ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ TÀI: CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ RÚT RA QUA VIỆT NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. LỚP L01--- NHÓM LO1-2--- HK 201 NGÀY NỘP ……………… Giảng viên hướng dẫn: AN THỊ NGỌC TRINH Sinh viên thực hiện ĐỖ TẤN NGỌC NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC TRẦN THẾ PHONG VÕ NGUYỄN MINH THUẬN NGUYỄN LÊ NGỌC SƠN TỪ NGỌC QUỐC ĐẠT Mã số sinh viên 1914334 1914640 1914347 1915386 1914958 1913083 Thành phố Hồ Chí Minh – 2020 Điểm số MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. ............................................ 4 1.1. TIỂU SỬ V.I.LÊNIN – KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ÔNG. .............................................................................................................. 4 1.2. TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. .................................................................................... 7 1.2.1. Về lý luận. ................................................................................................................ 7 1.2.2. Về thực tiễn. ............................................................................................................ 8 1.3. TƯ TƯỞNG KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY TRIẾT HỌC MÁC CỦA LÊNIN. ........ 9 1.3.1. Thời kì 1893 – 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác nhằm thành lập đảng Mác-xít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất. ........................................................................................................................... 9 1.3.2. Thời kì 1907 – 1917, V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. .................... 9 1.3.3. Thời kì 1917-1924, V. I. Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. ............................................................................................................ 11 1.4. TÍNH KẾ THỪA VÀ SỰ KHÁC BIỆT CỦA TƯ TƯỞNG MÁC-LÊNIN VỚI CÁC HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG TRƯỚC ĐÓ................................................................. 12 1.4.1. Tính kế thừa. ........................................................................................................ 12 1.4.2. Sự khác biệt.......................................................................................................... 14 1.5. TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN LÊN LỊCH SỬ VIỆT NAM ...... 15 1.5.1. Tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. ...................... 15 1.5.1.1 Sự lựa chọn khách quan của lịch sử dân tộc (điều kiện lịch sử của Việt Nam). .............................................................................................................................. 15 1.5.1.2 Sự lựa chọn khách quan của thời đại (điều kiện lịch sử thế giới). ................ 16 1.5.2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi thành lập Đảng. ..................................... 16 1.5.3. Những nội đụng cơ bản của con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. ... 17 CHƯƠNG 2: GIÁ TRI ̣ VÀ Ý NGHĨA LICH SỬ RÚT RA QUA VIỆC NGHIÊN CỨU ̣ VÀ PHÂN TÍ CH CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦ A V. I. LÊNIN .................................. 20 2.1. GIÁ TRỊ NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ. ................................................ 20 2.1.1. V.I.Lênin phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội............................................................................................................................... 20 2.1.2. V.I.Lênin bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. ......................................................................... 21 2.1.3. V.I.Lênin là tấm gương mẫu mực trong cuộc đấu tranh bảo vệ, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác. ............................................................................. 22 2.1.4. Lý luận về dân tộc và dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin là chỉ dẫn quý báu cho các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. ......................... 23 2.1.5. Di sản của V.I.Lênin là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. ................................................................................................... 24 2.1.6. Kết luận. ............................................................................................................... 25 2.2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VÀO HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ ĐỜI SỐNG CỦA SINH VIÊN. .................................................. 26 2.2.1. Tích cực. ............................................................................................................... 26 2.2.1.1. Giúp sinh viên có cái nhìn toàn diện về khoa học và xã hội. ........................ 26 2.2.1.2. Hiểu rõ hơn về Đảng và nhà nước XHCN. .................................................... 27 2.2.1.3. Tạo cho SV bản lĩnh, trí tuệ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam......................................................................................................................... 29 2.2.2. Hạn chế. ................................................................................................................ 31 2.2.2.1. Chủ quan. .......................................................................................................... 31 2.2.2.2. Khách quan. ...................................................................................................... 32 CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. 1.1. TIỂU SỬ V.I.LÊNIN – KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ÔNG. Vơlađimia Ilich Lênin (Vladimir Ilyich Lenin) sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 ở Simbirsk (nay là Ulianovsk). Vơlađimia Ilich Lênin tên thật là Vơlađimia Ilich Ulianôp (Vladimir Ilyich Ulianov), các bí danh đã dùng là V. Ilin, K. Tulin, Karpov và những bí danh khác. Năm 1887, V. I. Lênin tốt nghiệp xuất sắc bậc Trung học được nhận Huy chương vàng nên được vào thẳng bất kỳ trường Đại học nào ở nước Nga. Ông xin vào học khoa Luật của Đại học Tổng hợp Kazan. Tại đây, V. I. Lênin tham gia nhóm cách mạng trong sinh viên, trở thành thành viên của Hội đồng hương bí mật SamarskoSimbirskoe. Do tham gia tuyên truyền cách mạng trong sinh viên, tháng Chạp 1887, V. I. Lênin bị đuổi học và bị phát lưu đến làng Kokushino Kazan. Tháng 10 năm 1888, trở về Kazan gia nhập nhóm Mácxít. V. I. Lênin có nghị lực rất cao trong việc tự học. Chỉ trong vòng hai năm miệt mài đèn sách, năm 1891, V. I. Lênin đã thi đỗ tất cả các môn học của chương trình 4 năm khoa Luật trường ĐH Tổng hợp Kazan với tư cách thí sinh tự do. Sau khi tốt nghiệp khoa luật V. I. Lênin làm trợ lý luật sư ở Samara. Tháng 8/1893, chuyển về Peterburg. Năm 1894, trong cuốn “Thế nào là những người bạn dân và học chiến đấu chống lại những người xã hội dân chủ như thế nào?” Và năm 1899, trong cuốn “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga”, V. I. Lênin được thừa nhận là người lãnh đạo của nhóm Mácxít ở Nga. Mùa thu 1895, V. I. Lênin thành lập ở Pêtecbua (Peterburg) Hội liên hiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, tập hợp các nhóm cách mạng ở Pêtecbua. Ở Mátxcơva, Kiep, Iarôxlap và những thành phố khác cũng thành lập các hội liên hiệp tương tự. V. I. Lênin đã gặp Nadơgiơđa Conxtantinôva Cơrupxcaia (Nadegiơda Konstantinovna Krupskaia). Hai người yêu nhau và trở thành bạn đời chung thuỷ. Đêm mồng 9 tháng Chạp năm 1895, do bị tố giác, nhiều hội viên của Hội liên hiệp, trong đó có V. I. Lênin bị cảnh sát bắt. Sau 14 tháng bị cầm tù, tháng Hai năm 1897, V. I. Lênin bị đi đày 3 năm ở làng Shushenkoe (miền Đông Sibir). Trong thời gian lưu đày, V. I. Lênin đã viết xong hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn khá đồ sộ: Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở nước Nga (1899). Năm 1900, thời hạn lưu đày của V. I. Lênin kết thúc. Người lại tập hợp những người Mácxít cách mạng thành lập đảng. Chính quyền Nga hoàng cấm V. I. Lênin sống ở Thủ đô và các thành phố lớn. V. I. Lênin phải ra nước ngoài (1900), cùng với Pơlêkhanôp (Plekhanov) lập ra tờ báo Tia lửa. Năm 1903, tại Luânđôn tiến hành Đại hội lần thứ II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga. V. I. Lênin phát biểu phải xây dựng một đảng Mácxít kiểu mới có kỷ luật nghiêm mình, có khả năng là người tổ chức cách mạng của quần chúng. Nhóm số đông ủng hộ V. I. Lênin gọi là những người Bônxêvich (Bolshevik), nhóm số ít chủ trương thành lập đảng đấu tranh theo kiểu Nghị viện gọi là những người Menxêvich (Menshevik). Về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức của đảng kiểu mới này V. I. Lênin đã trình bày trong cuốn Làm gì (1902) và cuốn Một bước tiến hai bước lùi (1904). Trong thời kỳ cách mạng 1905 - 1907, V. I. Lênin đã phát triển tư tưởng độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản thành cách mạng xã hội chủ nghĩa Hai sách lược dân chủ xã hội trong cách mạng dân chủ năm 1905. Tháng Tư năm 1905, tại Luânđôn tiến hành Đại hội lần thứ III Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, V. I. Lênin được bầu là Chủ tịch Đại hội. Tại Đại hội này, Uỷ ban Trung ương đã được bầu ra do V. I. Lênin đứng đầu. Tháng Mười Một năm 1905, V. I. Lênin bí mật trở về Peteburg để lãnh đạo cách mạng Nga. Tháng Chạp 1907, V. I. Lênin sống ở nước ngoài tiếp tục đấu tranh bảo vệ và củng cố đảng hoạt động bí mật. Trong cuốn Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908) V. I. Lênin phê phán sự xét lại về mặt triết học chủ nghĩa Mác và phát triển những cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác. Tháng Giêng năm 1912 lãnh đạo Hội nghị lần thứ VI (Praha) toàn Nga Đảng Công nhân xã hội dân chủ. Tháng Sáu năm 1912 từ Paris chuyển về Krakov lãnh đạo tờ Pravda (Sự thật). Thời kỳ này, V. I. Lênin soạn thảo xong Đề cương Mácxít về vấn đề dân tộc. Cuối Tháng Bảy năm 1914, bị cảnh sát áo bắt nhưng sau đó ít lâu được trả lại tự do và đi Thuỵ Sĩ. Trong thời gian Đại chiến thế giới lần thứ I, V. I. Lênin đưa ra khẩu hiệu biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916) và những tác phẩm khác, V. I. Lênin đã phát triển chính trị kinh tế học Mácxít và lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa, kiện toàn những vấn đề cơ bản của triết học Mácxít (Bút ký triết học). Tại Hội nghị quốc tế những người theo chủ nghĩa quốc tế tại Thuỵ Sĩ (1915), V. I. Lênin đã tập hợp những người xã hội dân chủ cánh tả đoàn kết lại. Sau cách mạng tháng 2 năm 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song song, một bên là chính phủ lâm thời tư sản (chuyên chế của giai cấp tư sản) và một bên là Xôviết các đại biểu công nhân và binh sĩ (chuyên chính vô sản). Những mâu thuẫn kinh tế và chính trị sâu sắc ở nước Nga lúc bấy giờ đòi hỏi phải tiến hành một cuộc cách mạng làm thay đổi tận gốc đời sống chính trị nước Nga. -Ngày 16 tháng Tư V. I. Lênin đến Petrograd để trình bày Luận cương Tháng Tư thực chất là một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu Toàn bộ chính quyền về tay các Xô Viết. Hội nghị lần thứ VII toàn Nga (Tháng 4, năm 1917) của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga đã nhất trí thông qua đường lối do V. I. Lênin đề ra. Sau cuộc khủng hoảng chính trị ở nước Nga (Tháng 7, năm 1917), V.I.Lênin buộc phải về vùng Pazzliv cách Pêtrôgrat (Petrograd), nay là Pêtecbua, 34km để tránh sự truy lùng của Chính phủ lâm thời. Từ nơi hoạt động bí mật, V.I.Lênin thường xuyên chỉ đạo phong trào cách mạng nước Nga. Đầu tháng 8, năm 1917, Đại hội lần thứ VI Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga họp bán công khai ở Pêtrôgrat, V. I. Lênin tuy không tham dự nhưng vẫn lãnh đạo Đại hội tiến hành và thông qua đường lối phải khởi nghĩa vũ trang giành lấy chính quyền. Trong thời gian này, V. I. Lênin viết xong cuốn “Nhà nước và cách mạng” đề ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền bằng con đường đấu tranh vũ trang. Đầu tháng Mười năm 1917, V. I. Lênin từ Phần Lan bí mật trở về Pêtrôgrat. Ngày 23 tháng 10, năm 1917, kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của V.I.Lênin đề ra được Hội nghị Uỷ ban trung ương Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga thông qua. Tối ngày 6 tháng 11, năm 1917, V.I.Lênin đến Cung điện Smolnưi trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Đến rạng sáng ngày 7 tháng 11, năm 1917, toàn thành phố Pêtecbua nằm trong tay những người khởi nghĩa, và đến đêm ngày 7 tháng Mười Một 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga đã toàn thắng. Chính quyền đã về tay nhân dân. Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đã ra đời. Tại Đại hội các Xô Viết toàn Nga lần thứ II, V.I.Lênin được bầu là Chủ tịch Hội đồng các Uỷ viên nhân dân (Hội đồng Dân uỷ). Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, theo đề nghị của V.I.Lênin, Hoà ước Brest với nước Đức đã được ký kết (ngày 3 tháng 3, năm 1918). Ngày 11 tháng Ba năm 1918, V.I.Lênin cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ Xô Viết trở về Mátxcơva, V.I.Lênin đã có công lao to lớn trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân lao động nước Nga Xô Viết chống sự can thiệp quân sự của nước ngoài và lực lượng phản cách mạng trong nước; trong việc lãnh đạo quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. V.I.Lênin thi hành chính sách đối ngoại Xô Viết, đề ra những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình giữa các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau. Ngày 30 tháng Tám năm 1918, V.I.Lênin bị ám sát và bị thương nặng, nhưng sau đó ít lâu sức khoẻ hồi phục, V. I. Lênin là người sáng lập Quốc tế Cộng sản (1919). Tháng Ba năm năm 1919, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Nga đã thông qua Cương lĩnh mới của Đảng, V.I.Lênin được bầu là chủ tịch Uỷ ban soạn thảo Cương lĩnh Mùa xuân năm 1920, V.I.Lênin viết cuốn “Bệnh ấu trĩ tả khuynh của Chủ Nghĩa Cộng Sản” trình bày những vấn đề chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản. Thời gian này, V.I.Lênin soạn thảo xong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội (công nghiệp hóa đất nước, hợp tác hóa gia cấp nông dân, cách mạng văn hóa) là người sáng lập ra Kế hoạch điện khí hóa toàn Nga (GOELRO), người đề ra chính sách kinh tế (NEP). Năm 1921, chính sách NEP của V.I.Lênin được thông qua tại Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga. Năm 1922, V.I.Lênin ốm nặng. Trong diễn văn cuối cùng đọc tại hội nghị toàn thể Xô Viết đại biểu thành phố Mátxcơva (ngày 20 tháng Mười một năm 1922), V.I.Lênin tin tưởng rằng thi hành chính sách NEP nước Nga sẽ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Tháng Chạp năm 1922 đến tháng Ba năm 1922, V.I.Lênin đọc ghi âm lại một số bài báo quan trọng như: “Những trang nhật ký, Bàn về hợp tác hóa, Bàn về cách mạng của chúng ta, Thà ít mà tốt, Thư gửi Đại hội”. Ngày 21 tháng Tư năm 1924, V.I.Lênin qua đời ở làng Gorki, gần thủ đô Mátxcơva. Thi hài được lưu giữ trong lăng Lênin trên Quảng trường Đỏ, Mátxcơva cho tới nay. Tại nước Nga hiện nay, tên của ông được đặt cho 1 tỉnh của Nga (tỉnh Lêningrat (Leningrad), nằm sát cố đô Xanh Pêtecbua (Saint Petersburg), nơi Lênin lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Mười; thành phố quê hương của Lênin thì được đặt tên là Ulianôp (Ulyanovsk) để tưởng nhớ ông (Lênin có họ là Ulianôp). 1.2. TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN. 1.2.1. Về lý luận. V.I.Lênin đã đúc kết toàn bộ chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hệ thống, cơ bản và trong khi bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự xuyên tạc của phái dân túy, của những người theo chủ nghĩa Makhơ, theo chủ nghĩa cơ hội, xét lại và luận điệu phản cách mạng của nhiều nhà tư tưởng tư sản khác, V.I.Lênin đã bổ sung nhiều nội dung mang tính chân lý bền vững cho cả 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, trong đó: Ở triết học, đấy là những nội dung về thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật, về lý luận nhận thức, về nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, v.v. Ở kinh tế học chính trị, V.I.Lênin là người đầu tiên đưa ra kế hoạch đi lên chủ nghĩa xã hội ở quốc gia mà giai cấp vô sản đã giành được chính quyền nhưng tiền đề về kinh tế và văn hóa của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ. Đó là “Chính sách kinh tế mới (NEP)” với nhiều thành phần kinh tế mà mục tiêu của nó là phát triển sản xuất để giải phóng người lao động trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến, quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự quản lý của nhà nước chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cũng là người xác định nhiệm vụ Kinh tế - Xã hội cơ bản có ý nghĩa quyết định trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện xã hội hóa sản xuất trong thực tế với những nhiệm vụ cơ bản là công nghiệp hóa, từng bước đưa nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn thông qua con đường hợp tác hóa đồng thời phải tiến hành cách mạng về văn hóa, không ngừng nâng cao ý thức chính trị, trình độ học vấn, Khoa học - Kỹ thuật cho nhân dân, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tư tưởng, tập quán cũ, làm cho nhiệt tình cách mạng, tinh thần sáng tạo của nhân dân được phát huy mạnh mẽ v.v. Ở chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lênin đã làm giàu thêm chủ nghĩa xã hội khoa học bằng lý luận về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước; về đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ với các hình thức quá độ, các “Bước quá độ”, các mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ; đặc điểm, thực chất của thời kỳ quá độ, v.v. Với những cống hiến của V.I.Lênin, chủ nghĩa Mác đã phát triển thành Chủ nghĩa Mác-Lênin - chủ nghĩa thể hiện trọn vẹn sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn của những người đã sáng lập, bảo vệ và phát triển nó. 1.2.2. Về thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga 1917 đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Khác với các cuộc cách mạng trước đó, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười ở Nga không thay thế hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà cuộc cách mạng này đã thiết lập nền chuyên chính vô sản, thủ tiêu mọi hình thức bóc lột vì vậy đã tạo ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử, mở ra một thời đại mới cho nhân loại - Thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Là Lãnh tụ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, V.I.Lênin không chỉ quan tâm đến vận mệnh của nước Nga, mà còn luôn quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của các dân tộc thuộc địa. Bằng sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Nga, V.I.Lênin đã xác định đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản; đồng thời vạch ra những vấn đề có tính nguyên tắc của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tư tưởng của V.I.Lênin về “Đoàn kết giai cấp công nhân ở tất cả các quốc gia; Các dân tộc bị áp bức là một chủ thể trong tiến trình thực hiện cách mạng; Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, v.v. Còn mang tính chiến lược định hướng, thúc đẩy các cuộc đấu tranh giành độc lập trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy cho các trào lưu đấu tranh giành quyền tự do dân chủ ở các nước tư bản Chủ nghĩa”. 1.3. TƯ TƯỞNG KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY TRIẾT HỌC MÁC CỦA LÊNIN. 1.3.1. Thời kì 1893 – 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác nhằm thành lập đảng Mác-xít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất. Vào những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội và trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong nhận thức và cải tạo thế giới. Vì thế, nó được lan truyền nhanh chóng ở hẩu hết các nước Châu Âu trong đó có Nga. Nhưng sau khi C. Mác và Ph. Ăngghen mất, phong trào cộng sản có nguy cơ bị chi phối bởi phái chủ nghĩa xã hội dân chủ. Những người này dùng những luận điểm để bác bỏ giá trị tư tương của Mác và Ăngghen. Trước tình hình đó, Lênin đã viết hàng loạt những tác phẩm như: Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao? (1894); Chúng ta từ bỏ di sản nào? (1897); Làm gì? (1902), v.v… Để vạch trần bản chất phản cách mạng của phái Dân Túy, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình, bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật, phát triển nhiều quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế-xã hội. Không những thế Lênin còn phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp trước khi có chính quyền, đấu tranh kinh tế, chính trị và tư tương, nhấn mạnh vai trò quyết định của đấu tranh chính trị. Trong tác phẩm “Hai sách lược của Đảng dân chủ-xã hội trong cách mạng dân chủ”, Lênin đã phát triển học thuyết của Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa ra được những động lực và triển vọng của cách mạng dân chủ tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. 1.3.2. Thời kì 1907 – 1917, V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng “Cuộc khủng hoảng vật lí” và cuộc cách mạng 1905 – 1907 thất bại, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ nghĩa duy vật Mác. Họ viện cớ “Bảo vệ chủ nghĩa Mác” để nhầm xuyên tạc triết học Mác. Họ muốn làm sống lại chủ nghĩa duy tâm, chống chủ nghĩa duy vật biện chứng, phá hoại tư tưởng cách mạng, tước bỏ vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Khi đó, trong lĩnh vực triết học có xu hướng ngả sang chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, ra đời cách trào lưu “Tìm thần” và “Tạo thần”, nảy sinh ra các hiện tượng “Có tình trạng thoái chí, mất tinh thần, phân liệt, chạy dài, từ bỏ lập trường, nói chuyện dâm bôn”. Do đó, Lênin đã tiến hành đấu tranh, bảo vệ, phát triển triết học Mác. Ông cho ra đời tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1908) đã khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, phê phán triết học của duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại, vạch mặt những kẻ chống Mácxít, bảo vệ chủ nghĩa duy vật, nhấn mạnh vai trò của thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Ông chỉ ra rằng, giữa triết học và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, chủ nghĩa Mác là sự thống nhất không thể tách rời giữa lý luận khoa học với thực tiễn cách mạng. Ông đã chỉ ra rõ thực chất cuộc khủng hoảng vật lý là sự khủng hoảng về thế giới quan và phương pháp luận; Con đường để thoát khỏi cuộc khủng hoàng là phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Lênin phê phán việc lấy quy luật sinh học để giải thích hiện tượng đời sống xã hội và chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa Makhơ, khi họ phủ nhận vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự phát triển xã hội, về hình thức phản ánh của sự tồn tại xã hội. Trong thời kì chiến tranh thế giới thứ nhất, V.I.Lênin đã nghiên cứu và phát triển hàng loạt quan điểm, nguyên lí triết học Mác, đáp ứng yêu cầ u nhâ ̣n thức giai đoa ̣n chủ nghiã tư bản đô ̣c quyề n và giải quyế t những vấ n đề cấ p bách của thực tiễn cách ma ̣ng vô sản qua hai tác phẩ m tiêu biể u là “Bút kí triế t học” (1914 – 1916) và “Chủ nghiã đế quố c, giai đoạn tột cùng của chủ nghiã tư bản” (1913). Khi cách ma ̣ng vô sản đã trở nên chín muồ i, V.I.Lênin đã viế t tác phẩ m “Nhà nước và cách mạng” (Cuố i năm 1917) nhằ m chuẩ n bi ̣ mă ̣t lí luâ ̣n cho cuô ̣c cách ma ̣ng vô sản đang đế n gầ n. Lênin đã phát triể n đã phát triể n quan điể m của của chủ nghiã Mác về nguồ n gố c bản chấ t của nhà nước, về tính tấ t yế u đâ ̣p tan nhà nước tư sản, thay thế bằ ng nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã phân tić h và nhấ n ma ̣nh tư tưởng chủ yế u của Mác về đấ u tranh giai cấ p, chuyên chin ́ h vô sản, và phân tić h chủ nghiã xã hô ̣i và chủ nghiã cô ̣ng sản là hai giai đoa ̣n trong sự phát triể n của xã hô ̣i cô ̣ng sản chủ nghiã , về vai trò của đản cô ̣ng sản trong xây dựng xã hô ̣i mới, xã hô ̣i chủ nghiã . Nhin ̀ chung, trong giai đoa ̣n này, Lênin đã giải quyế t mô ̣t cách khoa ho ̣c những vấ n đề về chiế n tranh và hòa bình; tiế p tu ̣c phát triể n ho ̣c thuyế t Mác về chiế n tranh và quân đô ̣i. 1.3.3. Thời kì 1917-1924, V. I. Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng mười năm 1917, nước Nga Xô Viết bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh bị sự can thiệp của 14 nước đế quốc và bọn phản động phá hoại, V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi loại kẻ thù của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Trong giai đoạn này, V.I.Lênin đặc biệt chú ý tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học để bổ sung và hoàn thiện triết học Mác, nhất là sự phát triển phép biện chứng Mác-Xít. Đồng thời, vạch ra đường lối chung cũng như làm rõ sự khác biệt căn bản về nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng lao động trong cách mạng tư sản và cách mạng vô sản. Người chỉ rõ: “Chính quyền Xô viết không phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức của chuyên chính vô sản”. Qua nhiều tác phẩm: “Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết (1918), Cách mạng vô sản và tên phản bội Causky (1918), Sáng kiến vĩ đại (1919), Chính sách kinh tế mới (1921), Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922),…” Lênin đã nêu lên sự khác biệt căn bản của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ Vô sản, đề cao vai của Nhà nước Xô viết, định nghĩa rõ ràng về giai cấp, phát triển nâng cao năng suất lao động. Không chỉ dừng lại ở đó, chính Lênin còn đưa ra chính sách giúp nước Nga vượt qua khủng khoảng kinh tế, củng cố khối liên minh công nông. Quan trọng hơn cả, Người đã đặt ra cơ sở khoa học cho nhiệm vụ phát triển triết học Mác, về phương hướng mục tiêu, biện pháp công tác của Đảng cộng sản trên mặt trận triết học cũng như đóng góp to lớn vào việc phát triển và chỉ ra những nhiệm vụ cơ bản của lý luận đạo đức, mỹ học và chủ nghĩa vô thần khoa học. Như vậy, Chủ nghĩa Lênin là sự khái quát lý luận về thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để của chủ nghĩa Mác, trong đó có triết học trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng Vô sản. 1.4. TÍNH KẾ THỪA VÀ SỰ KHÁC BIỆT CỦA TƯ TƯỞNG MÁC-LÊNIN VỚI CÁC HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG TRƯỚC ĐÓ. Sự xuất hiện của Triết học Mác-Lênin là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử Triết học. Đó là kết quả tất yếu trong phát triển lịch sử tư tưởng Triết học, là một sự kế thừa vượt bậc của nền triết học nhân loại, song cũng mang trong mình sự khác biệt riêng. 1.4.1. Tính kế thừa. Triết học ra đời ở cả Phương Đông và Phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VI TCN) với hàng loạt những tư tưởng với những con người xuất chúng. Thời cổ đại với Hêrbalít, Đêmôcrít, Arixtôt, … với “Chủ nghĩa duy vật chất phác”; Thời Trung cổ với “Chủ nghĩa kinh viện” mang cách giải thích đầy tính giáo điều; Sự tiến bộ về tư tưởng trong thời kì Phục hưng ở Côpecníc, Galilê, … Nhưng vẫn là “Chủ nghĩa duy vật siêu hình”, máy móc. Giai đoạn quan trọng của lịch sử triết học phải nói đến là vào thời cận đại cùng triết học cổ điển Đức, đỉnh cao là Hêghen với học thuyết về mâu thuẫn và sự phát triển. Những lớp nhà tư tưởng đi trước đã tạo ra một tiền đề cho một đỉnh cao của triết học hình thành: Triết học Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng xuất hiện vào những năm 40 của thế kỉ XIX bởi Các Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895) và sau này được kế thừa và phát triển xuất sắc bởi V. I. Lênin: Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là các học thuyết của hai nhà tư tưởng tiêu biểu: Hêghen (1770 – 1831) và Phoiơbắc (1804 – 1872) là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Với những hạt nhân là tư tưởng biện chứng Hêghen và các tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học Phoiơbắc. Kinh tế chính trị Anh mà đại diện là A.Smít (1723 – 1790) và Đ.Ricácđô (1772 – 1823) với lý luận giá trị lao động, là yếu tố không thể thiếu trong sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với Xanh Ximông (1760 – 1825), S.Phuriê (1772 – 1837), Ôoen (1771 – 1858) về một số đặc điểm của xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của họ đối với chủ nghĩa tư bản. Các tác phẩm của các nhà sử học Pháp “Thời kì Khai sáng” (Thêri, Gigiô, Minhe,…). Dựa vào đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách mạng. Kế thừa từ những tiền đề lý luận trên, triết học Mác-Lênin còn xây dựng cho mình nền tảng cơ sở khoa học vững chắc từ những tiền đề khoa học tự nhiên. Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh rằng, sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng mà không có lực nào mất đi cả, không có sự phát sinh và mất đi của năng lượng mà chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển chung của các cơ thể thực vật và động vật. Thuyết này xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thái giữa giới động vật và giới thực vật, giải thích quá trình phát triển của chúng, phá bỏ quan niệm siêu hình khi không nhận thấy sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thái giữa giới thực vật và động vật. Thuyết tiến hoá đã giải thích một cách duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật đã đem lại cho sinh học cơ sở thật sự khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. Giai đoạn mới trong sự phát triển của triết học Mác gắn liền với tên tuổi của Lênin, Người đã hoàn thiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trên cơ sở phân tích đặc điểm và tổng hợp những thành tựu của khoa học tự nhiên trong thời đại mới của chủ nghĩa tư bản – thời đại đế quốc chủ nghĩa. 1.4.2. Sự khác biệt. Kế thừa những tư tưởng của các nhà triết học, khoa học đi trước một cách xuất sắc, triết học Mác – Lênin còn tự đưa mình lên đỉnh cao với những điểm khác biệt riêng. Tính khoa học: Đã xây dựng nên thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, được thể hiện trong việc soạn ra chương trình khoa học cho công cuộc xây dựng xã hội cộng sản, đem chương trình đó – chương trình của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản – gieo vào mảnh đất của các quan hệ tư bản chủ nghĩa; chuyển chủ nghĩa duy vật vào sự nhận thức xã hội và lịch sử của nó; thống nhất sáng tạo chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, nhờ đó, dẫn tới sự ra đời hệ thống chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tính cách mạng: Dù là sự tổng hợp của sự phát triển của thực tiễn xã hội và của nhận thức khoa học, nhưng triết học Mác đã thể hiện tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Khẳng định sự khác biệt về chất của triết học Mác đối với những hệ thống triết học trước đó, V. I. Lênin viết: "Áp dụng phép biện chứng duy vật vào việc soạn thảo ra kinh tế chính trị, và từ cơ sở này – vào lịch sử, vào khoa học tự nhiên, vào triết học, vào chính trị và vào chiến lược của giai cấp công nhân – Đó là những gì mà C. Mác và Ph. Ăngghen quan tâm hơn cả, đó là những gì mới nhất, bản chất nhất mà họ mang lại, đó là bước tiến thiên tài trong lịch sử tư tưởng cách mạng"[1]. Sự khác biệt của triết học Mác – Lênin còn đến từ sự kế thừa và phát triển sáng tạo của V. I. Lênin. Lênin đã phát triển một cách toàn diện lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng - chỉ ra tính biện chứng của quá trình nhận thức, đưa ra học thuyết về vai trò của thực tiễn trong nhận thức, đưa ra học thuyết về chân [1] V. I. Lênin tập 24, tr.264 lý, trong đó chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Lênin đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phân chia sự phát triển biện chứng là phươngpháp khoa học của sự nhận thức và cải tạo thế giới. Người phê phán mạnh mẽ những hình thức khác nhau của chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri trong triết học cũng như trong khoa học, đưa ra tính cần thiết của liên minh giữa các nhà triết học với các nhà thực nghiệm khoa học tự nhiên. Lênin đã đưa ra và giải quyết các vấn đề của tồn tại xã hội và ý thức xã hội, hình thái kinh tế – xã hội của giai cấp, của nhà nước, quan hệ dân tộc, của nhân tố chủ quan, phát triển học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới. Nhìn chung, trong thời đại ngày nay, nhờ vào những đặc điểm đã nói, triết học Mác – Lênin đang đứng ở đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại, là hình thức phát triển cao nhất của các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự phát triển thế giới, đã và đang phát triển giữa nền văn minh nhân loại. 1.5. TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN LÊN LỊCH SỬ VIỆT NAM 1.5.1. Tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 1.5.1.1 Sự lựa chọn khách quan của lịch sử dân tộc (điều kiện lịch sử của Việt Nam). Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thủ xâm lược. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, đã có hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh biệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ -phu, các nhân sĩ, trí thức, người yêu nước…theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị thực đàn Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là đo chưa có đường lối cứu nước đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Đầu thế kỷ XX, toàn bộ trí lực của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Tháng 6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyên Ái Quốc-Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba qua nhiều nước trên thế giới, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tự sản điển hỉnh, như Cách mạng tự sản Pháp, chiến tranh giành độc lập ở Mỹ; Tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người đã rút ra nhiều bài học quý báu và bố ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Tháng 7 1920, Nguyên Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thư nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là tiến hành vô sản" Độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa Xã hội, gắn cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân tạ giành và bảo về nền độc lập dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân tạ đi theo Đảng. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. 1.5.1.2 Sự lựa chọn khách quan của thời đại (điều kiện lịch sử thế giới). Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công để mở ra thời đại mới-Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vị toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu giảnh thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phong dân tộc và từng bước quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm, cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Về lý luận và thực tiễn, chỉ có Chủ nghĩa Xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, Chủ nghĩa về hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị lựa chọn con đường và mô hình phát triển, xóa bó tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột, nô dịch đân tộc khác trên thế giới. Chủ nghĩa Xã hội tạo ra sự trao đối, hợp tác kinh tế văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, bạo lực, bất công, bảo đảm cho con người sống trong an lánh và hạnh phúc. 1.5.2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi thành lập Đảng. Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chí nghĩa Việt Nam).Đây là kết quả tổng hợp của các cao trào cách mạng diễn ra liên tục từ ngay thành lập Đảng, từ Cao trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh 1930-1931, Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến Cao trao vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, giành lại nền độc lo cho dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tố quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi đó đã tạo điều kiện đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào cuộc dấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, đọc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vỉ mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Bài học lớn luôn luôn được đặt ở vị tí hàng đầu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đối mới, là phải: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. 1.5.3. Những nội đụng cơ bản của con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội Ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa Với điểm xuất phát từ trình độ phát trến Kinh tế-Xã hội rất thấp, quá trình đó tất yếu đói hỏi phải trải qua một thời kỳquá độ lâu dài với nhiều chặng đường. Tống kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã cụ thể hoá những phương hướng trong Cương lĩnh 1991, chỉ ra 8 quá trình sau: Một là, phát triển nền kinh tế thị trưởng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quả trình đối mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản là Mục tiêu phái triển kinh tế là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triến sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đấy mạnh xóa đói giảm nghéo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng... Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa phải kết hợp ngay đầu tư với hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ba là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần. Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”2. Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ nhân dân là bản chất của chế độ xã hội ở nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106. 2 định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “Nhiệm vụ then chốt”, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; Bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới… Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phải chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách, bước đi hội nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. CHƯƠNG 2: GIÁ TRI ̣ VÀ Ý NGHĨA LICH SỬ RÚT RA QUA ̣ VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍ CH CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦ A V. I. LÊNIN 2.1. GIÁ TRỊ NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ. 2.1.1. V.I.Lênin phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Phân tích quá trình phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên của nhân loại trong thời đại tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo, cách mạng cộng sản chủ nghĩa “sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức”. Theo quy luật chung, khi lực lượng sản xuất phát triển đến độ không thể tương dung với quan hệ sản xuất hiện tồn thì tất yếu sẽ nổ ra cuộc cách mạng xã hội nhằm thủ tiêu quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, khi phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin thấy rằng, chủ nghĩa tư bản đã có những đặc điểm mới. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản”, V.I.Lênin đã phát hiện quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản và đưa ra dự báo: “Chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết là trong một số ít nước Tư bản Chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước Tư bản”. Trên cơ sở phân tích hoàn cảnh cụ thể của nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin nhận định, nước Nga đã trở thành nơi hội tụ cao độ những mâu thuẫn của thời đại và là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc thế giới(3). Từ đó, V.I.Lênin và những người MácXít Nga chân chính đã tích cực chuẩn bị các điều kiện cho cuộc cách mạng vô sản Nga. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, đứng đầu là V.I.Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã vùng dậy tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, lật đổ chính quyền tư sản phản động, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới; Đưa chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận trở thành hiện thực, mở đầu cho sự chuyển biến từ hiện thực của một nước trở thành hiện thực của một hệ thống thế giới, mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không phải là một sự “Đẻ non”, càng không phải là kết quả của “Ngẫu hứng chủ quan” hay là “Một sự ăn may” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thắng lợi đó là tất yếu khách quan bởi chủ nghĩa đế quốc ở nước Nga đã bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt chưa từng thấy mà bản thân nó không thể khắc phục được: chế độ Nga hoàng đã trở nên quá thối nát, giai cấp tư sản Nga đã trở thành lực lượng cực kỳ phản động; giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga bị đẩy đến đường cùng, sẵn sàng vùng lên lật đổ áp bức, bóc lột. Đó còn là kết quả tất yếu của một quá trình xây dựng, chuẩn bị công phu, tự giác, lâu dài của V.I.Lênin và Đảng Bônsêvich Nga, một Đảng cách mạng chân chính được vũ trang bởi học thuyết khoa học, cách mạng và phát triển của chủ nghĩa Mác do chính V.I.Lênin bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo vào điều kiện đặc thù của nước Nga. 2.1.2. V.I.Lênin bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, một vấn đề vừa có tính cơ bản, vừa có tính cấp bách đặt ra cho V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga là quản lý và phát triển đất nước, đưa nước Nga - một quốc gia lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trọng trách lịch sử tiếp tục đặt lên vai lãnh tụ V.I.Lênin về sự vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên của nhân loại. Những năm đầu sau Cách mạng Tháng Mười, chính sách “Cộng sản thời chiến” (1918-1921) đã được áp dụng như một biện pháp tình thế để đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc nội chiến chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Xô-viết non trẻ. Tuy nhiên, khi nước Nga Xô-viết bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, chính sách đó đã không còn phù hợp, trở thành lực cản phát triển; gây đình đốn sản xuất; đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng Kinh tế - Xã hội và có nguy cơ khủng hoảng chính trị. Nhận thức được điều đó, bằng trí tuệ và bản lĩnh của những người Cộng sản, tháng 3-1921, tại Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ X, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích đã đưa ra một quyết định mang tính lịch sử, đó là thay thế chính sách “Cộng sản thời chiến” bằng “Chính sách kinh tế mới (NEP)”, chuyển trọng tâm của cách mạng vào chăm lo phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện một cuộc cải cách có tính tổng thể về mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần: Phải lùi lại, phải đi đường vòng, bắc những “Nhịp cầu nho nhỏ” để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Gồm những biện pháp cải cách sâu sắc và mạnh mẽ, “Chính sách kinh tế mới” chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng trưng mua và chính sách thuế lương thực; mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp; cho thương nhân được tự do hoạt động; áp dụng chế độ hạch toán kinh tế; quan tâm lợi ích thiết thân của người lao động, khuyến khích lợi ích cá nhân. Với tư duy khoa học và biện chứng của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã thấy rõ, muốn phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước Nga thành công phải học tập, kế thừa thành tựu của chủ nghĩa tư bản; phải “Dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”. V.I.Lênin nêu rõ, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, phải biết làm giàu trí tuệ của mình “Bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Tổng thể những biện pháp đó là nhằm khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế để phát triển sản xuất, “Đưa Chủ nghĩa Xã hội vào cuộc sống hằng ngày”; xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, bằng thực tiễn sinh động: từ sản xuất, trong sản xuất và bằng phát triển sản xuất. Trong điều kiện nước Nga lúc bấy giờ, việc thực hiện “Chính sách kinh tế mới” không phải là một tiến trình suôn sẻ. Ngay trong hàng ngũ các đảng viên cộng sản, không ít người nghi ngờ rằng đó là sự “Thỏa hiệp” với Chủ nghĩa Tư bản, là nguy cơ khôi phục Chủ nghĩa Tư bản ở Nga, phản bội sự nghiệp Cách mạng theo di huấn của C.Mác. Phân tích thực tiễn, V.I.Lênin nhận thấy, trong một quốc gia lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan. Điều đó không mâu thuẫn với lý luận của C.Mác. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, C.Mác chỉ ra rằng, do vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa nên “Xã hội trong thời kỳ quá độ” về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần - Còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Đó là đặc điểm khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là đối với những nước tiểu nông, lạc hậu. Thực tế đã chứng minh, nhờ chính sách kinh tế mới, nước Nga Xô-viết đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từ đó chứng tỏ sức sống và những ưu việt của Chủ nghĩa Xã hội. Đáng tiếc là, sau khi V.I.Lênin mất, “Chính sách kinh tế mới” đã không được thực hiện đầy đủ. Hơn 100 năm qua, Chủ nghĩa Xã hội hiện thực trên thế giới đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại song từ những năm 1970 đã lâm vào trì trệ, rơi vào khủng hoảng trầm trọng và cuối cùng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đây là tổn thất to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, song điều đó rõ ràng không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, lại càng không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực mang nhiều khiếm khuyết, như: kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, duy ý chí, giáo điều, xa dân, xa rời những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là nguyên tắc lịch sử - cụ thể, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong, không thích ứng với những thay đổi diễn ra thường xuyên của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Đó còn là hệ lụy từ những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và công tác cán bộ của Đảng cầm quyền trong quá trình cải tổ. Thất bại đó khiến chúng ta càng thấy được ý nghĩa to lớn của việc chuyển từ Chính sách cộng sản thời chiến sang “Chính sách kinh tế mới”, với những chỉ dẫn kinh điển quý báu của V.I.Lênin cho công cuộc cải cách, đổi mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực để vượt qua trì trệ, khủng hoảng và tiếp tục hồi sinh, phát triển sau này. 2.1.3. V.I.Lênin là tấm gương mẫu mực trong cuộc đấu tranh bảo vệ, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác. Trong bối cảnh Chủ nghĩa Tư bản chuyển sang giai đoạn Đế quốc Chủ nghĩa và sự phân rã của Quốc tế II, V.I.Lênin đã kiên trì, quyết liệt đấu tranh với các trào lưu cơ hội tấn công, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác. Người đã viết hàng loạt tác phẩm nổi tiếng như: “Làm gì? (1902), Một bước tiến, hai bước lùi (1904); Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), Chủ nghĩa đế quốc, Giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916), Nhà nước và cách mạng (1917), Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky (1918),...”Qua đây, V.I.Lênin chỉ rõ bản chất của những kẻ cơ hội là “Dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”; Họ thừa nhận khẩu hiệu bảo vệ tổ quốc và Chủ nghĩa Ái quốc Tư sản; Họ thừa nhận đấu tranh giai cấp nhưng về bản chất là phủ nhận chuyên chính Vô sản, phủ nhận bạo lực cách mạng, ca tụng con đường cải lương, ủng hộ những cải cách nhỏ, nhất thời trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản; Họ chỉ thừa nhận Chủ nghĩa Mác ở đầu lưỡi, họ khoác áo MácXít để chôn vùi Chủ nghĩa Mác; Họ hô hào, ủng hộ công nhân đấu tranh nhưng với điều kiện không được phá hủy bộ máy nhà nước tư sản và thay bằng nhà nước Vô sản. Nghĩa là công nhân cứ đấu tranh nhưng tuyệt đối không được giành thắng lợi. Bằng trí tuệ uyên bác, kinh nghiệm thực tiễn cách mạng phong phú và niềm tin tuyệt đối vào Chủ nghĩa Mác cùng phương pháp luận chiến sắc sảo, V.I.Lênin đã vạch trần, bác bỏ các quan điểm sai lầm, phản động của chủ nghĩa cơ hội để bảo vệ tính khoa học, cách mạng và sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác. Chiến thắng về tư tưởng, lý luận của V.I.Lênin và những người cộng sản Nga chân chính trước chủ nghĩa cơ hội là điều kiện, tiền đề quan trọng để chủ nghĩa Mác thực sự là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn tới thắng lợi tất yếu của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Theo V.I.Lênin, bảo vệ Chủ nghĩa Mác phải gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ chính trị thực tiễn ở tầm chiến lược và sách lược của cách mạng. Sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I.Lênin chỉ rõ, những người làm cách mạng “Phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”. V.I.Lênin cho rằng, “Cách mạng phải biết tự bảo vệ” để chống sự phản kháng của các thế lực tư sản, áp bức và bóc lột luôn tìm mọi cách giành lại “Thiên đường đã mất” và phải kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội, phản động nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định, để bảo vệ thành quả cách mạng, không chỉ cần tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng; Mà quan trọng hơn là phải tự mình sáng tạo ra những quan hệ kinh tế mới, sáng tạo ra một xã hội mới, có nền kinh tế phát triển hiện đại, năng suất cao; Văn hóa, dân trí cao; Một nhà nước kiểu mới, một nền chính trị dân chủ thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Đó không chỉ là việc phải thường xuyên đấu tranh chống các luận điệu, hành vi thù địch từ bên ngoài mà còn phải thường xuyên phòng chống những tật bệnh và sự suy thoái từ trong nội bộ, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ, bệnh kiêu ngạo cộng sản. V.I.Lênin cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ ‘nếu’ này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”. Lịch sử ghi nhận V.I.Lênin như một nhà cải cách đầu tiên trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chính trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và từ thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Nga, V.I.Lênin đã vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác một cách toàn diện trên cả ba bộ phận cơ bản cấu thành: Triết học, kinh tế - chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, hình thành nên chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là cống hiến đặc biệt xuất sắc mang giá trị thời đại của V.I.Lênin cho nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. 2.1.4. Lý luận về dân tộc và dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin là chỉ dẫn quý báu cho các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh việc xâm chiếm thuộc địa, tiến hành các cuộc chiến tranh đế quốc thì vấn đề dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề chính trị thực tiễn cơ bản, cấp bách đối với các đảng cộng sản và công nhân. Vì thế, V.I.Lênin đã dành nhiều công sức nghiên cứu vấn đề này và hình thành lý luận khoa học về con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa, thể hiện trong một số tác phẩm, như: “Về cương lĩnh dân tộc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (1913), Về quyền dân tộc tự quyết (1914), Cách mạng xã hội và quyền dân tộc tự quyết (1916), Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920),…”Xuyên suốt trong các tác phẩm đó là tinh thần: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc đươ ̣c quyền tự quyết; liên hơ ̣p công nhân tấ t cả các dân tộc lại. Theo V.I.Lênin, cách mạng vô sản ở chính quốc phải gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa; và để giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa phải vận động theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc thuộc địa không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những người cộng sản ở chính quốc. Trong điều kiện mới, việc thực hiện cương lĩnh dân tộc phải gắn liền với phong trào cách mạng thế giới và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được V.I.Lênin phát triển thành khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, trở thành khẩu hiệu hành động chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Thông qua việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô-viết cũng như sáng lập và lãnh đạo Quốc tế Cộng sản (tháng 3-1919), V.I.Lênin đã làm hết sức mình vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và Người xem đó là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ có tính sống còn của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Được soi sáng bởi chủ nghĩa Lênin, với niềm cảm hứng mãnh liệt từ tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, với sự giúp đỡ có hiệu quả từ Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập, nhân dân lao động ở nhiều nước thuộc địa đã thức tỉnh, vùng dậy đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũ và mới để giành độc lập, tự do. Nhiều quốc gia, dân tộc sau khi tự giải phóng khỏi xiềng xích của Đế quốc, thực dân đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa góp phần tạo nên ba dòng thác vĩ đại của phong trào cách mạng thế giới trong thế kỷ XX. Đồng thời, qua thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và từ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các chính đảng cộng sản, công nhân đã bổ sung nhiều luận điểm, quan điểm có giá trị vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, trong đó có những luận điểm ghi đậm dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bối cảnh mới của thời đại và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu; cách mạng thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; thực hiện đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở hai miền đất nước Việt Nam...Những tìm tòi, sáng tạo đó đã góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm và khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới. 2.1.5. Di sản của V.I.Lênin là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong hành trình tìm đường cứu nước, từ một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một người cộng sản. Bước ngoặt ấy đến khi Người được tiếp cận “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920)” của V.I.Lênin. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin theo V.I.Lênin, tin theo cách mạng Tháng Mười Nga và lựa chọn con đường cách mạng vô sản không chỉ xuất phát từ tình cảm, sự kính trọng V.I.Lênin và lòng yêu mến, ngưỡng mộ cách mạng Tháng Mười do V.I.Lênin lãnh đạo. Điều quan trọng là, từ hành trình tìm đường cứu nước, nghiên cứu thực tiễn chính trị và tư tưởng, lý luận hàng chục năm ở nhiều nước, Người nhận thấy: “Cách mạng” có nhiều thứ, “Chủ nghĩa”, “Học thuyết” cũng có nhiều nhưng chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là thành công “Đến nơi” và chủ nghĩa Lênin là “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”. Chỉ theo con đường Cách mạng Tháng Mười và theo chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể giải đáp được những yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc, đó là độc lập cho dân tộc và ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; đồng thời, không thể giải phóng được giai cấp vô sản nếu không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền và dựa trên cơ sở bảo đảm các quyền con người, như: quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Cách mạng Việt Nam chỉ có một con đường tất yếu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kiên định, vững vàng giương cao ngọn cờ “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” - một cách tiếp cận hoàn toàn mới, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử, kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở thành phương châm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và là con đường duy nhất đúng đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp phát triển đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 2.1.6. Kết luận. V.I. Lênin là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, Lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác thành học thuyết Mác - Lênin, mở ra trang sử mới cho cách mạng vô sản thế giới. Trong đó, Người đã kế tục tư tưởng, lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về những tiền đề vật chất, mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cuộc cách mạng vô sản vào thực tiễn nước Nga; cùng với Trung ương Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo các tầng lớp nhân dân và binh lính làm nên Cách mạng Tháng Mười (năm 1917) “Rung chuyển thế giới”. Sau sự kiện trọng đại này, Người đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, làm cho Đảng Cộng sản lần đầu tiên trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự ra đời của nước Nga Xô-Viết, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu, mở ra con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì lý tưởng và mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa. 2.2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VÀO HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ ĐỜI SỐNG CỦA SINH VIÊN. 2.2.1. Tích cực. 2.2.1.1. Giúp sinh viên có cái nhìn toàn diện về khoa học và xã hội. Đầu tiên, tư tưởng của V.I.Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên. Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của con người về thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức đặc thù của con người, chứ không phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể. Thứ hai, V.I.Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan ấy. Từ việc tìm hiểu về tư tưởng và cuộc đời của V.I.Lênin, là sinh viên chúng ta thấy, thực tiễn cuộc sống luôn vận động, biến đổi, phát triển, vì thế, sinh viên chúng ta cần có một góc nhìn đa chiều, khách quan, toàn diện về mọi mặt và nhận thức của chúng ta phải luôn được vận dụng, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Thời đại ngày nay có nhiều biến động sâu sắc, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp; xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên trong quan hệ quốc tế. Những vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước sạch, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế ngày càng phải đối phó với các thách thức an ninh mạng. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục diễn ra phức tạp,...Tất cả những nhân tố mạnh mẽ to lớn đó tác động một cách trực diện vào quy luật biến đổi của thế giới, làm cho yêu cầu cho những sinh viên, chủ nhân tương lai của thế giới cần một cái nhìn đa chiều hơn. Cũng thông qua đó, việc tìm hiểu tư tưởng về của V.I.Lênin, mà ở đó, trong các vấn đề thì V.I.Lênin luôn giữ vững lập trường, từng bước tiếp nối sự nghiệp của chủ nghĩa Mác, làm cho chúng ta cảm nhận được cái nhìn toàn diện về thế giới của V.I.Lênin. Cái nhìn toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Cái nhìn ấy phải xuất phát từ một tư tưởng hiện đại, đúc kết trong cuộc sống và môi trường rèn luyện của ông. Thông qua việc tìm hiểu tư tưởng, cuộc sống ấy, giúp sinh viên tiếp cận với một lối sống hiện đại, có một cái nhìn khái quát hơn về Khoa học, Xã hội và Tư duy. 2.2.1.2. Hiểu rõ hơn về Đảng và nhà nước XHCN. Sau Cách mạng Tháng Mười, một vấn đề vừa có tính cơ bản, vừa có tính cấp bách đặt ra cho V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga là quản lý và phát triển đất nước, đưa nước Nga - Một quốc gia lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trọng trách lịch sử tiếp tục đặt lên vai lãnh tụ V.I.Lênin về sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên của nhân loại. Những năm đầu sau Cách mạng Tháng Mười, chính sách “Cộng sản thời chiến” (1918-1921), đã được áp dụng như một biện pháp tình thế để đ áp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc nội chiến chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chính quyền Xô-viết non trẻ. Tuy nhiên, khi nước Nga Xô-viết bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, chính sách đó đã không còn phù hợp, trở thành lực cản phát triển; gây đình đốn sản xuất; đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng Kinh tế - Xã hội và có nguy cơ khủng hoảng chính trị. Nhận thức được điều đó, bằng trí tuệ và bản lĩnh của những người cộng sản, tháng 3-1921, tại Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ X, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích đã đưa ra một quyết định mang tính lịch sử, đó là thay thế chính sách “Cộng sản thời chiến” bằng “Chính sách kinh tế mới (NEP)”, chuyển trọng tâm của cách mạng vào chăm lo phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện một cuộc cải cách có tính tổng thể về mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần: Phải lùi lại, phải đi đường vòng, bắc những “nhịp cầu nho nhỏ” để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua điều đó, V.I.Lênin đã cho thấy ông là tấm gương mẫu mực trong cuộc đấu tranh vươn lên của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và sự phân rã của Quốc tế, V.I.Lênin đã kiên trì, quyết liệt đấu tranh để từng bước giúp Liên Xô tiến lên Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó, thông qua tìm hiểu tư tưởng của V.I.Lênin, sinh viên chúng ta trực tiếp tiếp nối tư tưởng hiện đại của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa và ra sức phát triển tiếp tục theo tư tưởng ấy. Để kết luận được luận điểm nêu ra, chúng ta có nguyên nhân khách quan như sau: Việc tìm hiểu tư tưởng của V.I.Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, với tất cả các quy luật tác động và chi phối nó, C. Mác đã kết luận: Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực cũng như khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này tạo ra trong mỗi sinh viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ hiểu rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa một cách chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và được phát triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển của xã hội. Và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn nước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như là một sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc tìm hiểu sâu sắc về V.I.Lênin còn giúp sinh viên có năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan điểm trái với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; Kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững trong cuộc đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. 2.2.1.3. Tạo cho SV bản lĩnh, trí tuệ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) thành công, việc xây dựng bộ máy nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới rất là cấp bách. Với V.I.Lênin, để xứng đáng với vị thế là Đảng cầm quyền thì công tác kiểm tra, xây dựng đội ngũ cán bộ mạnh mẽ, tài giỏi rất là quan trọng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I.Lênin cho rằng công tác kiểm tra là một nội dung, phương thức lãnh đạo quan trọng đối với các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước. Khi đã giành được chính quyền, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết là phải tiến hành công tác kiểm tra và xây dựng được tổ chức bộ máy cũng như đội ngũ cán bộ kiểm tra đủ về số lượng; có trình độ, có năng lực và phẩm chất cách mạng, biết vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Những tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra là những bài học có giá trị đối với Đảng Cộng sản Nga và Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng nói riêng. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra các chủ trương về hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Tập trung đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường; Xây dựng và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; Phát huy tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển, kết hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại; Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển; Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trên hết và trước hết trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Việc tìm hiểu V.I.Lênin góp phần xây dựng lý tưởng Cộng sản cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Ở đó, con người được “Tự do, Bình đẳng và Hạnh phúc”. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học MácLênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng Cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu về tư tưởng và cuộc đời của vị lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin, là sinh viên, chúng ta phải tiếp tục phát huy tư tưởng của ông trong việc bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội hiện thực ở nước nhà. Hay ít nhất, mỗi chúng ta cần phải tạo thành bản lĩnh để kiên định vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Kiên định mục tiêu độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội; Kiên định đường lối đổi mới; có ý chí, quyết tâm và khát vọng mãnh liệt vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm nên kỳ tích Việt Nam, với tầm nhìn đưa nước ta trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu như sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại hằng mong muốn. 2.2.2. Hạn chế. 2.2.2.1. Chủ quan. Đa số sinh viên là nhóm xã hội ở các độ tuổi từ 18 - 24, nên việc họ tiếp nhận một tư tưởng mới rất dễ kể cả về tích cực lẫn tiêu cực, dẫn đến những mục đích lẫn lý tưởng dễ bị lệch lạc hay bị nhầm tưởng. Sinh viên còn bị ảnh hưởng và phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan, do công việc của sinh viên là nghiên cứu và học tập nên họ chưa có một chỗ đứng rõ ràng trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như xã hội. Sinh viên không có nhiều thời gian nghiên cứu các vấn đề về chính trị hay cũng như việc nhạy cảm về vấn đề chính trị của sinh viên vẫn làm hạn chế đến sự tìm hiểu ra được đúng mục đích và lý tưởng sống. Vẫn còn thiểu số sinh viên chưa biểu hiện rõ ràng ở khát vọng học tập, nghiên cứu, chuyên cần sáng tạo trong học tập điều này làm hạn chế sự phát huy tính kế thừa tư tưởng của V.I.Lênin. Sinh viên chưa hiểu rõ các vấn đề trong các môn học về nghiên cứu về chính trị, dẫn đến học tủ, học vẹt, tạo ra điểm số ảo và nênd nhận thức rất có thể bị lệch lạc đi so với tư tưởng của V.I.Lênin, làm đất nước càng bị yếu đi về trình độ dân trí sau này. Sinh viên chú trọng nhiều về lợi ích cá nhân: Điều này có thể khiến cho việc lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên. Ảnh hưởng ít nhiều về việc hình thành nhân cách sinh viên. 2.2.2.2. Khách quan. Thế giới ngày càng tiến bộ về mặt công nghệ dẫn đến hiện trạng xuất hiện nhiều cách để các đảng phái khác có thể lôi kéo sinh viên vào các thế giới quan bị nhầm tưởng. Sự minh chứng cho nguyên nhân hoàn cảnh và điều kiện sống của từng thời đại khác nhau dẫn đến cách nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống có thể khác nhau. Các phương tiện để sinh viên được tiếp cận với các chuyên đề hướng dẫn cơ bản để sinh viên hiểu rõ hơn một cách cơ bản nhất vẫn còn hạn chế về mặt thời gian, điều này khiến cho việc các chương trình giáo dục về chính trị của các trường đại học luôn bị cũ đi theo từng năm. Dẫn đến việc sinh viên chỉ coi môn học như là điều kiện để ra trường chứ không còn mang đúng về mặt giáo dục nữa. *Tóm lại: Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của giáo dục triết học cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm chất cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Nhưng vẫn còn gặp nhiều mặt hạn chế đa số về mặt chủ quan -HẾT-