MỞ ĐẦU Chủ nghĩa xã hội là gì và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào là một câu hỏi lớn mà cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp tục phải nghiên cứu làm rõ. Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phát hiện ra xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người và đi đến kết luận rằng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Các ông đã chỉ ra những phương hướng phát triển chủ yếu và những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một chế độ xã hội. Đó là: xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ sở hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển; có một nền đại công nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và kỹ thuật hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản; thực hiện sản xuất có kế hoạch; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất; giải phóng con người khỏi tình trạng bị bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và nô dịch về tinh thần; tạo điều kiện cho con người có thể tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình. Thấy được tính đúng đắn, HCM đã cụ thể hóa và vận dụng chủ nghĩa xã hội một cách phù hợp vào thực tiễn ở VN PHƯƠNG THỨC VÀ NỘI DUNG Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Với phương hướng 1: -Những luận điểm đã rõ: Nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo vệ tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phù hợp thực tế Việt Nam. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Tiêu chí của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của nền kinh tế tri thức vận dụng vào điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ đó làm cho chúng ta còn lúng túng về biện pháp, con đường, điểm đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như xây dựng nền kinh tế tri thức. Chúng ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Trong công nghiệp thì đột phá ngành gì, ưu tiên ngành gì cũng còn lúng túng. Trong nông nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa chọn được khâu đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. - Nguyên nhân hạn chế: Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về kinh tế tri thức; còn cầu toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương hướng này. Với phương hướng 2: -Những luận điểm đã rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu dài mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này đã được nêu ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII của Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Vẫn chưa thống nhất trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là việc cụ thể hóa những đặc trưng này trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn lúng túng trong tổ chức thực hiện. Do vậy, cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu hiện biến tướng phức tạp. - Nguyên nhân hạn chế: Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này còn chậm. Còn những nhóm lợi ích nhóm xấu tìm mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn nữa, đây là mô hình kinh tế mới chỉ có ở nước ta, nên không thể học hỏi kinh nghiệm các nước khác được. Với phương hướng 3: -Những luận điểm đã rõ: Nhận thức toàn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững được khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị. Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách là quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Chế độ phân phối đã thể hiện được tinh thần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa còn chung chung, chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân chưa được nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc chỉ đơn thuần là phủ định. Chưa đề ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam; hệ giá trị con người Việt Nam. Chưa có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học công nghệ; trọng dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở tư tưởng, quan điểm chưa hoặc chậm triển khai trên thực tế. - Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò, vị trí của một số vấn đề văn hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức hết vai trò sức mạnh mềm của văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, còn tâm lý chỉ chú ý lo tăng trưởng GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người. Với phương hướng 4: -Những luận điểm đã rõ: Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm vụ giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu cầu giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên thực tế, phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội luôn gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân với kiên quyết, kiên trì giữa vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Nhận thức lý luận về vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn còn chung chung, chưa cụ thể. Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời sống xã hội của nhân dân gắn với an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân như “Luật biểu tình” chưa được nhận thức giải quyết triệt để, còn các ý kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên nhân chưa giải quyết triệt để vấn đề tụ tập đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá trớn” gây mất trật tự, an toàn xã hội cho người dân. Vấn đề an ninh phi truyền thống chưa được quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về lĩnh vực quốc phòng, an ninh chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những nhận thức và tư duy chiến lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm so với một số nước khác trong khu vực, thậm chí có lúc bị động, còn có biểu hiện chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ chiến lược quốc phòng, an ninh. - Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm những vấn đề liên quan quốc phòng, an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới “né tránh” vấn đề. Với phương hướng 5: -Những luận điểm đã rõ: Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương lĩnh. Từ “sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” chúng ta đã chuyển thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” tức là công tác đối ngoại ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân dân” đã được thay bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Tính tới tháng 9/2018, Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác chiến lược (bao gồm cả 3 đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện nhưng chúng ta chưa có “chiến lược, chương trình, nội dung” cụ thể cho từng đối tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để đột phá về đối ngoại. Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ quyền, cùng thế nào là ưu tiên bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay còn chung chung, chưa rõ. - Nguyên nhân hạn chế: Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình phải dựa vào khi tình hình khó khăn, trong khi bối cảnh thế giới biến động khôn lường. Do vậy, chúng ta còn rất cẩn trọng trong xác định từng đối tác cụ thể trong đối ngoại. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề trên còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Với phương hướng 6: -Những luận điểm đã rõ: Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ xã hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gắn xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở các “dân tộc trong nước”. Lấy điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Cơ chế, phương thức thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra chưa rõ” cho nên việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn hạn chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy cơ quan liêu hóa của các cơ quan này được nhận thức từ sớm nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu, triệt để khắc phục. - Nguyên nhân hạn chế: Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, bằng lòng với kết quả đã có. Chưa tổng kết thực tiễn, xây dựng mô hình thí điểm hoạt động của Mặt trận đoàn kết để tìm ra phương thức hoạt động tối ưu. Chưa quyết liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân dân bầu trực tiếp một số chức danh lãnh đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực hiện trên cả nước. Với phương hướng 7: -Những luận điểm đã rõ: So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân hiệu quả nhất, cũng như phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực tế nhất trong điều kiện hiện nay. Mô hình, cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn chưa rõ, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm rõ. Do vậy, chưa có cơ chế ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước. Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách giản đơn mà không nghiên cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất hợp lý không phù hợp điều kiện Việt Nam. - Nguyên nhân hạn chế: Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận một cách toàn diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học cho việc kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhiều nhưng kết quả rất hạn chế. Với phương hướng 8: -Những luận điểm đã rõ: Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn của cả dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Những luận điểm này phù hợp thực tiễn Việt Nam và được thực tiễn chứng minh là đúng. - Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau: Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được nêu ra từ rất sớm nhưng nội hàm, cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng túng, chưa rõ. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng chưa được làm rõ. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng cũng chưa được nhận thức và giải quyết một cách quyết liệt. Cơ chế ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa” còn chung chung. - Nguyên nhân hạn chế: Chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của xây dựng Đảng về Đạo đức; tổ chức thực hiện trên thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức chưa tốt. Chúng ta tổ chức đấu chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền ,v.v.. trong bộ máy Đảng, chính quyền trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội nhưng hiệu quả không cao, chưa đáp ứng yêu cầu mong mỏi của nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.