Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998, xét trên cả cấp độ quốc gia, khu vực và công ty, chính là sự tác động qua lại giữa 3 nhóm nguyên nhân: từ phía chính sách quản lý vĩ mô của chính phủ, từ phía các nhà đầu tư trong nước và từ phía các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát khu vực. Nhóm nguyên nhân thứ nhất: sự bất cập trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ Sự thành công vang dội trong quá khứ đã phủ lên các nước Đông Á hào quang của tăng trưởng, trong khi nếu tỉnh táo thì ít nhất các nước này có thể nhận ra những sai lầm sau đây: Thứ nhất, sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đồng USD. Việc neo giữ tỷ giá ổn định, thoạt đầu có thể tạo điều kiện cho việc ổn định đồng tiền và thu hút nguồn vốn bên ngoài thông qua các kênh: FDI, cho vay thương mại, đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Vào năm 1995, nhằm khôi phục lại kinh tế sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Mĩ (FED) bắt đầu nâng lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mĩ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất cao và làm tăng giá đồng USD. Từ năm 1995-1997, đồng USD liên tục tăng giá tới 50% so với đồng Yên. Với việc Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo giữ tỷ giá vào USD nói trên, đã khiến đồng tiền của các nước Đông Á tăng 52 giá tương đối. Hơn nữa, quyết định thả nổi bản tệ mà các Chính phủ đưa ra đột ngột sau những cố gắng tuyệt vọng cuối cùng để giữ tỷ giá đã đẩy nền kinh tế đến sự hoảng loạn có tính chất tâm lý và làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Thứ hai, chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đồng bộ với việc tăng cường giám sát hoạt động của các doanh nghiệp và các định chế tài chính. Châu Á cũng như nhiều nước trong khu vực cho đến nay, vẫn chưa có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo với đầy đủ các thiết chế thị trường, vừa có tính định hướng, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh, vừa có thể giám sát, điều chỉnh tự động, kịp thời ngăn chặn những lệch lạc của chúng. Biểu hiện kém lành mạnh hơn là nạn hối lộ, tham nhũng, móc ngoặc giữa các giới chức chính phủ và doanh nghiệp càng tăng thêm những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 là một minh chứng rõ nét cho thấy tình trạng yếu ớt và kém trưởng thành của các định chế chính trị, kinh tế, tài chính và xã hội của các nước Đông Á, làm giảm sút sức cạnh tranh trong một nền kinh tế hiện đại và toàn cầu. Thứ ba, có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của những sai lầm trên. Sự mất cân đối trong cơ cấu dòng chảy vốn nước ngoài, sự sụt giảm trong tăng trưởng xuất khẩu cùng với sự tăng cường nhập khẩu, trong đó có nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ từ nguồn vốn vay nước ngoài, đã khiến cán cân thương mại và cán cân vãng lai của các nước Đông Á thâm hụt nặng nề. Vốn huy động gián tiếp qua thị trường chứng khoán tăng nhanh, trong khi dự trữ ngoại hối quốc gia không cao và kim ngạch xuất khẩu giảm dần. Hơn nữa, các khoản vốn vay nóng này lại được tập trung đầu tư vào lĩnh vực bất động sản hoặc một số ngành công nghiệp đã có sự “bão hoà” dẫn tới cung vượt xa cầu. Mất cân đối giữa tích luỹ - tiêu dùng, mất cân đối trong đầu tư, sai lầm trong quản lý vĩ mô của Chính phủ, cùng với những bất ổn về chính trị làm gia tăng tình trạng bất công xã hội, đe doạ sự ổn định quốc gia, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư, của dân chúng và các tổ chức tài chính quốc tế khác. Nhóm nguyên nhân thứ hai: sai lầm của các nhà đầu tư trong nước Là những người trực tiếp tiến hành thực hiện các quyết định đầu tư, các nhà đầu tư trong nước của khu vực châu Á phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu về số phận doanh nghiệp do họ làm chủ từ cả ba phía: cơ cấu vốn vay, cơ cấu đầu tư và kỹ năng thích ứng thị trường. Có thể khẳng định, một trong những nguyên nhân hàng đầu của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á là do cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực kinh tế tư nhân. Điều này lại được khích lệ bởi cơ chế giám sát lỏng lẻo của chính phủ, bởi chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước, bởi cả sự kỳ vọng vào những khoản lợi kếch xù có tính đầu cơ mà họ sẽ nhận được trong tương lai. Hệ luỵ của việc mất cân đối về cơ cấu vốn vay là mất cân đối về đầu tư. Nhóm nguyên nhân thứ ba: các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đem lại cho các quốc gia nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Một trong những thách thức quan trọng phải kể đến đó chính là khả năng dễ bị tổn thương với bên ngoài và tính chất lây nhiễm khủng hoảng. Nguyên nhân của những thách thức ấy trên thực tế lại nằm ngoài tầm kiểm soát của các nước chịu tác động bởi khủng hoảng. Trước hết, đó chính là chính sách tiền tệ của các nước lớn cả trong và ngoài khu vực châu Á. Với sức mạnh vượt trội và ưu thế toàn cầu của mình, sự thay đổi chính sách tiền tệ của Chính phủ Mĩ đã có tác động đáng kể đến đồng tiền khu vực Đông Á. Một mặt, cho đến năm 1995, nền kinh tế khu vực này đã được lợi phần nào nhờ chính sách đồng đô la suy yếu của Mĩ (đồng USD giảm tới 50% so với đồng Yên trong thời kỳ 1990-1995). Nhưng tới thời điểm năm 1995, Thái Lan và nhiều nước trong khu vực lại bị động trước việc đồng USD tăng giá đột ngột như là kết quả của sự thoả thuận trước đó trong nhóm G7 - một nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của khu vực. Vào thời điểm đó, đồng Yên Nhật mất giá khoảng 50% so với USD trong thời kỳ 1995-1997, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc chủ động phá giá tới 30% vào năm 1994. Sự cứng nhắc trong điều hành tỷ giá đã làm cho các nước Đông Á mất đi lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu, cán cân vãng lai thâm hụt, dòng vốn nước ngoài chảy vào giảm dần. Rõ ràng chính sách neo giữ đồng bản tệ theo USD của các nước Đông Á là không ít mạo hiểm, vì mỗi khi chiếc “neo” thay đổi sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho những gì dùng nó là cơ sở, khiến cho tác động càng thêm nhạy cảm và mạnh mẽ hơn. Một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát khu vực không kém phần quan trọng là ảnh hưởng của những hoạt động đầu cơ tiền tệ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ và làm gia tăng khả năng lây nhiễm. Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Chính điều này làm thổi phồng giá tài sản (bất động sản) và xuất hiện tình trạng nền “kinh tế bong bóng”. Sau khi mất tiền vào cơn sốt nhà đất và cổ phiếu, giới đầu tư nước ngoài hốt hoảng rút lui, tháo chạy đồng vốn. Tình trạng nhập siêu cùng với nợ ngắn hạn phải trả cứ tiếp tục tăng làm đồng USD trở nên cực kỳ khan hiếm. Một nhân tố bên ngoài khác đẩy nhanh cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, đặc biệt đối với khu vực Đông Nam Á, đó là sự tham gia của một số nước mới mà đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các nước Đông Nam Á. Với giá thành sản xuất thấp, Trung Quốc và Ấn Độ đã làm cho các nước Đông Nam Á mất dần lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cuối cùng, một nhân tố bên ngoài khác cần phải nhấn mạnh đó là đặc tính biến đổi nhanh chóng của tương quan cung - cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, xét cho đến cùng, những nguyên nhân từ phía bản thân các nước bị khủng hoảng mới là lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng đó. Do vậy để giải quyết một cách triệt để cuộc khủng hoảng, bản thân mỗi nước phải tự giải quyết những vấn đề của riêng mình trước khi đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài.