Uploaded by Hoàng Trọng Khiêm

NGHIÊN CỨU KHU HỆ CÁ NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở NGÃ BA SÔNG HỒNG

advertisement
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------------------------
NGUYỄN ĐÌNH TẠO
NGHIÊN CỨU KHU HỆ CÁ NHẰM ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ
Ở NGÃ BA SÔNG HỒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
HÀ NỘI – 2010
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-------------------------------
NGUYỄN ĐÌNH TẠO
NGHIÊN CỨU KHU HỆ CÁ NHẰM ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ
Ở NGÃ BA SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60 42 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN HUẤN
HÀ NỘI – 2010
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã
được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều cán bộ, bạn bè và các cơ quan. Qua
đây, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
PGS. TS. Nguyễn Xuân Huấn, người thầy trực tiếp hướng dẫn, truyền
thụ, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm trong nghiên
cứu khoa học.
PGS. TS. Hồ Thanh Hải, Trưởng phòng Sinh thái - môi trường nước đã
tạo điều kiện cho tôi học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, cũng như dìu
dắt, hướng dẫn tôi trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Các thầy cô và cán bộ Khoa Sinh học - trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, ĐHQG Hà Nội đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và cung cấp
cho tôi nguồn tri thức, tài liệu quý giá trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu tại trường.
Ban lãnh đạo Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật; các anh chị đồng
nghiệp tại phòng Sinh thái - môi trường nước, bạn bè và người thân trong
gia đình- những người đã hết lòng quan tâm, khuyến khích, động viên và
giúp đỡ tôi trong thời gian học tập, công tác cũng như thực hiện luận văn
này.
Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2010
Học viên
Nguyễn Đình Tạo
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Bảng 1: Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu vực Ngã ba sông
Hồng
trang
25
Bảng 2: Các thông số thủy lý ở vùng Ngã ba sông Hồng ( 10/2009)
29
Bảng 3: Các thông số thủy hóa ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009)
Bảng 4: Mật độ các nhóm ĐVN ở vùng Ngã ba sông Hồng
Bảng 5: Danh sách các loài cá đã biết ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ
cận
Bảng 6: Cấu trúc thành phần loài cá theo các bộ ở vùng Ngã ba sông
Hồng
30
33
35
42
Bảng 7: Danh sách các loài cá kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ
cận
46
Bảng 8: Gía bán một số loài cá kinh tế (09/ 2009)
Bảng 9: Sự phân bố kích thước cá Mòi cờ hoa theo nhóm chiều dài
47
Bảng 10: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư trên
sông Hồng
51
Bảng 11: Hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi theo Fulton
(1902)
Bảng 12: Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa di cư theo
nhóm tuổi
Bảng 13: Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên sông Hồng
52
Bảng 14: Bãi đẻ một số loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế ở vùng Ngã
ba sông Hồng và vùng phụ cận
Bảng 15: Lực lượng lao động tham gia khai thác cá trên sông Hồng
4
49
53
54
57
64
DANH LỤC CÁC HÌNH
Tên hình
Hình 1: Sơ đồ vùng nghiên cứu
Hình 2: Tỷ lệ các nhóm TVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
trang
17
31
Hình 3. Tỷ lệ các nhóm ĐVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
33
Hình 4: Tỷ lệ các nhóm ĐVĐ vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
Hình 5: Số loài cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
Hình 6: Tỷ lệ loài của các bộ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
34
41
43
48
Hình 7: Thành phần các nhóm loài trong khu hệ cá vùng nghiên cứu
Hình 8: Đường cong phân bố của các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di
cư.
Hình 9: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư trên
sông Hồng
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐVKXS
BTTN
DD
ĐHTH
ĐTM
ĐVĐ
ĐVN
EN
EW
GHCP
NCHS
NN&PTNT
QCMT
QCVN
STTNSV
TP
TVN
UBND
VQG
VU
Động vật không xương sống
Bảo tồn thiên nhiên
Thiếu dẫn liệu
Đại học Tổng hợp
Đánh giá tác động môi trường
Động vật đáy
Động vật nổi
Rất nguy cấp
Tuyệt chủng ngoài tự nhiên
Giới hạn cho phép
Nghiên cứu Hải sản
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Quy chuẩn môi trường
Quy chuẩn Việt Nam
Sinh thái Tài nguyên sinh vật
Thành phố
Thực vật nổi
Ủy ban nhân dân
Vườn Quốc Gia
Sẽ nguy cấp
5
50
52
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................... 11
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ NƯỚC NGỌT VIỆT NAM .................................. 11
1.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945............................................................... 11
1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến nay ................................................................................. 11
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG HỒNG ......................... 13
1.2.1. Sơ lược về hệ thống sông Hồng ...................................................................... 13
1.2.2. Tình hình nghiên cứu khu hệ cá ...................................................................... 15
1.2.3. Nguồn lợi cá lưu vực sông Hồng .................................................................... 16
1.3. VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG VÀ PHỤ CẬN .................................................. 17
1.3.1. Vị trí địa lý ...................................................................................................... 17
1.3.2. Tình hình nghiên cứu cá ................................................................................. 18
1.3.2.1. Khu hệ cá sông Lô – Gâm - Chảy ........................................................ 18
1.3.3.2. Khu hệ cá sông Đà .............................................................................. 19
1.3.3.3. Khu hệ cá sông Hồng – sông Thao ..................................................... 20
1.3.3. Những vấn đề còn tồn tại ................................................................................ 21
Chương 2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................... 23
2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ....................................................... 23
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................................... 23
2.1.2. Thời gian nghiên cứu ...................................................................................... 25
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU ....................................... 25
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 25
2.2.2. Nguồn tài liệu.................................................................................................. 25
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 25
2.3.1. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu vật ........................................................ 25
2.3.2. Phương pháp phân tích và định loại................................................................ 26
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 28
3.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU
....................................................................................................................................... 28
3.1.1. Đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên ........................................................... 28
3.1.1.1. Đặc điểm địa lý .................................................................................... 28
3.1.1.2. Đặc điểm khí hậu ................................................................................. 28
3.1.1.3. Đặc điểm thuỷ văn ............................................................................... 29
3.1.2. Đặc điểm kinh tế -xã hội của các huyện thị ven lưu vực Ngã ba sông. .......... 31
3.1.2.1. Dân số .................................................................................................. 31
3.1.2.2. Cơ cấu ngành nghề và tình hình phát triển kinh tế .............................. 32
3.1.2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế ..................................................................... 34
3.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ THUỶ SINH VẬT ...................................... 35
3.2.1. Đặc điểm thuỷ lý ............................................................................................. 35
3.2.2. Đặc điểm thuỷ hoá .......................................................................................... 36
3.2.3. Đặc trưng về thuỷ sinh vật .............................................................................. 37
3.2.3.1. Thực vật nổi (Phytoplankton) .............................................................. 37
3.2.3.2. Thực vật bám đáy (Periphyton) ........................................................... 39
3.2.3.3. Động vật nổi (Zooplankton)................................................................. 39
6
3.2.3.4. Động vật đáy (Zoobenthos) ................................................................. 40
3.3.
ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ CÁ ................................................................................ 42
3.3.1. Đặc trưng về thành phần loài .......................................................................... 42
3.3.2. Đặc trưng về cấu trúc khu hệ cá...................................................................... 48
3.3.3. Các loài cá quý hiếm, nằm trong Sách Đỏ Việt Nam ..................................... 50
3.3.4. Các loài cá có giá trị kinh tế............................................................................ 52
3.3.4.1. Danh sách các loài cá kinh tế ............................................................... 52
3.3.4.2. Gía trị kinh tế ....................................................................................... 54
3.3.5. Đặc tính sinh học của cá Mòi cờ hoa. ............................................................. 55
3.3.6. Các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống ................................................ 61
3.3.6.1. Nơi cư trú ........................................................................................... 61
3.3.6.2. Các bãi đẻ, bãi giống ........................................................................... 63
3.4. HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở
VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG .................................................................................. 68
3.4.1. Hiện trạng nghề cá và nguồn lợi thuỷ sản....................................................... 68
3.4.1.1. Thời vụ - đối tượng khai thác .............................................................. 68
3.4.1.2. Ngư cụ khai thác ................................................................................. 69
3.4.1.3. Sản lượng, năng suất ............................................................................ 70
3.4.1.4. Nghề cá và những khó khăn của cộng đồng ngư dân ......................... 70
3.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi cá ..................................................... 73
3.4.2.1. Tác động từ việc xây dựng các công trình thuỷ điện ........................... 73
3.4.2.2. Ảnh hưởng từ phát triển công nghiệp .................................................. 74
3.4.2.3. Do khai thác nguồn lợi quá mức .......................................................... 74
3.4.2.4. Do nhận thức về hiện trạng và bảo vệ nguồn lợi còn hạn chế ............. 75
3.4.3. Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá ..................................................... 77
3.4.3.1. Bảo tồn đa dạng cá ............................................................................... 77
3.4.3.2. Khai thác hợp lý nguồn lợi cá. ............................................................. 78
3.4.3.3. Nâng cao năng suất sinh học cá ........................................................... 79
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 83
Kết luận ......................................................................................................................... 83
Kiến nghị....................................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 85
Tài liệu tiếng Việt ......................................................................................................... 85
Tài liệu tiếng Anh ......................................................................................................... 91
7
MỞ ĐẦU
Việt Nam có diện tích mặt nước ngọt nội địa rất lớn, bao gồm nhiều
loại thuỷ vực, trong đó có khoảng 2360 con sông lớn nhỏ, nhiều ao, hồ tự
nhiên và nhân tạo. Những thuỷ vực này cung cấp nguồn thuỷ sản chính phục
vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ở các loại thuỷ vực Việt Nam đã
biết khoảng 782 loài ĐVKXS ở nước ngọt và từ biển di nhập vào, 544 loài
cá nước ngọt với nhiều loài có giá trị kinh tế [8], [21], [34]. Hiện nay, nguồn
lợi thuỷ sản bị khai thác quá mức, đang bị suy thoái nhanh. Mặc dù đã áp
dụng nhiều biện pháp bảo vệ khác nhau nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả.
Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn thứ 2 ở Việt Nam (chỉ sau
hệ thống sông Mekong). Trên hệ thống sông Hồng, vùng nước Ngã ba sông
Hồng là khu vực hợp lưu của các dòng sông lớn như sông Đà, sông Thao và
sông Lô - Gâm. Vị trí hợp lưu này nằm ở Việt Trì, Phú Thọ là đỉnh của tam
giác châu đồng bằng bắc Bộ [21], [34], [35], [40]. Do các sông này có chế
độ thuỷ văn và đặc tính môi trường nước khác nhau, nên khi hợp lưu tại
vùng Ngã ba Việt Trì, đặc tính thuỷ văn và môi trường có nhiều xáo trộn,
biến đổi. Mặt khác, khu vực này được xem là nơi cư trú, nơi phân bố kiếm
mồi, đồng thời là bãi đẻ, bãi giống của của nhiều loài thuỷ sinh, đặc biệt
trong đó, có nhiều loài cá quý, hiếm, có giá trị kinh tế được ghi trong Sách
Đỏ Việt Nam (2007) như cá Lăng, cá Chiên, Rầm xanh, Anh vũ, cá Mòi cờ
hoa, cá Cháy, cá Măng,... [4], [5], [6].
Vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận từ lâu được xem là thuỷ
vực quan trọng, cung cấp nguồn thực phẩm hàng ngày cho con người, đồng
thời cũng được xem là một trong những thành phần tạo nên nguồn tài
nguyên đa dạng sinh học của Việt Nam. Tiềm năng thủy sản tự nhiên ở khu
vực này rất lớn, đồng thời nghề khai thác thủy sản trên sông đã có truyền
8
thống từ lâu đời. Nhiều khu vực sông ở đây, nghề khai thác thủy sản đã trở
thành nghề chính, thu hút nhiều lao động.
Thời gian gần đây, do áp lực gia tăng dân số, việc khai thác nguồn lợi
thuỷ sản ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận với cường độ ngày càng cao.
Mặt khác, trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh chóng,
nhiều nhà máy, xí nghiệp phát triển trên vùng lưu vực, xả các chất thải chưa
qua xử lý ra sông, nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là xây
dựng các đập thuỷ điện, thuỷ lợi, hồ chứa trên các sông, đã có những ảnh
hưởng nhất định tới môi trường sống, đa dạng thuỷ sinh vật, nguồn lợi thuỷ
sản và hệ sinh thái sông ở khu vực này.
Với những lí do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu khu hệ
cá nhằm đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá ở ngã ba sông Hồng"
nhằm điều tra, nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc khu hệ và nguồn lợi cá,
đặc biệt là các loài cá quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng Ngã ba sông
Hồng, từ đó đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá.
Mục đích của đề tài:
¾ Xác định thành phần loài cá, cấu trúc phân loại trong khu hệ cá vùng
Ngã ba sông Hồng và các loài cá quý hiếm, các loài cá kinh tế.
¾ Nghiên cứu đặc điểm sinh học của một loài cá kinh tế quan trọng.
¾ Xác định các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi cá giống có trong
vùng Ngã ba sông Hồng.
¾ Đánh giá hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá ở vùng Ngã ba sông Hồng.
¾ Đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi và phát triển nguồn lợi cá.
9
Nội dung nghiên cứu của đề tài:
¾ Thành phần loài cá, cấu trúc phân loại khu hệ cá và các loài cá quý
hiếm, có giá trị kinh tế.
¾ Đặc điểm sinh học của loài một loài cá tiêu biểu.
¾ Nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống của các loài cá.
¾ Hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá.
¾ Các giải pháp để bảo vệ, phục hồi và phát triển nguồn lợi cá, các loài
cá quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao.
10
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ NƯỚC NGỌT VIỆT NAM
1.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945
Việc nghiên cứu phân loại cá ở Việt Nam được thực hiện từ khá sớm, từ
năm 1881 của Sauvage trong tập "Nghiên cứu về khu hệ cá Á Châu và mô tả
một số loài mới ở Đông Dương" đã thống kê 139 loài cá chung cho toàn
Đông Dương và mô tả 2 loài mới ở Miền Bắc Việt Nam, sau đó là Tirant
(1883) công bố và mô tả 70 loài cá ở sông Hương (Thừa Thiên Huế) trong
đó có 5 loài mới, Sauvage (1884) thu thập 10 loài, trong đó mô tả 7 loài mới
ở Hà Nội; Vaillant (1881-1904) thu thập 6 loài, trong đó mô tả 4 loài mới ở
Lai Châu; Chevey (1930 -1937); Pellegrin và Chevey (1934-1941). Năm
1937, công trình "Góp phần nghiên cứu các loài cá nước ngọt Bắc Bộ Việt
Nam" của Chevey và Lemasson đã giới thiệu 98 loài cá thuộc 71 giống, 17
họ và 10 bộ cá ở miền Bắc Việt Nam. Đây là công trình lớn và có giá trị nhất
về khu hệ cá nước ngọt thời kỳ này [8], [25], [65].
Như vậy có thể coi thời kỳ này, công tác nghiên cứu cá chủ yếu do các
tác giả nước ngoài tiến hành. Các nghiên cứu ở giai đoạn này mới chỉ dừng
lại ở mức mô tả, thống kê thành phần loài. Các nghiên cứu về sinh học và
nguồn lợi cá chưa được thực hiện.
1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến nay
Do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954) công
tác nghiên cứu cá bị gián đoạn. Phải đến tận khi miền Bắc hoàn toàn giải
phóng (1954), công tác nghiên cứu cá mới lại được tiếp tục. Thời kỳ này chủ
yếu do các nhà khoa học Việt Nam tiến hành [8], [26], [27].
Thời kỳ 1955- 1975: các công tác điều tra về cá ở miền Bắc do các cơ
quan như Trạm nghiên cứu cá nước ngọt thuộc Tổng Cục thuỷ sản, Khoa
11
Sinh vật trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Thủy sản thực
hiện. Các nghiên cứu này đã tiến hành điều tra ở hầu hết các vùng sinh thái
như Đông Bắc, Tây Bắc và Khu bốn cũ; ở các loại hình vực nước khác nhau
như sông, suối, hồ chứa, hồ tự nhiên, ao, đầm ruộng... Ở các vùng sâu, vùng
xa như Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Móng Cái, Quảng Bình còn khá
nhiều điểm chưa được điều tra. Các công trình tiêu biểu gồm: Dẫn liệu sơ bộ
ngư giới sông Bôi (1959), dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia (1960) của Đào
Văn Tiến, Mai Đình Yên; Điều tra nguồn lợi sinh vật Hồ Tây của Đặng
Ngọc Thanh, Mai Đình Yên (1961); Sơ bộ điều tra thành phần, nguồn gốc và
phân bố của chủng quần cá sông Hồng của Mai Đình Yên( 1962) [17], [53].
Các công trình nghiên cứu ở Miền Nam thời kỳ này phải kể đến nghiên
cứu của các tác giả như Trần Ngọc Lợi, Nguyễn Cháu (1964), Fourmanvir
(1965), Yamamura (1966), Kawamoto, Nguyễn Viết Trương, Trần Tuý Hoa
(1972), Taki (1975) [29].
Các công trình nghiên cứu về sinh học và sinh thái học cũng được
nghiên cứu, tiêu biểu như Đào Văn Tiến, Mai Đình Yên (1960) mô tả hình
thái, sinh học, kinh tế cá Mòi sông Hồng; Sinh thái cá Ngạnh sông Lô của
Nguyễn Dương (1963); Hình thái sinh học cá Mè trắng của Phan Trọng Hậu,
Mai Đình Yên, Trần Tới (1963); Nghiên cứu đặc điểm và sinh học cá Mòi di
cư vào sông Hồng của Vũ Trung Tạng (1991) [25].
Công tác điều tra nguồn lợi và nghề cá thời kỳ này cũng được tiến hành
chủ yếu trên sông Hồng (Trần Công Tam, 1959); Ý nghĩa kinh tế ngư giới
sông Hồng (Mai Đình Yên, 1963); Nguồn lợi cá hồ Ba Bể (Nguyễn Văn
Hảo, 1964); Nguồn lợi thuỷ sản của sông Lạch Trường và sông Mã (Nguyễn
Anh Tạo, 1964) [31].
Thời kỳ từ 1975 đến nay, các điều tra khu hệ cá đã tiến hành mở rộng
đến hầu hết các điểm trắng mà thời kỳ trước chưa có điều kiện điều tra. Các
12
kết quả tiêu biểu thời kỳ này có thể kể như: Thành phần loài cá sông Hương
của Nguyễn Hữu Dực (1982) [14]; Khu hệ cá sông Lam của Nguyễn Thái
Tự [58]; Thành phần loài cá các sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vệ,
sông Côn, sông Ba, sông Cái của Nguyễn Hữu Dực, 1995 [13], [14]; Mai
Đình Yên và nnk (1992) [64] nghiên cứu thành phần loài cá các sông Tiền,
Hậu, Vàm Cỏ, Sài Gòn, Đồng Nai; Nghiên cứu thành phần loài cá một số
sông suối của Tây Nguyên của Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Dực (1994)
[13]; Võ Văn Phú (1995) [36], [37] nghiên cứu thành phần loài cá đầm phá ở
Thừa Thiên Huế,...
Các công trình tổng hợp các nghiên cứu qua các thời kỳ được công bố
là: Định loại cá nước ngọt phía Bắc Việt Nam của Mai Đình Yên (1978)
[65]; Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ của Mai Đình Yên và nnk
(1992) [64]; Định loại cá nước ngọt vùng ĐBSCL của Trương Thủ Khoa và
Trần Thị Thu Hương (1993). Đặc biệt công trình có tính chất tổng kết các
kết quả nghiên cứu từ trước đến nay là "Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam" của
Bộ Thuỷ sản (1996) [8], với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong và
ngoài ngành Thuỷ sản. Theo kết quả của nghiên cứu này, khu hệ cá nước
ngọt Việt Nam có gồm 544 loài thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ.
Về đặc trưng phân bố và đặc điểm địa động vật của cá nước ngọt Việt
Nam có nghiên cứu của các tác giả như Mai Đình Yên (1973); Nguyễn Thái
Tự (1983), Mai Đình Yên và Nguyễn Hữu Dực (1991), Nguyễn Văn Hảo
(1993, 1998), Nguyễn Hữu Dực (1995) [14], [58].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG HỒNG
1.2.1. Sơ lược về hệ thống sông Hồng
Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn nhất ở miền Bắc và đứng thứ
2 của Việt Nam sau hệ thống sông Mekong. Sông Hồng bắt nguồn từ dãy
13
Nguỵ Sơn, Vân Nam (Trung Quốc), chảy vào Việt Nam ở Hà Khẩu với
chiều dài dòng chính là 1.126 km (đoạn ở Việt Nam dài 510 km). Diện tích
toàn lưu vực là 145.965 km2, riêng ở Việt Nam là 70.722 km2 (chiếm 42,6%
diện tích toàn Miền Bắc) [34], [35], [40].
Mực nước mùa cạn trung bình là 2,8 m; vào mùa lũ là 9 m (tại Hà Nội).
Mực nước tối đa lên đến 14,1 m (8/1945) và tối thiểu xuống đến 1,76 m
(1956). Đầu năm 2010, mực nước sông Hồng xuống thấp chỉ còn 0,9 mthấp nhất trong vòng 100 năm qua [34], [49].
Lưu lượng trung bình nhiều năm ở Sơn Tây là 3.880 m3/s; vào mùa cạn
là 1.610 m3/s; mùa lũ là 7.020 m3/s. Lưu lượng tối thiểu có năm xuống tới
840 m3/s (29/4/1940) và tối đa lên đến 32.550 m3/s (19/8/1945).
Tổng lượng nước trung bình nhiều năm là 122.109 m3, trong đó sông Đà
cung cấp 48 %, sông Lô 27 %, sông Thao 25 %. Mùa lũ (tháng 6-10) chiếm
74,4 % tổng lượng nước, riêng tháng 8 chiếm 21 %. Mùa cạn (tháng 11-5)
chiếm 25,6 %, riêng tháng 3 chỉ có 2,6 %. Tổng lượng nước tối đa là
158,4.109 m3 (năm 1929) và tối thiểu là 68,4.109 m3 (năm 1906).
Sông Đà là một phụ lưu lớn của sông Hồng. Chiều dài dòng chảy trên
lãnh thổ nước ta là 540 km với diện tích toàn lưu vực là 52.000 km2 (bằng
1/3 diện tích lưu vực sông Hồng). Tổng lượng nước sông Đà gần bằng 1/2
của hệ thống sông Hồng, còn mùa lũ sông Đà chiếm đến 55 % tổng lượng lũ
của hệ thống sông Hồng.
Các phân lưu chính của sông Hồng là sông Đáy, sông Đuống, sông
Luộc, Trà Lý, sông Đào và sông Ninh Cơ. Vào mùa lũ, sông Đuống nhận
20-30 % lượng nước sông Hồng (tại Sơn Tây); sông Luộc 10-11 %, Trà Lý
11-12 %, sông Đào 20-27%, Ninh Cơ 8 %. Như vậy sông Hồng đổ ra của Ba
Lạt khoảng 20-40% [34], [49].
14
Hệ thống sông Thái Bình có tổng lượng nước bình quân năm tại Phả
Lại là 8,26 km3 ứng với lưu lượng bình quân là 318 m3/s và modun dòng
chảy năm là 25,2 l/s/km2. Tổng lượng phù sa 1,1 triệu tấn/năm. Hằng năm,
vào mùa lũ, hệ thống sông Thái Bình nhận từ sông Hồng khoảng 32% lượng
nước (tại Sơn Tây) và 27.106 tấn phù sa (Trần Tuất, Nguyễn Đức Nhật,
1980) [49].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu khu hệ cá
Các nghiên cứu về khu hệ cá các sông, suối thuộc hệ thống sông Hồng
đã được điều tra nghiên cứu từ rất sớm và khá đầy đủ do các cán bộ khoa
học thuộc Tổng cục Thuỷ sản trước đây, các Viện nghiên cứu, các trường
Đại học trong nước và một số chuyên gia nghiên cứu của nước ngoài. Các
công trình nghiên cứu tiêu biểu có thê kể như: Dẫn liệu sơ bộ ngư giới sông
Bôi; Dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia của Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên
(1959, 1960); Sơ bộ điều tra thành phần nguồn gốc và phân bố của chủng
quần cá sông Hồng của Mai Đình Yên (1962); Kết quả điều tra nguồn lợi cá
sông Thao của Hoàng Duy Hiệp và Nguyễn Văn Hảo (1964); Mô tả hình
thái, sinh học, giá trị kinh tế của cá Mòi sông Hồng của Đào Văn Tiến và
Mai Đình Yên (1960); Sinh học cá Ngạnh sông Lô của Nguyễn Dương
(1963); Phan Trọng Hậu, Mai Đình Yên, Trần Tới (1963) nghiên cứu về
hình thái sinh học cá Mè trắng sông Hồng; Hoàng Đức Đạt (1964) nghiên
cứu về hình thái một số loài cá ở sông Lô – Gâm; Mai Đình Yên (1964)
nghiên cứu về đặc điểm sinh học một số loài cá trên sông Hồng; Mai Đình
Yên, Đoàn Văn Đẩu (1966) nghiên cứu đặc điểm sinh học một số loài cá
ruộng ở đồng bằng miền Bắc Việt Nam; Vũ Trung Tạng (1991) nghiên cứu
về đặc điểm và sinh học cá Mòi di cư vào sông Hồng [26].
15
Gần đây có các công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo, Võ Văn
Bình (1999) [28] nghiên cứu thành phần và phân bố cá sông Lô. Nguyễn
Văn Hảo, nghiên cứu thành phần loài, phân bố nguồn lợi cá ở sông Đà.
Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Chiến
(2001) đã nghiên cứu khu hệ cá sông Đà thuộc 2 tỉnh Lai Châu và Sơn La
[15], [30].
Thuộc hệ thống sông Hồng, thống kê từ các kết quả nghiên cứu cho
thấy thành phần các loài cá của các sông như sau: sông Đà 129 loài, sông
Gâm 107 loài, sông Năng 32 loài, sông Chảy 43 loài, sông Thao 100 loài,
sông Đáy 78 loài, sông Châu Giang 30 loài, sông Ninh Cơ 84 loài, sông Thái
Bình 107 loài, sông Lạch Tray có 31 loài, sông Cầu 95 loài. (Vũ Trung
Tạng, 2008) [49].
1.2.3. Nguồn lợi cá lưu vực sông Hồng
Nguồn lợi cá hệ thống sông Hồng mang tính nhiệt đới gió mùa, phong
phú về thành phần loài, nhưng năng suất và sản lượng thấp [8].
Về điều kiện đặc điểm tự nhiên của hệ thống sông Hồng khác với sông
Mekong là có hệ thống đê dọc theo hai bên bờ để ngăn lũ, gây lụt lội ở vùng
đồng bằng. Do đó sự liện hệ giữa sông và đồng không có sự lưu thông tự do,
nên nguồn nước và cá ở sông và đồng chỉ giao lưu với nhau qua hệ thống
cống và hệ thống các trạm bơm điều tiết nước suốt dọc theo hai ven sông.
Dựa theo đặc điểm tự nhiên và sinh thái học có thể chia nguồn lợi cá lưu vực
sông Hồng thành các khu hệ sau:
Khu hệ cá sông gồm 216 loài của 125 giống và 30 họ, chủ yếu các loài
trong họ cá Chép và bộ cá Nheo có khoảng hơn 40 loài cá kinh tế. Sản lượng
cá sông Hồng ước tính khoảng 1.200 tấn/ năm (Mai Đình Yên, 1963, 1991)
bao gồm các nhóm:
16
- Các loài cá di cư vào sông (cá Mòi, cá Cháy, cá Lành canh,...) khoảng
650 tấn.
- Nhóm cá Da trơn: 140 tấn.
- Nhóm cá nuôi: Mè, Trôi, Trắm đến 100 tấn.
- Các loài trong họ cá Chép: 200 tấn.
- Các loài cá tự nhiên khác: 50 tấn
Khu hệ cá đồng gồm có 33 loài, chủ yếu là nhóm cá đen như cá Qủa, cá
Chuối hoa, cá Rô, cá Trê, Lươn và các loài cá thuộc họ cá Chép,...Sản lượng
ước tính khoảng 2000 tấn/năm.
Khu hệ cá đầm hồ: Ở các đầm hồ lớn khoảng gần 100 loài, hồ trung
bình có khoảng 50-60 loài, hồ nhỏ có khoảng 20-30 loài. Khu hệ cá đầm hồ
chủ yếu là cá có kích thước lớn, tuổi thọ cao, gồm nhiều nhóm tuổi khác
nhau. Sản lượng cá ở các hồ tự nhiên chủ yếu là cá tầng đáy và ăn tạp, còn ở
các hồ chứa chủ yếu là cá ăn nổi, mùn bã hữu cơ,...
Sản lượng cá hàng năm ở lưu vực sông Hồng khai thác tự nhiên khoảng
4.000 tấn cá nước ngọt (Mai Đình Yên, 1994). Tiềm năng cá nước ngọt khai
thác tự nhiên trước đây là 5.000 tấn/năm, nay giảm đến mức báo động, chỉ
còn khoảng 1.000 tấn/năm và 100-200 triệu cá bột/năm (Viện Quy hoạch
thuỷ sản, 1992). Về kết cấu sản lượng cá nội địa ở đồng bằng sông Hồng từ
năm 1986 – 1990 biến động từ 35.497 - 45.782 tấn/năm, trung bình 39.384
tấn /năm, chiếm từ 42,41-53,7% tổng sản lượng vùng [7].
1.3. VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG VÀ PHỤ CẬN
1.3.1. Vị trí địa lý
Vùng Ngã ba sông Hồng nằm ở khu vực ngã ba của các sông Đà, sông
Lô và sông Thao. Khu vực này có 2 chỗ hợp lưu cách nhau khoảng 10km: 1)
chỗ hợp lưu sông Đà - sông Thao, sau đó gọi là sông Hồng và 2) chỗ hợp
17
lưu giữa sông Hồng - sông Lô. Sau hai chỗ hợp lưu này được gọi là sông
Hồng tiếp tục chảy xuôi về hạ lưu và đổ ra biển Đông ( xem hình 1).
Phía bắc khúc sông giữa 2 chỗ hợp lưu là tỉnh Phú Thọ (TP. Việt Trì và
huyện Lâm Thao), phía nam là Hà Nội (huyện Ba Vì). Khúc sông Đà, phía
tây giáp tỉnh Phú Thọ (các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn), phía
đông giáp Ba Vì, Hà Nội. Khúc sông Lô nằm giữa 2 tỉnh Phú Thọ (Phong
Châu) và Vĩnh Phúc (Lập Thạch). Khúc sông Hồng, phía đông giáp với tỉnh
Vĩnh Phúc (huyện Vĩnh Tường), phía tây giáp Hà Nội (huyện Ba Vì).
1.3.2. Tình hình nghiên cứu cá
1.3.2.1. Khu hệ cá sông Lô – Gâm - Chảy
Trong các sông trên, sông Chảy bắt đầu được nghiên cứu sớm từ
những năm 1962-1966 để phục vụ cho quy hoạch xây dựng hồ thuỷ điện
Thác Bà (Đoàn điều tra Viện Thuỷ sản Đình Bảng và ĐHTH Hà Nội, Trần
Văn Vỹ và nnk, 1971) [60]. Các nghiên cứu liên tục hồ Thác Bà từ 19711975 của Viện Thuỷ sản Đình Bảng ( Nguyễn Hữu Tường, 1985). Nghiên
cứu hồ Thác Bà sau 20 năm sử dụng của Viện STTNSV (Hồ Thanh Hải và
nnk, 1993,1997) [18].
Các nghiên cứu về thủy sinh học nghề cá ở sông Gâm (khu vực Na
Hang - Tuyên Quang) phục vụ cho lập báo cáo ĐTM nhà máy thủy điện Na
Hang và chương trình động vật chí dược thực hiện bởi Hồ Thanh Hải và nnk
(1998, 2000). Năm 2000, Hồ Thanh Hải và nnk đã nghiên cứu thủy sinh học
nghề cá sông Chảy (khu vực Lào Cai, Hà Giang) trong ĐTM nhà máy thủy
điện Na Le [19].
Về thành phần loài, theo Nguyễn Kiêm Sơn (2001) [44], khu hệ cá
sông Gâm, sông Năng chảy từ phía hồ Ba Bể ra sông Lô ở khu vực Na Hang
có 73 loài. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và Võ Văn Bình
18
(1999) [28] ở sông Gâm cho biết, từ Bắc Mê có 52 loài cá, xuống đến đoạn
sông Gâm ở thị trấn Na Hang có 87 loài và xuôi dòng xuống thị xã Tuyên
Quang (sông Lô) có 70 loài. Ngô Sỹ Vân (2007) [59] có nêu khu hệ cá sông
Chảy ở vùng Lào Cai - Yên Bái có 112 loài, sông Lô - Gâm ở vùng Hà
Giang – Tuyên Quang có 41 loài.
Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, qua thời gian, đã có sự thay đổi cấu
trúc thành phần loài cá. Các loài cá của họ cá Trích, cá Trỏng, cá Ngần, cá
Bơn, cá Nóc bắt gặp trong thời kỳ 1962 - 1965 thì nay không gặp trên sông
Lô và sông Gâm (Tuyên Quang). Các loài cá kinh tế nhập nội như Mè trắng,
Mè hoa, Trắm cỏ, cá Rôhu và Mrigan, Rô phi trở nên chiếm ưu thế trong khi
các loài cá bản địa ngày càng suy giảm. Trên sông Gâm, cá Chiên, cá Lăng,
Anh vũ, cá Bỗng vẫn còn tương đối nhiều. Tổng kết các tư liệu đã ghi nhận
được trên sông Lô - Gâm có 189 loài cá thuộc 26 họ, 11 bộ, trong đó có tới
16 loài thuộc diện cá quý hiếm đang bị đe dọa hoặc đã biến mất (Nguyễn
Kiêm Sơn, 2005) [41].
1.3.3.2. Khu hệ cá sông Đà
Khu hệ cá sông Đà được chú ý nghiên cứu từ rất sớm: Vaillant (1891),
Norman (1925), Pellegrin và Chevey (1935, 1936), Chevey và Lemasson
(1937), Nguyễn Văn Hảo và Đoàn Thị Hoa (1969). Các công trình nghiên
cứu phục vụ cho quy hoạch xây dựng thuỷ điện Hoà Bình được thực hiện
bởi Đoàn điều tra Viện Thuỷ sản Đình Bảng và ĐHTH Hà Nội ( Mai Đình
Yên và nnk, 1985). Tiếp theo đó, năm 1987-1988, Viện STTNSV đã điều tra
khảo sát thủy sinh học sông Đà trước khi hình thành công trình thuỷ điện
Hoà Bình. Nghiên cứu Thủy sinh học, nghề cá vùng lưu vực sông Đà còn có
Đề tài Nhà nước KC.08.04 của Viện STTNSV [20]. Ngoài ra, có nhiều khảo
sát về thủy sinh vật và nghề cá trên sông Đà ở khu vực thượng lưu hồ Hòa
19
Bình để lập các báo cáo ĐTM các công trình thủy điện ở đây như Sơn La,
Lai Châu...do Viện STTNSV thực hiện [19].
Về thành phần loài cá ở sông Đà đã có một số công trình nghiên cứu
như: Kết quả khảo sát nguồn lợi và nghề cá trên sông Đà của Nguyễn Văn
Hảo (1964), Huỳnh Văn Nguyên (1972) đã thống kê được 123 loài cá thuộc
79 giống, 19 họ. Mai Đình Yên, Phạm Ngọc Luận khảo sát khu hệ cá sông
Đà tại Lai Châu (1970), Tạ Khoa (1963) và Hoà Bình (1969) đã thu được 80
loài. Nguyễn Văn Hảo (1996-1998) đã khảo sát 4 điểm trên sông Đà thu
được 129 loài cá. Gần đây, Nguyễn Thị Hoa (2001) khảo sát sông suối của
hai tỉnh Sơn La, Lai Châu đã thống kê và thu thập tổng cộng được 177 loài
[30]. Ngô Sỹ Vân (2007) có nêu khu hệ cá sông Đà ở vùng Lai Châu - Sơn
La - Hoà Bình có 137 loài [59].
1.3.3.3. Khu hệ cá sông Hồng – sông Thao
Từ 1959-1960 đã có nghiên cứu bước đầu về khu hệ cá tại Ngòi Thia,
trên sông Hồng tại Yên Bái của Mai Đình Yên (1959), từ đó phát hiện một
số bãi đẻ trứng của loài cá Cháy (Hilsa reeversii). Sau đó, Hồ Thế Ân và
nnk. (1971) đã nghiên cứu một số đặc tính sinh học của loài cá Cháy tham
gia di cư đẻ trứng trên sông Hồng [2]. Các tác giả cũng xác định một số bãi
đẻ trứng chính của loài cá Cháy trên sông Hồng, sông Đà. Trên dòng chính
sông Hồng ở gần Hà Nội, đã có một số nghiên cứu hình thái cá bột, đặc
điểm sinh học một số loài cá kinh tế (Mai Đình Yên và nnk., 1971), cá Mòi
(Vũ Trung Tạng, 1971). Gần đây, trong "Nghiên cứu xây dựng các giải pháp
khôi phục, bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá Mòi cờ hoa (Clupanodon
thrissa, Linnaeus 1758) ở vùng biển Việt Nam" do Viện NCHS Hải Phòng
(2008) thực hiện cũng đã nghiên cứu nguồn lợi cá Mòi cờ trên hệ thống sông
Hồng [1], [32]
20
Cũng đã có một số nghiên cứu về thành phần loài cá ở sông Hồng sông Thao. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kiêm Sơn và nnk (2001)
khu hệ cá tại khu vực Ấm Thượng và Ao Châu, Hạ Hoà có 49 loài cá, trong
đó khu hệ cá sông Thao ở khu vực Ấm Thượng, Hạ Hoà là 37 loài. Ngô Sỹ
Vân (2007) có nêu khu hệ cá ở dòng chính sông Hồng từ Lào Cai – Yên Bái
– Phú Thọ – Vĩnh Phúc – Hưng Yên – Nam Định có 205 loài [41], [59].
Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu của Mai Đình Yên (1971, 1978,
1992, 1994); Vũ Trung Tạng (1971, 1975, 1976, 1988, 1994); Hồ Thế Ân
(1971); Phan Trọng Hậu (1971) ở khu hệ cá sông Hồng và vùng đồng bằng
sông Hồng đã thống kê được 102 loài, trong đó khu hệ cá sông Hồng 75 loài
(Nguyễn Kiêm Sơn, 1999) [41].
Về nguồn lợi cá, theo điều tra nghiên cứu về hiện trạng và biện pháp
bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng
trên hệ thống sông Hồng của Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng,
Nguyễn Công Thắng (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I) cho biết: có 4
loài cá quý hiếm là: Cá Lăng chấm (Hemibagrus gutattus Lacepede, 1803),
cá Chiên (Bagarius yarrelli Sykes, 1839), cá Bỗng (Spinibarbichthys
denticulatus Oshima, 1926) và cá Anh vũ (Semilabeo obscous Lin., 1981)
đang có nguy cơ tuyệt chủng, cần được bảo vệ. Sản lượng khai thác của 4
loài cá này đã giảm xuống, chỉ bằng 10-15% sản lượng những năm 1970,
1980; trong đó cá Bỗng chỉ còn khoảng 1% [4], [5].
1.3.3. Những vấn đề còn tồn tại
Như vậy cho đến nay, đã có khá nhiều khảo sát, nghiên cứu về cá
trong các sông thuộc hệ thống sông Hồng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
mới chỉ đề cập đến khu hệ cá và nghề cá. Các dẫn liệu về các bãi đẻ trứng
của các loài cá kinh tế, đặc biệt các loài cá di cư sông biển, cũng như vùng
21
nước nuôi dưỡng cá con cũng chưa được xác định một cách đầy đủ và đã cũ,
từ những năm 1960-1970 của thế kỷ trước. Thời gian qua với nhịp độ phát
triển kinh tế-xã hội trên hai bờ sông Hồng diễn ra rất nhanh, đồng thời với
sự phát triển xây dựng đập, hồ chứa thuỷ điện trên các sông Đà, sông Lô Gâm, cùng với sự khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản, đã và đang trở
thành những nhân tố tác động rất lớn tới môi trường sống và khu hệ cá ở hệ
thống sông Hồng.
Ngoài ra, dưới góc độ sinh thái học, kiểu hệ sinh thái hợp lưu Ngã ba
sông của các sông lớn như sông Thao, sông Đà và sông Lô thuộc hệ thống
sông Hồng tại Việt Trì từ lâu đã được xem là khu vực bãi đẻ, bãi sinh trưởng
của nhiều loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế như: cá Mòi, cá Cháy, cá Lăng,
Chiên, Rầm xanh,... Tuy nhiên, khu vực Ngã ba sông này ít được nghiên cứu
một cách toàn diện về cấu trúc khu hệ cá theo chiều dọc sông từ vùng
thượng lưu của mỗi sông cho tới vùng hợp lưu sông (không gian) cũng như
theo mùa (thời gian).
Mặt khác, các đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế hàng ngày đang
chịu sự tác động của con người (khai thác quá mức, gây ô nhiễm môi
trường) và sự thay đổi của các điều kiện tự nhiên. Nguồn lợi thuỷ sản chỉ có
thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường sống của thuỷ vực được
bảo đảm cân bằng dù cho có những tác động của tự nhiên và con người. Do
vậy, để có được cơ sở khoa học và tính khả thi, cần tiến hành nghiên cứu
một cách toàn diện đa dạng cá ở vùng nước Ngã ba sông Hồng tại Việt Trì
và phụ cận nhằm bổ sung, cập nhật các dẫn liệu đầy đủ hơn về thành phần
loài, cấu trúc phân loại khu hệ cá, đặc điểm phân bố, các bãi đẻ trứng, kiếm
mồi và nuôi dưỡng cá con, tình hình khai thác và sử dụng nguồn lợi thủy sản
có giá trị kinh tế, đặc biệt các loài quý hiếm có trong Sách Đỏ Việt Nam.
22
Chương 2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Toàn bộ vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận. Giới hạn toạ độ
địa lý từ 21o12' đến 21o23' vĩ độ Bắc và từ 105o19' đến 105o28' kinh độ
Đông. Khu vực nghiên cứu được mở rộng về 4 phía:
¾ Trên dòng sông Lô: từ vùng bến phà Đức Bác theo dòng sông Lô trở
về xuôi.
¾ Trên dòng sông Thao: từ cầu Phong Châu trở về xuôi.
¾ Trên dòng sông Đà: từ phía trên cầu Trung Hà, hay xã Thái Hoà,
huyện Ba Vì, Hà Nội trở về xuôi.
¾ Phía hạ lưu trên dòng sông Hồng: từ bãi cát bồi của xã Phú Thịnh
(huyện Vĩnh Tường) ngược dòng lên Việt Trì (Hình 1) .
23
Hình 1: Sơ đồ vùng nghiên cứu
24
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Tiến hành 3 đợt điều tra, khảo sát ngoài thực địa:
¾ Đợt 1: từ ngày 31/9 - 04/10/2009, (thời điểm nước cạn)
¾ Đợt 2: từ ngày 09/4 - 14/4/2010, (thời gian sinh sản của một số loài
cá di cư như cá Mòi, cá Cháy, các loài quý hiếm, quan trọng khác).
¾ Đợt 3: từ ngày 10/6/ -17/6/2010, (thời điểm nước đầy).
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Khu hệ cá ở vùng ngã ba sông Hồng và các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan tại vùng nghiên cứu.
2.2.2. Nguồn tài liệu
- Các mẫu cá kèm theo ảnh chụp thu được qua 3 đợt điều tra, khảo sát ở
vùng Ngã ba sông Hồng.
- Nhật ký ảnh và các ghi chép ngoài thực địa.
- Các số liệu từ 200 mẫu phiếu câu hỏi điều tra phỏng vấn về kinh tế, xã
hội cư dân sống quanh khu vực, hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá,...
- Các số liệu điều tra, khảo sát về điều kiện tự nhiên, khí tượng thuỷ
văn; các số liệu do Chi cục thủy sản Phú Thọ, Vĩnh Phúc cung cấp; số liệu
trong Niên giám thống kê và các cổng thông tin điện tử (website) của các
tỉnh thuộc địa bàn nghiên cứu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Nội).
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu vật
Đánh bắt trực tiếp, thu mua của các hộ ngư dân và ở các chợ cá. Ngoài
ra còn tiến hành phỏng vấn trực tiếp các ngư dân làng chài, người câu
25
cá,...bằng catalog ảnh mầu của cá. Mẫu cá được chụp ảnh, bảo quản và cố
định bằng formandehit 10%, được lưu giữ tại Phòng Sinh thái môi trường
nước, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.
Đối với cá Mòi cờ hoa: Do sản lượng cá Mòi còn rất ít, giá thành cao và
là món ăn được nhiều ưa chuộng nên hầu hết cá Mòi đánh bắt được của ngư
dân đều được các đầu mối thu gom về các chợ trung tâm lớn ở Hà Nội, Việt
Trì. Do đó khi đến mùa cá Mòi di cư vào sông Hồng sinh sản (tháng 2 - 5),
trong 2 năm (2009; 2010), chúng tôi tiến hành thu mua và đặt hàng tại các
chợ trung tâm ở Hà Nội như chợ Hàng Bè, chợ Hôm, chợ Phùng Hưng; các
chợ như Linh Lang, Đội Cấn, Mai Dịch, Dịch Vọng, và chợ Trung tâm Việt
Trì, chợ cá ven sông tại Lâm Thao, Trung Hà, …
Mẫu cá được mang về phòng thí nghiệm để tiến hành đo và tính toán
các thông số cần thiết như chiều dài L, Lo, khối lượng W, tuổi cá, giai đoạn
chín muồi sinh dục, sức sinh sản,..
2.3.2. Phương pháp phân tích và định loại
Việc phân tích, định loại các loài dựa trên phương pháp phân loại
hình thái ngoài theo hướng dẫn nghiên cứu cá của Pravdin, 1973 (Bản dịch
của Phạm Thị Minh Giang) [38].
Định loại cá theo một số tài liệu sau:
¾ Định loại các loài cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam của Mai
Đình Yên, 1978 [64].
¾ Cá nước ngọt Nam Bộ của Mai Đình Yên và cộng sự, 1992 [65].
¾ Freshwater fishes of the Northern Vietnam, Kottelat, 2001 [75].
¾ Fishes of the Cambodian Mekong, Rainboth, 1996 [82].
26
¾ Cá nước ngọt Việt Nam, tập 1; 2; 3. của Nguyễn Văn Hảo [25], [26],
[27].
¾ www.Fishbase.org.
Xác định tên khoa học và sắp xếp danh lục theo hệ thống phân loại của
Eschmeyer, 1998; có tham khảo Nguyễn Văn Hảo, 2005 [25] về tên Việt
Nam các loài cá. Mỗi loài được nêu tên tiếng Việt, tên khoa học, tên tác giả
và năm công bố.
Đối với cá Mòi, việc phân tích đặc điểm sinh học, chúng tôi dựa theo
các tài liệu và phương pháp sau:
- Thiết lập phương trình tương quan về khối lượng và chiều dài cơ thể
cá theo Beverton & Holt (1956).
- Xác định tuổi cá dựa vào số vòng năm trên vẩy theo Pravidin
- Thiết lập phương trình tốc độ sinh trưởng theo phương trình của Rosa
Lee (1920)
- Xác định các thông số sinh trưởng theo phương trình Von Bertalanffy
(1954)
- Xác định hệ số béo của cá theo công thức Fulton (1902)
- Xác định giai đoạn chín muồi sinh dục theo thang 6 bậc của
Kixelevils (1923).
Ngoài ra, các số liệu được sử dụng và tính toán trên Exel, xử lý các kết
quả thu được bằng phương pháp thống kê sinh học và các phần mềm chuyên
ngành thông dụng như FiSAT II,...
27
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG
NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Đặc điểm địa lý
Khu vực Ngã ba sông Hồng nằm ở ranh giới của 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh
Phúc và Hà Nội. Khu vực này ở trung du Bắc Bộ với địa hình chuyển tiếp
giữa vùng núi và đồng bằng. Khu vực Ngã ba sông có các huyện/thành phố,
thị xã nằm trên vùng lưu vực và ven sông như: TP. Việt Trì, các huyện Lâm
Thao, Tam Nông và Thanh Thuỷ thuộc tỉnh Phú Thọ; huyện Vĩnh Tường
thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây thuộc Hà Nội.
Nhìn chung, điều kiện địa hình ở khu vực không phức tạp. Vùng đồi núi
chủ yếu thuộc các huyện Thanh Thuỷ (Phú Thọ) và Ba Vì (Hà Nội).
3.1.1.2. Đặc điểm khí hậu
Khu vực Ngã ba sông Hồng và phụ cận nằm trong miền khí hậu phía
bắc: khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mưa hè. Là vùng
chuyển tiếp của khu vực đồng bằng Bắc Bộ với vùng Tây Bắc và Đông Bắc,
khu vực này có khí hậu mang đầy đủ những đặc điểm của khí hậu miền: mùa
đông lạnh với một số khu vực lạnh hơn nhiều so với điều kiện trung bình vĩ
tuyến, mùa đông chỉ có thời kỳ đầu tương đối khô còn nửa cuối lại rất ẩm
ướt; mùa hè rất ẩm ướt, nhiều mưa, khí hậu biến động mạnh. Nhiệt độ trung
bình năm vào khoảng 23 -24oC. Hàng năm có 4 tháng nhiệt độ trung bình
xuống dưới mức 20oC, thường từ tháng XII-tháng III. (Phạm Ngọc Toàn,
Phan Tất Đắc, 1993) [57].
Ở phía bắc Việt Nam, theo mùa khí hậu, mùa mưa bắt đầu từ tháng IV
đến tháng X, mùa khô bắt đầu từ tháng XI đến tháng III năm sau. Lượng mưa
28
trong vùng phân bố khá đồng đều, lượng mưa trung bình cả năm trên toàn
khu vực tỉnh đạt khoảng 1400-1600 mm, tại những vùng giáp núi, lượng
mưa thường tăng, đạt tới 1800-2000 mm/ năm. Mùa mưa thường kéo dài
khoảng 6 tháng, từ tháng V đến tháng X, tập trung đến 85% lượng mưa cả
năm. Độ ẩm trung bình năm vào khoảng 80-83%, trong đó thời kỳ ẩm ướt
nhất là vào 3 tháng cuối mùa đông với tháng cực đại là tháng III. Thời kỳ
khô nhất là những tháng đầu mùa đông, thường đạt cực tiểu vào tháng XI
(Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc, 1993) [57].
3.1.1.3. Đặc điểm thuỷ văn
Chế độ dòng chảy sông Hồng ở Ngã ba tại Việt Trì rất phức tạp, chủ yếu
do chế độ nước sông ở vùng thượng lưu bao gồm các sông Đà, Lô và Thao
quyết định. Trong hệ thống sông Hồng, sông Đà góp 52% lượng nước,
tương đương 49,1-57,9 tỷ m3. Trên hai nhánh sông Đà và sông Lô đều có
các đập thuỷ điện chặn dòng ở phía thượng lưu: đập thuỷ điện Hoà Bình trên
sông Đà có sức chứa 9,45 tỷ m3 và đập thuỷ điện Thác Bà có sức chứa 2,163,6 tỷ m3, đập thuỷ điện Tuyên Quang trên sông Gâm có sức chứa 1 -1,5 tỷ
m3. Như vậy, lưu lượng dòng chảy đi qua vùng ngã ba sông về mùa lũ sẽ
giảm đi tương ứng với phần nước của ba hồ chứa này lưu giữ lại (12,34 - 15
tỷ m3), nhưng dòng chảy sẽ lại tăng lên tương đương với lượng nước trên
vào mùa khô hạn khi các nhà máy chạy phát điện và thải nước xuống hạ lưu.
Phía trên đập thuỷ điện Hoà Bình, còn thêm các bậc thang thuỷ điện Sơn La
(dung tích chứa 9,26 tỷ m3) và các thuỷ điện cỡ nhỏ khác, nên lượng nước
được lưu giữ lại trong mùa lũ sẽ lớn hơn nhiều và dòng chảy vào mùa lũ
cũng như mùa khô cạn phải phụ thuộc vào chế độ hoạt động của các nhà
máy thuỷ điện, thời gian mở cống xả lũ và chống hạn cho vụ đông xuân.
Trong năm 2009, mực nước trên sông Hồng ở mức thấp và liên tục phá kỷ
lục trong hơn 100 năm qua. Theo thống kê của Phòng Dự báo thủy văn Bắc
29
Bộ thuộc thuộc trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn TƯ cho biết, mực
nước sông Hồng đã 6 lần xuống thấp kỷ lục, đó là vào các tháng 3, 8, 10,
11 và 12.
Khu vực Ngã ba sông tại Việt Trì được xem là khởi đầu của vùng đồng
bằng, là nơi tiếp nhận nước của cả 3 sông: sông Thao (dòng chính sông
Hồng), sông Đà và sông Lô. Về hình thái lòng sông, khu vực ngã ba sông
sau khi 3 sông gia nhập có chiều rộng lòng sông rất lớn. Lòng sông thường
có các bãi bồi hoặc ở giữa lòng hoặc các vùng ven bờ tuỳ thuộc vào điều
kiện địa hình bờ và chế độ dòng chảy. Mùa kiệt, các bãi cát lòng sông nổi
cao.
Dòng chảy trên sông Hồng biến đổi theo mùa khí hậu trong năm (mùa
khô và mùa mưa). Mùa thuỷ văn chậm hơn so với mùa khí hậu. Theo đó,
mùa mưa lũ bắt đầu từ tháng V, kết thúc vào tháng X. Lượng nước trong
mùa lũ chiếm 75-80% lượng nước trong năm. Modun dòng chảy lũ trung
bình tại Sơn Tây là 47,31 l/s.km2. Ba tháng có có dòng chảy lớn nhất từ VII
tới tháng IX. Modun dòng chảy 3 tháng lớn nhất tại Sơn Tây là 56,9 l/s.km2.
Mùa kiệt bắt đầu từ tháng XI tới tháng V với tổng lượng nước chiếm
20-25 % tổng lượng dòng chảy năm. Modun dòng chảy kiệt ở Sơn Tây là
10,8 s/l.km2. Ba tháng liên tục có dòng chảy nhỏ nhất là II-IV với lượng
nước chưa tới 10 % lượng nước năm. Mực nước kiệt nhất tại Sơn Tây là
3,57 m, tại Hà Nội là 1,71 m
Tốc độ dòng chảy của nước ở các loại thuỷ vực khác nhau có sự thay
đổi rất lớn. Tốc độ dòng chảy sông Hồng trong mùa lũ trung bình 2,61-3,45
m/s (Phạm Quang Hạnh, 1985).
30
Theo các kết quả đo đạc, tổng lượng nước mặt của sông Hồng khá lớn,
bình quân lưu lượng nước chảy qua khúc sông ở Sơn Tây vào khoảng 107109 tỷ m3, tương đương lưu lượng trung bình hàng năm vào khoảng 3.4153.456m3/s. Tuy nhiên, do địa bàn rộng, lượng mưa phân bố không đều nên
dòng chảy ở các đoạn sông cũng có sự khác nhau. Ngoài ra, lượng nước trên
các đoạn sông còn biến động và phụ thuộc vào các mùa trong năm. Ví dụ,
sông Hồng tại Sơn Tây có dòng chảy vào mùa lũ lớn nhất đạt tới 160,5 tỷ
m3/năm và nhỏ nhất là 93 tỷ m3/năm. Như vậy, sự chênh lệch giữa mức cao
nhất với mức thấp nhất là 1,7 lần [57].
Ở các suối đầu nguồn của các nhánh sông nhỏ thuộc huyện Yên Lập, Hạ
Hoà và Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ có độ dốc lớn, lòng suối hẹp, tốc độ dòng
chảy về mùa mưa rất cao, có khi tạo thành lũ lớn. Ở dòng chính sông Thao
cũng có đặc điểm tương tự, sông gần thẳng làm cho tốc độ dòng chảy cao
hơn ở các sông như sông Lô, sông Đà, do vậy, nền đáy chủ yếu là cát thô và
sỏi sạn. Sông Hồng từ Việt Trì trở xuống có lòng sông rộng, độ dốc thấp nên
tốc độ dòng chảy chậm lại, lượng phù sa bắt đầu bồi tụ, do đó nền đáy ở đây
bắt đầu có nhiều cát bùn.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế -xã hội của các huyện thị ven lưu vực Ngã ba
sông.
3.1.2.1. Dân số
Khu vực Ngã ba sông Hồng có các huyện/Thị xã trên vùng lưu vực như:
TP. Việt Trì, các huyện Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông và Thanh Thuỷ
thuộc tỉnh Phú Thọ; các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường thuộc tỉnh Vĩnh
Phúc; huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây thuộc Hà Nội. Trong các huyện, thị kể
trên, đáng chú ý nhất là TP. Việt Trì là khu vực có những hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội gây tác động quan trọng tới môi trường sống vùng nước
31
Ngã ba sông Hồng và phụ cận. Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu
vực Ngã ba sông Hồng được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1: Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu vực Ngã ba sông Hồng
tỉnh
Phú Thọ
Huyện
Dân số (người)
Diện tích (ha)
Việt Trì
181.123
10.636
Phù Ninh
15.637
98.202
Lâm Thao
101.422
9.755
Tam Nông
79.112
14.659
Thanh Thuỷ
74.400
12.097
Lập Thạch
207.052
32.302
Vĩnh Tường
176.830
14.027
Ba Vì
242.600
42.800
Sơn Tây
181.831
11.347
Vĩnh Phúc
Hà Nội
(Nguồn: Số liệu Tổng Cục thống kê, 2009)
3.1.2.2. Cơ cấu ngành nghề và tình hình phát triển kinh tế
Thành phố Việt Trì là một trung tâm động lực kinh tế-xã hội của tỉnh
Phú Thọ. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 - 2010 đạt trên 15,0 %/năm.
Tỷ trọng đóng góp vào GDP chung của tỉnh năm 2010 đạt trên 62,0 %.
Thành phố có hướng phát triển ưu tiên đầu tư vào các ngành công nghệ tiên
tiến, công nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm môi trường (như công nghiệp cơ khí
chế tạo, lắp ráp, điện tử, tin học, sản xuất rượu bia…); những sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao, có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế thu ngân
sách và thu hút lao động. Đến năm 2010, TP. Việt Trì phấn đấu 100 % cơ sở
32
sản xuất mới xây dựng áp dụng công nghệ cao, đồng thời phát triển du lịch,
sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Ưu tiên phát triển du
lịch lễ hội, du lịch tâm linh, du lịch sinh thái…; tập trung đầu tư vào Khu di
tích lịch sử Đền Hùng; khu du lịch Văn Lang, khu du lịch Bến Gót, khu du
lịch sinh thái ven sông Lô (các xã Trưng Vương, Sông Lô) .
Theo khảo sát và thống kê thực hiện vào các năm 2009 và 2010, khoảng
80-90 % người dân tại các thôn, xã ven sông của các huyện thị ven sông đều
làm nông nghiệp. Với diện tích bãi bồi ven sông lớn, màu mỡ, nguồn nước
dồi dào phù hợp cho bà con nông dân trồng hoa màu. Tại một số khu vực đất
bãi ven 2 bờ sông Hồng, sông Lô những năm gần đây, người dân và các xí
nghiệp còn sản xuất và nung gạch ngói, nung vôi để cung cấp vật liệu xây
dựng cho ngành xây dựng. Những lò gạch, lò vôi này cũng đã tạo công việc
thường xuyên và mang lại thu nhập đáng kể cho người dân lao động làm
thuê cho các chủ lò này. Nhiều dân chài cũng đã bỏ nghề để chuyển sang
làm thuê cho các chủ lò gạch, lò vôi và chuyên chở vật liệu. Việc các lò
gạch, lò vôi nung này phát triển quá mức, hoạt động quanh năm, đã gây ô
nhiễm môi trường không khí, huỷ hoại hoa màu và sức khoẻ của nhân dân
quanh vùng. Quanh khu vực các lò nung gạch, nung vôi, hoa màu không
phát triển, năng suất giảm, nhiều loại không cho thu hoạch vì ảnh hưởng của
khói lò. Khói bụi của lò vôi, lò gạch còn ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng
đồng dân cư sống quanh khu vực này. Các bệnh về hô hấp như ho, viêm
phổi, ung thư phổi, mất ngủ của cư dân quanh khu vực này tăng lên.
Ngoài ra, những năm gần đây, nghề khai thác cát trên sông Hồng, cát
vàng, sỏi trên sông Lô phát triển rất mạnh vì lợi nhuận thu được từ nghề này
rất lớn. Những thuyền khai thác cát này hầu hết là của một số ít những ông
chủ, những nhóm đại gia có tiềm lực kinh tế. Tại khu vực khai thác cát sỏi,
33
cũng thường xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp khai thác gây mất trật tự ổn định
xã hội.
3.1.2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế
Về trình độ văn hóa: Phần lớn những người lao động nghề cá đều có
trình độ văn hóa thấp. Số con em bỏ học để tham gia lao động trước độ tuổi
lao động còn nhiều. Chất lượng lao động nhìn chung không cao, hầu hết
chưa học hết phổ thông. Theo thống kê, tỷ lệ trong cộng đồng ngư dân trong
sông Hồng không đi học là 10,4 %, đi học cấp I: 53,6 %, cấp II: 31,2 % và
chỉ có 4,8 % ngư dân học cấp III (Số liệu đồng bằng sông Hồng; Tổng cục
thống kê, 1999)
Qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp cho thấy, nhận thức của ngư dân về
vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn rất hạn chế. Hầu hết ngư dân chỉ biết
lợi ích trước mắt, khai thác một cách quá mức mà không nhận thấy được tầm
quan trọng của việc bảo vệ và sử dụng nguồn lợi theo hướng bền vững, đặc
biệt khai thác mạnh vào thời kỳ cá tập trung sinh sản. Đồng thời, nhận thức
của các cấp chính quyền địa phương về vấn đề này cũng còn bất cập, nên
việc khai thác cá hầu hết còn mang tính tự phát, thiếu sự kiểm soát. Việc
tuyên truyền, giáo dục và tập huấn về công tác bảo vệ nguồn lợi hầu như
không có ở các địa phương làng chài.
Về vấn đề dịch vụ y tế: Nhìn chung vấn đề dịch vụ y tế tại các làng chài
ven sông còn lạc hậu và thiếu thốn về cơ sở vật chất. Ngoài ra, vấn đề an
toàn thực phẩm cũng chưa được ngư dân quan tâm, sinh hoạt bằng nguồn
nước không vệ sinh (nước sông, nước giếng khơi…), nguồn thực phẩm chưa
đảm bảo nhu cầu sức khỏe. Ngoài ra, những hộ ngư dân chuyên khai thác cá
hầu hết là ngư dân nghèo, không có đủ tiền để khám và chữa bệnh.
34
3.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ THUỶ SINH VẬT
3.2.1. Đặc điểm thuỷ lý
Như đã trình bày ở trên, khu vực Ngã ba sông là nơi gia nhập của 3
dòng sông lớn: sông Đà, sông Lô và sông Thao (dòng chính của sông Hồng).
Bởi vậy, môi trường nước ở đây cũng có những biến động theo mùa thuỷ
văn rất lớn. Vào mùa kiệt, khi lượng nước sông Đà chỉ bổ cập bằng nguồn
nước qua nhà máy thuỷ điện, nước sông Đà sau đập thường có độ trong lớn
hơn nhiều so với nước sông Thao. Về mùa lũ, nước sông Đà sau đập Hoà
Bình cũng có độ đục thấp hơn so với nguồn nước từ sông Thao.
Các kết quả đo độ trong theo đĩa Secchi tại một số điểm khảo sát ở khu
vực Ngã ba sông Hồng cho thấy về mùa kiệt, độ đục sông Thao vào loại khá
lớn so với các sông khác., trung bình vào mùa khô 112 mg/l, trong khi đó,
nước sông Đà sau đập Hoà Bình có độ trong cao hơn và độ đục thấp hơn (độ
đục trung bình 20 mg/l), đặc điểm này thấy rõ khi lượng nước qua tuabin
thuỷ điện Hoà Bình thấp. Nước sông Đà có màu xanh nước biển đặc trưng.
Về mùa lũ, mực nước sông Hồng dâng cao, nước chảy mạnh, có khi
thành lũ lớn, nước ngầu đục vì mang nhiều phù sa từ các vùng núi đầu
nguồn xuống. Độ đục đo được ở nước sông Hồng vào mùa lũ lên tới 200300mg/l, thậm chí độ đục lớn nhất trong mùa lũ ở Sơn Tây lên tới 6.950
g/m3, 4.960 g/m3 ở Hà Nội (Phạm Quang Hạnh, 1985).
Các kết quả phân tích chất lượng nước tại khu vực ngã ba sông Hồng
trong đợt khảo sát tháng 10/2009 cho thấy hầu hết các chỉ số thuỷ lý, hoá
đều ở mức giới hạn cho phép loại A so với quy chuẩn môi trường nước mặt
(QCMT 10/2008)
Hàm lượng ô xy hoà tan (DO) trong khu vực dao động từ 4,9-6,5 mg/l
nằm trong ngưỡng cho phép đối với các nhóm động vật thuỷ sinh. Độ pH
35
dao động trong mức kiềm yếu, 7,7-7,92, nằm trong ngưỡng cho phép. Độ
đục thay đổi theo từng vị trí đo đạc: sông Thao có độ đục cao hơn so với độ
đục sông Lô và sông Đà, (bảng 2).
Bảng 2. Các thông số thủy lý ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009)
Sông Thao
Sông Đà
Ngã ba s Hồng
Sông Hồng
Sông Lô
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
To
25,6
25,4
25.95
26.75
25.4
26.3
27.97
26.23
27.07
26.77
DO
5,5
5,7
5.9
6.2
5.75
6.1
5.23
4.33
5.73
5.13
pH
7,86
7,85
7.8
7.8
7.9
7.81
7.92
7.80
7.91
7.94
Dẫn
(S/m)
0,015
0,015
0.01
0.01
0.015
0.01
0.01
0.01
0.01
0.01
Dẫn
(µS/cm)
153,8
154,2
153.45
153.35
153.9
153.4
Đục
mg/l
119
178
85
31.5
89.5
133
153.80 153.77 153.37
27
124.67
48
Chú thích: T1 Cầu Phong Châu; T2 Trạm bơm Dầu Dương; T3 Gần Bãi bồi; T4 Phà
Hồng Đà; T5 Vĩnh Lại; T6 Khu vực đầu TP Việt Trì; T7 Phà Đức Bác; T8 Nhà máy
đường Việt Trì; T9 Cao Đại; T10 Phú Minh.
3.2.2. Đặc điểm thuỷ hoá
Kết quả phân tích thuỷ hoá vào tháng 10/2009 tại khu vực Ngã ba sông
Hồng cho thấy hầu hết các yếu tố đều ở mức giới hạn cho phép theo QCVN
2008, riêng với NO3- , một số điểm khảo sát có hàm lượng cao hơn giới hạn
cho phép đối với nước mặt loại A (2 mg/l). Hàm lượng các chất bảo vệ thực
vật cũng nằm dưới giới hạn cho phép của QCVN 2008, (bảng 3)
Theo các báo cáo hiện trạng môi trường (Trần Hiếu Nhuệ, 2005) [7],
ở hệ thống sông Hồng nói chung, hầu hết các chất chỉ thị ô nhiễm đều có
36
154
48.33
nồng độ thấp. Tuy nhiên, tại một số khu vực gần điểm xả ven sông của nhà
máy giấy Bãi Bằng, nhà máy super phốt phát Lâm Thao, khu công nghiệp
Việt Trì thì giá trị trung bình một số chỉ tiêu vượt qúa giới hạn cho phép chất
lượng nước mặt loại A theo QCVN 2008 như: hàm lượng COD = 11 - 23,7
mg/l (gấp gần 3 lần giới hạn cho phép), BOD = 15,3 mg/l (gấp gần 4 lần
GHCP), NO2- = 0,014 mg/l (gấp gần 2 lần GHCP), NH4+ = 0,1 mg/l (gấp 2
lần TCCP)
Bảng 3. Các thông số thủy hóa ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009)
Chỉ tiêu phân tích
TT
Ký hiệu
mẫu
Fe2+ (mg/l)
PO43-(mg/l)
NO3-(mg/l)
NH4+(mg/l)
COD
(mg/l)
1
T1
0.022
0.052
2.605
0.111
8.6
2
T2
0.017
0.044
1.413
0.139
8.2
3
T3
0.009
0.054
1.284
0.140
7.8
4
T4
0.025
0.034
2.108
0.211
7.2
5
T5
0.023
0.080
2.443
0.116
8.0
6
T6
0.018
0.056
2.265
0.106
7.6
7
T7
0.015
0.063
1.854
0.098
7.8
8
T8
0.011
0.082
2.118
0.121
8.0
9
T9
0.009
0.032
1.842
0.190
7.2
10
T10
0.009
0.029
1.559
0.224
7.6
3.2.3. Đặc trưng về thuỷ sinh vật
3.2.3.1. Thực vật nổi (Phytoplankton)
Thành phần thực vật nổi tại khu vực Ngã ba sông và vùng phụ cận bao
gồm 55 loài, thuộc 3 ngành tảo: tảo Silic (Bacillariophyta), tảo Lục
(Chlorophyta), vi khuẩn Lam (Cyanobacteria), (Hình 2, Phụ lục 1).
37
Trong thành phần loài thực vật nổi, chủ yếu là các loài đặc trưng cho
thuỷ vực nước chảy (sông). Trong đó, tảo Silíc chiếm ưu thế về thành phần
loài (26 loài chiếm 47,3% số loài), tảo Lục có 20 loài (36,4%), vi khuẩn Lam
có 9 loài (16,4%). Cấu trúc thành phần loài như vậy là phản ánh thực tế của
khu hệ tảo sông. Do chỉ khảo sát trong thời gian ngắn, cho nên số lượng loài
thực vật nổi ở khu vực đã xác định được như trên còn ít hơn so với thực có.
36%
48%
16%
Bacillariophyta
Chlorophyta
Cyanobacteria
Hình 2: Tỷ lệ các nhóm TVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
Trong thành phần thực vật nổi, có sự phân bố rất rõ ràng các nhóm tảo
theo các loại hình thuỷ vực khác nhau: nhóm tảo ưa nước chảy, sạch phân bố
tại các thuỷ vực vùng đồi núi, như các chi Melosira, Nitzschia, Amphora,
Surirella, Navicula, Synedra thuộc ngành tảo Silic; các chi Spyrogyra ,
Zignemopsis, Micrasterias, Closterium , Staurastrum, Crucigenia thuộc tảo
Lục. Tuy nhiên, một số chi khác thuộc vi khuẩn Lam (chi Oscillatoria)
trong điều kiện bình thường ít hoặc không xuất hiện tại sông nước chảy và
thường thấy ở các thuỷ vực ao, hồ có dinh dưỡng cao, có biểu hiện ô nhiễm
hữu cơ thì lại thấy xuất hiện tại sông trong các kỳ khảo sát mùa khô.
38
Mật độ thực vật nổi khảo sát trong đầu mùa khô (10/2009) không cao,
dao động từ 1.350 đến 2.000 tế bào/lít. Tại các trạm khảo sát, nhóm tảo Lục
chiếm ưu thế nhất về mật độ, tiếp đến nhóm tảo Silic và vi khuẩn Lam. Mật
độ thực vật nổi khảo sát trong tháng 3/2009 cũng không cao, dao động từ
1.300 đến 2.450 tế bào/lít.
3.2.3.2. Thực vật bám đáy (Periphyton)
Thực vật bám đáy là nhóm thực vật sống bám trên các giá thể ở đáy
như mặt đá tảng hoặc tạo thành các màng thực vật trên đáy cát-bùn. Nhóm
thực vật đáy này thực chất là một tập hợp của nhiều quần thể tảo và tuỳ
thuộc vào từng dạng mà là tảo dạng sợi (dạng bùi nhùi, dạng khảm dày bám
trên mặt đá hoặc trên nền đáy cát-bùn) và tảo đơn bào (dạng màng mỏng
bám trên mặt đáy đá) thuộc các ngành tảo Silíc, vi khuẩn Lam và tảo Lục.
Ngoài ra, còn có nhóm thực vật bám mặt đá là rêu. Quần xã rêu thường phát
triển ở vùng ven bờ nơi có độ ẩm cao. Trong khu vực khảo sát, thực vật bám
đáy chỉ thấy ở kiểu sinh cảnh bờ đá khối, chúng hình thành ở các vũng nước
nông giữa các khối đá, đáy cát-bùn. Thực vật bám đáy là nguồn thức ăn rất
quan trọng cho các nhóm ấu trùng côn trùng ở nước. Bởi vậy tại các nơi có
nhiều thực vật bám đáy, thường thấy các quần thể ốc, ấu trùng côn trùng ở
nước phát triển phong phú.
3.2.3.3. Động vật nổi (Zooplankton)
Các kết quả phân tích mẫu vật thu được đã xác định được 28 loài và
nhóm động vật nổi thuộc các nhóm trùng bánh xe (Rotatoria), giáp xác râu
ngành (Cladocera), giáp xác chân chèo (Copepoda), có bao (Ostracoda) và
ấu trùng côn trùng (Hình 3, Phụ lục 2).
Số lượng các loài đã biết như trên còn thấp hơn so với thực tế có được.
Thành phần loài động vật nổi hầu hết là các loài phân bố rộng bao gồm cả
39
các loài nước ngọt và nước lợ. Trong thành phần, giáp xác chân chèo chiếm
ưu thế về số lượng loài (chiếm khoảng 40% tổng số loài).
36%
36%
14%
Rotatoria
Copepoda
14%
Branchiopoda
Nhóm khác
Hình 3. Tỷ lệ các nhóm ĐVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
Về số lượng, kết quả phân tích mẫu vật thu được trong 3 đợt khảo
sát, mật độ ĐVN khá cao, dao động từ trên 500 con/m3 tới trên 32.000
con/m3. Các điểm khảo sát ở sông Lô có số lượng ĐVN cao nhất, (Bảng 4).
Bảng 4: Mật độ các nhóm ĐVN ở vùng Ngã ba sông Hồng
Copepoda
(Con/m3)
Cladocera
Rotatoria
(Con/m3)
(Con/m3)
s. Thao
330-840
180-630
30-60
30-60
s. Đà
750-1140
210-360
60-120
0
s. Lô
990-8040
1470-24360
60-240
30-60
s. Hồng
420-1020
195- 360
60-90
30-90
Ngã ba s. Hồng
180-1020
84-270
90
30-60
Địa điểm
3.2.3.4. Động vật đáy (Zoobenthos)
40
Nhóm khác
(Con/m3)
Kết quả phân tích vật mẫu trong chuyến khảo sát, cùng với thống kê từ
những dẫn liệu đã có, đã xác định được 42 loài ĐVĐ thuộc 31 giống, 18 họ,
6 bộ và 4 lớp. Trong động vật thân mềm, trai họ trai sông (Unionidae), hến
họ (Corbiculidae) chiếm ưu thế về số loài cũng như phân bố rộng khắp vùng
nước nông ven bờ.
Trong ĐVĐ, chiếm ưu thế là hai nhóm: nhóm Ốc- Gastropoda có 18 loài
(43%) và nhóm Hai mảnh vỏ- Bivalvia có 13 loài (31%). Hai nhóm còn lại
có số lượng loài ít hơn, nhóm Côn trùng- Insect có 3 loài (7%), nhóm Giáp
xác- Crustacea có 8 loài (19%), (Hình 4, Phụ lục 3).
7%
31%
19%
43%
Gastropoda
Bivalvia
Insect
Crustacea
Hình 4: Tỷ lệ các nhóm ĐVĐ vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
Trong số 42 loài thân mềm có trong khu hệ, có 2 loài trai nằm trong Sách Đỏ
Việt Nam (2007):
- Trai Vỏ nâu Chamberlainia hainensiana (Lea, 1856) (Phân hạng DD).
Phân bố: sông Lô (Tuyên Quang, Việt Trì).
- Trai Cóc nhẵn Cuneopsis (Procuneopsis) demangei (Haas, 1929) (Phân
hạng: DD). Phân bố ngã ba sông Hồng tại Việt Trì, Phú Thọ.
41
Tuy nhiên, qua các đợt khảo sát điều tra, chúng tôi vẫn chưa thu được mẫu
của 2 loài này.
3.3.
ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ CÁ
3.3.1. Đặc trưng về thành phần loài
Kết quả điều tra cho thấy, khu hệ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ
cận có 91 loài thuộc 75 giống, 26 họ, 11 bộ. Trong đó, có 68 loài thu được
mẫu trực tiếp, hoặc chụp được ảnh; 23 loài không thu được mẫu trực tiếp,
mà chỉ ghi nhận từ kết quả phỏng vấn ngư dân các làng chài, người dân sống
quanh khu vực và ở các chợ cá; 3 loài cá trước đây ghi nhận, nhưng hiện nay
không còn gặp (cá Cháy, cá Chình nhật, cá Lợ). Danh sách các loài ghi nhận
trong khu hệ cá tại vùng Ngã ba sông Hồng trình bày ở Bảng 5, Hình 5 và
Phụ lục 5.
Bảng 5: Danh sách các loài đã biết ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
tt
Tên cá
Tên khoa học
1 2 3 4 5
I. BỘ CÁ TRÍCH
CLUPEIFORMES
1. Họ cá Trích
1. Cá Mòi cờ hoa
Clupeidae
Clupanodon thrissa (Linnaeus, 1758)
2. Cá Cháy
Tenualosa reeversii (Richardson, 1846) x
2. Họ cá Trỏng
3. Cá Lành canh trắng
Coilia grayii Richardson, 1844
SALMONIFORMES
3. Họ cá Ngần
Salangidae
Protosalanx chinensis (Basilewsky,
1855)
III. BỘ CÁ CHÌNH
ANGUILLIFORMES
4. Họ cá Chình
Anguillidae
5. Cá Chình Nhật
5. Họ cá Lịch cu
6. Cá Nhệnh
x
7
x x
EN
M
x
EN PV
Engraulidae
II. BỘ CÁ HỒI
4. Cá Ngần trắng
x
6
Anguilla japonica Temminck &
Schlegel, 1846
x
x
x
x
M
x
x
x
x
M
x
EW PV
Ophychthyidae
Pisoodonophis boro (Hamilton, 1822)
42
x
PV
IV. BỘ CÁ CHÉP MỠ CHARACIFORMES
Characidae
6. Họ cá Chép mỡ
7. Cá Chim trắng nước ngọt Colosoma brachypomum (Cuvier, 1818) x
7. Họ cá Vền
8. Cá Vền Nam Mỹ
Prochilodus argenteus Spix & Agassiz,
1829
CYPRINIFORMES
8. Họ cá Chép
Cyprinidae
Opsarichthys bidens (Gunther, 1873)
10. Cá Trắm đen
11. Cá Măng nhồng
12. Cá Trắm cỏ
13. Cá Chày mắt đỏ
14. Cá Chày chàng
15. Cá Măng
16. Cá Mương nổi
17. Cá Dầu hồ
x
x
x
x
M
M
x
x
M
x
x
x
PV
x
x
x
x
M
x
x
x
x
M
x
Elopichthys bambusa (Richardson,
1844)
Hemiculter leucisculus (Basilewsky,
1855)
Toxabramis houdemeri Pellegrin, 1932
x
x
x
x
21. Cá Thiểu mắt to
Ancherythroculter daovantieni
Banarescu, 1967,
22. Cá Thiểu
Culter erythropterus Basilewsky, 1855
23. Cá Ngão gù
24. Cá Mại
Culter flavipinnis Tirant, 1883
Metzia lineata (Pellegrin, 1907)
25. Cá Tép dầu bụng bạc
Metzia formosae (Oshima, 1920)
26. Cá Nhàng bạc
Xenocypris argentea Gunther, 1868
27. Cá Mần
Xenocypris davidi Bleeker, 1871
28. Cá Mè trắng Việt Nam
Hypophthalmichthys harmandi
Sauvage, 1884
Hypophthalmichthys molitrix
(Valenciennes, 1844)
43
x
M
x x
Mylopharyngodon piceus (Richardson, x
1846)
Luciobrama macrocephalus (Lacepede,
1803)
Ctenopharyngodon idella
(Valenciennes, 1842)
x
Squaliobarbus curriculus Richardson,
1846
Ochetobius elongatus (Kner, 1867)
18. Cá Tép dầu sông gai dài Hainania serrata Koller, 1927
Megalobrama terminalis (Richardson,
19. Cá Vền
1946)
20. Cá Nhác
Sinibrama affinis (Vaillant, 1892)
29. Cá Mè trắng Trung
x
Prochilodontidae
V. BỘ CÁ CHÉP
9. Cá Cháo
x
x
VU PV
x
x
x
x
x
M
x
M
x
M
x
x
x
x VU
M
x
x
M
x
x
M
x
x
x
M
M
x
M
PV
x
x
x
PV
x
x
x
x
x
PV
x
PV
M
Quốc
30. Cá Mè hoa
31. Cá Thè be
Aristichthys nobilis Richardson, 1844
Acheilognathus tonkinensis Vaillant,
1892
x
32. Cá Thè be
x
35. Cá Đòng đong cân cấn
Rhodeus vietnamensis Yên, 1978
Paraspinibarbus macracanthus
(Pellegrin & Chevey, 1936.)
Spinibarbus hollandi Oshima, 1919
Puntius semifasciolatus (Gunther, 1868)
36. Cá Đong chấm
Puntius brevis (Bleeker, 1850)
x
37. Cá Đòng đong
Puntius takhoaensis Nguyen & Doan,
1969
38. Cá Vũ
Epalzeorhynchus mutabilis Lin, 1933
x
39. Cá Anh vũ
Semilabeo obscurus Lin, 1981
x
40. Cá Dầm xanh
x
Bagana lemassoni (Pellegrin & Chevey, x
1936)
x x x x x
Cirrhinus molitorella (Valenciennes,
1844)
Cirrhinus mrigala (Hamilton, 1822)
x x x x
Labeo rohita (Hamilton, 1822)
x x
x
+
Osteochilus salsburyi Nichol & Pope,
1927
Garra caudofascialata (Pellegrin &
x
Chevey, 1936)
x x x x x
Carassius auratus (Linnaeus, 1758)
Carassioides acuminatus (Richardson, x x
x
1846)
x x x x x
Cyprinus carpio Linnaeus, 1758
33. Cá Cầy
34. Cá Chày đất
41. Cá Trôi sông
42. Cá Mrigan
43. Cá Rô hu
44. Cá Dầm đất
45. Cá Lun
46. Cá Diếc
47. Cá Rưng
48. Cá Chép
49. Cá Chép Hung
Cyprinus carpio carpio (Linnaeus,
1758)
50. Cá Lợ
Cyprinus multitaeniata (Pelyegrin &
Chevey, 1936)
51. Cá Gáy
Cyprinus rubrofuscua Lacepede, 1803
52. Cá Đục ngộ
53. Cá Đục chấm
Hemibarbus medius Yue
Hemibarbus macracanthus Lo, Yao &
Chen, 1977
Saurogobio immaculatus Koller, 1927
Squalidus atromaculatus Nichol &
Pope, 1927
54. Cá Đục đanh
55. Cá Đục trắng dày
44
x
x
x
x
M
x
x
M
x
M
x
M
x
M
x
x
x
x
x
x
x
x
x
M
x
x
M
M
PV
x
x
x
x
x VU M
x VU PV
x
x
x
x
x
M
M
M
PV
M
M
M
M
x EW PV
x
M
x
x
PV
M
x
x
M
x
x
x
x
M
M
56. Cá Trỏng cơm
57. Cá Đục đanh chấm
58. Cá Đục hoa
59. Cá Đục râu
9. Họ cá Chạch
60. Cá Chạch bùn
10.Họ cá Chạch suối
61. Cá Bám đá khuyết
Squalidus argentatus (Sauvage &
Dabry, 1874)
Microphysogobius kachekensis
(Oshima, 1926)
Microphysogobius sp1
Gobiobotia kelleri Banarescu &
Nalbant, 1966
Cobitidae
x
Misgurnus anguillicaudatus (Cantor,
1842)
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Beaufortia leveretti (Nichol & Pope,
1927)
SILURIFORMES
11. Họ cá Nheo
Siluridae
12. Họ cá Lăng
x
Silurus asotus Linnaeus, 1758
Pelteobagrus fulvidraco (Richardson,
1846)
x
x
64. Cá Lăng
65. Cá Lăng sông Lô
66. Cá Ngang
Hemibagrus guttatus Lacepede, 1803
Hemibagrus sp.
Pelteobagrus pluriadiatus (Vaillant,
1892)
Hemibagrus vietnamicus Mai, 1978
Pelteobagrus vachellii (Richardson,
1846)
Pseudobagrus virgatus (Oshima, 1926)
x
x
x
x
x
x
x
x
69. Cá Mịt
13. Họ cá Ngạnh
70. Cá Ngạnh
14. Họ cá Trê
71. Cá Trê
72. Cá Trê phi
15. Họ cá Tỳ bà
73. Cá Dọn bể
16. Họ cá Chiên
74. Cá Chiên
VII. BỘ CÁ NHÁI
M
x
M
PV
x
x
M
x
M
PV
x
M
Bagridae
63. Cá Bò
67. Cá Quất
68. Cá Mầm
x
Balitoridae
VI. BỘ CÁ NHEO
62. Cá Nheo
x
M
x
x
x
x
x
x VU M
x
PV
x
PV
M
x
M
x
x
x
Cranoglanis henrici (Vaillant, 1893)
x
x
x
x
M
Claridae
Clarius fuscus (Lacepede, 1803)
x
x
x
x
M
M
Cranogranidae
Clarias gariepinus (Burchell, 1882)
Loricariidae
Hypostomus punctatus (Valenciennes,
1840)
Sisoridae
Bagarius rutilus Ng.& Kottelat, 2000
BELONIFORMES
45
x
x
x
x
x
x
x
M
x
x
M
x VU
M
17. Họ cá Nhái
75. Cá Nhái nhiều vảy
Belonidae
Xenentodon canciloides (Bleeker, 1853)
x
x
M
VIII. Bộ MANG LIỀN SYNBRANCHIFORMES
18. Họ Lươn
Monopteridae
76. Lươn
Monopterus albus (Zuiew, 1793)
x
x
x
x
x
M
19. Họ cá Chạch sông
77. Cá Chạch sông
Mastacembelidae
Mastacembelus armatus (Lacepede,
1800)
x
x
x
x
x
M
IX. BỘ CÁ VƯỢC
20. Họ cá Rô
78. Cá Rô
21. Họ cá Tai tượng
79. Cá Đuôi cờ
x
x
x
x
M
x
x
80. Cá Sặc bướm
PERCIFORMES
Anabantidae
x
Anabas testudineus (Bloch, 1792)
Osphronemidae
Macropodus opercularis Linneaus,
1758
Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770) x
22.Họ cá Bống trắng
81. Cá Bống trắng
Gobiidae
Glossogobius giuris (Hamilton, 1822)
82. Cá Bống sông Hồng
83. Cá Bống suối
84. Cá Bống đá
Rhinogobius honghensis Chen, Yan &
Chen, 1999
Rhinogobius duospilus (Herre, 1935)
Rhinogobius giurinus (Rutter, 1897)
85. Cá Bống đá khe
Rhinogobius leavelli (Herre, 1935)
23. Họ cá Rô phi
86. Cá Rô phi thường
Cichlidae
Oreochromis mosambicus (Peters,
1852)
Oreochromis niloticus (Linnaeus,
1758)
Channidae
Channa striata (Bloch, 1793)
Channa maculata (Lacepede, 1802)
87. Cá Rô phi vằn
24. Họ cá Quả
88. Cá Quả, Cá Lóc
89. Cá Chuối hoa
X. BỘ CÁ BƠN
25. Họ cá Bơn
90. Cá Bơn cát
XI. BỘ CÁ NÓC
26. Họ cá Nóc
46
x
x
M
x
M
x
x
M
x
PV
x
x
M
x
x
x
M
x
x
x
M
x
x
x
x
M
x
PLEURONECTIFORMES
Soleidae
Cynoglossus trigrammus Gunther, 1842 x
TETRAODONTIFORMES
Tetraodontidae
M
x
x
M
x
x
x
EN PV
PV
91. Cá Nóc
Tổng số
Fugu ocellatus (Osbeck, 1757)
x
x
x
51 58 70 25 55 11
Chú thích: 1) Sông Thao; 2) Sông Đà; 3) Ngã ba sông Hồng; 4) Sông Hồng;
5) Sông Lô; 6) Phân hạng theo Sách Đỏ Việt Nam, 2007
7) Nguồn tài liệu: M- Mẫu vật, PV- Phỏng vấn
Từ kết quả nghiên cứu ở Bảng 5 và Hình 5 cho thấy: vùng nước Ngã ba
sông Hồng có số lượng loài nhiều nhất (70 loài), tiếp đó là sông Đà với 58
loài, sông Lô 45 loài. Sông Hồng (đoạn từ đoạn từ Việt Trì xuống Vĩnh
Tường) có số loài ít nhất (chỉ 25 loài). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra ở
sông Lô có nhiều loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế nhất, như cá Anh vũ, cá
Rầm xanh, cá Chiên, cá Lăng, cá Măng. Do sông Lô có đặc điểm nước
trong, với nhiều hang, nền đáy đá, nhiều rêu, nên cá Rầm xanh, Anh vũ cư
trú và sinh sản tập trung ở vùng này. Mùa nước cạn, mực nước sông Lô
xuống thấp, nên cá Anh vũ, Rầm xanh theo dòng chảy, di chuyển xuống
vùng ngã ba Việt Trì, nơi có vực nước sâu, và nhiều hang hốc để trú ngụ.
Trên sông Đà có nhiều loài cá to như cá Chiên, cá Lăng, cá Ngạnh, cá
Măng sinh sống, đặc biệt là ở vùng dưới chân đập hồ Hoà Bình. Trên sông
Thao có nhiều loài cá quý như cá Trắm cỏ, cá Măng, cá Chầy mắt đỏ. Trên
sông Hồng lại có các loài đặc trưng như cá Lăng, cá Ngạnh, cá Chiên, cá
Trắm cỏ, đặc biệt là cá Mòi cờ hoa di cư từ biển vào sinh sản.
Vùng Ngã ba sông Hồng là nơi hợp lưu của các sông Đà – sông Lô –
sông Thao, nên thành phần loài cá đa dạng nhất, với nhiều loài cá quý. Nơi
đây cũng là nơi cư trú, bãi đẻ, của nhiều loài cá, nhất là những loài cá lớn,
sống đáy, ưa thích hang hốc và nền đáy cát sỏi như cá Lăng, cá Chiên, cá
Ngạnh. Đây cũng là nơi trú ngụ của Cá Anh vũ, Rầm xanh trong mùa nước
cạn, di chuyển từ sông Lô xuống, khi mực nước sông Lô xuống thấp. Vùng
47
PV
ngã ba này cũng là địa điểm ưa thích của những loài cá di cư sinh sản từ biển
vào như Cá Mòi cờ hoa, cá Cháy.
số loài
70
70
58
60
55
51
50
40
30
25
20
10
0
vùng
sông
Thao
sông
Đà
Ngã ba
s Hồng
sông sông Lô
Hồng
Hình 5: Số loài cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
3.3.2. Đặc trưng về cấu trúc khu hệ cá
Kết quả Bảng 6 và Hình 6 chỉ ra rằng, khu hệ cá tại vùng Ngã ba sông
Hồng và vùng phụ cận khá đa dạng, gồm 91 loài thuộc 11 bộ, 26 họ, 75
giống. Trong đó, bộ cá Chép là đa dạng nhất (53 loài, 58,2 %), bộ cá Nheo
(13 loài, 14,3 %), bộ cá Vược (12 loài, 13,2 %). Các bộ cá khác chỉ chiếm
giá trị rất nhỏ (từ 1,1% đến
Bảng 6. Cấu trúc thành phần loài theo các bộ cá ở vùng Ngã ba sông
Hồng và phụ cận
stt
Tên khoa học
Số họ
48
Số giống
Số loài
n
%
n
%
n
%
1
Clupeiformes
2
7,7
3
4,0
3
3,3
2
Salmoniformes
1
3,8
1
1,3
1
1,1
3
Anguilliformes
2
7,7
2
2,7
2
2,2
4
Characiformes
2
7,7
2
2,7
2
2,2
5
Cypriniformes
3
11,5
43
57,3
53
58,2
6
Siluriformes
6
23,1
12
16,0
13
14,3
7
Beloniformes
1
3,8
1
1,3
1
1,1
8
Synbranchiformes
2
7,7
2
2,7
2
2,2
9
Perciformes
5
19,2
7
9,3
12
13,2
10
Pleuronectiformes
1
3,8
1
1,3
1
1,1
11
Tetraodontiformes
1
3,8
1
1,3
1
1,1
26
100
75
100
91
100
Tổng
Xét tính đa dạng về bậc họ cho thấy: Đa dạng nhất là bộ cá Nheo với 6
họ chiếm 23,1 %, tiếp đến là bộ cá Vược với 5 họ chiếm 19,23 %, bộ cá
Chép với 3 họ chiếm 11,3 %. Có 4 bộ là bộ cá Trích, bộ cá Chình, bộ cá
Chép mỡ, và bộ Mang liền có 2 họ chiếm 7,7 %, 4 bộ còn lại mỗi bộ chỉ có 1
họ chiếm 3,8 %.
Về bậc giống: Đa dạng nhất là bộ cá chép với 43 giống chiếm 57,3 %,
tiếp đến là bộ cá Nheo với 12 giống chiếm 16 %. Bộ cá Vược với 7 giống
chiếm 9,3 %. Bộ cá Trích với 3 giống, chiếm 4,0 %. Còn lại các bộ cá
Chình, bộ cá Chép mỡ, bộ Mang liền có số lượng 2 giống. Các bộ còn lại với
số lượng 1 giống.
49
Về bậc loài: Đa dạng nhất là bộ cá Chép với 53 loài chiếm 58,2 %. Tiếp
đến là bộ cá Nheo với 12 loài chiếm 14,3 %. Bộ cá Vược với 12 loài chiếm
13,2 %. Bộ cá Trích có 3 loài chiếm 3,3 %. Các bộ còn lại có số loài rất ít
(từ 1 – 2 loài).
14%
59%
13%
14%
Cypriniformes
Siluriformes
Perciformes
Nhóm khác
Hình 6: Tỷ lệ loài của các bộ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
3.3.3. Các loài cá quý hiếm, nằm trong Sách Đỏ Việt Nam
Trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội, do những nguyên nhân khác
nhau nên nhiều loài động, thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt
chủng, các nguồn tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học không ngừng bị
suy giảm. Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) đã đưa ra các bộ
Sách Đỏ nhằm cung cấp một cách khoa học và có hệ thống danh sách về tình
trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt
chủng trên thế giới. Ở Việt Nam, việc đánh giá tình trạng bị đe doạ và phân
hạng theo tiêu chuẩn của IUCN, cũng như các dẫn liệu về phân bố, số lượng,
sinh học, sinh thái của các loài quý hiếm cũng như danh sách các loài quý
hiếm được tổng kết trong 2 tập Danh Lục Đỏ và Sách Đỏ Việt Nam (2007).
50
Theo kết quả điều tra khu hệ cá, đối chiếu với danh sách các loài cá
quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng được ghi trong Danh Lục Đỏ và Sách Đỏ
Việt Nam, 2007, cho thấy, ở vùng Ngã ba sông Hồng có 11 loài cá quý
hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng thuộc 6 họ, 4 bộ. Trong số đó, có 8 loài thu
được mẫu hoặc chụp ảnh trực tiếp (Cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Chuối hoa,
cá Măng, cá Lăng, cá Ngạnh, cá Chiên, cá Lợ, cá Mòi cờ hoa); 3 loài không
thu được mẫu (cá Chình nhật, cá Cháy, cá Chày chàng ) trong cả 3 đợt điều
tra thu mẫu. Các thông tin về tên loài, phân hạng, tập tính, nơi cư trú và hình
ảnh của chúng được thể hiện dưới đây và ở Phụ lục 5.
Cá Cháy (Tenualosa reevesi (Rich., 1846)) (Phân hạng: EN A1a,d
B2a,b,c). Cá sống ở biển, có tập tính di cư lên thượng nguồn sông để đẻ
trứng. Nơi đẻ trứng/phân bố: Sông Đà (Thác Bờ, Hòa Bình), sông Hồng
(Yên Bái, Phú Thọ), Sông Lô-Gâm.
Cá Mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa (L,. 1758) (Phân hạng EN A1a,d
B1+2a,b,c). Sống ở ven biển, có tập tính di cư lên thương nguồn sông để đẻ
trứng. Nơi đẻ trứng/phân bố: Sông Hồng (Việt Trì, Đoan Hùng), sông Lô,
sông Thao.
Cá Chình Nhật (Angilla japonica Tem. et Schle. 1846) (Phân hạng:
EW). Cá sống ở nước ngọt, khi thành thục di cư ra biển sâu đẻ trứng. Phân
bố: sông Hồng (Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định). Hiện nay, hầu
như không còn gặp cá Chình Nhật ngoài tự nhiên nữa. Qua 3 đợt khảo sát,
chúng tôi chỉ ghi nhận có cá Chình Nhật có ở gần Ngã ba sông Hồng, khu
vực Ba Vì, Hà Nội.
Cá Lợ thân thấp (Cyprinus multitaeniata Pell. & Chev., 1936) (Phân
hạng: EW). Phân bố ở sông Đà (Hoà Bình), Sông Thao (Phú Thọ, Yên Bái),
sông Lô - Gâm (Tuyên Quang).
51
Cá Măng (Elopichthys bambusa (Richard., 1884)). (Phân hạng: VU
A1c,d B2a,b). Cá sống ở trung lưu sông Hồng. Hiện cá Măng còn nhiều,
nhưng chủ yếu là loại nhỏ.
Cá Chày chàng (Ochetobus elongatus (Kner, 1867). (Phân hạng: VU
A1c,d B1+2a,b). Cá sống ở sông suối, hồ chứa Bắc Bộ đến sông Mã.
Cá Anh vũ (Semilabeo obscurus Lin, 1981) (Phân hạng VU A1c,d
B1+2a,b). Cá phân bố ở trung và thượng lưu sông Đà, sông Thao, sông
Chảy, sông Lô-Gâm.
Cá Rầm xanh (Sinilabeo lemassoni (Pell. & Chev., 1936)) (Phân hạng
VU A1c,d B2a,b). Cá phân bố chủ yếu ở trung và thượng lưu các sông lớn
thuộc hệ thống sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đà),
sông Thái Bình.
Cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus (Lacepede., 1803)) (Phân hạng
VU A1c,d B2a,b). Cá phân bố rộng tập trung chủ yếu ở trung và thượng lưu
các vùng sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy,
sông Thao, sông Đà), sông Thái Bình.
Cá Chiên (Bagarius rutilus Ng et Kottelat, 2000) (Phân hạng VU
A1c,d B2a,b). Các tài liệu thống kê được tới nay cho thấy, cá Chiên sống
trong các hệ thống sông lớn ở các tỉnh phía Bắc, có nhiều ở các hệ thống
sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đà), sông Thái
Bình.
Cá Chuối hoa (Channa maculata Lacepede, 1802) (phân hạng EN
A1c,d). Cá phân bố rộng ở các sông, hồ, ao Bắc Bộ.
3.3.4. Các loài cá có giá trị kinh tế
3.3.4.1. Danh sách các loài cá kinh tế
52
Cá kinh tế là những loài vừa có sản lượng cao, vừa có chất lượng tốt
được nhiều người ưa chuộng, khai thác phục vụ cho nhiều mục đích của đời
sống, trước hết dùng làm thức ăn, làm cảnh. Trên cơ sở các tài liệu đã nghiên
cứu và kết quả của 3 đợt điều tra cho thấy, các loài cá được coi là có giá trị
kinh tế ở khu vực Ngã ba sông Hồng hiện có 27 loài (Bảng 7, Hình 7).
Bảng 7: Danh sách các loài cá kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận
1. cá Mòi cờ hoa
16. cá Đục đanh
19. Lươn
2. cá Lăng
11. cá Trắm đen
20. cá Thiểu
3. cá Chiên
12. cá Bò
21. cá Mương
4. cá Ngạnh
13. cá Bỗng
22. cá Lành canh
5. cá Nheo
14. cá Anh vũ
23. cá Qủa, cá Lóc
6. cá Trôi ta
15. cá Rầm xanh
24. cá Vược sông
7. cá Chép
10. cá Vền
25. cá Rô phi vằn
8. cá Măng đậm
17. cá Diếc
26. cá Bống cát
9. cá Chày đỏ mẳt
18. cá Trê
27. cá Mè hoa
Trong số các loài cá kinh tế này, có những loài cá kinh tế phổ biến
cho cả nước như cá Chép, cá Nheo, cá Bống cát, cá Qủa,... Một số loài cá
chỉ có mặt ở trong vùng, là những đối tượng kinh tế, mang tính đặc trưng chỉ
có ở hệ thống Hồng hoặc khu vực Ngã ba sông như cá Trắm đen, cá Chiên,
cá Lăng, cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Mòi cờ hoa.
Cũng ở trong khu hệ cá này, một số loài trước đây có giá trị kinh tế,
có sản lượng cao, song hiện tại đã mất đi hoặc còn tồn tại nhưng sản lượng
rất thấp, trở thành loài quý hiếm như: cá Cháy, cá Mòi cờ hoa, cá Anh vũ,
Rầm xanh, cá Chình Nhật, cá Chiên, cá Lăng, cá Bỗng, cá Lành canh trắng.
Ngược lại, có loài trước đây ít được khai thác nhưng hiện nay lại trở thành
những loài rất giá trị, hoặc những loài mới di nhập tạo nên sản lượng khai
53
thác cao, đã trở lên quen thuộc trong đời sống của cư dân như: cá Vược
sông, cá Rô phi. Nhiều loài được tuyển chọn để nuôi trong các ao, hồ, lồng
bè (cá Trắm đen, cá Trắm cỏ, cá Mè hoa, cá Bỗng, cá Lăng, ...), hoặc nuôi
làm cảnh (cá Cọ bể, cá Đuôi cờ, cá Sặc, cá Vàng), hay có tác dụng như biện
pháp sinh học chống lại các mầm bệnh (diệt bọ gậy): cá Rô cờ, cá Sặc
bướm,...
3.3.4.2. Gía trị kinh tế
Trong các loại cá có giá trị kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng, loài có
giá thành cao nhất hiện nay là: cá Anh vũ: 2-4 triệu/kg; cá Rầm xanh 0,8-1
triệu/kg; cá Chiên 400-800 nghìn/kg; cá Ngạnh 400-500 nghìn/kg; cá Lăng:
200 nghìn/kg; cá Chép: 60-100 nghìn/kg; cá Măng: 100-120 nghìn/kg; cá
Chày mắt đỏ: 40-60 nghìn/kg; cá Đục: 100 nghìn/kg (Bảng 8). Nhìn chung,
giá bán các loài cá tăng đáng kể so với trước đây, nhưng do sản lượng cá
thấp, đánh bắt thất thường nên đời sống ngư dân vẫn khá vất vả, khó khăn.
Bảng 8: Gía bán một số loài cá kinh tế (09/ 2009)
Loại cá
Tại thuyền
chợ Việt Trì
Hà Nội
(Ngã ba sông Hồng)
Cá Mòi cờ
20-30
40-45
70-90
Cá Lăng
400
500
500-700
Cá Chiên
200-300
500
500
Cá Ngạnh
400-500
600-700
900-1000
Cá Nheo
100
100-120
150
Cá Trắm đen
100-120
150
200-250
Cá Trắm cỏ
80
100
100-150
Cá Chầy mắt đỏ
30-40
50-60
/
Cá Đục đanh
80- 100
120
200
Cá Trôi ta
20-40
50
/
Cá Rô phi
10-20
20-25
40-80
54
Cá Lành canh
10-20
40
/
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
Như vậy, khu hệ cá vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận khá đa dạng
về thành phần loài, trong đó số loài có giá trị kinh tế có đến 27 loài, đặc biệt
là số lượng loài quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao, có tên trong Sách Đỏ
Việt Nam, 2007 là 11 loài, (Hình 7). Do vậy, vùng Ngã ba sông Hồng là một
trong những thuỷ vực nội địa có số lượng loài bị đe doạ rất lớn.
100
91
90
80
70
60
50
40
27
30
20
11
10
0
tổng số loài
loài kinh tế
loài trong
SĐVN
Hình 7: Thành phần các nhóm loài trong khu hệ cá vùng nghiên cứu
3.3.5. Đặc tính sinh học của cá Mòi cờ hoa.
Cá Mòi cờ hoa là loài cá nhỏ, sống ở Vịnh Bắc Bộ. Hằng năm đến
mùa đẻ trứng, cá di cư vào hệ thống sông lớn của Miền Bắc, nhất là hệ thống
sông Hồng để sinh sản, trở thành nguồn lợi lớn cho cư dân dọc các triền
sông. Cá có thịt thơm ngon, là món ăn đặc sản của cư dân hai bên sông, nhất
là đối với người Hà Nội. Trước những năm 1964, sản lượng cá Mòi cờ hoa
khai thác thuộc Hưng Yên –Hà Nội là 700-800 tấn. Sau đó giảm dần và cuối
những năm 1960 đến nay, hầu như vắng bóng ở các chợ cá Hà Nội. Hiện tại,
55
cá Mòi cờ hoa được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 2007 [6], là loài cá có
nguy cơ tuyệt chủng cao, nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời thì loài cá
này có khả năng biến mất khỏi khu hệ cá của Việt Nam. Do đó, trong điều
kiện cho phép của luận văn này, tôi chỉ nghiên cứu đại diện loài cá Mòi cờ
hoa về đặc điểm sinh học của chúng khi di cư sinh sản trên sông Hồng,
nhằm để có số liệu và thông tin cần thiết cung cấp cơ sở khoa học cho việc
bảo tồn và phục hồi loài cá Mòi cờ hoa trước nguy cơ tuyệt chủng.
Thành phần kích thước của cá Mòi cờ hoa di cư: Kích thước cá Mòi
cờ hoa di cư vào sông Hồng sinh sản dao động từ 180 đến 240 mm tương
ứng với khối lượng từ 45 đến 145 g (Bảng 9 ).
Bảng 9: Sự phân bố kích thước cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm chiều dài
L(mm)
N (cá thể)
%
180-190
12
20.00
190-200
23
38,33
200-210
10
16,67
210-220
9
15,00
220-230
2
3,33
230-240
4
6,67
tổng
60
100
Từ bảng 9 cho thấy cá di cư có chiều dài từ 180-220 mm chiếm 90 %,
trong đó nhóm chiều dài từ 190 – 200 mm chiếm ưu thế nhất (38,3 %). Còn
các nhóm có chiều dài >220 mm chiếm tỷ lệ thấp (<10%). Đường cong phân
bố các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di cư vào sông Hồng sinh sản thể
hiện trong hình 8.
56
%
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
180-190
190-200
200-210
210-220
220-230
230-240
Lmm
Hình 8: Đường cong phân bố của các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di cư
Tương quan chiều dài khối lượng của cá Mòi cờ hoa di cư: Từ bảng
10 cho thấy, nhóm 1 tuổi có kích thước dao động từ 180- 202 mm, khối
lượng từ 45- 91,8 g chiếm ưu thế nhất (63,3 %), tiếp đến là nhóm 2 tuổi có
chiều dài dao động cừ 200- 220 mm, với khối lượng từ 100,5- 139,9 g.
Nhóm 3 tuổi có chiều dài từ 230- 240 mm, khối lượng từ 132,5- 144,5 g
chiếm tỉ lệ thấp nhất (6,6 %).
Bảng 10: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa
di cư trên sông Hồng
tuổi
W dao động (g)
W tb
L dao động (mm)
L tb
n
1
45- 91,8
71,27
180- 202
191,08
38
2
100,5-139,9
121,30
200-220
209,66
18
57
132,5-144,5
3
142,42
230-240
237,00
4
Như vậy tỉ lệ tăng trưởng giữa chiều dài và khối lượng diễn ra không
đều. Sự tương quan giữa hai đại lượng này được xác định theo công thức:
W= a.Lb. Bằng phương pháp quy hồi ta tính được a= 0,1908, b= 3,9707 với
hệ số tương quan r = 0,88.
Vậy phương trình tương quan chiều dài và khối lượng cá Mòi cờ hoa di
cư là :
W = 0,1908.L3,9707, với r = 0,88
W(g)
W= 0,1908. L3,9707
180
160
140
120
100
80
60
40
0
180 190 200 210 220 230 240 260
L (mm)
Hình 9: Tương quan chiều dài - khối lượng của cá Mòi cờ hoa
di cư trên sông Hồng
Cấu trúc tuổi của cá Mòi cờ hoa di cư: Cá Mòi cờ hoa có tuổi thọ
thấp, cấu trúc tuổi đơn giản. Theo Vũ Trung Tạng, cấu trúc tuổi của cá Mòi
cờ hoa ở biển gồm 5 nhóm từ 0+ đến 4+. Cá di cư sinh sản trên sông Hồng có
cấu trúc tuổi từ 1+ đến 3+. Không gặp nhóm cá 4 tuổi và 0 tuổi. Trong các
nhóm tuổi di cư này thì chủ yếu là nhóm tuổi 1+ chiếm 38 %, tiếp đến là
nhóm 2+ chiếm 18 %, nhóm 3+ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (4 %)
58
Độ béo của cá: Qua bảng 11 cho thấy, hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di
cư không cao và khác nhau giữa các nhóm tuổi. Độ béo của cá dao động từ
1,02.10-3 đến 1,3.10-3. Trong đó, cá 1+ có hệ số béo thấp nhất, tiếp đến là cá
3+, cá 2+ có hệ số béo cao nhất. Như vậy cá có tuổi cao hệ số béo lớn hơn.
Đặc biệt là nhóm cá 2 tuổi, đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển
mạnh, cường độ bắt mồi cao, lượng mỡ tích luỹ nhiều nên hệ số béo lớn. Cá
Mòi di cư hầu như không bắt mồi, trong ruột còn sót một ít mùn bã hữu cơ
và cát, nên chúng tôi không xác định độ no của cá.
Bảng 11: Hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi theo Fulton
(1902)
tuổi
W tb (g)
L tb (mm)
hệ số béo
1
71,27
191,08
1,022.10-3
2
121,30
209,66
1,316.10-3
3
142,42
237,00
1,07.10-3
Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa di cư: Qua bảng 12 về
phân bố sự phát triển tuyến sinh dục của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên
sông Hồng ta thấy nhóm cá 1+ có đầy đủ cả 4 giai đoạn chín muồi sinh dục
chứng tỏ nhóm 1+ đã chín muồi sinh dục và tham gia vào quá trình đẻ trứng.
Đồng thời nhóm 1+ này chiếm tỉ lệ lớn trong đàn cá di cư sinh sản. Nhóm cá
3+ đã hoàn toàn trưởng thành về mặt sinh dục.
Bảng 12: Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa
di cư theo nhóm tuổi
Giai đoạn chín muồi sinh dục
Nhóm
tuổi
I
%
II
%
III
%
IV
1
1
2,63
27
71,05
9
23,68
1
59
%
n
2.63 38 (63,33)
2
0
0
2
11,11
13
72,22
3
16.67 18 (30%)
3
0
0
2
50,00
1
25,00
1
25.00 4(6,67%)
Theo kết quả phân tích, thì sự chín muồi sinh dục của cá Mòi cờ hoa
di cư trên sông Hồng không có sự phân hoá rõ theo thời gian. Cá Mòi cờ hoa
thường di cư thành những đàn nhỏ lẻ trên sông, các cá thể trong đàn có mức
tuổi đồng nhất cao và giai đoạn chín muồi sinh dục gần nhau. Thời gian di
cư sinh sản tập trung và chỉ kéo dài khoảng 1,5- 2 tháng, từ giữa tháng 3 đến
đầu tháng 5.
Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa : Sức sinh sản tuyệt đối của cá Mòi di
cư trên sông Hồng dao động từ 13442 đến 104794 trứng, trung bình đạt
40887 trứng/ 1 cá thể. Sức sinh sản tuyệt đối của của các nhóm tuổi là khác
nhau, trong đó cao nhất nhóm 3 tuổi, cao gấp 1,92 lần nhóm 2 tuổi và gấp
3,5 lần nhóm 1 tuổi. Sức sinh sản tương đối dao động từ 437 đến 725 trứng/
1g khối lượng cơ thể. Trung bình đạt khoảng 469 trứng/ 1g. Sức sinh sản
tương đối của nhóm 3 tuổi cao nhất đạt 725 trứng/ 1g cao gấp 1,6 đến 1,7 lần
nhóm 1 và 2 tuổi. Sức sinh sản tương đối của nhóm 1 và 2 tuổi tương đương
nhau.
Bảng 13: Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên sông Hồng
SSTyD
tuổi
L (mm)
t/b
193
1
200
192
197
W (g)
t/b
64,6
193,9
66,8
66,5
(trứng)
SSTgD
t/b
52494
66,9
61,5
28934
25311
23604
60
trứng/g
t/b
813
29788
433
381
384
437
2
3
192
63,6
19080
300
184
51,6
20063
389
200
91,8
55380
603
193
68,4
13442
197
210
212,5
215
240
115,2
114
114,6
144,6
52400
54258
104794
53329
104794
40887
Trung bình
455
476
725
465
725
469
Từ những kết quả này cho thấy, cá Mòi cờ hoa vẫn còn tồn tại và hàng
năm vẫn di cư vào hệ thống sông Hồng để sinh sản, nhưng sản lượng ngày
càng giảm sút. Những chỉ tiêu cơ bản về đặc điểm sinh học của quần thể cá
chưa có biến động sâu sắc và hoàn toàn có khả năng phục hồi lại số lượng
quần thể. Do đó cần có những biện pháp như cấm khai thác cá Mòi cờ hoa
cá di cư sinh sản, đặc biệt là thời gian cá tập trung sinh sản và tại các bãi đẻ.
3.3.6. Các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống
3.3.6.1. Nơi cư trú
Trong khu vực Ngã ba sông tại Việt Trì và phụ cận, có thể phân biệt
các kiểu nơi sinh sống của quần xã thuỷ sinh vật như sau:
Bãi bồi cát ở lòng sông: Bãi có diện tích lớn ở khu vực giữa lòng sông
từ khu vực ngã ba sông Thao - sông Đà và ngã ba sông Lô - sông Hồng. Bãi
này thường nổi trong mùa khô, chỉ bị ngập vào mùa lụt. Vùng ven bãi bồi,
mực nước thấp thường là nơi cư trú của các nhóm động vật thân mềm hai vỏ
và các loài cá kích thước nhỏ. Các hang hốc ở bãi đá ven bờ sông là nơi cư
trú của nhiều loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế như cá Anh vũ, cá Lăng, cá
Chiên, cá Ngạnh.
Các vực nước sâu: Các vực nước sâu hơn tại các nơi sông nhánh gia
nhập dòng chính như ngã ba sông Đà, sông Thao, ngã ba sông Lô sông Hồng
61
thường là khu vực trú ngụ kiếm mồi của nhiều loài cá kinh tế, đặc biệt là nơi
cư trú của nhiều loài vào mùa kiệt.
Bãi ven sông : Bãi ven sông là dải đất dọc theo sông có thảm thực vật
đặc trưng che phủ. Cấu trúc thảm thực vật cũng như thành phần loài thực vật
trong bãi ven sông phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như chế độ thuỷ văn,
địa hình, thổ nhưỡng...Thảm thực vật bãi ven sông đóng góp nguồn dinh
dưỡng và các vật chất hữu cơ là thức ăn cho giới động vật thuỷ sinh, đặc biệt
là cá ở sông.
Đồng bằng ngập lụt ven sông: Đồng bằng ngập lụt ven sông là vùng
đồng bằng bị ngập lụt ở hai bên bờ sông vào thời kỳ nước lớn. Thời điểm
khảo sát vào mùa kiệt (2009-2010), nên khu vực khảo sát chủ yếu là cảnh
quan đồng bằng và có thể thấy rõ vùng bãi ngập lụt là các bãi rộng lớn hàng
trăm mét ở hai bờ sông. Trên bãi ngập lụt ven sông, vào mùa kiệt là thảm
thực vật tự nhiên gồm cây bụi, cỏ. Kiểu thảm thực vật phụ thuộc vào điều
kiện khí hậu, thuỷ văn, địa chất và độ kiềm của đất và một số yếu tố khác.
Thảm thực vật này có tác dụng như là cơ sở cung cấp chất dinh dưỡng cho
thuỷ vực, là nguồn thức ăn, che mát, đồng thời là nơi đẻ trứng, hoặc cư trú
cho nhiều loài cá và thuỷ sinh khác vào thời kỳ ngập lụt.
Lụt là hiện tượng tự nhiên nhưng ảnh hưởng của chúng tới hệ sinh thái
sông rất là tinh tế. Quần xã thủy sinh vật sinh sống trong sông phải mất hàng
triệu năm mới thích nghi được với điều kiện môi trường ở đó. Vùng đồng
bằng ngập lụt ven sông tồn tại đơn giản đã trở thành một nơi cư trú trong
chu kỳ sinh thái của sông và phụ thuộc vào chu kỳ ngập lụt. Nhiều loài cá
phải đợi tới bắt đầu mùa ngập lụt là sinh sản. Nhiều loài ấu trùng côn trùng
đợi tới mùa ngập lụt là đẻ trứng, ấp trứng và biến thái. Ngập lụt cung cấp
nguồn thức ăn cho quần xã sinh vật ở các dòng suối. Lụt làm dòng sông trở
lên mầu mỡ hơn do sự xáo trộn dòng nước theo chiều ngang và theo chiều
62
thẳng đứng, làm phong phú thêm các thành phần trong chuỗi thức ăn tự
nhiên của dòng sông, tạo nhiều nguồn thức ăn cho cá. Như vậy, đồng bằng
ngập lụt được xem là nơi sinh sản, kiếm mồi của nhiều loài cá
3.3.6.2. Các bãi đẻ, bãi giống
Trên cơ sở tập hợp các dẫn liệu nghiên cứu từ trước tới nay, kết hợp
với những kết quả điều tra khảo sát bổ sung, một số khu vực sông ở vùng
Ngã ba sông Hồng và phụ cận được coi là những bãi đẻ của một số loài cá
quý hiếm, có giá trị kinh tế. Ngoài ra, vùng nước từ ngã ba sông từ Việt Trì
đến Tráng Việt (Vĩnh Phúc) còn là các bãi ương nuôi cá bột, cá giống của
các loài thuỷ sản. Các bãi đẻ, bãi giống một số loài được thể hiện trong Bảng
14.
63
Bảng 14. Bãi đẻ một số loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và vùng phụ cận
Tên loài
Phân bố
- Sông Đà
Cá Mòi cờ
hoa
Cá Cháy
Vị trí bãi đẻ
Thời kỳ sinh sản
S. Hồng: Từ ngã ba Việt
Trì đến Vĩnh Tường,Yên
Lạc, Tráng Việt-Mê Linh,
s. Thao (Phong Châu); s.
Đà (Trung Hà)
Mùa đẻ cuối
tháng 3-5, đẻ rộ
vào trung tuần
tháng 4
- Sông Hồng
Sông Hồng ?
- Sông Đà
Sông Đà ?
Mùa cá đẻ tháng
4-6
- Sông Lô
- Sông Thao
Đặc điểm bãi đẻ
Cá đẻ trứng trôi nổi theo dòng
chảy
Cá đẻ ở nơi nước chảy xiết,
đáy là cát sỏi nhất là nơi thác
ghềnh.
Sống tầng giữa. di cư từ
biển vào sông để sinh sản.
Trứng nở, phát triển thành
cá con khi ra tới biển.
Cá có tập tính di cư biển
sông
Sống nước ngọt, khi sinh
sản thì di cư ra biển. Trứng
nở thành cá con rạt vào ven
bờ, rồi ngược sông để sinh
trưởng và phát triển
Cá Chình
Nhật
- Sông Hồng
(Ba Vì)
Bãi đẻ ngoài biển sâu
Cá Lợ thân
thấp
Tuyên Quang
(s.Lô-Gâm);Phú
Hùng Lô (s.Lô)
Thọ (s.Thao)
Hoà Bình (s.Đà)
Tháng 4-5. Cá đẻ
trứng dính
Cá Măng
-Sông Hồng
Tháng 4- 7
Sông Đà, Lô, Thao, ngã ba
Việt Trì
Tập tính sống
64
Bãi đẻ thường là các khe suối,
nơi tiếp giáp giữa các nguồn
nước, có nhiều cỏ và lau sậy
Cá sống ở tầng đáy, chỗ cát
pha bùn và có nhiều cỏ
nước. Cá ăn tạp
Cá đẻ trứng trôi nổi. Cá đẻ ở
vùng trung lưu các sông lớn
Cá sống ở tầng giữa và tầng
trên. Cá dữ, ăn các loài cá
nhỏ, thường phân bố ở
-Sông Thao
những bãi đẻ của cá
Mương.
- Sông Lô, s. Đà
- Tứ Yên (s. Lô -Gâm)
Ngã ba s. Hồngs. Lô, Hoà Bình
(s.Đà) Yên Bái
(s.Thao) Tuyên
Quang (s Gâm)
Phú Thọ (s.Lô,
s. Gâm)
- Phong Châu (s. Thao)
Cá Rầm
xanh
Lào Cai, Yên
Bái (s.Thao),
Tuyên Quang,
Phú Thọ (s.Lô
Gâm) Hoà Bình
(s.Đà)
-Từ Tứ Yên trở xuống ngã
ba Việt Trì
Cá Chày
chàng
S. Đà, s. Lô, s.
Thao, s. Hồng
Cá Lăng
chấm
-Sông Hồng
Cá Anh vũ
- cách cầu Trung Hà 0,5
km (s. Đà)
-sông Hồng dưới cầu Việt
Trì 0,5km (Ngã ba Việt
Trì)
-Gần cầu Phong Châu (s.
Thao)
-Từ tháng 12 đến
tháng 3 năm sau
(Hoàng Đức Đạt,
1963)
Bãi đẻ của cá ở đáy sông, nơi
có nhiều đá hoặc hang hốc, và
có mức nước thay đổi từ 0,52m
-Tháng 2-5 (Bộ
Thuỷ sản 1996)
Tháng 12-2 năm
sau
Bãi đẻ nơi nước chảy xiết, đáy
nhiều sỏi đá.
Cá tập trung thành đàn lớn, đẻ
ban đêm, nhiệt độ thấp
Tháng 5-7 ở các
vùng nước chảy.
trứng trôi nổi
s.Hồng, (dưới hợp lưu s.
Đà s. Thao), từ ngã ba Việt
Tháng 4-6 (tập
trung vào tháng
65
Cá thích sống ở nơi nước
trong, nước chảy chậm,
nhiều sỏi đá, hoặc trong khe
suối. Mùa lũ thường sống ở
các sông suối nhỏ. mùa cạn:
cá di chuyển từ sông Lô,
sông Đà ra ngã ba Việt Trì.
Mùa khai thác chủ yếu vào
mùa cạn tháng 1-4.
Cá sống đáy, nơi nước
chảy, đáy nhiều sỏi đá và
rong rêu. Cá xuất hịên
nhiều vào mùa đông (mùa
cá đẻ), các mùa khác ít
thấy.
Cá sống trong các sông suối
nước chảy và hồ chứa
Khi sinh sản cá di cư lên vùng
trung và thượng lưu các sông ,
Loài bơi lội hoạt bát, ăn
động vật, phân bố chủ yếu ở
-Sông Thao
- S. Lô -Gâm
Trì xuống Vĩnh Tường,
Yên Lạc, Tráng Việt, Hà
Nội
5-6), có thể kéo
dài tới tháng 8.
Cá đẻ trứng trong hang đá, hốc
ngầm tự nhiên hoặc đào hố để
đẻ, trứng chìm, dính. Cá bố mẹ
chăm sóc con.
-Sông Đà
Cá Chiên
Lào Cai, Yên
Bái (s.Thao),
Tuyên Quang,
Phú Thọ (s. Lô
Gâm)
-Sông Hồng (ngã ba Việt
Trì trở xuống Yên Lạc,
-Sông Đà (từ Hoà bình về
cầu Trung Hà),
Tháng 3-6 hoặc
có thể muộn hơn.
- Sông Lô, ngã ba Việt Trì
trở lên)
-Sông Thao
Cá Chuối
hoa
Cá Trắm
Khu vực các
tỉnh phía bắc
nơi nước chảy, đáy nhiều sỏi
đá.
Các ao đầm ven sông Lô,
sông Đà, sông Thao
Tháng 5-10. cá đẻ
nhiều đợt trong
mùa đẻ
S. Thao (Lào Cai-Yên
Bái). s. Lô (Bến Then-
Tháng 5-7
66
Khi sinh sản cá thường di cư
lên trung và thượng lưu các
sông lớn, nơi nước chảy mạnh,
đáy nhiều sỏi đá và có độ sâu
lớn. Đẻ trứng ở đáy, trong các
hang hốc, trứng dính vào đáy
hoặc tổ do bố mẹ đào. cá bố
mẹ có tập tính bảo vệ trứng và
cá con.
sông vùng trung du và đồng
bằng. Có 2 mùa khai thác:
tháng 3-6 (trước di cư sinh
sản); tháng 9-10 (di trú
đông).
Phân bố chủ yếu ở trung
lưu sông. Khai thác quanh
năm, nhiều nhất vào tháng
12-đến tháng 5 năm sau.
Trứng nổi và dính lại thành
đám. Cá bảo vệ trứng và cá
con.
đến mùa sinh sản cá sống
thành từng đôi, làm tổ ở các
vùng gần bờ ao, đầm, hồ
sông ngòi. Chúng dọn sạch
các cây cối thuỷ sinh để đẻ
trứng.
Cá đẻ trứng trôi nổi theo dòng
nước.
Di cư lên trung lưu các
sông tìm nơi nước chảy
đen
Đoan Hùng, Phú Thọ)
Cá Trắm cỏ
S. Thao (Trấn Yên,Yên
Bái), s.Lô (Tuyên Quang)
Tháng 4-6
Trứng đẻ trôi nổi
-Sông Thao (Phong Châu),
Tháng 4-6, cá đẻ
nhiều đợt trong
mùa sinh sản
Bãi đẻ ven hồ thuộc lưu vực
các sông.trứng trôi nổi, cá con
theo dòng nước
Tháng 3-6
Cá đẻ trứng trong hang hốc tự
nhiên hoặc tự đào hố ở đáy. Cá
bố mẹ bảo vệ trứng và con cái.
Vào mùa đẻ cá rất dữ.
Cá Chày
Cá Ngạnh
-Sông Đà (Trung Hà)
-S. Đà (dưới chân đập Hoà
Bình tới Trung Hà,s. Hồng
mạnh
-Sông Lô
67
Cá sống ở tầng giữa và tầng
gần mặt, thích nghi với
nhiều loại thuỷ vực
3.4. HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN
LỢI CÁ Ở VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG
3.4.1. Hiện trạng nghề cá và nguồn lợi thuỷ sản
3.4.1.1. Thời vụ - đối tượng khai thác
Mùa vụ khai thác: Đối với nhóm ngư dân các làng chài sinh sống trực
tiếp ở trên các nhà thuyền trên sông thì thời vụ khai thác là quanh năm.
Những ngư dân này chỉ sống bằng nghề cá, chuyên đánh bắt thuỷ sản, đây là
những người khai thác chính và cung cấp nguồn cá chủ yếu cho người tiêu
dùng. Đối với một số ngư dân sống trên bờ thì thời vụ đánh bắt cá theo thời
vụ, phụ thuộc vào mùa sinh sản, thời tiết và các yếu tố ngoại cảnh khác.
Thông thường vào mùa nước cạn kiệt, cá bị dồn tập trung về nơi trũng,
người dân trên bờ rủ nhau đi đánh bắt và thu vét cá nhưng cũng có khi tập
trung khai thác vào mùa cá sinh sản, sau những trận mưa rào. Vào thời điểm
này, cá tụ tập ven các bãi cỏ ven bờ, trên những bãi bồi ngập nước, hoặc
những bãi đẻ ưa thích khác. Người dân tập trung đánh bắt tại những nơi này.
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nguồn lợi cá bị suy giảm do đánh bắt cá
bố mẹ đang sinh sản, hoặc dùng các phương tiện huỷ diệt như kích điện, nổ
mìn, làm chết hết những cá con, cá giống, dẫn đến không có nhóm cá bổ
sung.
Đối tượng khai thác: Đối với ngư dân các làng chài, họ đánh bắt tất cả
những loài cá thu được trong mẻ lưới tại vùng khai thác. Hiện tượng này phổ
biển ở những hộ dùng lưới kéo, lưới vét với kích cỡ mắt lưới nhỏ, họ tận thu
tất cả các loài cá, từ nhỏ đến lớn. Ngoài ra, một số ngư dân chuyên tập trung
chỉ đánh bắt một loại thuỷ sản như chuyên bắt cá Đục ở ven bờ, đội chuyên
đánh bắt cá Anh vũ, Rầm xanh, đội chuyên săn bắt cá lớn như cá Lăng, cá
Chiên, cá Ngạnh. Cũng có thể là các câu thủ, chuyên câu một loại cá nhất
định nào đó. Sự chuyên biệt của các nhóm đánh bắt này chủ yếu là do nguồn
68
lợi cá suy giảm, khó đánh bắt. Đặc biệt là các nhóm đối tượng này có nơi
sinh sống, trú ngụ, loại thức ăn, và thích hợp với dụng cụ đánh bắt khác
nhau, nên người đánh bắt phải tập trung và chuyên hoá đánh bắt từng nhóm
riêng biệt thì mới mang lại hiệu quả.
3.4.1.2. Ngư cụ khai thác
Qua điều tra, khảo sát và phỏng vấn ngư dân các làng chài và một số
khu dân cư quanh lưu vực Ngã ba sông Hồng cho thấy, ngư cụ chính của
ngư dân gồm có:
- Lưới rê 3 lớp (khoảng 300 nghìn/lưới rê), dùng được khoảng 1
tháng. Đây là loại lưới cước 6-8cm, dùng để bắt cá Mòi, cá Đục, tôm, tép và
là ngư cụ đánh bắt hiệu quả và thông dụng nhất của ngư dân. Đối với những
loài cá sống đàn, hoặc có tập tính di cư theo đàn như cá Mòi, cá Cháy, cá Rô
phi, cá Đục,... ngư dân chỉ giăng lưới, chặn dòng hoặc quây lại, là bắt được
gần như toàn bộ đàn cá. Cá mắc lưới rất khó thoát ra, vì có 3 lớp.
- Lưới dù: Mắt lưới to, dùng để đánh bắt cá to như cá Trắm, cá Măng,
cá Trôi, cá Lăng,...
- Lưỡi câu giàn (vàng câu): Một giàn câu khoảng 500 lưỡi, bắt tất cả
các loài cá, thường là các loài cá đáy.
- Kích điện: Trước đây thường rất phổ biến ở các hộ ngư dân. Có hộ
gia đình sắm 3-4 bộ kích này. Hiện nay, số lượng kích giảm nhiều, ngư dân
không dùng kích điện nữa, vì giá cả chi phí đắt.
- Một số ngư cụ như lưới vây, lưới kéo, lưới rùng, đăng, đáy, đó,...
cũng được ngư dân sử dụng. Ngoài ra, có một số ngư cụ chuyên dụng chỉ
đánh bắt cho một loại nhất định như: Cụp (khụp) chuyên dùng để đánh bắt
cá Anh vũ, Rầm xanh. Đối với các loại câu, thùy theo mỗi loại mồi khác
nhau sẽ thu được các loại cá khác nhau, chẳng hạn mồi là nội tạng động vật
(gan lợn, trâu, bò, lòng mề gà...) thì câu được cá Lăng, cá Chiên, Cá Ngạnh;
69
Mồi làm bằng mầm thóc thì câu được cá Trắm cỏ, cá Chép; Mồi giun thì câu
chủ yếu cá nhỏ và phổ biến như cá Rô phi, cá Rô đồng, các Đòng đong,...
3.4.1.3. Sản lượng, năng suất
Cho tới nay, có thể thấy nguồn lợi cá tự nhiên ở khu vực Ngã ba sông
Hồng và phụ cận đã bị suy giảm nhanh chóng. Điều đó thể hiện số lượng
thuyền đánh cá cũng như số lượng ngư dân chuyên nghiệp ở khu vực ít hơn
nhiều so với 20 - 30 năm trước đây.
Sản lượng các loài cá di cư từ ven bờ cửa sông vào thượng nguồn sông
Hồng để đẻ trứng giảm sút rõ rệt: Sản lượng khai thác cá Mòi cờ hoa
(Clupanodon thrissa) giảm nhiều qua các năm là một ví dụ. Hiện nay cá Mòi
cờ hoa không cho sản lượng khai thác. Nhiều bãi đẻ của cá Mòi cờ hoa trên
sông Đà (Chợ Bờ) đã bị mất do đập Hoà Bình chắn.
Cũng như cá Mòi cờ hoa, cá Cháy (Tenualosa reeverssi) cũng là cá di
cư vào sông Hồng đẻ trứng. Sản lượng cá Cháy trong sông Hồng năm 1962
là 21 tấn, năm 1963 là 17 tấn, năm 1964 là 10,7 tấn (Hồ Thế Ân, 1971) [2].
Nhiều năm nay không đánh bắt được cá Cháy trong sông Hồng. Các loài cá
có giá trị khác cũng giảm sút sản lượng và trở nên hiếm thấy như cá Chiên,
Lăng, Anh vũ, Rầm xanh... trên hệ thống sông Hồng. Theo các dẫn liệu
thống kê, sản lượng cá Anh vũ ở Việt Trì chỉ còn khoảng 30 % so với sản
lượng khai thác năm 1970-1971, thậm chí có thể còn thấp hơn nữa.
Sản lượng Cá Lành canh trắng Coilia grayii đánh bắt đã giảm đi nhiều.
Trước kia trung bình mỗi ngày đánh bắt được khoảng 20kg/ngày, nay chỉ
đánh được khoảng 1kg.
3.4.1.4. Nghề cá và những khó khăn của cộng đồng ngư dân
a) Kinh tế nghề cá và cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá
70
Về lao động nghề cá: Kết quả điều tra và thống kê đã ước tính được
khoảng 710-800 hộ tham gia khai thác cá trong sông Hồng, từ Phú Thọ tới
Hà Nội, (Bảng 15).
Bảng 15. Lực lượng lao động tham gia khai thác cá trên sông Hồng
Tỉnh
Số hộ khai thác cá
Phú Thọ
50-60
Vĩnh Phúc
55-60
Hòa Bình
90-100
Hà Nội
220-135
Nguồn: Số liệu điều tra của Viện NCHS, 2007 [32].
Cơ cấu nhóm tuổi của lực lượng lao động tham gia vào hoạt động khai
thác cá hầu hết từ 20 – 57 tuổi. Trong đó, nhóm tuổi từ 20 – 30 chiếm 21 %;
nhóm tuổi từ 31 – 40 chiếm 32 %; nhóm tuổi từ 41 – 50 chiếm 31 % và
nhóm tuổi từ 51 tuổi trở lên chiếm 16 %.
Ngư dân tham gia khai thác cá thuộc 2 nhóm chính là nhóm sống lưu
động trên sông nước và nhóm sống định cư trên bờ. Đối với nhóm ngư dân
sống lưu động trên sông nước, họ hầu hết chỉ làm nghề đánh bắt các đối
tượng thủy sản trên sông và đôi khi nuôi lồng bè quy mô nhỏ. Còn nhóm
ngư dân sống định cư trên bờ, cơ cấu nghề nghiệp có phần đa dạng hơn,
ngoài việc khai thác thủy sản họ còn làm nông nghiệp (chăn nuôi, trồng lúa,
trồng dâu nuôi tằm, trồng hoa màu,…), buôn bán nhỏ và các dịch vụ khác.
Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản có sự thay đổi theo các tháng trong
năm, phụ thuộc vào mùa vụ khai thác của các đối tượng thủy sản khác nhau
ở khu vực trong sông.
71
Thu nhập bình quân của ngư dân khai thác cá nhìn chung còn rất
thấp so với hiện trạng kinh tế của xã hội. Thu nhập bình quân của ngư dân
vùng trong sông khoảng 482.000đ/người/tháng, (Tổng cục thống kê, 2006).
Về nhà ở: Hầu hết các hộ ngư dân tham gia khai thác cá theo mùa trên
sông Hồng có xu hướng định cư xây dựng nhà ở ổn định trên bờ (40,6 %).
Một số hộ do thu nhập quá thấp chỉ đủ đáp ứng phần nào sinh hoạt hàng
ngày vẫn phải ở nhà tranh lá (18,3 %), đặc biệt, tỉ lệ hộ sống lưu động trên
thuyền còn rất cao (39,8 %).
Điều kiện sinh hoạt: Điều kiện sinh hoạt của hầu hết ngư dân khai
thác cá đều rất thiếu thốn, đặc biệt là các hộ ngư dân khai thác lưu động trên
sông. Nhiều hộ gia đình ngư dân có tới 4-5 người con, cả gia đình gồm
khoảng 6-7 người cùng sống trên 1 chiếc thuyền nhỏ (công xuất khoảng < 15
CV), với điều kiện sinh hoạt rất thiếu thốn về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, điện, nước,
nhu cầu giải trí đài, ti vi.
Cảng hoặc bến cá địa phương: Đối với nghề khai thác cá, hầu như
không có cảng cá, bến cá cố định để bán sản phẩm hoặc neo đậu tàu thuyền,
ngư dân chủ yếu tập trung thành các nhóm nhỏ ở dọc theo hai bên sông hoặc
trong các luồng lạch để đưa cá lên bờ. Cá khai thác được bán trong các chợ
địa phương hoặc các lái buôn đến tận nơi ngư dân khai thác để thu gom.
b) Khó khăn của cộng đồng ngư dân
Điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, thu nhập thấp, không có vốn để
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và cũng không có nhiều tài sản cố định đáng
giá để thế chấp ngân hàng. Nguy cơ rủi ro trong nuôi trồng thủy sản cao nên
nhiều hộ gia đình không dám đầu tư phát triển nuôi lồng bè. Nhiều gia đình
muốn chuyển lên bờ sinh sống nhưng do thiếu vốn, không có đất và trình độ
72
văn hoá thấp,...nên rất khó khăn để hoà nhập và sống trên bờ. Do nghèo nên
không đủ tiền cho con cái đi học, các dịch vụ y tế cũng rất hạn chế và không
được quan tâm. Theo phỏng vấn trực tiếp và tổng hợp các phiếu điều tra cho
thấy hầu hết dân chài đều muốn chuyển đổi nghề nghiệp, được vay vốn và
hỗ trợ đào tạo nghề để sớm lên bờ sinh sống.
Nhận thức của ngư dân về các vấn đề ô nhiễm môi trường, phòng trừ
dịch bệnh và bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn hạn chế. Do vậy, ngư dân rơi
vào vòng luẩn quẩn: nghèo đói – khai thác thủy sản – cạn kiệt – thu nhập
thấp, trình độ văn hóa thấp, dịch bệnh – nghèo đói.
3.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi cá
3.4.2.1. Tác động từ việc xây dựng các công trình thuỷ điện
Phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng cơ sở như việc xây dựng các đập
thủy điện và hồ chứa lớn phía thượng nguồn gây ảnh hưởng đến nguồn lợi
cá, đặc biệt ngăn cản các loài cá có tập tính di cư dài sông-biển, biển-sông
để sinh sản như cá Mòi cờ, cá Cháy, cá Chình, làm mất đi bãi đẻ tự nhiên
của loài dẫn đến giảm khả năng phục hồi và tái tạo của quần đàn tự nhiên.
Các đập thủy điện lớn trên hệ thống sông Hồng hiện nay như: thuỷ điện Hoà
Bình và thuỷ điện Sơn La trên sông Đà, đập Thác Bà trên sông Chảy, thuỷ
điện Tuyên Quang trên sông Gâm.
Theo tài liệu thống kê của Bộ Thuỷ sản (1996): Đập thuỷ điện Hòa
Bình đã làm mất bãi đẻ và chặn đường di cư sinh sản của nhiều loài cá kinh
tế trong đó nổi bật nhất là loài cá Mòi, cá Cháy, ước tính làm mất khoảng
500 triệu cá bột, làm giảm 50% trữ lượng tôm, cá nước lợ và biển nông. Sản
lượng cá Mòi trên sông Hồng trong thời gian 1964 - 1979 là 40 - 356
tấn/năm, đến nay cũng không còn khai thác hoặc là sản lượng rất thấp.
73
3.4.2.2. Ảnh hưởng từ phát triển công nghiệp
Công nghiệp phát triển, các nhà máy xí nghiệp mọc lên kéo theo lượng
chất thải ra môi trường tăng lên. Hầu hết chất thải của các nhà máy xí nghiệp
đều chưa qua xử lý, đã xả thải ra môi trường ngoài. Đặc biệt là đối với vùng
Ngã ba sông Hồng thì chất thải không chỉ ô nhiễm đến một vùng, mà còn
phát tán theo dòng nước gây ô nhiễm đến cả một lưu vực lớn. Ngoài chất
thải của các nhà máy, các sông còn phải chịu ảnh hưởng bởi những chất hoá
học trong hoạt động nông nghiệp như thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Chúng có thể
ngấm ra sông theo đường nước hoặc thông qua việc rửa các dụng cụ, bình
phun thuốc sâu trực tiếp trên sông.
Công ty TNHH Miwon Việt Nam, nằm ở trung tâm thành phố Việt Trì
được đánh giá là nơi ẩn chứa nhiều đe dọa về môi trường nhất. Công ty đã vi
phạm về việc bảo vệ môi trường như: Thải chất thải rắn không đúng quy
định về BVMT; Quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại không đúng
quy định về BVMT. UBND tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định buộc Công ty
Miwon phải ngừng sản xuất có phát sinh nước thải gây ô nhiễm và để khắc
phục ô nhiễm môi trường. Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao
(huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), trong quá trình sản xuất, nước xả thải của
công ty vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 lần đến dưới 5 lần; Thải khí S02 vượt
tiêu chuẩn môi trường cho phép vào môi trường dưới 2 lần; Quản lý, vận
chuyển và xử lý chất thải không theo đúng quy định về bảo vệ môi trường...
Ngoài ra, công ty Giấy Bãi Bằng ở thị trấn Phong Châu (huyện Phù Ninh,
Phú Thọ), cũng được xem là đáng báo động với những vi phạm cụ thể: Xả
nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 lần đến dưới 5 lần; Quản lý, vận
chuyển và xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định về BVMT...
3.4.2.3. Do khai thác nguồn lợi quá mức
74
Khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản: Gia tăng dân số dẫn đến nhu
cầu thực phẩm tăng, khai thác thủy sản tăng để đáp ứng nhu cầu xã hội. Đặc
biệt là do nhận thức của ngư dân yếu, nên mặc dù cuộc sống đã khó khăn,
nhưng thường họ lại sinh đẻ nhiều, nghèo đói không có tiền cho con cái ăn
học và sinh hoạt hàng ngày, lớn lên họ lại tiếp tục nghề khai thác truyền
thống của cha mẹ. Đặc điểm của phần lớn các hộ ngư dân là sống lưu động
trên thuyền bè, có cuộc sống chủ yếu dựa vào nghề khai thác thủy sản trên
sông. Do khai thác nhiều năm hoặc kinh nghiệm từ đời trước để lại, nên các
hộ ngư dân có khả năng nhận biết rất rõ được thời gian cá di cư sinh sản, địa
điểm có thể khai thác được cá, phương pháp và ngư cụ sử dụng để có thể
khai thác tận thu. Vì vậy, các loài cá, đặc biệt các loài cá quý hiếm, có giá trị
kinh tế càng bị khai thác với cường độ cao và tập trung trong mùa sinh sản
làm cho nguồn lợi bị suy giảm nhanh chóng, không kịp phục hồi lại số lượng
quần thể. Thậm chí một số loài như cá Cháy, nhiều năm nay không thấy xuất
hiện ở vùng ngã ba sông-vốn trước đây là bãi đẻ trứng của loài cá này.
Khai thác bừa bãi cát, sỏi trong lòng sông: Hiện nay, có rất nhiều
điểm trên sông Lô, sông Hồng là khu vực khai thác cát, sỏi vào hầu hết các
tháng mùa kiệt. Chưa có dẫn liệu tổng hợp nhưng ước tính có tới hàng tháng
có hàng nghìn tấn cát, sỏi được khai thác làm nguyên liệu xây dựng. Việc
khai thác bừa bãi cát, sỏi trên sông dẫn tới những tác động nguy hại như biến
đổi lòng sông, dòng chảy. Điều đó làm xáo trộn hoặc phá hỏng những nơi cư
trú của các loài thuỷ sinh ở lòng sông và ven bờ.
3.4.2.4. Do nhận thức về hiện trạng và bảo vệ nguồn lợi còn hạn chế
Kết quả điều tra, thăm dò ý kiến của ngư dân khai thác và cư dân ven
sông ở địa phương cho thấy, hầu hết những người được phỏng vấn đều cho
rằng nguồn lợi cá đã và đang trong tình trạng suy giảm. Trong đó, 9 % số
75
người trả lời phỏng vấn cho rằng sự suy giảm nguồn lợi cá trong thời gian
qua là không nhiều, 22 % cho rằng khá nhiều, 34 % cho rằng rất nhiều và 15
% cho rằng sự suy giảm này là nghiêm trọng .
Tuy nhiên, khi hỏi về vấn đề bảo tồn nguồn lợi thủy sản thì hơn một
nửa (61,6 %) số người được phỏng vấn trả lời chưa bao giờ được nghe khái
niệm “Khôi phục và bảo vệ nguồn lợi thủy sản”, chỉ có khoảng 20,3 % tỉ lệ
biết đến khái niệm này và quan tâm đến vấn đề bảo vệ nguồn lợi, tỷ lệ còn
lại là không có ý kiến. Qua đó cho thấy nhận thức của ngư dân khai thác về
vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn rất hạn chế.
Mặt khác, hầu hết những người được phỏng vấn đều cho rằng, họ chưa
biết nhiều về Luật Thủy sản, hoặc các qui định về kích thước mắt lưới, đối
tượng cần bảo vệ, đối tượng cấm khai thác, ngư cụ cấm sử dụng. Tuy nhiên,
một số người dân mặc dù đã biết nhưng không thực hiện, do vậy, vẫn xảy ra
hiện tượng vi phạm trong khai thác thủy sản.
Ngoài ra còn có thể kể đến ảnh hưởng do di nhập các loài sinh vật ngoại
lai xâm hại, cũng như ảnh hưởng của việc biến đổi khi hậu toàn cầu:
Việc du nhập không kiểm soát được các loài sinh vật ngoại lai từ các
nguồn khác nhau với những mục đích khác nhau đã gây không ít khó khăn
cho các nhà quản lý, nhưng điều nguy hiểm hơn là nhiều loài trong đó đã trở
thành loài xâm hại, đã phát tán ra môi trường tự nhiên, gây ảnh hưởng tới
môi trường sống và đe doạ ĐDSH ở những địa phương chúng phát triển như
Ốc bươu vàng (Pomacea caniculata, P. brigedsi) hoặc một số loài Tôm càng
đỏ, Rùa tai đỏ,...
Hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu có xu hướng diễn ra nhiều hơn, thể
hiện ở những hình thái khí hậu và chế độ thuỷ văn cực đoan. Năm 2009, mực
76
nước sông Hồng tại Hà Nội ở mức thấp hơn mức trung bình nhiều năm cùng
kỳ 1,16 m. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện bãi đẻ, ngăn cản đường
di cư của cá Mòi cờ hoa, cá Cháy, thậm chí gây tử vong,...
3.4.3. Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá
Từ những kết quả phân tích ở trên cho thấy, khu vực Ngã ba sông
Hồng và phụ cận là con đường di cư của cá trên sông và nơi cư trú quan
trọng để việc kiếm mồi, sinh sản, sinh trưởng và phát triển của các loài cá
quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Mặt khác, khu hệ cá và các loài thuỷ sinh ở
đây khá phong phú đa dạng (91 loài cá, nhiều loài thân mềm...). Kết quả
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nguồn lợi thuỷ sản ở khu vực Ngã ba sông
Hồng đã suy giảm nhanh chóng do khai thác bừa bãi, không hợp lý, ô nhiễm
môi trường,... Do vậy, để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở đây, chúng tôi đề xuất
3 nhóm giải pháp sau:
3.4.3.1. Bảo tồn đa dạng cá
Để bảo tồn đa dạng sinh học cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận,
cần tiến hành nhiều giải pháp như: giảm áp lực do khai thác quá mức, giảm
các hoạt động thu hẹp và huỷ hoại các hệ sinh thái, sinh cảnh và nơi sống,
giảm thiểu ô nhiễm môi trường,...
Từ những kết quả nghiên cứu trên, đối với vùng nước Ngã ba sông
Hồng, chúng tôi đề xuất hai hình thức bảo tồn các loài cá hay mở rộng hơn
là bảo tồn đa dạng sinh học.
- Bảo tồn nguyên vị (In-situ): Bảo vệ các hệ sinh thái và sinh cảnh tự
nhiên để duy trì và phát triển các loài trong điều kiện môi trường mà chúng
từng sống. Hình thức này được thực hiện trên cơ sở thiết lập Khu bảo tồn
hoặc khu dự trữ sinh quyển. Dựa vào kết quả nghiên cứu về khu hệ cá,
77
chúng tôi cho rằng thích hợp nhất là thành lập Khu bảo tồn thuỷ sản nội địa
vùng Ngã ba sông Hồng; hoặc Khu dự trữ sinh quyển vùng nước Ngã ba
sông Hồng. Ngoài ra còn phải thiết lập các vùng cấm hoặc hạn chế đánh bắt,
thời gian cấm hoặc hạn chế đánh bắt, kích thước mắt lưới tối thiểu được
phép sử dụng trong khai thác nhằm bảo vệ các đối tượng này cũng như các
thời kỳ và giai đoạn thiết yếu trong đời sống của chúng (thời kỳ đẻ trứng,
giai đoạn trứng, ấu trùng, con non,...). Khu bảo tồn một khi được đưa vào
hoạt động hiệu quả sẽ tạo ra "hiệu ứng tràn", phát tán nguồn lợi từ khu bảo
tồn ra các vùng lân cận.
- Bảo tồn chuyển vị (Ex-situ): Bảo tồn các loài ngoài sinh cảnh tự
nhiên của chúng. Bảo tồn chuyển vị nhằm bảo tồn các nguồn gen thuỷ sản
quý đang có nguy cơ biến mất. Do một số đối tượng thuỷ sản bản địa có giá
trị đặc biệt cũng như nguồn lợi chung suy giảm nên có thể kết hợp thả lại
giống nhằm khôi phục kích thước quần thể của chúng. Một số loài cá quý
hiếm bản địa, có giá trị kinh tế cao, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng nước
Ngã ba sông Hồng có thể áp dụng biện pháp bảo tồn này là: cá Anh vũ, cá
Rầm xanh, cá Cháy, cá Chình nhật, cá Lợ thân thấp, các Lăng, cá Chiên, cá
Ngạnh, cá Măng,... Hiện tại, Bộ NNPTNT, Chi Cục thuỷ sản Phú Thọ, Vĩnh
Phúc đã tiến hành nuôi dưỡng và cho sinh sản nhân tạo thành công loài cá
Anh vũ, Rầm xanh, Lăng, ... Đây là tín hiệu khả quan cho việc lưu giữ
nguồn gien quý, cũng như cung cấp nguồn giống thả lại môi trường, nhằm
phục hồi lại các quần thể cá quý hiếm này.
3.4.3.2. Khai thác hợp lý nguồn lợi cá.
Khai thác hợp lý nguồn lợi cá được hiểu là con người chỉ có quyền thu
hồi phần giá trị gia tăng sản lượng của các quần thể cá khai thác sau mỗi lần
đánh bắt. Tài nguyên cá chỉ được coi là vô tận khi chúng ta biết khai thác
78
hợp lý, biết bảo tồn và phát triển. Đi đôi với khai thác, là nuôi trồng thuỷ sản
(chủ yếu là cá) là biện pháp hữu hiệu nhằm giảm áp lực khai thác lên nguồn
lợi tự nhiên, đáp ứng nhu cầu ngày một cao của con người khi nguồn lợi cá
bị giới hạn và ngày một suy giảm. Đối với vùng nước Ngã ba sông Hồng,
yếu tố quan trọng nhất để khai thác hợp lý tài nguyên cá là đảm bảo đối
tượng khai thác có đủ khả năng và điều kiện cần thiết để khôi phục lại số
lượng ban đầu sau mỗi lần khai thác. Để đảm bảo yêu cầu này cần chú ý:
- Chỉ khai thác những đối tượng cá trưởng thành, đủ kích cỡ. Kích
thước mắt lưới đủ lớn để các loại cá nhỏ không bị bắt.
- Không đánh bắt cá bố mẹ đang trong mùa sinh sản.
- Không dùng lưới vét.
- Không sủ dụng phương tiện đánh bắt huỷ diệt như kích điện, nổ mìn,
dùng hoá chất, ruốc độc,...
Mặt khác, cũng cần chú ý rằng, vùng nước Ngã ba sông Hồng có diện
tích nước mặt lớn, chất lượng nước còn khá sạch, dinh dưỡng cao và nguồn
nước được trao đổi liên tục. Đây là yếu tố thuận lợi để người dân và các
doanh nghiệp đầu tư nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là các loài cá bản địa,
nhằm giảm áp lực lên khai thác nguồn cá tự nhiên, đồng thời đáp ứng cho
nhu cầu thực phẩm trong nước và phục vụ xuất khẩu. Đối tượng cá nuôi hiện
nay khá đa dạng và nhiều loài thích nghi nhanh, sinh trưởng mạnh và đem
lại lợi nhuận cao. Một số loài có thể áp dụng nuôi ở vùng nước Ngã ba sông
Hồng như các loài cá bản địa: cá Trắm đen, cá Lăng, Lươn, cá Chình,... Có
thể nuôi các loài cá nhập nội như Trắm cỏ, cá Chép, cá Mè, cá Chim,...
nhưng phải được kiểm soát chặt chẽ.
3.4.3.3. Nâng cao năng suất sinh học cá
79
Để nâng cao năng suất sinh học cá ở vùng nước Ngã ba sông Hồng có
thể áp dụng các giải pháp khoa học sau:
a) Đảm bảo điều kiện cho sự tái sản xuất số lượng của quần thể.
Điều kiện tái sản xuất số lượng quần thể tự nhiên của nhiều loài cá đã
bị suy thoái hoặc huỷ hoại hoàn toàn. Việc đắp kè, đập trên sông, xây dựng
các hồ chứa ở phía trên thượng lưu sông Đà, sông Lô- Gâm, sông Thao
không chỉ ngăn chặn con đường di cư của các loài cá hạ lưu lên vùng trung
lưu, thượng lưu các sông này để sinh sản mà còn làm cho nhiều bãi đẻ trên
sông bị biến mất do ở đó chế độ dòng chảy được thay bằng chế độ nước tĩnh
của hồ chứa. Do vậy, cần tiến hành nghiên cứu áp dụng phương pháp sinh
sản nhân tạo hay dục đẻ nhân tạo của các loài cá bản địa để tạo nguồn giống
trả lại cho môi trường tự nhiên. Sản lượng hiện nay của các loài cá kinh tế
của vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận như cá Anh vũ, cá Rầm xanh,
cá Chiên, cá Bỗng, cá Mòi cờ, cá Cháy, ... suy giảm nhanh chóng do bị khai
thác quá mức; bãi đẻ trên các sông Đà, sông Thao, sông Lô và sông Hồng bị
thu hẹp hoặc bị mất nên nguồn giống bổ sung hàng năm của các loài cá này
giảm nghiêm trọng. Thả lại giống và làm giàu cho thuỷ vực vùng Ngã ba
sông Hồng bằng các loài cá bản địa có giá trị kinh tế cần được xem là một
biện pháp hữu hiệu để phục hồi kích thước quần thể của những loài cá đang
suy giảm sản lượng và đứng trước nguy cơ diệt vong, trong đó có các loài cá
quý hiếm có giá trị kinh tế cao, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng Ngã ba sông
Hồng như cá Mòi cờ, cá Cháy, cá Chiên, cá Anh vũ, cá Bỗng, cá Lăng, cá
Rầm xanh, cá Ngạnh,...
b) Di nhập những đối tượng mới có giá trị cao vào thuỷ vực.
Một trong những biện pháp khoa học để nâng cao năng suất thuỷ vực
là di nhập những đối tượng mới nhằm sử dụng nguồn thức ăn dư thừa mà
80
các loài cá kinh tế bản địa không sử dụng hoặc không sử dụng hết. Thực tế ở
nước ta đã bổ sung nhiều loài có giá trị kinh tế như cá Rô phi Oreochromis
niloticus, cá Rohu Labeo rohita, Mrigan Cirrhinus mrigala, cá Catla
Catlocarpio siemensis, cá Chim trắng Colosoma brachypomum. Tuy nhiên
cần lưu ý rằng, khi di nhập các loài có nguồn gốc ngoại lai cần nghiên cứu
thử nghiệm để tránh tình trạng những loài này gây tác động tiêu cực đến đa
dạng sinh học và môi trường của khu hệ động vật địa phương (cạnh tranh về
nơi ở, thức ăn đối với các loài bản địa, thậm chí tiêu diệt loài bản địa, đem
đến ký sinh trùng và dịch bệnh mới, ...). Một số loài cá được di nhập đến
vùng Ngã ba sông Hồng hiện nay như: cá Vược sông Prochilodus argenteus,
cá Chim trắng Colosoma brachypomum, cá Rô phi Oreochromis sp, cá Trê
phi Clarias gariepinus, ...đã thích nghi và mang lại hiệu kinh tế cao, góp
phần giảm áp lực khai thác nguồn lợi cá tự nhiên ở khu vực này. Tuy nhiên,
cần đặc biệt chú ý là loài cá Cọ bể, một loài cá làm cảnh, được nuôi làm
nhiệm vệ sinh các bể nước, nay đã thoát ra ngoài khu vực Ngã ba sông, sinh
trưởng và phát triển khá mạnh. Cá ăn thực vật, mùn bã hữu cơ, sinh sản
nhanh, thích nghi với nhiều điều kịên môi trường sống, nhưng lại không có
giá trị làm thực phẩm. Vì vậy, cần có các nghiên cứu, đánh giá tác động của
loài cá này lên môi trường và các loài cá bản địa.
c) Thực thi luật pháp
Hệ thống luật pháp liên quan trực tiếp đến bảo vệ nguồn lợi cá và
nâng cao năng suất sinh học ở các thuỷ vực gồm có: Luật bảo vệ môi trường;
Luật tài nguyên nước, Luật đất đai và đặc biệt là Luật thuỷ sản. Đây là cơ sở
pháp lý thiết yếu điều phối hoạt động của mọi lĩnh vực kinh tế và hành vi
của con người đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
81
Nguyên tắc trong hoạt động nghề cá là: Đảm bảo hiệu quả kinh tế gắn
với bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, tính đa dạng sinh học,
bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên, (trích điều 4 Luật thuỷ sản).
Nhà nước có chính sách bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là các
loài thuỷ sản đang có nguy cơ tuyệt chủng, các loài quý hiếm, loài có giá trị
kinh tế cao và các loài có ý nghĩa khoa học; khuyến khích nghiên cứu khoa
học để có biện pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn lợi thuỷ sản, đầu tư sản
xuất giống thuỷ sản để thả vào môi trường tự nhiên và tạo ra các vùng cư trú
nhân tạo nhằm tái tạo và phát triển nguồn lợi, (trích điều 8 Luật thuỷ sản).
Một trong những hành động tích cực để ngăn ngừa sự suy giảm nguồn
lợi hay sự biến mất của các quần thể cá có giá trị kinh tế ở các thuỷ vực nói
chung và vùng nước Ngã ba sông Hồng nói riêng là: Quy định các vùng cấm
đánh bắt và hạn chế đánh bắt, quy định kích thước tối thiểu của các đối
tượng được phép đánh bắt và kích thước mắt lưới tối thiểu được phép sử
dụng trong khai thác cùng với việc nghiêm cấm các hành động có tính chất
huỷ diệt nguồn lợi (chất nổ, hoá chất, bả độc, kích điện,...) trong khai thác,
gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của các loài thủy sản.
Để những điều luật này phát huy hiệu lực cần: Nâng cao năng lực tổ
chức thực hiện và quản lý của các cấp chính quyền từ cơ sở đến trung ương;
tăng cường nhận thức và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của quần
chúng; phối hợp và lồng ghép với các hoạt động kinh tế xã hội một cách hài
hoà trên cơ sở nhận thức của mọi đối tượng, từ các cấp chính quyền đến
người dân; có sự tham gia quản lý của cộng đồng hay nhà nước và nhân dân
đồng quản lý đa dạng sinh học, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường
theo hướng phát triển bền vững.
82
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
1. Tổng số loài cá được ghi nhận ở vùng Ngã ba sông Hồng là 91 loài
thuộc 11 bộ, 26 họ, 75 giống, trong đó bộ cá Chép là đa dạng nhất với
53 loài, chiếm 58,2%, tiếp đến là bộ cá Nheo với 13 loài, chiếm
14,3% và bộ cá Vược với 12 loài, chiếm 13,2%.
2. Trong khu hệ có 11 loài cá (thuộc 6 họ, 4 bộ) quý hiếm có tên trong
Sách Đỏ Việt Nam, 2007, có nguy cơ tuyệt chủng và 27 loài cá có giá
trị kinh tế.
3. Trong vùng Ngã ba sông Hồng hiện vẫn còn một số là bãi đẻ tự nhiên,
bãi kiếm ăn, nơi cư trú của nhiều loài cá, trong đó có nhiều loài cá quý
hiếm, có giá trị kinh tế như cá Anh vũ, Rầm xanh, cá Lăng, cá Chiên,
cá Ngạnh, cá Măng, cá Trắm đen, cá Nheo và hai loài cá di cư từ biển
vào sông sinh sản là cá Mòi cờ hoa và cá Cháy.
4. Đặc điểm sinh học của quần thể cá Mòi cờ hoa không có nhiều thay
đổi so với trước đây và có khả năng phục hồi lại số lượng quần thể
nếu áp dụng cấm đánh bắt cá bố mẹ trong thời gian cá sinh sản.
5. Do nhiều nguyên nhân như khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường,
đắp đập, xây thuỷ điện làm thay đổi dòng chảy, khai thác cát sỏi...dẫn
đến nguồn lợi thuỷ sản đã suy giảm nhanh chóng. Nhiều loài không
còn cho khả năng khai thác, một số loài trở lên hiếm gặp và có nguy
cơ biến mất khỏi khu hệ.
6. Để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản vùng Nước ngã ba sông
Hồng cần tiến hành đồng thời 3 nhóm giải pháp: Bảo tồn đa dạng cá;
Khai thác hợp lý nguồn lợi và nâng cao năng suất sinh học cá.
83
Kiến nghị
1. Cần nhanh chóng quy hoạch và đưa vào hoạt động Khu bảo tồn thuỷ
vực nội địa vùng nước Ngã ba sông Hồng, hoặc Khu dự trữ sinh
quyển vùng nước Ngã ba sông Hồng để bảo vệ, phục hồi và phát triển
các loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế cao.
2. Cần tiếp tục có những nghiên cứu và giám sát về môi trường, sinh thái
và những thay đổi trước, trong và sau khi xây dựng khu bảo tồn.
3. Các tổ chức chính quyền địa phương cần có các biện pháp hiệu quả để
quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác thuỷ sản, nghiêm cấm sử dụng
phương tiện đánh bắt huỷ như kích điện, nổ mìn và cấm đánh bắt cá
trong mùa sinh sản, đặc biệt là các loài cá di cư sinh sản như cá Mòi
cờ hoa, cá Cháy.
4. Cần hạn chế hoạt động khai thác cát sỏi, khoanh vùng khai thác và chỉ
cho phép khai thác theo thời gian thích hợp.
84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Hồ thế Ân (1971), Sự biến đổi nguồn lợi cá Mòi cờ di cư đẻ trứng trên sông
Hồng. Tạp chí Thuỷ sản, (1), tr. 14-19.
2. Hồ Thế Ân, Thái Bá Hồ, và nnk. (1971), Đặc trưng sinh học của cá Cháy
(Hilsa reevesii Rich.) trên hệ thống sông Hồng. Điều tra nguồn lợi thủy
sản nước ngọt. Nxb Khoa học kỹ thuật, tr. 99-115.
3. Ban chỉ đạo chương trình PTBV ngành Thuỷ sản (2006), Về định hướng
chiến lược phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam. Tạp chí Thuỷ
sản ( 5), tr. 9-12.
4. Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân (1998), Một số đặc điểm sinh học chủ yếu của
cá Lăng chấm Hemibagrus guttatus Lacepede trên sông Hồng. Tài liệu
Viện NCNTTSI.
5. Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng, Nguyễn Công Thắng (1999),
Một số đặc điểm sinh học cá Anh vũ trên sông Gâm. Các công trình
nghiên cứu năm 1999, Viện NCNTTS I, tr. 190-195
6. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần động vật. Nxb
Khoa học tự nhiên và Công nghệ.
7. Bộ TN&MT, Cục Bảo vệ môi trường (2005), Báo cáo hiện trạng môi trường
quốc gia-Chuyên đề ĐDSH. Bộ TN&MT, Cục Bảo vệ môi trường. Báo
cáo hiện trạng môi trường Quốc gia-Chuyên đề ĐDSH.
8. Bộ Thuỷ sản (1996). Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, 615 tr.
85
9. Bộ Thuỷ sản (2005), Một số thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ
ngành thuỷ sản (2001-2005) và định hướng phát triển. Nxb Nông nghệp,
Hà Nội, 195 tr.
10. Chính Phủ Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Thuỷ
sản.
11. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (2008), Hiện trạng khai thác và
sử dụng nguồn lợi cá mòi cờ hoa trên các sông ở khu vực Bắc Bộ.
12. Cục Kiểm Lâm, Bộ NNPTNT (2002), Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo
vệ tại Việt Nam (giai đoạn 2002-2010).
13. Nguyễn Hữu Dực, Mai Đình Yên (1994), Góp phần nghiên cứu họ cá Chình
ở Việt Nam. Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, (1), tr.
60-64.
14. Nguyễn Hữu Dực (1995). Góp phần nghiên cứu khu hệ cá nước ngọt Nam
Trung Bộ Việt Nam. Tóm tắt luận án PTS Sinh học, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I.
15. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Chiến
(2001), Kết quả bước đầu khảo sát khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận các
tỉnh Lai Châu và Sơn La. Tuyển tập Hội thảo quốc tế Sinh học. Liên hiệp
các hội KHKT Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 77-85.
16. Nguyễn Hữu Dực và nnk. (2003), Thành phần loài cá lưu vực sông Mã
thuộc địa phận tỉnh Thanh Hoá. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong
Khoa học sự sống. Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 69-72.
17. Hoàng Đức Đạt (1964), Dẫn liệu hình thái sinh học một số loài cá ở sông
Lô- Gâm. Tập san sinh vật địa học, (3), tr. 151-156.
18. Hồ Thanh Hải (1999), Tổng quan về điều kiện tự nhiên và thủy sinh vật hệ
thống sông Đà, dự báo tác động môi trường sinh thái khi xây dựng các
86
bậc thang thủy điện. Tài liệu Viện STTNSV, Dự án quy hoạch thủy điện
toàn quốc.
19. Hồ Thanh Hải (2000), Tổng quan về thủy sinh vật hệ thống sông Lô-GâmChảy. Tài liệu Viện STTNSV, Dự án quy hoạch thủy điện toàn quốc.
20. Hồ Thanh Hải và nnk. (2003), Báo cáo tổng hợp các kết quả nghiên cứu
thủy sinh học vùng lưu vực sông Đà. Báo cáo Đề tài KC.08.04.
21. Hồ Thanh Hải (2004), Hệ sinh thái sông. Tài liệu Viện STTNSV, 54 tr.
22. Hồ Thanh Hải (2005), Duy trì Hệ sinh thái sông trong quản lý tổng hợp
vùng lưu vực sông. Tuyển tập Hội thảo về Tài nguyên và Môi trường Việt
Nam. CRES, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 156-171.
23. Hồ Thanh Hải, Chu Tiến Vĩnh, Lê Thiết Bình và nnk. (2007), Quy hoạch
các khu bảo tồn thuỷ sản nội địa ở Việt Nam. Tài liệu của Cục Khai thác
và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; Viện STTNSV.
24. Hồ Thanh Hải (2007), Cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống bảo tồn thủy
sản nội địa ở Việt Nam. Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật, lần thứ 2. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân (2001), Cá nước ngọt Việt Nam, tập I. Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 622 tr.
26. Nguyễn Văn Hảo (2005), Cá nước ngọt Việt Nam, tập II. Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội, 760 tr.
27. Nguyễn Văn Hảo (2005), Cá nước ngọt Việt Nam, tập III. Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội, 758 tr.
28. Nguyễn Văn Hảo và Võ Văn Bình (1999), Kết quả nghiên cứu thành phần,
phân bố cá ở sông Lô và sông Gâm năm 1999. Tuyển tập báo cáo khoa
học, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I, tr. 3-20.
29. Nguyễn Thị Thu Hè (1999), Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá ở các
sông suối Tây Nguyên. Tạp chí Sinh học 21(4), tr. 26-35.
87
30. Nguyễn Thị Hoa (2001), Góp phần nghiên cứu khu hệ cá sông Đà thuộc địa
phận hai tỉnh Sơn la và Lai Châu. Luận văn thạc sỹ khoa học, trường Đại
học Sư phạm 1 Hà Nội, 155 tr.
31. Đoàn Lệ Hoa, Pham Văn Doãn (1971), Sơ bộ điều tra nguồn lợi cá sông Mã
(Thanh Hoá). Tuyển tập điều tra nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt. Nxb
Khoa học và kỹ thuật, tr. 205-215.
32. Nguyễn Quang Hùng và nnk. (2008), Nghiên cứu xây dựng các giải pháp
khôi phục, bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá Mòi cờ hoa (Clupanodon
thrissa, Linnaeus 1758) ở vùng biển Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài
cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng.
33. Đặng Huy Huỳnh, Hồ Thanh Hải, Nguyễn Kiêm Sơn và nnk. (1999), Báo
cáo kết quả nghiên cứu biến động môi trường sinh vật đồng bằng sông
Hồng, 149 tr.
34. Nguyễn Viết Phổ (1983), Sông ngòi Việt Nam. Nxb Khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
35. Nguyễn Viết Phổ, Đỗ Đình Khôi, Vũ Văn Tuấn (2000), Khai thác và bảo vệ
tài nguyên nước lưu vực sông Hồng - Thái Bình. Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội. 100 tr.
36. Võ Văn Phú (1994), Sơ bộ nghiên cứu cấu trúc thành phần loài ở đầm phá
nước lợ tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tạp chí thuỷ sản, (4), tr. 12-16.
37. Võ Văn Phú (1994), Sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản hệ sinh
thái đầm phá nước lợ ở tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tạp chí thuỷ sản (6), tr. 1415.
38. Pravdin I. F, Hướng dẫn nghiên cứu cá. Nxb Khoa học kĩ thuật, Hà Nội,
1973 (bản dịch của Nguyễn Thị Minh Giang).
39. Primack Richard B., Cơ sở Sinh học bảo tồn. (bản dịch tiếng Việt của Võ
Quý và nnk., 1999). Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
88
40. Tô Trung Nghĩa (2004), Báo cáo hội thảo Ban quản lý lưu vực sông Hồng.
Viện Quy hoạch Thuỷ lợi. 5tr.
41. Nguyễn Kiêm Sơn (2001), Tính đa dạng của khu hệ cá suối, sông thuộc Khu
bảo tồn thiên nhiên Na Hang (Tuyên Quang). Tuyển tập các công trình
nghiên cứu Sinh thái học và Tài nguyên sinh vật. Nxb Nông Nghiệp, Hà
Nội, tr. 349-356.
42. Nguyễn Kiêm Sơn, Hồ Thanh Hải, Phan Văn Mạch và Lê Hùng Anh (2001),
Khu hệ thuỷ sinh vật và khu hệ cá Ao Châu với tiểm năng phục vụ du lịch
sinh thái.
43. Nguyễn Kiêm Sơn (2000), Khu hệ cá suối thuộc Vườn Quốc Gia Tam Đảo
và đánh giá môi trường nước bằng sử dụng chỉ số đa dạng, chỉ số tổ hợp
sinh học cá. Hội thảo Khoa học Đa dạng sinh học Vườn Quốc Gia Tam
Đảo, tr. 36-37.
44. Nguyễn Kiêm Sơn (2001), Khu hệ cá sông Nhuệ và sông Tô Lịch, đánh giá
môi trường nước bằng chỉ số tổ hợp sinh học (IBI) và chỉ số đa dạng sinh
học. Tài liệu Viện STTNSV.
45. Nguyễn Đình Tạo, Nguyễn Kiêm Sơn (2010), Thành phần loài khu hệ cá
ngã ba sông Đà- Lô -Thao. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam, 48 (2A), tr.534-538.
46. Vũ Trung Tạng (1994), Các hệ sinh thái cửa sông Việt Nam (Khai thác, duy
trì, phát triển nguồn lợi). Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 271 tr.
47. Vũ Trung Tạng và nnk. (2004), Đất ngập nước Vân Long, Đa dạng sinh học,
khai thác và phát triển bền vững. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 351 tr.
48. Vũ Trung Tạng (1988), Nguồn gen cá nước ngọt khu vực Hà nội. Tạp chí
Thuỷ sản, (1), tr 5-11.
49. Vũ Trung Tạng (2008), Sinh thái học các hệ sinh thái nước. Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 235tr.
89
50. Đặng Ngọc Thanh (1980), Khu hệ động vật không xương sông Bắc Việt
Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
51. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2007), Cơ sở thuỷ sinh học. Nxb Khoa
học tự nhiên và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội.
52. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương Đức Tiến, Mai Đình Yên (2002),
Thuỷ sinh học các thuỷ vực nước ngọt nội địa Việt Nam. Nxb Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội, 399 tr.
53. Tiểu ban Nguồn lợi Thuỷ sản (trong ban Sinh vật) thuộc Uỷ ban Khoa học
và Kỹ thuật nhà nước (1971), Điều tra nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt, (1),
Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 224 tr.
54. Tổng cục Thuỷ sản, Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thuỷ sản (2010),
Atlat các loài thuỷ sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng tại Việt Nam.
Hà Nội, 263 tr.
55. Nguyễn Thị Vân Trang (2005), Nguồn lợi thuỷ sản và đề xuất giải pháp khai
thác hợp lý ở vùng hồ Quan Sơn (Mỹ Đức – Hà Tây). Luận văn thạc sỹ
khoa học, trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội,
108 tr.
56. Viện Tài nguyên và Môi trường biển (2005), Tác động của các đập thuỷ
điện lớn trên lưu vực sông Hồng đối với tài nguyên, môi trường vùng cửa
sông và ven biển. Báo cáo tóm tắt đề tài cấp viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam giai đoạn 2004-2005, 25 tr.
57. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1978), Khí hậu Việt Nam. Nxb Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội.
58. Nguyễn Thái Tự (1983), Khu hệ cá lưu vực sông Lam. Luận án PTS, Khoa
sinh học, trường Đại học tổng hợp Hà Nội, 173tr.
59. Ngô Sỹ Vân, Phạm Anh Tuấn (2005), Hiện trạng và các giải pháp phát triển
nguồn lợi cá tự nhiên ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo
90
toàn quốc bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản. Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội, tr. 292-319.
60. Trần Văn Vỹ và nnk. (1971), Dẫn liệu về cơ sở thức ăn của cá ở hồ chứa
Thác Bà (Yên Bái) khi chưa ngập nước. Tuyển tập điều tra nguồn lợi
thuỷ sản nước ngọt. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1, tr. 20-40
61. Mai Đình Yên và nnk. (1971), Một số dẫn liệu về hình thái và phân loại cá
bột (ấu trùng) và cá con vớt được trên sông Hồng. Điều tra nguồn lợi
thủy sản nước ngọt, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 63-83.
62. Mai Đình Yên (1991), Nguồn lợi cá tự nhiên ở các vực nước ngọt và vấn đề
quản lý chúng trong thời gian tới. Các công trình nghiên cứu khoa học kỹ
thuật thuỷ sản (1986-1990). Tạp chí Thuỷ sản, tr. 51-55.
63. Mai Đình Yên (2005), Đa dạng sinh học nước ngọt Việt Nam: hiện trạng và
định hướng bảo tồn và phát triển. Kỷ yếu hội thảo toàn quốc bảo vệ môi
trường và nguồn lợi thủy sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 278-281.
64. Mai Đình Yên và nnk (1992), Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nôi, 251 tr.
65. Mai Đình Yên (1978), Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 340 tr.
Tài liệu tiếng Anh
66. Australia Sociation of Limnology (ASL.), Aquatic Protected Areas for the
protection of inland aquatic ecosystems of high conservation value.
(asl_aquatic_poldoc.htm).
67. Barbara A. Miller & Richard B. Reidinger (1998), Comprehensive River
Basin Development. The Tennessee Valley Authority. World Bank
Technical Paper No.4.
91
68. Bonheur N. (2001), Tonlesap Biosphere Reserve Cambodia management
and zonation. IUCN Parks, 11.
69. Bloch Philip L. (2003), Aquatic Reserve Site Evaluation Criteria and
Ecological Framework. Washington Department of Natural Resources
Aquatic Resources Division, 68 pp.
70. Claridge G. (2003), Freshwater fischeries and protected areas in the lower
Mekong region. IUCN Parks , 13.
71. EPA.,
Aquatic
Biodiversity-
River
and
Stream.
http://www.epa.gov/bioindicator/.
72. IUCN (1994), Guidelines for protected area management categories.
Commission on National Parks and Protected Areas with the assistance
of the World Conservation Monitoring Centre. IUCN, Gland,
Switzerland.
73. Kapetsky J.M., Bartley D.M. (1995), Fischeries and protected areas.
Expanding partnerships in Conservation.
74. Kottelat M. (1989), Zoogeography of the fishes from Indochinese inland
waters with an annotated check-list. Bulletin Zoologisch Museum.
Universiteit Van Amsterdam, 12, (1), 1-43.
75. Kottelat M. (2001), Freshwater fishes of Northern Vietnam. Environment
and Social Development Unit, East Asia and Pacific region. The World
Bank.
76. Ho Thanh Hai, Nguyen Kiem Son (2006), Some study results on aquatic life
of the Vu Gia river system. In the report for the EIA of Song Bung 4
hydro-power plant on the Bung river, SWECO, ADB.
77. Ho Thanh Hai và nnk. (1999), An overview on biodiversity in terrestrial and
aquatic ecosystems of Cua Luc, Ha Long Bay and Cat Ba archipelago.
Document of IEBR., 51 pp.
92
78. Mai Dinh Yen (1994), The biodiversity of freshwater fishes and different
measures applied for its conservation in VietNam, Proceedings of the 7th
international symposium on river and lake environments, Matsumoto.
79. Nevill J., and Phillips N. (2004) The Australian Freshwater Protected Area
Resourcebook: the policy background, role and importance of protected
areas for Australian inland aquatic ecosystems. OnlyOnePlanet
Australia; Hampton Melbourne.
80. Nguyen Thi Lan Anh, Nguyen Xuan Huan, Hoang Trung Thanh (2010), The
preliminary results of survey on terrestrial vertebrates in the area of Quan
Son lake, My Duc district, Hanoi. Journal of science, Vietnam National
University, Hanoi, vol 26, (4S), pp 493-500.
81. Nguyen Xuan Huan, Dao Thi Nga, Nguyen Thanh Nam (2010), The fish
species composition in the area of Quan Son riversor in My Duc district,
Hanoi. Journal of science, Vietnam National University, Hanoi, vol 26,
(4S), pp 531-536.
82. Rainboth. W.J (1996), Fish of the Cambodian Mekong. Food and
Agriculture Organnization of the United Nations, Rome.
93
94
Download