được sử dụng trong mô hình hồi quy giải thích được 60.6% sự thay đổi của biến trung gian niềm tin thương hiệu. Trong bảng phân tích phương sai ANOVA cho ta thấy giá trị Sig. của kiểm định F bằng 0.000<0.05 như vậy hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với tập dữ liệu đã thu thập được. Các biến độc lập đều có ý nghĩa với mô hình bởi giá trị Sig. trong kiểm định t hệ số hồi quy của mỗi biến độc lập đều nhỏ hơn 0.05, do vậy mỗi biến độc lập đều có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc. R R bình phương R bình phương hiệu chỉnh Sai số tiêu chuẩn DurbinWatson 0.718 0.609 0.606 0.37944 1.956 Bảng 4.4. Model Summary của phân tích hồi quy bội Ta có phương trình hồi quy bội đã chuẩn hóa: Niemtin = 0.474*Tinhthan + 0.353*Bieutuong + 0.105*Thucdung + e Biến “Giá trị tinh thần” có mức độ tác động lớn nhất đến “niềm tin thương hiệu”. Tiếp đó, có mức tác động lớn thứ hai là “Giá trị biểu tượng” với 13 hệ số 0.316 và có mức tác động nhỏ nhất đến niềm tin thương hiệu là “Giá trị thực dụng” (0.111). đến niềm tin của người xem đối với những yếu tố của sản phẩm trong đó bao gồm thương hiệu của sản phẩm. Ngoài các mục đích như: giao lưu, giải trí, tương tác với thần tượng, sự hấp dẫn của người phát trực tiếp là một yếu tố thu hút người xem. Kết quả này đồng nhất với những kết luận trong nghiên cứu livestream của Park và cộng sự (2020) về sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc người phát trực tiếp (streamer) và những yếu tố tinh thần trong tâm lý của người xem livestream. Từ kết quả phân tích hồi quy bội, nhóm nghiên cứu kết luận các giả thuyết nghiên cứu sau: - Chấp nhận giả thuyết [H1]: Giá trị thực dụng mà người xem cảm nhận được trong livestream chia sẻ/ giải trí có ảnh hưởng tích cực đến niềm tin thương hiệu. Nhóm tác giả nhận thấy có sự thống nhất về kết luận này với kết quả trong các nghiên cứu trước đây của Wei và cộng sự (2014), Ivanov và cộng sự (2009): khi khách hàng cảm nhận được sự tương tác lớn với thương hiệu trên các phương tiện truyền thông xã hội làm tăng ảnh hưởng tích cực đến niềm tin và lòng trung thành với thương hiệu của họ. Đối với bối cảnh livestream chia sẻ/ giải trí người xem còn có thể tiếp cận những thông tin hữu ích, cập nhật nhất một cách thuận tiện và được phản hồi ngay lập tức. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đó có liên quan đến livestream và tâm lý của người xem livestream như những nghiên cứu của: Wongkitrungrueng và cộng sự (2018), Jie Cai và cộng sự (2018), Lu và cộng sự (2018). Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây mới chỉ xem xét đối với trường hợp của livestream bán hàng, kết quả nhóm nghiên cứu thu được đã bổ sung thêm cái nhìn tương tự về giá trị thực dụng của người xem trong bối cảnh livestream chia sẻ/giải trí. - Chấp nhận giả thuyết [H3]: Giá trị biểu tượng mà khách hàng cảm nhận được khi xem livestream chia sẻ/ giải trí có ảnh hưởng tích cực tới niềm tin thương hiệu. Kết quả nghiên cứu của Lu và cộng sự (2018) về sự ràng buộc của người xem livestream với cộng đồng củng cố thêm về kết luận trên: Khi người xem có chung quan điểm với người phát trực tiếp sẽ khiến người xem livestream chia sẻ/giải trí sẽ khiến người xem tin tưởng về những thông tin mà họ đưa ra. Kết luận của nhóm tác giả cũng ủng hộ kết luận trong nghiên của Zou và cộng sự (2020) rằng: khách hàng thể hiện một thái độ tích cực đối với thương hiệu khi họ cảm thấy mối liên hệ rõ ràng với người phát trực tiếp. Kết quả hồi quy tuyến tính đơn Phân tích hồi quy tuyến tính đơn được thực hiện với biến trung gian “niềm tin thương hiệu” và biến phụ thuộc “tình yêu thương hiệu”. Biểu đồ phân tán Scatter Plot giữa các phần dư chuẩn hóa và giá trị dự đoán chuẩn hóa được phân bố ngẫu nhiên quanh đường tung độ 0 và hình dạng tạo thành một đường thẳng, vì vậy giả định về quan hệ tuyến tính không bị vi phạm. Giá trị Sig tương quan Spearman giữa biến độc lập Niemtin và phần dư đã chuẩn hóa (ABS2) là: - Chấp nhận giả thuyết [H2]: Giá trị tinh thần mà người xem cảm nhận được trong livestream chia sẻ/giải trí có ảnh hưởng tích cực đến niềm tin thương hiệu. Kết quả này cũng phù hợp với kết luận trong nghiên cứu của Wongkitrungrueng và cộng sự (2018) về sự ảnh hưởng giá trị cảm xúc 14 0.089 > 0.05, do đó mô hình hồi quy được đề xuất không vi phạm giả định phương sai phần dư không đổi. Trong biểu đồ P-P Plot, các điểm phân vị trong phân phối chuẩn của phần dư cũng tập trung thành một đường chéo khẳng định phần dư được phân phối chuẩn. Kết quả giá trị Durbin Watson của phân tích hồi quy này là 1.923 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3, vì vậy không có hiện tượng tự tương quan xảy ra và giả định về sự độc lập của phần dư không bị vi phạm. Hệ số phóng đại phương sai VIF của biến độc lập Niemtin bằng 1.000 nhỏ hơn 2 do đó giả định xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến không bị vi phạm. Như vậy, phân tích hồi quy đơn thỏa mãn 5 giả định của phân tích hồi quy. Hệ số hồi quy đã chuẩn hóa của biến độc lập lớn hơn 0, do đó biến Niemtin có tác động cùng chiều đến biến phụ thuộc. Độ lớn của hệ số hồi quy beta đã chuẩn hóa đối với biến niềm tin thương hiệu là: 0.735. Mô hình có giá trị R hiệu chỉnh là 0.539, như vậy các biến độc lập được sử dụng trong mô hình hồi quy giải thích được 53.9% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Theo kết quả của bảng Anova có giá trị Sig. của kiểm định F là 0.000 < 0.05 do đó mô hình hồi quy tuyến tính bội là phù hợp đối với tệp dữ liệu và có thể sử dụng. Giá trị Sig. trong kiểm định t hệ số hồi quy của biến độc lập là 0.000 nhỏ hơn 0.05, do vậy biến độc lập có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc. Tinhyeu = 0.735*Niemtin + e R R bình phương R bình phương hiệu chỉnh Sai số tiêu chuẩn DurbinWatson 0.735 0.540 0.539 0.39066 1.923 Bảng 4.6. Model summary đối với phân tích hồi quy đơn Ta có phương trình hồi quy đã chuẩn hóa: 0.000 1.000 Từ kết quả phân tích hồi quy, nhóm tác giả chấp nhận giả thuyết [H4]: Niềm tin thương hiệu có ảnh hưởng tích cực đến tình yêu thương hiệu của người xem livestream chia sẻ/giải trí. Điều này cho thấy sự tương đồng trong kết quả nghiên cứu về tác động của niềm tin thương hiệu đến tình yêu thương hiệu trong những trường hợp nghiên cứu khác như: các nghiên cứu tổng quát của Patwardhan và cộng sự (2011), Albert và cộng sự (2013) hoặc trong bối cảnh những loại sản phẩm cụ thể của Zhang và cộng sự (2020), Turgut và cộng sự (2015). Người xem sẽ cảm thấy thương hiệu đang cố gắng làm thỏa mãn nhu cầu, làm hài lòng sự mong đợi của họ từ đó củng cố thêm niềm tin về thương hiệu và sự sẵn sàng chi trả, gắn bó với sản phẩm trong thời gian dài, đặc biệt trong bối cảnh của livestream chia sẻ/giải trí. Bảng 4.5. Ảnh hưởng của niềm tin thương hiệu tới tình yêu thương hiệu Phân tích One-way Anova so sánh sự khác nhau giữa các nhóm tuổi Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Hệ số hồi quy đã chuẩn hóa Beta Sai số tiêu chuẩn Beta Constant 1.269 0.119 Niềm tin thương hiệu 0.699 0.032 Mô hình Sig. VIF 0.000 0.735 15 Với giả thuyết: “Có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi khác nhau về mức độ ảnh hưởng đến niềm tin thương hiệu của họ dưới tác động của livestream chia sẻ/giải trí”. Nhóm đã thực hiện phân tích Anova và thu được kết quả như sau: mức ý nghĩa = 0.36767 > 0.05 (phương sai đánh giá này là có ý nghĩa thống kê và kết quả phân tích ANOVA có thể sử dụng được) và chỉ số Sig. = 0.790 > 0.05 do đó không có sự khác nhau về ảnh hưởng đến niềm tin thương hiệu ở các nhóm tuổi. Yếu tố thu hút về ngoại hình giúp người xem biết và quan tâm về livestream chia sẻ/giải trí và họ sẽ xem đến hết livestream nếu như người đó là người mà họ thần tượng hay yêu thích. Cách chia sẻ khéo léo của người phát trực tiếp cũng khiến người xem dễ chịu, thoải mái và đón nhận các thông tin về sản phẩm một cách chủ động hơn. Mức độ ảnh hưởng lớn thứ hai tới biến niềm tin thương hiệu thuộc về giá trị biểu tượng. Kết luận này nhận được sự đồng tình của 11/20 đáp viên. Theo kết quả nghiên cứu định tính, các đáp viên cho rằng việc xem livestream chia sẻ/giải trí giúp họ thể hiện giá trị bản thân mình, thể hiện mình là người xem có xu hướng, cập nhật và sáng suốt. Ngoài ra, giá trị được cảm nhận lớn nhất trong nhóm nhân tố này của người xem chính là việc tìm thấy điểm điểm chung với người phát trực tiếp: sở thích, quan điểm, lối sống.... Họ cảm giác được cảm thông, chia sẻ với một “người bạn” trực tuyến. Với giả thuyết: “Có sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng của livestream chia sẻ/giải trí đến tình yêu thương hiệu theo độ tuổi” nhóm tiến hành phân tích One way - Anova để kiểm định giả thuyết và có được kết quả như sau: mức ý nghĩa = 0.818818 > 0.05 (phương sai đánh giá này là có ý nghĩa thống kê và kết quả phân tích ANOVA có thể sử dụng được) và Sig. = 0.311 > 0.05 cho thấy giả thuyết kia là sai và không có sự khác biệt này. 4.4. Kết quả nghiên cứu định tính Cuối cùng, giá trị thực dụng trong livestream chia sẻ/ giải trí được xem là yếu tố có mức độ ảnh hưởng thấp nhất tới niềm tin thương hiệu của người xem. Khi được hỏi về sự tác động tích cực của giá trị thực dụng trong livestream chia sẻ/giải trí tới niềm tin thương hiệu thì chỉ có 7/20 đáp viên đồng ý với nhận định này. Các đáp viên đều bày tỏ quan điểm rằng, khi xem hướng dẫn sử dụng nhiều sản phẩm qua livestream chia sẻ/giải trí thì họ thấy an tâm hơn, ngoài ra việc tương tác và được trả lời các thắc mắc ngay lập tức cũng là yếu tố khiến cho người xem tin tưởng vào thông tin được chia sẻ hơn. Sau khi có kết quả nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả thực hiện phỏng vấn sâu để kiểm tra tính xác thực của kết quả nghiên cứu và thu được các kết quả đồng nhất với kết quả nghiên cứu định lượng: 3 giá trị cảm nhận trong livestream chia sẻ/ giải trí (giá trị thực dụng, giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng có ảnh hưởng tích cực) đến tình yêu thương hiệu thông qua niềm tin thương hiệu của người xem. Giá trị tinh thần của livestream chia sẻ/giải trí có ảnh hưởng lớn nhất tới niềm tin thương với 16/20 các đáp viên được phỏng vấn trả lời rằng, họ có xu hướng xem những nội dung livestream chia sẻ/giải trí mà người phát trực tiếp có ngoại hình xinh đẹp, nói chuyện hấp dẫn, hài hước, thú vị. Từ sự ảnh hưởng tích cực của 3 giá trị cảm nhận tới niềm tin thương hiệu, livestream chia sẻ/giải 16 trí đã tác động tích cực tình yêu thương hiệu của người xem. Hầu hết các đáp viên đều đồng ý với ý kiến rằng, sau livestream chia sẻ/ giải trí, nhờ các nội dung vui vẻ và hữu ích, thương hiệu được thể hiện một cách “tự nhiên” nhất, không quảng cáo nên họ có cảm tình đặc biệt, tin tường, muốn dùng thử và có ý định gắn bó lâu dài. Các đáp viên cũng cho rằng, việc thương hiệu giới thiệu các sản phẩm qua livestream, với nhiều mã giảm giá, khuyến mại và được giới thiệu bởi những người nổi tiếng, là thương hiệu đang cố gắng làm hài lòng khách hàng, do đó họ sẽ dành nhiều thiện cảm hơn dành cho sản phẩm cũng như thương hiệu đó. dung về thương hiệu và sản phẩm và thông tin xuất hiện trong livestream. 5. Kết luận và một số kiến nghị Thứ hai, lựa chọn người phát trực tiếp được coi là yếu tố quan trọng nhất trong chiến lược marketing sử dụng livestream chia sẻ/giải trí của doanh nghiệp. Đồng thời, niềm tin thương hiệu có ảnh hưởng tích tới tình yêu thương hiệu trong bối cảnh livestream chia sẻ/giải trí. Đối với những người xem đã sử dụng sản phẩm, thông được chia sẻ qua livestream chia sẻ/giải trí củng cố thêm niềm tin của họ với thương hiệu. 5.2. Một số kiến nghị 5.2.1. Đối với doanh nghiệp Thứ nhất, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ càng về công chúng mục tiêu được giới thiệu cho sản phẩm. 5.1. Kết luận Nghiên cứu này chỉ ra một số gợi ý về cách các nhà quản trị marketing cũng như những người phát trực tiếp có thể áp dụng công nghệ livestream, cụ thể là livestream chia sẻ/giải trí để gia tăng tình yêu thương hiệu. Trong mô hình tổng quát, ta thấy được mức độ livestream giải trí/chia sẻ tác động đến tình yêu thương hiệu qua niềm tin thương hiệu và ba nhân tố độc lập theo thứ tự ảnh hưởng từ cao đến thấp lần lượt là: giá trị tinh thần, giá trị biểu tượng và giá trị thực dụng. Thứ ba, doanh nghiệp cần truyền đạt một cách chính xác, đầy đủ về nội dung và tiêu chí yêu cầu cần xuất hiện trong livestream chia sẻ/giải trí với người phát trực tiếp. Các nội dung cần dễ tiếp cận, dễ hình dung và dễ thấu hiểu. Thứ tư, doanh nghiệp cần lựa chọn nền tảng livestream chia sẻ/giải trí phù hợp với người xem. Cuối cùng, doanh nghiệp cần phát triển chiến lược marketing phù hợp, kết hợp kênh truyền thông livestream cùng các công cụ marketing kỹ thuật số nói riêng hay công cụ marketing nói chung để quảng bá thương hiệu và kích thích niềm tin cũng như tình yêu thương hiệu của người tiêu dùng. Bởi xét cho cùng, livestream cũng chỉ là một phần của cả chiến lược marketing nên nếu các nhà marketing chỉ sử dụng livestream mà không kết hợp với các công cụ Đối với nhân tố giá trị tinh thần, các nội dung cần quan tâm là: sự hấp dẫn của người phát trực tiếp và các hoạt động giao lưu, tương tác trong livestream. Đối với nhân tố giá trị biểu tượng, các nội dung cần quan tâm là: cảm giác được thuộc về một cộng đồng và cảm giác bản thân nhanh nhạy, bắt kịp xu hướng, sáng suốt. Đối với nhân tố giá trị thực dụng, các nội dung cần quan tâm là: sự rõ ràng về nguồn gốc sản phẩm, sự dễ hình 17 khác thì chắc chắn chiến lược marketing không thể thành công. hạn chế nhất định. Những vấn đề còn tồn tại trong đề tài sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới, bao gồm: 5.2.2. Đối với người phát trực tiếp Thứ nhất, livestream là loại hình có tính đặc thù cao so với hoạt động khác. Do đó, các lý thuyết liên quan đến livestream cũng như ảnh hưởng của nó đến tình yêu thương hiệu không nhiều, nhiều khái niệm chưa được thống nhất, đặc biệt là trong bối cảnh tại Việt Nam. Do đó, việc xác lập các cơ sở lý thuyết cho mục tiêu nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế. Việc này đặt ra hướng nghiên cứu tiếp theo về các cơ sở lý luận có liên quan đến các nhân tố tác động đến livestream cũng như tác động của livestream đến tình yêu thương hiệu tại Việt Nam. Thứ nhất, người phát trực tiếp nên quan tâm tới cá nhân bao gồm các đặc điểm bên ngoài và bên trong. Đặc điểm bên ngoài chính là ngoại hình của người phát trực tiếp. Còn đặc điểm bên trong liên quan tới các yếu tố như: Tính cách, kiến thức hay cách nói chuyện, chia sẻ. Thứ hai, người phát trực tiếp cần có ý thức xây dựng, nâng cao và bảo vệ thương hiệu cá nhân của bản thân. Thứ ba, người phát trực tiếp nên lựa chọn nền tảng livestream phù hợp để tiếp cận đúng nhóm đối tượng mục tiêu, đồng thời cần khai thác tối đa tính năng của những nền tảng này để có thể tiếp cận được nhiều người xem hơn. Thứ hai, về phạm vi nghiên cứu, đối tượng chủ yếu của nghiên cứu này là giới trẻ độ tuổi từ 16 30 tuổi tại Việt Nam. Do đó, kết quả nghiên cứu chưa thể khái quát được tổng thể ngành livestream Việt Nam. Những nghiên cứu tiếp theo sẽ mở rộng các đối tượng và phạm vi khảo sát nhằm có những so sánh và kiểm định với kết quả của đề tài, để nâng cao tính khái quát của kết quả nghiên cứu. Thứ tư, người phát trực tiếp cần chú ý tới không gian và thời gian của buổi livestream để đảm nâng cao giá trị cảm nhận của người xem. Thứ năm, người phát trực tiếp cần chú trọng và đầu tư chất xám vào các nội dung chia sẻ. Thứ sáu, người phát trực tiếp cần cân nhắc kỹ lưỡng và lựa chọn thương hiệu phù hợp để giới thiệu trong buổi livestream chia sẻ/giải trí của mình. Thứ ba, bên cạnh các kết quả đã đạt được, về mức độ nghiên cứu, kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc khám phá và đo lường tác động của các nhân tố tình yêu thương hiệu, chưa đi sâu nghiên cứu các yếu tố nội tại của các nhân tố này. Trên cơ sở đạt được kết quả nghiên cứu này, có thể mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về ảnh hưởng của các yếu tố nội tại trong từng nhân tố. Và cuối cùng, tần suất xuất hiện của thương hiệu trong livestream cần được người phát trực tiếp lưu tâm. Thương hiệu nên được xuất hiện khéo léo, tự nhiên với tần suất vừa đủ, tránh dồn dập, khiên cưỡng, gượng ép. 5.3. Hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai Thứ tư, việc nghiên cứu ảnh hưởng của livestream đến tình yêu thương hiệu vẫn chưa được cụ thể. Còn rất nhiều nghiên cứu có thể tạo Như bất kỳ một đề tài nghiên cứu nào khác, nghiên cứu này cũng không tránh khỏi một số 18 ra một mô hình nghiên cứu sâu về ảnh hưởng của livestream đến tình yêu thương hiệu. versus utilitarian benefits. Journal of marketing, 72(3), 48-63. 9. Cyr, D., Head, M., & Ivanov, A. (2009). Perceived interactivity leading to e-loyalty: Development of a model for cognitive–affective user responses. International Journal of Humancomputer studies, 67(10), 850-869. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Achmad, G. N., Hudayah, S., và Ilmi, Z. (2020). The Influence of Hedonic Value and Utilitarian Value on Brand Trust and Loyalty. International Journal of Economics, Business and Accounting Research (IJEBAR), 4(03). 10. Dastan, I., và Geçti, F. (2014). Relationships among utilitarian and hedonic values, brand affect and brand trust in the smartphone industry. Journal of Management Research, 6(2), 124. 2. Albert, N., và Merunka, D. (2013). The role of brand love in consumer‐brand relationships. Journal of consumer marketing. 11. Delgado-Ballester, E., Munuera-Aleman, J. L., và Yague-Guillen, M. J. (2003). Development and validation of a brand trust scale. International journal of market research, 45(1), 35-54. 3. Algharabat, R. S. (2017). Linking social media marketing activities with brand love: The mediating role of self-expressive brands. Kybernetes. 12. Firat, A. F., và Venkatesh, A. (1993). Postmodernity: the age of marketing. International Journal of research in Marketing, 10(3), 227-249. 4. Alnawas, I., và Altarifi, S. (2016). Exploring the role of brand identification and brand love in generating higher levels of brand loyalty. Journal of Vacation Marketing, 22(2), 111-128. 13. Fraser, C. A., Kim, J. O., Thornsberry, A., Klemmer, S., và Dontcheva, M. (2019). Sharing the studio: How creative livestreaming can inspire, educate, and engage. In Proceedings of the 2019 on Creativity and Cognition (pp. 144155). 5. Babin, B. J., Darden, W. R., và Griffin, M. (1994). Work and/or fun: measuring hedonic and utilitarian shopping value. Journal of consumer research, 20(4), 644-656. 5. Batra, R., Ahuvia, A., và Bagozzi, R. P. (2012). Brand love. Journal of marketing, 76(2), 1-16. 14. Gilmore, J. H., và Pine, B. J. (2007). Authenticity: What consumers really want. Harvard Business Press. 7. Cai, J., Wohn, D. Y., Mittal, A., và Sureshbabu, D. (2018, June). Utilitarian and hedonic motivations for live streaming shopping. In Proceedings of the 2018 ACM international conference on interactive experiences for TV and online video (pp. 81-88). 15. Hamilton, W. A., Garretson, O., và Kerne, A. (2014, April). Streaming on twitch: fostering participatory communities of play within live mixed media. In Proceedings of the SIGCHI conference on human factors in computing systems (pp. 1315-1324). 8. Chitturi, R., Raghunathan, R., và Mahajan, V. (2008). Delight by design: The role of hedonic 19 16. Hazan, C., và Shaver, P. (1987). Romantic love conceptualized as an attachment process. Journal of personality and social psychology, 52(3), 511. Clothing and textiles research Journal, 28(2), 140-154. 24. Lind, J. (2018). The Role and Potential of Live Streaming in Marketing for Small and Medium-sized Enterprises. 17. Ho, R. C., và Rajadurai, K. G. (2020). Live streaming meets online shopping in the connected world: interactive social video in online marketplace. In Strategies and tools for managing connected consumers (pp. 130-142). IGI Global. 25. Lu, Z., Xia, H., Heo, S., và Wigdor, D. (2018, April). You watch, you give, and you engage: a study of live streaming practices in China. In Proceedings of the 2018 CHI conference on human factors in computing systems (pp. 1-13). 18. Holbrook, M.B. (1994) ‘The Nature of Customer Value: An Axiology of Services in the Consumption Experience’, in R. Rust and R.L. Oliver (eds) Service Quality: New Directions in Theory and Practice, pp. 21–71. Thousand Oaks, CA: Sage Publications. 26. Matzler, K., Grabner-Kräuter, S., và Bidmon, S. (2006). The value-brand trust-brand loyalty chain: An analysis of some moderating variables. Innovative marketing, 2(2), 76-88. 27. Park, H. J., & Lin, L. M. (2020). The effects of match-ups on the consumer attitudes toward internet celebrities and their live streaming contents in the context of product endorsement. Journal of Retailing and Consumer Services, 52, 101934. 19. Holbrook, M. B. (1999). Introduction to consumer value. Consumer value: A framework for analysis and research, 1-28. 20. Hou, F., Guan, Z., Li, B., và Chong, A. Y. L. (2019). Factors influencing people’s continuous watching intention and consumption intention in live streaming: evidence from China. Internet Research. 28. Sánchez-Fernández, R., và Iniesta-Bonillo, M. Á. (2007). The concept of perceived value: a systematic review of the research. Marketing theory, 7(4), 427-451. 21. Kaufmann, H. R., Loureiro, S. M. C., và Manarioti, A. (2016). Exploring behavioural branding, brand love and brand co-creation. Journal of Product và Brand Management. 29. Singh, S., Singh, N., Kalinić, Z., và LiébanaCabanillas, F. J. (2021). Assessing determinants influencing continued use of live streaming services: An extended perceived value theory of streaming addiction. Expert Systems with Applications, 168, 114241. 22. Kerns, C. (2014) Trendology: Building an advantage through data-driven real-time marketing. Spreadfast, Inc. 2014 30. Svart, A. (2018). The Use of Live Streaming in Marketing (Doctoral dissertation, Bachelor’s Thesis Programme International Business Administration, Tallinn: Tallinn University of Technology). 23. Lee, H. H., Kim, J., và Fiore, A. M. (2010). Affective and cognitive online shopping experience: Effects of image interactivity technology and experimenting with appearance. 20 31. Todd, P. R., và Melancon, J. (2018). Gender and live streaming: source credibility and motivation. Journal of Research in Interactive Marketing. live streamers. In Proceedings of the 2018 CHI conference on human factors in computing systems (pp. 1-13). 37. Wongkitrungrueng, A., và Assarut, N. (2018). The role of live streaming in building consumer trust and engagement with social commerce sellers. Journal of Business Research. 32. Turgut, M. U., và Gultekin, B. (2015). The critical role of brand love in clothing brands. Journal of Business Economics and Finance, 4(1). 38. Woodruff, R. B. (1997). Customer value: the next source for competitive advantage. Journal of the academy of marketing science, 25(2), 139153. 33. Van Noort, G., Voorveld, H. A., và Van Reijmersdal, E. A. (2012). Interactivity in brand web sites: cognitive, affective, and behavioral responses explained by consumers' online flow experience. Journal of Interactive Marketing, 26(4), 223-234. 39. Zeithaml, V. A. (1988). Consumer perceptions of price, quality, and value: a meansend model and synthesis of evidence. Journal of marketing, 52(3), 2-22. 34. Wasen, J. (2017) Live streaming your business: A guide for the creative entrepreneur. 1st edition, Gigee Inc: Missoula, Montana. 40. Zhang, S., Peng, M. Y. P., Peng, Y., Zhang, Y., Ren, G., và Chen, C. C. (2020). Expressive brand relationship, brand love, and brand loyalty for tablet pcs: Building a sustainable brand. Frontiers in psychology, 11, 231. 35. Wei, H. L., Lin, K. Y., Lu, H. P., & Chuang, I. H. (2015). Understanding the intentions of users to ‘stick’ to social networking sites: a case study in Taiwan. Behaviour & Information Technology, 34(2), 151-162. 36. Wohn, D. Y., Freeman, G., và McLaughlin, C. (2018, April). Explaining viewers' emotional, instrumental, and financial support provision for 21 Phụ lục 1. Các tiêu chí đại diện cho các biến thuộc mô hình Biến độc lập Giá trị thực dụng Tiêu chí Ký hiệu Tôi cảm thấy sản phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng Thucdung1 Tôi dễ dàng hình dung về kiểu dàng và cách sử dụng sản phẩm Thucdung2 Livestream giúp tôi tìm kiếm thông tin một cách thuận tiện Thucdung3 Tôi thấy thông tin được cung cấp từ livestream là hữu ích Thucdung4 Thông qua livestream, tôi có thể hỏi và nhận được phản hồi ngay lập tức Thucdung5 Các nội dung trong livestream (thông tin và sản phẩm) luôn hợp thời và cập nhật Thucdung6 Việc tìm thấy những sản phẩm mong muốn qua livestream khiến tôi vui vẻ Giá trị tinh thần Các hoạt động trên livestream (giảm giá, quà tặng, các trò chơi tương tác giữa người xem và người phát trực tiếp) khiến tôi cảm thấy hào hứng 22 Nguồn Wongkitrungrueng và Assarut (2018); Jie Cai và cộng sự (2018) Tinhthan1 Tinhthan2 Wongkitrungrueng và Assarut (2018); Jie Cai và cộng sự (2018) Giá trị biểu tượng Biến trung gian Niềm tin thương hiệu Sự hấp dẫn của người phát trực tiếp (ngoại hình, tính cách, cách nói chuyện...) thu hút tôi Tinhthan3 Tôi xem livestream như một cách để giải trí Tinhthan4 Xem livestream khiến tôi cảm thấy mình là một người xem sáng suốt Bieutuong1 Xem livestream khiến tôi cảm thấy mình là một người bắt kịp xu hướng Bieutuong2 Wongkitrungrueng và Assarut (2018); Jie Cai và cộng sự (2018) Tôi cảm thấy người phát trực tiếp có cùng sở thích hoặc quan điểm với tôi Bieutuong3 Tôi cảm thấy tìm được mối quan tâm chung với người xem khác Bieutuong4 Tiêu chí Ký hiệu Nguồn Với nhãn hàng này, tôi đạt được những thứ tôi đang tìm kiếm ở một sản phẩm Niemtin1 Tôi cảm thấy an tâm khi sử dụng sản phẩm và dịch vụ của thương hiệu Niemtin2 Delgado-Ballester (2011); Bagozzi và cộng sự (2013); Zhang và cộng sự (2020) 23 Biến độc lập Nhãn hàng đáp ứng được những kỳ vọng của tôi Niemtin3 Nhãn hàng này không bao giờ làm tôi thất vọng Niemtin4 Khi tôi có vấn đề liên quan đến nhãn hàng thì họ chân thành giải quyết cho tôi Niemtin5 Khi tôi có vấn đề liên quan đến nhãn hàng thì họ sẽ bồi thường cho tôi Niemtin6 Tiêu chí Ký hiệu Tôi yêu thương hiệu này Tinhyeu1 Thương hiệu này thực sự tuyệt vời Tinhyeu2 Việc sử dụng thương hiệu này khiến tôi hạnh phúc Tinhyeu3 Tôi rất gắn bó với thương hiệu này (mua và sử dụng nhiều, thường xuyên theo dõi thông tin...) Tình yêu thương hiệu Tinhyeu4 Algharabat (2017) Tôi cực kỳ mong muốn và sẽ cố gắng bằng được để mua các sản phẩm của thương hiệu này Tinhyeu5 Nếu thương hiệu biến mất, tôi cảm thấy buồn và hụt hẫng Tinhyeu6 24 Nguồn