ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ---------------------------- NGUYỄN ĐÌNH TẠO NGHIÊN CỨU KHU HỆ CÁ NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở NGÃ BA SÔNG HỒNG LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC HÀ NỘI – 2010 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ------------------------------- NGUYỄN ĐÌNH TẠO NGHIÊN CỨU KHU HỆ CÁ NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở NGÃ BA SÔNG HỒNG Chuyên ngành: Động vật học Mã số: 60 42 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN HUẤN HÀ NỘI – 2010 2 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều cán bộ, bạn bè và các cơ quan. Qua đây, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: PGS. TS. Nguyễn Xuân Huấn, người thầy trực tiếp hướng dẫn, truyền thụ, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học. PGS. TS. Hồ Thanh Hải, Trưởng phòng Sinh thái - môi trường nước đã tạo điều kiện cho tôi học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn, cũng như dìu dắt, hướng dẫn tôi trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Các thầy cô và cán bộ Khoa Sinh học - trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ và cung cấp cho tôi nguồn tri thức, tài liệu quý giá trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Ban lãnh đạo Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật; các anh chị đồng nghiệp tại phòng Sinh thái - môi trường nước, bạn bè và người thân trong gia đình- những người đã hết lòng quan tâm, khuyến khích, động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian học tập, công tác cũng như thực hiện luận văn này. Hà Nội, ngày ..... tháng ..... năm 2010 Học viên Nguyễn Đình Tạo 3 DANH MỤC CÁC BẢNG Tên bảng Bảng 1: Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu vực Ngã ba sông Hồng trang 25 Bảng 2: Các thông số thủy lý ở vùng Ngã ba sông Hồng ( 10/2009) 29 Bảng 3: Các thông số thủy hóa ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009) Bảng 4: Mật độ các nhóm ĐVN ở vùng Ngã ba sông Hồng Bảng 5: Danh sách các loài cá đã biết ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Bảng 6: Cấu trúc thành phần loài cá theo các bộ ở vùng Ngã ba sông Hồng 30 33 35 42 Bảng 7: Danh sách các loài cá kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 46 Bảng 8: Gía bán một số loài cá kinh tế (09/ 2009) Bảng 9: Sự phân bố kích thước cá Mòi cờ hoa theo nhóm chiều dài 47 Bảng 10: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư trên sông Hồng 51 Bảng 11: Hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi theo Fulton (1902) Bảng 12: Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi Bảng 13: Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên sông Hồng 52 Bảng 14: Bãi đẻ một số loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và vùng phụ cận Bảng 15: Lực lượng lao động tham gia khai thác cá trên sông Hồng 4 49 53 54 57 64 DANH LỤC CÁC HÌNH Tên hình Hình 1: Sơ đồ vùng nghiên cứu Hình 2: Tỷ lệ các nhóm TVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận trang 17 31 Hình 3. Tỷ lệ các nhóm ĐVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 33 Hình 4: Tỷ lệ các nhóm ĐVĐ vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Hình 5: Số loài cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Hình 6: Tỷ lệ loài của các bộ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 34 41 43 48 Hình 7: Thành phần các nhóm loài trong khu hệ cá vùng nghiên cứu Hình 8: Đường cong phân bố của các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di cư. Hình 9: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư trên sông Hồng BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐVKXS BTTN DD ĐHTH ĐTM ĐVĐ ĐVN EN EW GHCP NCHS NN&PTNT QCMT QCVN STTNSV TP TVN UBND VQG VU Động vật không xương sống Bảo tồn thiên nhiên Thiếu dẫn liệu Đại học Tổng hợp Đánh giá tác động môi trường Động vật đáy Động vật nổi Rất nguy cấp Tuyệt chủng ngoài tự nhiên Giới hạn cho phép Nghiên cứu Hải sản Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quy chuẩn môi trường Quy chuẩn Việt Nam Sinh thái Tài nguyên sinh vật Thành phố Thực vật nổi Ủy ban nhân dân Vườn Quốc Gia Sẽ nguy cấp 5 50 52 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................... 11 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ NƯỚC NGỌT VIỆT NAM .................................. 11 1.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945............................................................... 11 1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến nay ................................................................................. 11 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG HỒNG ......................... 13 1.2.1. Sơ lược về hệ thống sông Hồng ...................................................................... 13 1.2.2. Tình hình nghiên cứu khu hệ cá ...................................................................... 15 1.2.3. Nguồn lợi cá lưu vực sông Hồng .................................................................... 16 1.3. VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG VÀ PHỤ CẬN .................................................. 17 1.3.1. Vị trí địa lý ...................................................................................................... 17 1.3.2. Tình hình nghiên cứu cá ................................................................................. 18 1.3.2.1. Khu hệ cá sông Lô – Gâm - Chảy ........................................................ 18 1.3.3.2. Khu hệ cá sông Đà .............................................................................. 19 1.3.3.3. Khu hệ cá sông Hồng – sông Thao ..................................................... 20 1.3.3. Những vấn đề còn tồn tại ................................................................................ 21 Chương 2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................... 23 2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ....................................................... 23 2.1.1. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................................... 23 2.1.2. Thời gian nghiên cứu ...................................................................................... 25 2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU ....................................... 25 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 25 2.2.2. Nguồn tài liệu.................................................................................................. 25 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 25 2.3.1. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu vật ........................................................ 25 2.3.2. Phương pháp phân tích và định loại................................................................ 26 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 28 3.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU ....................................................................................................................................... 28 3.1.1. Đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên ........................................................... 28 3.1.1.1. Đặc điểm địa lý .................................................................................... 28 3.1.1.2. Đặc điểm khí hậu ................................................................................. 28 3.1.1.3. Đặc điểm thuỷ văn ............................................................................... 29 3.1.2. Đặc điểm kinh tế -xã hội của các huyện thị ven lưu vực Ngã ba sông. .......... 31 3.1.2.1. Dân số .................................................................................................. 31 3.1.2.2. Cơ cấu ngành nghề và tình hình phát triển kinh tế .............................. 32 3.1.2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế ..................................................................... 34 3.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ THUỶ SINH VẬT ...................................... 35 3.2.1. Đặc điểm thuỷ lý ............................................................................................. 35 3.2.2. Đặc điểm thuỷ hoá .......................................................................................... 36 3.2.3. Đặc trưng về thuỷ sinh vật .............................................................................. 37 3.2.3.1. Thực vật nổi (Phytoplankton) .............................................................. 37 3.2.3.2. Thực vật bám đáy (Periphyton) ........................................................... 39 3.2.3.3. Động vật nổi (Zooplankton)................................................................. 39 6 3.2.3.4. Động vật đáy (Zoobenthos) ................................................................. 40 3.3. ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ CÁ ................................................................................ 42 3.3.1. Đặc trưng về thành phần loài .......................................................................... 42 3.3.2. Đặc trưng về cấu trúc khu hệ cá...................................................................... 48 3.3.3. Các loài cá quý hiếm, nằm trong Sách Đỏ Việt Nam ..................................... 50 3.3.4. Các loài cá có giá trị kinh tế............................................................................ 52 3.3.4.1. Danh sách các loài cá kinh tế ............................................................... 52 3.3.4.2. Gía trị kinh tế ....................................................................................... 54 3.3.5. Đặc tính sinh học của cá Mòi cờ hoa. ............................................................. 55 3.3.6. Các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống ................................................ 61 3.3.6.1. Nơi cư trú ........................................................................................... 61 3.3.6.2. Các bãi đẻ, bãi giống ........................................................................... 63 3.4. HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG .................................................................................. 68 3.4.1. Hiện trạng nghề cá và nguồn lợi thuỷ sản....................................................... 68 3.4.1.1. Thời vụ - đối tượng khai thác .............................................................. 68 3.4.1.2. Ngư cụ khai thác ................................................................................. 69 3.4.1.3. Sản lượng, năng suất ............................................................................ 70 3.4.1.4. Nghề cá và những khó khăn của cộng đồng ngư dân ......................... 70 3.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi cá ..................................................... 73 3.4.2.1. Tác động từ việc xây dựng các công trình thuỷ điện ........................... 73 3.4.2.2. Ảnh hưởng từ phát triển công nghiệp .................................................. 74 3.4.2.3. Do khai thác nguồn lợi quá mức .......................................................... 74 3.4.2.4. Do nhận thức về hiện trạng và bảo vệ nguồn lợi còn hạn chế ............. 75 3.4.3. Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá ..................................................... 77 3.4.3.1. Bảo tồn đa dạng cá ............................................................................... 77 3.4.3.2. Khai thác hợp lý nguồn lợi cá. ............................................................. 78 3.4.3.3. Nâng cao năng suất sinh học cá ........................................................... 79 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 83 Kết luận ......................................................................................................................... 83 Kiến nghị....................................................................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 85 Tài liệu tiếng Việt ......................................................................................................... 85 Tài liệu tiếng Anh ......................................................................................................... 91 7 MỞ ĐẦU Việt Nam có diện tích mặt nước ngọt nội địa rất lớn, bao gồm nhiều loại thuỷ vực, trong đó có khoảng 2360 con sông lớn nhỏ, nhiều ao, hồ tự nhiên và nhân tạo. Những thuỷ vực này cung cấp nguồn thuỷ sản chính phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ở các loại thuỷ vực Việt Nam đã biết khoảng 782 loài ĐVKXS ở nước ngọt và từ biển di nhập vào, 544 loài cá nước ngọt với nhiều loài có giá trị kinh tế [8], [21], [34]. Hiện nay, nguồn lợi thuỷ sản bị khai thác quá mức, đang bị suy thoái nhanh. Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp bảo vệ khác nhau nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả. Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn thứ 2 ở Việt Nam (chỉ sau hệ thống sông Mekong). Trên hệ thống sông Hồng, vùng nước Ngã ba sông Hồng là khu vực hợp lưu của các dòng sông lớn như sông Đà, sông Thao và sông Lô - Gâm. Vị trí hợp lưu này nằm ở Việt Trì, Phú Thọ là đỉnh của tam giác châu đồng bằng bắc Bộ [21], [34], [35], [40]. Do các sông này có chế độ thuỷ văn và đặc tính môi trường nước khác nhau, nên khi hợp lưu tại vùng Ngã ba Việt Trì, đặc tính thuỷ văn và môi trường có nhiều xáo trộn, biến đổi. Mặt khác, khu vực này được xem là nơi cư trú, nơi phân bố kiếm mồi, đồng thời là bãi đẻ, bãi giống của của nhiều loài thuỷ sinh, đặc biệt trong đó, có nhiều loài cá quý, hiếm, có giá trị kinh tế được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) như cá Lăng, cá Chiên, Rầm xanh, Anh vũ, cá Mòi cờ hoa, cá Cháy, cá Măng,... [4], [5], [6]. Vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận từ lâu được xem là thuỷ vực quan trọng, cung cấp nguồn thực phẩm hàng ngày cho con người, đồng thời cũng được xem là một trong những thành phần tạo nên nguồn tài nguyên đa dạng sinh học của Việt Nam. Tiềm năng thủy sản tự nhiên ở khu vực này rất lớn, đồng thời nghề khai thác thủy sản trên sông đã có truyền 8 thống từ lâu đời. Nhiều khu vực sông ở đây, nghề khai thác thủy sản đã trở thành nghề chính, thu hút nhiều lao động. Thời gian gần đây, do áp lực gia tăng dân số, việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận với cường độ ngày càng cao. Mặt khác, trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh chóng, nhiều nhà máy, xí nghiệp phát triển trên vùng lưu vực, xả các chất thải chưa qua xử lý ra sông, nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là xây dựng các đập thuỷ điện, thuỷ lợi, hồ chứa trên các sông, đã có những ảnh hưởng nhất định tới môi trường sống, đa dạng thuỷ sinh vật, nguồn lợi thuỷ sản và hệ sinh thái sông ở khu vực này. Với những lí do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu khu hệ cá nhằm đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá ở ngã ba sông Hồng" nhằm điều tra, nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc khu hệ và nguồn lợi cá, đặc biệt là các loài cá quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng Ngã ba sông Hồng, từ đó đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá. Mục đích của đề tài: ¾ Xác định thành phần loài cá, cấu trúc phân loại trong khu hệ cá vùng Ngã ba sông Hồng và các loài cá quý hiếm, các loài cá kinh tế. ¾ Nghiên cứu đặc điểm sinh học của một loài cá kinh tế quan trọng. ¾ Xác định các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi cá giống có trong vùng Ngã ba sông Hồng. ¾ Đánh giá hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá ở vùng Ngã ba sông Hồng. ¾ Đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi và phát triển nguồn lợi cá. 9 Nội dung nghiên cứu của đề tài: ¾ Thành phần loài cá, cấu trúc phân loại khu hệ cá và các loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế. ¾ Đặc điểm sinh học của loài một loài cá tiêu biểu. ¾ Nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống của các loài cá. ¾ Hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá. ¾ Các giải pháp để bảo vệ, phục hồi và phát triển nguồn lợi cá, các loài cá quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao. 10 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ NƯỚC NGỌT VIỆT NAM 1.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945 Việc nghiên cứu phân loại cá ở Việt Nam được thực hiện từ khá sớm, từ năm 1881 của Sauvage trong tập "Nghiên cứu về khu hệ cá Á Châu và mô tả một số loài mới ở Đông Dương" đã thống kê 139 loài cá chung cho toàn Đông Dương và mô tả 2 loài mới ở Miền Bắc Việt Nam, sau đó là Tirant (1883) công bố và mô tả 70 loài cá ở sông Hương (Thừa Thiên Huế) trong đó có 5 loài mới, Sauvage (1884) thu thập 10 loài, trong đó mô tả 7 loài mới ở Hà Nội; Vaillant (1881-1904) thu thập 6 loài, trong đó mô tả 4 loài mới ở Lai Châu; Chevey (1930 -1937); Pellegrin và Chevey (1934-1941). Năm 1937, công trình "Góp phần nghiên cứu các loài cá nước ngọt Bắc Bộ Việt Nam" của Chevey và Lemasson đã giới thiệu 98 loài cá thuộc 71 giống, 17 họ và 10 bộ cá ở miền Bắc Việt Nam. Đây là công trình lớn và có giá trị nhất về khu hệ cá nước ngọt thời kỳ này [8], [25], [65]. Như vậy có thể coi thời kỳ này, công tác nghiên cứu cá chủ yếu do các tác giả nước ngoài tiến hành. Các nghiên cứu ở giai đoạn này mới chỉ dừng lại ở mức mô tả, thống kê thành phần loài. Các nghiên cứu về sinh học và nguồn lợi cá chưa được thực hiện. 1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến nay Do trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954) công tác nghiên cứu cá bị gián đoạn. Phải đến tận khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954), công tác nghiên cứu cá mới lại được tiếp tục. Thời kỳ này chủ yếu do các nhà khoa học Việt Nam tiến hành [8], [26], [27]. Thời kỳ 1955- 1975: các công tác điều tra về cá ở miền Bắc do các cơ quan như Trạm nghiên cứu cá nước ngọt thuộc Tổng Cục thuỷ sản, Khoa 11 Sinh vật trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Thủy sản thực hiện. Các nghiên cứu này đã tiến hành điều tra ở hầu hết các vùng sinh thái như Đông Bắc, Tây Bắc và Khu bốn cũ; ở các loại hình vực nước khác nhau như sông, suối, hồ chứa, hồ tự nhiên, ao, đầm ruộng... Ở các vùng sâu, vùng xa như Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Móng Cái, Quảng Bình còn khá nhiều điểm chưa được điều tra. Các công trình tiêu biểu gồm: Dẫn liệu sơ bộ ngư giới sông Bôi (1959), dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia (1960) của Đào Văn Tiến, Mai Đình Yên; Điều tra nguồn lợi sinh vật Hồ Tây của Đặng Ngọc Thanh, Mai Đình Yên (1961); Sơ bộ điều tra thành phần, nguồn gốc và phân bố của chủng quần cá sông Hồng của Mai Đình Yên( 1962) [17], [53]. Các công trình nghiên cứu ở Miền Nam thời kỳ này phải kể đến nghiên cứu của các tác giả như Trần Ngọc Lợi, Nguyễn Cháu (1964), Fourmanvir (1965), Yamamura (1966), Kawamoto, Nguyễn Viết Trương, Trần Tuý Hoa (1972), Taki (1975) [29]. Các công trình nghiên cứu về sinh học và sinh thái học cũng được nghiên cứu, tiêu biểu như Đào Văn Tiến, Mai Đình Yên (1960) mô tả hình thái, sinh học, kinh tế cá Mòi sông Hồng; Sinh thái cá Ngạnh sông Lô của Nguyễn Dương (1963); Hình thái sinh học cá Mè trắng của Phan Trọng Hậu, Mai Đình Yên, Trần Tới (1963); Nghiên cứu đặc điểm và sinh học cá Mòi di cư vào sông Hồng của Vũ Trung Tạng (1991) [25]. Công tác điều tra nguồn lợi và nghề cá thời kỳ này cũng được tiến hành chủ yếu trên sông Hồng (Trần Công Tam, 1959); Ý nghĩa kinh tế ngư giới sông Hồng (Mai Đình Yên, 1963); Nguồn lợi cá hồ Ba Bể (Nguyễn Văn Hảo, 1964); Nguồn lợi thuỷ sản của sông Lạch Trường và sông Mã (Nguyễn Anh Tạo, 1964) [31]. Thời kỳ từ 1975 đến nay, các điều tra khu hệ cá đã tiến hành mở rộng đến hầu hết các điểm trắng mà thời kỳ trước chưa có điều kiện điều tra. Các 12 kết quả tiêu biểu thời kỳ này có thể kể như: Thành phần loài cá sông Hương của Nguyễn Hữu Dực (1982) [14]; Khu hệ cá sông Lam của Nguyễn Thái Tự [58]; Thành phần loài cá các sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vệ, sông Côn, sông Ba, sông Cái của Nguyễn Hữu Dực, 1995 [13], [14]; Mai Đình Yên và nnk (1992) [64] nghiên cứu thành phần loài cá các sông Tiền, Hậu, Vàm Cỏ, Sài Gòn, Đồng Nai; Nghiên cứu thành phần loài cá một số sông suối của Tây Nguyên của Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Dực (1994) [13]; Võ Văn Phú (1995) [36], [37] nghiên cứu thành phần loài cá đầm phá ở Thừa Thiên Huế,... Các công trình tổng hợp các nghiên cứu qua các thời kỳ được công bố là: Định loại cá nước ngọt phía Bắc Việt Nam của Mai Đình Yên (1978) [65]; Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ của Mai Đình Yên và nnk (1992) [64]; Định loại cá nước ngọt vùng ĐBSCL của Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993). Đặc biệt công trình có tính chất tổng kết các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay là "Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam" của Bộ Thuỷ sản (1996) [8], với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong và ngoài ngành Thuỷ sản. Theo kết quả của nghiên cứu này, khu hệ cá nước ngọt Việt Nam có gồm 544 loài thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Về đặc trưng phân bố và đặc điểm địa động vật của cá nước ngọt Việt Nam có nghiên cứu của các tác giả như Mai Đình Yên (1973); Nguyễn Thái Tự (1983), Mai Đình Yên và Nguyễn Hữu Dực (1991), Nguyễn Văn Hảo (1993, 1998), Nguyễn Hữu Dực (1995) [14], [58]. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ Ở HỆ THỐNG SÔNG HỒNG 1.2.1. Sơ lược về hệ thống sông Hồng Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn nhất ở miền Bắc và đứng thứ 2 của Việt Nam sau hệ thống sông Mekong. Sông Hồng bắt nguồn từ dãy 13 Nguỵ Sơn, Vân Nam (Trung Quốc), chảy vào Việt Nam ở Hà Khẩu với chiều dài dòng chính là 1.126 km (đoạn ở Việt Nam dài 510 km). Diện tích toàn lưu vực là 145.965 km2, riêng ở Việt Nam là 70.722 km2 (chiếm 42,6% diện tích toàn Miền Bắc) [34], [35], [40]. Mực nước mùa cạn trung bình là 2,8 m; vào mùa lũ là 9 m (tại Hà Nội). Mực nước tối đa lên đến 14,1 m (8/1945) và tối thiểu xuống đến 1,76 m (1956). Đầu năm 2010, mực nước sông Hồng xuống thấp chỉ còn 0,9 mthấp nhất trong vòng 100 năm qua [34], [49]. Lưu lượng trung bình nhiều năm ở Sơn Tây là 3.880 m3/s; vào mùa cạn là 1.610 m3/s; mùa lũ là 7.020 m3/s. Lưu lượng tối thiểu có năm xuống tới 840 m3/s (29/4/1940) và tối đa lên đến 32.550 m3/s (19/8/1945). Tổng lượng nước trung bình nhiều năm là 122.109 m3, trong đó sông Đà cung cấp 48 %, sông Lô 27 %, sông Thao 25 %. Mùa lũ (tháng 6-10) chiếm 74,4 % tổng lượng nước, riêng tháng 8 chiếm 21 %. Mùa cạn (tháng 11-5) chiếm 25,6 %, riêng tháng 3 chỉ có 2,6 %. Tổng lượng nước tối đa là 158,4.109 m3 (năm 1929) và tối thiểu là 68,4.109 m3 (năm 1906). Sông Đà là một phụ lưu lớn của sông Hồng. Chiều dài dòng chảy trên lãnh thổ nước ta là 540 km với diện tích toàn lưu vực là 52.000 km2 (bằng 1/3 diện tích lưu vực sông Hồng). Tổng lượng nước sông Đà gần bằng 1/2 của hệ thống sông Hồng, còn mùa lũ sông Đà chiếm đến 55 % tổng lượng lũ của hệ thống sông Hồng. Các phân lưu chính của sông Hồng là sông Đáy, sông Đuống, sông Luộc, Trà Lý, sông Đào và sông Ninh Cơ. Vào mùa lũ, sông Đuống nhận 20-30 % lượng nước sông Hồng (tại Sơn Tây); sông Luộc 10-11 %, Trà Lý 11-12 %, sông Đào 20-27%, Ninh Cơ 8 %. Như vậy sông Hồng đổ ra của Ba Lạt khoảng 20-40% [34], [49]. 14 Hệ thống sông Thái Bình có tổng lượng nước bình quân năm tại Phả Lại là 8,26 km3 ứng với lưu lượng bình quân là 318 m3/s và modun dòng chảy năm là 25,2 l/s/km2. Tổng lượng phù sa 1,1 triệu tấn/năm. Hằng năm, vào mùa lũ, hệ thống sông Thái Bình nhận từ sông Hồng khoảng 32% lượng nước (tại Sơn Tây) và 27.106 tấn phù sa (Trần Tuất, Nguyễn Đức Nhật, 1980) [49]. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu khu hệ cá Các nghiên cứu về khu hệ cá các sông, suối thuộc hệ thống sông Hồng đã được điều tra nghiên cứu từ rất sớm và khá đầy đủ do các cán bộ khoa học thuộc Tổng cục Thuỷ sản trước đây, các Viện nghiên cứu, các trường Đại học trong nước và một số chuyên gia nghiên cứu của nước ngoài. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu có thê kể như: Dẫn liệu sơ bộ ngư giới sông Bôi; Dẫn liệu sơ bộ ngư giới Ngòi Thia của Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1959, 1960); Sơ bộ điều tra thành phần nguồn gốc và phân bố của chủng quần cá sông Hồng của Mai Đình Yên (1962); Kết quả điều tra nguồn lợi cá sông Thao của Hoàng Duy Hiệp và Nguyễn Văn Hảo (1964); Mô tả hình thái, sinh học, giá trị kinh tế của cá Mòi sông Hồng của Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1960); Sinh học cá Ngạnh sông Lô của Nguyễn Dương (1963); Phan Trọng Hậu, Mai Đình Yên, Trần Tới (1963) nghiên cứu về hình thái sinh học cá Mè trắng sông Hồng; Hoàng Đức Đạt (1964) nghiên cứu về hình thái một số loài cá ở sông Lô – Gâm; Mai Đình Yên (1964) nghiên cứu về đặc điểm sinh học một số loài cá trên sông Hồng; Mai Đình Yên, Đoàn Văn Đẩu (1966) nghiên cứu đặc điểm sinh học một số loài cá ruộng ở đồng bằng miền Bắc Việt Nam; Vũ Trung Tạng (1991) nghiên cứu về đặc điểm và sinh học cá Mòi di cư vào sông Hồng [26]. 15 Gần đây có các công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo, Võ Văn Bình (1999) [28] nghiên cứu thành phần và phân bố cá sông Lô. Nguyễn Văn Hảo, nghiên cứu thành phần loài, phân bố nguồn lợi cá ở sông Đà. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Chiến (2001) đã nghiên cứu khu hệ cá sông Đà thuộc 2 tỉnh Lai Châu và Sơn La [15], [30]. Thuộc hệ thống sông Hồng, thống kê từ các kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần các loài cá của các sông như sau: sông Đà 129 loài, sông Gâm 107 loài, sông Năng 32 loài, sông Chảy 43 loài, sông Thao 100 loài, sông Đáy 78 loài, sông Châu Giang 30 loài, sông Ninh Cơ 84 loài, sông Thái Bình 107 loài, sông Lạch Tray có 31 loài, sông Cầu 95 loài. (Vũ Trung Tạng, 2008) [49]. 1.2.3. Nguồn lợi cá lưu vực sông Hồng Nguồn lợi cá hệ thống sông Hồng mang tính nhiệt đới gió mùa, phong phú về thành phần loài, nhưng năng suất và sản lượng thấp [8]. Về điều kiện đặc điểm tự nhiên của hệ thống sông Hồng khác với sông Mekong là có hệ thống đê dọc theo hai bên bờ để ngăn lũ, gây lụt lội ở vùng đồng bằng. Do đó sự liện hệ giữa sông và đồng không có sự lưu thông tự do, nên nguồn nước và cá ở sông và đồng chỉ giao lưu với nhau qua hệ thống cống và hệ thống các trạm bơm điều tiết nước suốt dọc theo hai ven sông. Dựa theo đặc điểm tự nhiên và sinh thái học có thể chia nguồn lợi cá lưu vực sông Hồng thành các khu hệ sau: Khu hệ cá sông gồm 216 loài của 125 giống và 30 họ, chủ yếu các loài trong họ cá Chép và bộ cá Nheo có khoảng hơn 40 loài cá kinh tế. Sản lượng cá sông Hồng ước tính khoảng 1.200 tấn/ năm (Mai Đình Yên, 1963, 1991) bao gồm các nhóm: 16 - Các loài cá di cư vào sông (cá Mòi, cá Cháy, cá Lành canh,...) khoảng 650 tấn. - Nhóm cá Da trơn: 140 tấn. - Nhóm cá nuôi: Mè, Trôi, Trắm đến 100 tấn. - Các loài trong họ cá Chép: 200 tấn. - Các loài cá tự nhiên khác: 50 tấn Khu hệ cá đồng gồm có 33 loài, chủ yếu là nhóm cá đen như cá Qủa, cá Chuối hoa, cá Rô, cá Trê, Lươn và các loài cá thuộc họ cá Chép,...Sản lượng ước tính khoảng 2000 tấn/năm. Khu hệ cá đầm hồ: Ở các đầm hồ lớn khoảng gần 100 loài, hồ trung bình có khoảng 50-60 loài, hồ nhỏ có khoảng 20-30 loài. Khu hệ cá đầm hồ chủ yếu là cá có kích thước lớn, tuổi thọ cao, gồm nhiều nhóm tuổi khác nhau. Sản lượng cá ở các hồ tự nhiên chủ yếu là cá tầng đáy và ăn tạp, còn ở các hồ chứa chủ yếu là cá ăn nổi, mùn bã hữu cơ,... Sản lượng cá hàng năm ở lưu vực sông Hồng khai thác tự nhiên khoảng 4.000 tấn cá nước ngọt (Mai Đình Yên, 1994). Tiềm năng cá nước ngọt khai thác tự nhiên trước đây là 5.000 tấn/năm, nay giảm đến mức báo động, chỉ còn khoảng 1.000 tấn/năm và 100-200 triệu cá bột/năm (Viện Quy hoạch thuỷ sản, 1992). Về kết cấu sản lượng cá nội địa ở đồng bằng sông Hồng từ năm 1986 – 1990 biến động từ 35.497 - 45.782 tấn/năm, trung bình 39.384 tấn /năm, chiếm từ 42,41-53,7% tổng sản lượng vùng [7]. 1.3. VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG VÀ PHỤ CẬN 1.3.1. Vị trí địa lý Vùng Ngã ba sông Hồng nằm ở khu vực ngã ba của các sông Đà, sông Lô và sông Thao. Khu vực này có 2 chỗ hợp lưu cách nhau khoảng 10km: 1) chỗ hợp lưu sông Đà - sông Thao, sau đó gọi là sông Hồng và 2) chỗ hợp 17 lưu giữa sông Hồng - sông Lô. Sau hai chỗ hợp lưu này được gọi là sông Hồng tiếp tục chảy xuôi về hạ lưu và đổ ra biển Đông ( xem hình 1). Phía bắc khúc sông giữa 2 chỗ hợp lưu là tỉnh Phú Thọ (TP. Việt Trì và huyện Lâm Thao), phía nam là Hà Nội (huyện Ba Vì). Khúc sông Đà, phía tây giáp tỉnh Phú Thọ (các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn), phía đông giáp Ba Vì, Hà Nội. Khúc sông Lô nằm giữa 2 tỉnh Phú Thọ (Phong Châu) và Vĩnh Phúc (Lập Thạch). Khúc sông Hồng, phía đông giáp với tỉnh Vĩnh Phúc (huyện Vĩnh Tường), phía tây giáp Hà Nội (huyện Ba Vì). 1.3.2. Tình hình nghiên cứu cá 1.3.2.1. Khu hệ cá sông Lô – Gâm - Chảy Trong các sông trên, sông Chảy bắt đầu được nghiên cứu sớm từ những năm 1962-1966 để phục vụ cho quy hoạch xây dựng hồ thuỷ điện Thác Bà (Đoàn điều tra Viện Thuỷ sản Đình Bảng và ĐHTH Hà Nội, Trần Văn Vỹ và nnk, 1971) [60]. Các nghiên cứu liên tục hồ Thác Bà từ 19711975 của Viện Thuỷ sản Đình Bảng ( Nguyễn Hữu Tường, 1985). Nghiên cứu hồ Thác Bà sau 20 năm sử dụng của Viện STTNSV (Hồ Thanh Hải và nnk, 1993,1997) [18]. Các nghiên cứu về thủy sinh học nghề cá ở sông Gâm (khu vực Na Hang - Tuyên Quang) phục vụ cho lập báo cáo ĐTM nhà máy thủy điện Na Hang và chương trình động vật chí dược thực hiện bởi Hồ Thanh Hải và nnk (1998, 2000). Năm 2000, Hồ Thanh Hải và nnk đã nghiên cứu thủy sinh học nghề cá sông Chảy (khu vực Lào Cai, Hà Giang) trong ĐTM nhà máy thủy điện Na Le [19]. Về thành phần loài, theo Nguyễn Kiêm Sơn (2001) [44], khu hệ cá sông Gâm, sông Năng chảy từ phía hồ Ba Bể ra sông Lô ở khu vực Na Hang có 73 loài. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và Võ Văn Bình 18 (1999) [28] ở sông Gâm cho biết, từ Bắc Mê có 52 loài cá, xuống đến đoạn sông Gâm ở thị trấn Na Hang có 87 loài và xuôi dòng xuống thị xã Tuyên Quang (sông Lô) có 70 loài. Ngô Sỹ Vân (2007) [59] có nêu khu hệ cá sông Chảy ở vùng Lào Cai - Yên Bái có 112 loài, sông Lô - Gâm ở vùng Hà Giang – Tuyên Quang có 41 loài. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, qua thời gian, đã có sự thay đổi cấu trúc thành phần loài cá. Các loài cá của họ cá Trích, cá Trỏng, cá Ngần, cá Bơn, cá Nóc bắt gặp trong thời kỳ 1962 - 1965 thì nay không gặp trên sông Lô và sông Gâm (Tuyên Quang). Các loài cá kinh tế nhập nội như Mè trắng, Mè hoa, Trắm cỏ, cá Rôhu và Mrigan, Rô phi trở nên chiếm ưu thế trong khi các loài cá bản địa ngày càng suy giảm. Trên sông Gâm, cá Chiên, cá Lăng, Anh vũ, cá Bỗng vẫn còn tương đối nhiều. Tổng kết các tư liệu đã ghi nhận được trên sông Lô - Gâm có 189 loài cá thuộc 26 họ, 11 bộ, trong đó có tới 16 loài thuộc diện cá quý hiếm đang bị đe dọa hoặc đã biến mất (Nguyễn Kiêm Sơn, 2005) [41]. 1.3.3.2. Khu hệ cá sông Đà Khu hệ cá sông Đà được chú ý nghiên cứu từ rất sớm: Vaillant (1891), Norman (1925), Pellegrin và Chevey (1935, 1936), Chevey và Lemasson (1937), Nguyễn Văn Hảo và Đoàn Thị Hoa (1969). Các công trình nghiên cứu phục vụ cho quy hoạch xây dựng thuỷ điện Hoà Bình được thực hiện bởi Đoàn điều tra Viện Thuỷ sản Đình Bảng và ĐHTH Hà Nội ( Mai Đình Yên và nnk, 1985). Tiếp theo đó, năm 1987-1988, Viện STTNSV đã điều tra khảo sát thủy sinh học sông Đà trước khi hình thành công trình thuỷ điện Hoà Bình. Nghiên cứu Thủy sinh học, nghề cá vùng lưu vực sông Đà còn có Đề tài Nhà nước KC.08.04 của Viện STTNSV [20]. Ngoài ra, có nhiều khảo sát về thủy sinh vật và nghề cá trên sông Đà ở khu vực thượng lưu hồ Hòa 19 Bình để lập các báo cáo ĐTM các công trình thủy điện ở đây như Sơn La, Lai Châu...do Viện STTNSV thực hiện [19]. Về thành phần loài cá ở sông Đà đã có một số công trình nghiên cứu như: Kết quả khảo sát nguồn lợi và nghề cá trên sông Đà của Nguyễn Văn Hảo (1964), Huỳnh Văn Nguyên (1972) đã thống kê được 123 loài cá thuộc 79 giống, 19 họ. Mai Đình Yên, Phạm Ngọc Luận khảo sát khu hệ cá sông Đà tại Lai Châu (1970), Tạ Khoa (1963) và Hoà Bình (1969) đã thu được 80 loài. Nguyễn Văn Hảo (1996-1998) đã khảo sát 4 điểm trên sông Đà thu được 129 loài cá. Gần đây, Nguyễn Thị Hoa (2001) khảo sát sông suối của hai tỉnh Sơn La, Lai Châu đã thống kê và thu thập tổng cộng được 177 loài [30]. Ngô Sỹ Vân (2007) có nêu khu hệ cá sông Đà ở vùng Lai Châu - Sơn La - Hoà Bình có 137 loài [59]. 1.3.3.3. Khu hệ cá sông Hồng – sông Thao Từ 1959-1960 đã có nghiên cứu bước đầu về khu hệ cá tại Ngòi Thia, trên sông Hồng tại Yên Bái của Mai Đình Yên (1959), từ đó phát hiện một số bãi đẻ trứng của loài cá Cháy (Hilsa reeversii). Sau đó, Hồ Thế Ân và nnk. (1971) đã nghiên cứu một số đặc tính sinh học của loài cá Cháy tham gia di cư đẻ trứng trên sông Hồng [2]. Các tác giả cũng xác định một số bãi đẻ trứng chính của loài cá Cháy trên sông Hồng, sông Đà. Trên dòng chính sông Hồng ở gần Hà Nội, đã có một số nghiên cứu hình thái cá bột, đặc điểm sinh học một số loài cá kinh tế (Mai Đình Yên và nnk., 1971), cá Mòi (Vũ Trung Tạng, 1971). Gần đây, trong "Nghiên cứu xây dựng các giải pháp khôi phục, bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá Mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa, Linnaeus 1758) ở vùng biển Việt Nam" do Viện NCHS Hải Phòng (2008) thực hiện cũng đã nghiên cứu nguồn lợi cá Mòi cờ trên hệ thống sông Hồng [1], [32] 20 Cũng đã có một số nghiên cứu về thành phần loài cá ở sông Hồng sông Thao. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kiêm Sơn và nnk (2001) khu hệ cá tại khu vực Ấm Thượng và Ao Châu, Hạ Hoà có 49 loài cá, trong đó khu hệ cá sông Thao ở khu vực Ấm Thượng, Hạ Hoà là 37 loài. Ngô Sỹ Vân (2007) có nêu khu hệ cá ở dòng chính sông Hồng từ Lào Cai – Yên Bái – Phú Thọ – Vĩnh Phúc – Hưng Yên – Nam Định có 205 loài [41], [59]. Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu của Mai Đình Yên (1971, 1978, 1992, 1994); Vũ Trung Tạng (1971, 1975, 1976, 1988, 1994); Hồ Thế Ân (1971); Phan Trọng Hậu (1971) ở khu hệ cá sông Hồng và vùng đồng bằng sông Hồng đã thống kê được 102 loài, trong đó khu hệ cá sông Hồng 75 loài (Nguyễn Kiêm Sơn, 1999) [41]. Về nguồn lợi cá, theo điều tra nghiên cứu về hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng của Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng, Nguyễn Công Thắng (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I) cho biết: có 4 loài cá quý hiếm là: Cá Lăng chấm (Hemibagrus gutattus Lacepede, 1803), cá Chiên (Bagarius yarrelli Sykes, 1839), cá Bỗng (Spinibarbichthys denticulatus Oshima, 1926) và cá Anh vũ (Semilabeo obscous Lin., 1981) đang có nguy cơ tuyệt chủng, cần được bảo vệ. Sản lượng khai thác của 4 loài cá này đã giảm xuống, chỉ bằng 10-15% sản lượng những năm 1970, 1980; trong đó cá Bỗng chỉ còn khoảng 1% [4], [5]. 1.3.3. Những vấn đề còn tồn tại Như vậy cho đến nay, đã có khá nhiều khảo sát, nghiên cứu về cá trong các sông thuộc hệ thống sông Hồng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến khu hệ cá và nghề cá. Các dẫn liệu về các bãi đẻ trứng của các loài cá kinh tế, đặc biệt các loài cá di cư sông biển, cũng như vùng 21 nước nuôi dưỡng cá con cũng chưa được xác định một cách đầy đủ và đã cũ, từ những năm 1960-1970 của thế kỷ trước. Thời gian qua với nhịp độ phát triển kinh tế-xã hội trên hai bờ sông Hồng diễn ra rất nhanh, đồng thời với sự phát triển xây dựng đập, hồ chứa thuỷ điện trên các sông Đà, sông Lô Gâm, cùng với sự khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản, đã và đang trở thành những nhân tố tác động rất lớn tới môi trường sống và khu hệ cá ở hệ thống sông Hồng. Ngoài ra, dưới góc độ sinh thái học, kiểu hệ sinh thái hợp lưu Ngã ba sông của các sông lớn như sông Thao, sông Đà và sông Lô thuộc hệ thống sông Hồng tại Việt Trì từ lâu đã được xem là khu vực bãi đẻ, bãi sinh trưởng của nhiều loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế như: cá Mòi, cá Cháy, cá Lăng, Chiên, Rầm xanh,... Tuy nhiên, khu vực Ngã ba sông này ít được nghiên cứu một cách toàn diện về cấu trúc khu hệ cá theo chiều dọc sông từ vùng thượng lưu của mỗi sông cho tới vùng hợp lưu sông (không gian) cũng như theo mùa (thời gian). Mặt khác, các đối tượng thuỷ sản có giá trị kinh tế hàng ngày đang chịu sự tác động của con người (khai thác quá mức, gây ô nhiễm môi trường) và sự thay đổi của các điều kiện tự nhiên. Nguồn lợi thuỷ sản chỉ có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện môi trường sống của thuỷ vực được bảo đảm cân bằng dù cho có những tác động của tự nhiên và con người. Do vậy, để có được cơ sở khoa học và tính khả thi, cần tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện đa dạng cá ở vùng nước Ngã ba sông Hồng tại Việt Trì và phụ cận nhằm bổ sung, cập nhật các dẫn liệu đầy đủ hơn về thành phần loài, cấu trúc phân loại khu hệ cá, đặc điểm phân bố, các bãi đẻ trứng, kiếm mồi và nuôi dưỡng cá con, tình hình khai thác và sử dụng nguồn lợi thủy sản có giá trị kinh tế, đặc biệt các loài quý hiếm có trong Sách Đỏ Việt Nam. 22 Chương 2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 2.1.1. Địa điểm nghiên cứu Toàn bộ vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận. Giới hạn toạ độ địa lý từ 21o12' đến 21o23' vĩ độ Bắc và từ 105o19' đến 105o28' kinh độ Đông. Khu vực nghiên cứu được mở rộng về 4 phía: ¾ Trên dòng sông Lô: từ vùng bến phà Đức Bác theo dòng sông Lô trở về xuôi. ¾ Trên dòng sông Thao: từ cầu Phong Châu trở về xuôi. ¾ Trên dòng sông Đà: từ phía trên cầu Trung Hà, hay xã Thái Hoà, huyện Ba Vì, Hà Nội trở về xuôi. ¾ Phía hạ lưu trên dòng sông Hồng: từ bãi cát bồi của xã Phú Thịnh (huyện Vĩnh Tường) ngược dòng lên Việt Trì (Hình 1) . 23 Hình 1: Sơ đồ vùng nghiên cứu 24 2.1.2. Thời gian nghiên cứu Tiến hành 3 đợt điều tra, khảo sát ngoài thực địa: ¾ Đợt 1: từ ngày 31/9 - 04/10/2009, (thời điểm nước cạn) ¾ Đợt 2: từ ngày 09/4 - 14/4/2010, (thời gian sinh sản của một số loài cá di cư như cá Mòi, cá Cháy, các loài quý hiếm, quan trọng khác). ¾ Đợt 3: từ ngày 10/6/ -17/6/2010, (thời điểm nước đầy). 2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Khu hệ cá ở vùng ngã ba sông Hồng và các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có liên quan tại vùng nghiên cứu. 2.2.2. Nguồn tài liệu - Các mẫu cá kèm theo ảnh chụp thu được qua 3 đợt điều tra, khảo sát ở vùng Ngã ba sông Hồng. - Nhật ký ảnh và các ghi chép ngoài thực địa. - Các số liệu từ 200 mẫu phiếu câu hỏi điều tra phỏng vấn về kinh tế, xã hội cư dân sống quanh khu vực, hiện trạng nghề cá, nguồn lợi cá,... - Các số liệu điều tra, khảo sát về điều kiện tự nhiên, khí tượng thuỷ văn; các số liệu do Chi cục thủy sản Phú Thọ, Vĩnh Phúc cung cấp; số liệu trong Niên giám thống kê và các cổng thông tin điện tử (website) của các tỉnh thuộc địa bàn nghiên cứu (Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Nội). 2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1. Phương pháp thu thập và xử lý mẫu vật Đánh bắt trực tiếp, thu mua của các hộ ngư dân và ở các chợ cá. Ngoài ra còn tiến hành phỏng vấn trực tiếp các ngư dân làng chài, người câu 25 cá,...bằng catalog ảnh mầu của cá. Mẫu cá được chụp ảnh, bảo quản và cố định bằng formandehit 10%, được lưu giữ tại Phòng Sinh thái môi trường nước, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Đối với cá Mòi cờ hoa: Do sản lượng cá Mòi còn rất ít, giá thành cao và là món ăn được nhiều ưa chuộng nên hầu hết cá Mòi đánh bắt được của ngư dân đều được các đầu mối thu gom về các chợ trung tâm lớn ở Hà Nội, Việt Trì. Do đó khi đến mùa cá Mòi di cư vào sông Hồng sinh sản (tháng 2 - 5), trong 2 năm (2009; 2010), chúng tôi tiến hành thu mua và đặt hàng tại các chợ trung tâm ở Hà Nội như chợ Hàng Bè, chợ Hôm, chợ Phùng Hưng; các chợ như Linh Lang, Đội Cấn, Mai Dịch, Dịch Vọng, và chợ Trung tâm Việt Trì, chợ cá ven sông tại Lâm Thao, Trung Hà, … Mẫu cá được mang về phòng thí nghiệm để tiến hành đo và tính toán các thông số cần thiết như chiều dài L, Lo, khối lượng W, tuổi cá, giai đoạn chín muồi sinh dục, sức sinh sản,.. 2.3.2. Phương pháp phân tích và định loại Việc phân tích, định loại các loài dựa trên phương pháp phân loại hình thái ngoài theo hướng dẫn nghiên cứu cá của Pravdin, 1973 (Bản dịch của Phạm Thị Minh Giang) [38]. Định loại cá theo một số tài liệu sau: ¾ Định loại các loài cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam của Mai Đình Yên, 1978 [64]. ¾ Cá nước ngọt Nam Bộ của Mai Đình Yên và cộng sự, 1992 [65]. ¾ Freshwater fishes of the Northern Vietnam, Kottelat, 2001 [75]. ¾ Fishes of the Cambodian Mekong, Rainboth, 1996 [82]. 26 ¾ Cá nước ngọt Việt Nam, tập 1; 2; 3. của Nguyễn Văn Hảo [25], [26], [27]. ¾ www.Fishbase.org. Xác định tên khoa học và sắp xếp danh lục theo hệ thống phân loại của Eschmeyer, 1998; có tham khảo Nguyễn Văn Hảo, 2005 [25] về tên Việt Nam các loài cá. Mỗi loài được nêu tên tiếng Việt, tên khoa học, tên tác giả và năm công bố. Đối với cá Mòi, việc phân tích đặc điểm sinh học, chúng tôi dựa theo các tài liệu và phương pháp sau: - Thiết lập phương trình tương quan về khối lượng và chiều dài cơ thể cá theo Beverton & Holt (1956). - Xác định tuổi cá dựa vào số vòng năm trên vẩy theo Pravidin - Thiết lập phương trình tốc độ sinh trưởng theo phương trình của Rosa Lee (1920) - Xác định các thông số sinh trưởng theo phương trình Von Bertalanffy (1954) - Xác định hệ số béo của cá theo công thức Fulton (1902) - Xác định giai đoạn chín muồi sinh dục theo thang 6 bậc của Kixelevils (1923). Ngoài ra, các số liệu được sử dụng và tính toán trên Exel, xử lý các kết quả thu được bằng phương pháp thống kê sinh học và các phần mềm chuyên ngành thông dụng như FiSAT II,... 27 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 3.1.1. Đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên 3.1.1.1. Đặc điểm địa lý Khu vực Ngã ba sông Hồng nằm ở ranh giới của 3 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Nội. Khu vực này ở trung du Bắc Bộ với địa hình chuyển tiếp giữa vùng núi và đồng bằng. Khu vực Ngã ba sông có các huyện/thành phố, thị xã nằm trên vùng lưu vực và ven sông như: TP. Việt Trì, các huyện Lâm Thao, Tam Nông và Thanh Thuỷ thuộc tỉnh Phú Thọ; huyện Vĩnh Tường thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây thuộc Hà Nội. Nhìn chung, điều kiện địa hình ở khu vực không phức tạp. Vùng đồi núi chủ yếu thuộc các huyện Thanh Thuỷ (Phú Thọ) và Ba Vì (Hà Nội). 3.1.1.2. Đặc điểm khí hậu Khu vực Ngã ba sông Hồng và phụ cận nằm trong miền khí hậu phía bắc: khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh và mưa hè. Là vùng chuyển tiếp của khu vực đồng bằng Bắc Bộ với vùng Tây Bắc và Đông Bắc, khu vực này có khí hậu mang đầy đủ những đặc điểm của khí hậu miền: mùa đông lạnh với một số khu vực lạnh hơn nhiều so với điều kiện trung bình vĩ tuyến, mùa đông chỉ có thời kỳ đầu tương đối khô còn nửa cuối lại rất ẩm ướt; mùa hè rất ẩm ướt, nhiều mưa, khí hậu biến động mạnh. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23 -24oC. Hàng năm có 4 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới mức 20oC, thường từ tháng XII-tháng III. (Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc, 1993) [57]. Ở phía bắc Việt Nam, theo mùa khí hậu, mùa mưa bắt đầu từ tháng IV đến tháng X, mùa khô bắt đầu từ tháng XI đến tháng III năm sau. Lượng mưa 28 trong vùng phân bố khá đồng đều, lượng mưa trung bình cả năm trên toàn khu vực tỉnh đạt khoảng 1400-1600 mm, tại những vùng giáp núi, lượng mưa thường tăng, đạt tới 1800-2000 mm/ năm. Mùa mưa thường kéo dài khoảng 6 tháng, từ tháng V đến tháng X, tập trung đến 85% lượng mưa cả năm. Độ ẩm trung bình năm vào khoảng 80-83%, trong đó thời kỳ ẩm ướt nhất là vào 3 tháng cuối mùa đông với tháng cực đại là tháng III. Thời kỳ khô nhất là những tháng đầu mùa đông, thường đạt cực tiểu vào tháng XI (Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc, 1993) [57]. 3.1.1.3. Đặc điểm thuỷ văn Chế độ dòng chảy sông Hồng ở Ngã ba tại Việt Trì rất phức tạp, chủ yếu do chế độ nước sông ở vùng thượng lưu bao gồm các sông Đà, Lô và Thao quyết định. Trong hệ thống sông Hồng, sông Đà góp 52% lượng nước, tương đương 49,1-57,9 tỷ m3. Trên hai nhánh sông Đà và sông Lô đều có các đập thuỷ điện chặn dòng ở phía thượng lưu: đập thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà có sức chứa 9,45 tỷ m3 và đập thuỷ điện Thác Bà có sức chứa 2,163,6 tỷ m3, đập thuỷ điện Tuyên Quang trên sông Gâm có sức chứa 1 -1,5 tỷ m3. Như vậy, lưu lượng dòng chảy đi qua vùng ngã ba sông về mùa lũ sẽ giảm đi tương ứng với phần nước của ba hồ chứa này lưu giữ lại (12,34 - 15 tỷ m3), nhưng dòng chảy sẽ lại tăng lên tương đương với lượng nước trên vào mùa khô hạn khi các nhà máy chạy phát điện và thải nước xuống hạ lưu. Phía trên đập thuỷ điện Hoà Bình, còn thêm các bậc thang thuỷ điện Sơn La (dung tích chứa 9,26 tỷ m3) và các thuỷ điện cỡ nhỏ khác, nên lượng nước được lưu giữ lại trong mùa lũ sẽ lớn hơn nhiều và dòng chảy vào mùa lũ cũng như mùa khô cạn phải phụ thuộc vào chế độ hoạt động của các nhà máy thuỷ điện, thời gian mở cống xả lũ và chống hạn cho vụ đông xuân. Trong năm 2009, mực nước trên sông Hồng ở mức thấp và liên tục phá kỷ lục trong hơn 100 năm qua. Theo thống kê của Phòng Dự báo thủy văn Bắc 29 Bộ thuộc thuộc trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn TƯ cho biết, mực nước sông Hồng đã 6 lần xuống thấp kỷ lục, đó là vào các tháng 3, 8, 10, 11 và 12. Khu vực Ngã ba sông tại Việt Trì được xem là khởi đầu của vùng đồng bằng, là nơi tiếp nhận nước của cả 3 sông: sông Thao (dòng chính sông Hồng), sông Đà và sông Lô. Về hình thái lòng sông, khu vực ngã ba sông sau khi 3 sông gia nhập có chiều rộng lòng sông rất lớn. Lòng sông thường có các bãi bồi hoặc ở giữa lòng hoặc các vùng ven bờ tuỳ thuộc vào điều kiện địa hình bờ và chế độ dòng chảy. Mùa kiệt, các bãi cát lòng sông nổi cao. Dòng chảy trên sông Hồng biến đổi theo mùa khí hậu trong năm (mùa khô và mùa mưa). Mùa thuỷ văn chậm hơn so với mùa khí hậu. Theo đó, mùa mưa lũ bắt đầu từ tháng V, kết thúc vào tháng X. Lượng nước trong mùa lũ chiếm 75-80% lượng nước trong năm. Modun dòng chảy lũ trung bình tại Sơn Tây là 47,31 l/s.km2. Ba tháng có có dòng chảy lớn nhất từ VII tới tháng IX. Modun dòng chảy 3 tháng lớn nhất tại Sơn Tây là 56,9 l/s.km2. Mùa kiệt bắt đầu từ tháng XI tới tháng V với tổng lượng nước chiếm 20-25 % tổng lượng dòng chảy năm. Modun dòng chảy kiệt ở Sơn Tây là 10,8 s/l.km2. Ba tháng liên tục có dòng chảy nhỏ nhất là II-IV với lượng nước chưa tới 10 % lượng nước năm. Mực nước kiệt nhất tại Sơn Tây là 3,57 m, tại Hà Nội là 1,71 m Tốc độ dòng chảy của nước ở các loại thuỷ vực khác nhau có sự thay đổi rất lớn. Tốc độ dòng chảy sông Hồng trong mùa lũ trung bình 2,61-3,45 m/s (Phạm Quang Hạnh, 1985). 30 Theo các kết quả đo đạc, tổng lượng nước mặt của sông Hồng khá lớn, bình quân lưu lượng nước chảy qua khúc sông ở Sơn Tây vào khoảng 107109 tỷ m3, tương đương lưu lượng trung bình hàng năm vào khoảng 3.4153.456m3/s. Tuy nhiên, do địa bàn rộng, lượng mưa phân bố không đều nên dòng chảy ở các đoạn sông cũng có sự khác nhau. Ngoài ra, lượng nước trên các đoạn sông còn biến động và phụ thuộc vào các mùa trong năm. Ví dụ, sông Hồng tại Sơn Tây có dòng chảy vào mùa lũ lớn nhất đạt tới 160,5 tỷ m3/năm và nhỏ nhất là 93 tỷ m3/năm. Như vậy, sự chênh lệch giữa mức cao nhất với mức thấp nhất là 1,7 lần [57]. Ở các suối đầu nguồn của các nhánh sông nhỏ thuộc huyện Yên Lập, Hạ Hoà và Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ có độ dốc lớn, lòng suối hẹp, tốc độ dòng chảy về mùa mưa rất cao, có khi tạo thành lũ lớn. Ở dòng chính sông Thao cũng có đặc điểm tương tự, sông gần thẳng làm cho tốc độ dòng chảy cao hơn ở các sông như sông Lô, sông Đà, do vậy, nền đáy chủ yếu là cát thô và sỏi sạn. Sông Hồng từ Việt Trì trở xuống có lòng sông rộng, độ dốc thấp nên tốc độ dòng chảy chậm lại, lượng phù sa bắt đầu bồi tụ, do đó nền đáy ở đây bắt đầu có nhiều cát bùn. 3.1.2. Đặc điểm kinh tế -xã hội của các huyện thị ven lưu vực Ngã ba sông. 3.1.2.1. Dân số Khu vực Ngã ba sông Hồng có các huyện/Thị xã trên vùng lưu vực như: TP. Việt Trì, các huyện Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông và Thanh Thuỷ thuộc tỉnh Phú Thọ; các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường thuộc tỉnh Vĩnh Phúc; huyện Ba Vì và thị xã Sơn Tây thuộc Hà Nội. Trong các huyện, thị kể trên, đáng chú ý nhất là TP. Việt Trì là khu vực có những hoạt động phát triển kinh tế - xã hội gây tác động quan trọng tới môi trường sống vùng nước 31 Ngã ba sông Hồng và phụ cận. Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu vực Ngã ba sông Hồng được trình bày ở bảng 1. Bảng 1: Dân số, diện tích các địa phương vùng lưu vực Ngã ba sông Hồng tỉnh Phú Thọ Huyện Dân số (người) Diện tích (ha) Việt Trì 181.123 10.636 Phù Ninh 15.637 98.202 Lâm Thao 101.422 9.755 Tam Nông 79.112 14.659 Thanh Thuỷ 74.400 12.097 Lập Thạch 207.052 32.302 Vĩnh Tường 176.830 14.027 Ba Vì 242.600 42.800 Sơn Tây 181.831 11.347 Vĩnh Phúc Hà Nội (Nguồn: Số liệu Tổng Cục thống kê, 2009) 3.1.2.2. Cơ cấu ngành nghề và tình hình phát triển kinh tế Thành phố Việt Trì là một trung tâm động lực kinh tế-xã hội của tỉnh Phú Thọ. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 - 2010 đạt trên 15,0 %/năm. Tỷ trọng đóng góp vào GDP chung của tỉnh năm 2010 đạt trên 62,0 %. Thành phố có hướng phát triển ưu tiên đầu tư vào các ngành công nghệ tiên tiến, công nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm môi trường (như công nghiệp cơ khí chế tạo, lắp ráp, điện tử, tin học, sản xuất rượu bia…); những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế thu ngân sách và thu hút lao động. Đến năm 2010, TP. Việt Trì phấn đấu 100 % cơ sở 32 sản xuất mới xây dựng áp dụng công nghệ cao, đồng thời phát triển du lịch, sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Ưu tiên phát triển du lịch lễ hội, du lịch tâm linh, du lịch sinh thái…; tập trung đầu tư vào Khu di tích lịch sử Đền Hùng; khu du lịch Văn Lang, khu du lịch Bến Gót, khu du lịch sinh thái ven sông Lô (các xã Trưng Vương, Sông Lô) . Theo khảo sát và thống kê thực hiện vào các năm 2009 và 2010, khoảng 80-90 % người dân tại các thôn, xã ven sông của các huyện thị ven sông đều làm nông nghiệp. Với diện tích bãi bồi ven sông lớn, màu mỡ, nguồn nước dồi dào phù hợp cho bà con nông dân trồng hoa màu. Tại một số khu vực đất bãi ven 2 bờ sông Hồng, sông Lô những năm gần đây, người dân và các xí nghiệp còn sản xuất và nung gạch ngói, nung vôi để cung cấp vật liệu xây dựng cho ngành xây dựng. Những lò gạch, lò vôi này cũng đã tạo công việc thường xuyên và mang lại thu nhập đáng kể cho người dân lao động làm thuê cho các chủ lò này. Nhiều dân chài cũng đã bỏ nghề để chuyển sang làm thuê cho các chủ lò gạch, lò vôi và chuyên chở vật liệu. Việc các lò gạch, lò vôi nung này phát triển quá mức, hoạt động quanh năm, đã gây ô nhiễm môi trường không khí, huỷ hoại hoa màu và sức khoẻ của nhân dân quanh vùng. Quanh khu vực các lò nung gạch, nung vôi, hoa màu không phát triển, năng suất giảm, nhiều loại không cho thu hoạch vì ảnh hưởng của khói lò. Khói bụi của lò vôi, lò gạch còn ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng dân cư sống quanh khu vực này. Các bệnh về hô hấp như ho, viêm phổi, ung thư phổi, mất ngủ của cư dân quanh khu vực này tăng lên. Ngoài ra, những năm gần đây, nghề khai thác cát trên sông Hồng, cát vàng, sỏi trên sông Lô phát triển rất mạnh vì lợi nhuận thu được từ nghề này rất lớn. Những thuyền khai thác cát này hầu hết là của một số ít những ông chủ, những nhóm đại gia có tiềm lực kinh tế. Tại khu vực khai thác cát sỏi, 33 cũng thường xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp khai thác gây mất trật tự ổn định xã hội. 3.1.2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế Về trình độ văn hóa: Phần lớn những người lao động nghề cá đều có trình độ văn hóa thấp. Số con em bỏ học để tham gia lao động trước độ tuổi lao động còn nhiều. Chất lượng lao động nhìn chung không cao, hầu hết chưa học hết phổ thông. Theo thống kê, tỷ lệ trong cộng đồng ngư dân trong sông Hồng không đi học là 10,4 %, đi học cấp I: 53,6 %, cấp II: 31,2 % và chỉ có 4,8 % ngư dân học cấp III (Số liệu đồng bằng sông Hồng; Tổng cục thống kê, 1999) Qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp cho thấy, nhận thức của ngư dân về vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn rất hạn chế. Hầu hết ngư dân chỉ biết lợi ích trước mắt, khai thác một cách quá mức mà không nhận thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ và sử dụng nguồn lợi theo hướng bền vững, đặc biệt khai thác mạnh vào thời kỳ cá tập trung sinh sản. Đồng thời, nhận thức của các cấp chính quyền địa phương về vấn đề này cũng còn bất cập, nên việc khai thác cá hầu hết còn mang tính tự phát, thiếu sự kiểm soát. Việc tuyên truyền, giáo dục và tập huấn về công tác bảo vệ nguồn lợi hầu như không có ở các địa phương làng chài. Về vấn đề dịch vụ y tế: Nhìn chung vấn đề dịch vụ y tế tại các làng chài ven sông còn lạc hậu và thiếu thốn về cơ sở vật chất. Ngoài ra, vấn đề an toàn thực phẩm cũng chưa được ngư dân quan tâm, sinh hoạt bằng nguồn nước không vệ sinh (nước sông, nước giếng khơi…), nguồn thực phẩm chưa đảm bảo nhu cầu sức khỏe. Ngoài ra, những hộ ngư dân chuyên khai thác cá hầu hết là ngư dân nghèo, không có đủ tiền để khám và chữa bệnh. 34 3.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ THUỶ SINH VẬT 3.2.1. Đặc điểm thuỷ lý Như đã trình bày ở trên, khu vực Ngã ba sông là nơi gia nhập của 3 dòng sông lớn: sông Đà, sông Lô và sông Thao (dòng chính của sông Hồng). Bởi vậy, môi trường nước ở đây cũng có những biến động theo mùa thuỷ văn rất lớn. Vào mùa kiệt, khi lượng nước sông Đà chỉ bổ cập bằng nguồn nước qua nhà máy thuỷ điện, nước sông Đà sau đập thường có độ trong lớn hơn nhiều so với nước sông Thao. Về mùa lũ, nước sông Đà sau đập Hoà Bình cũng có độ đục thấp hơn so với nguồn nước từ sông Thao. Các kết quả đo độ trong theo đĩa Secchi tại một số điểm khảo sát ở khu vực Ngã ba sông Hồng cho thấy về mùa kiệt, độ đục sông Thao vào loại khá lớn so với các sông khác., trung bình vào mùa khô 112 mg/l, trong khi đó, nước sông Đà sau đập Hoà Bình có độ trong cao hơn và độ đục thấp hơn (độ đục trung bình 20 mg/l), đặc điểm này thấy rõ khi lượng nước qua tuabin thuỷ điện Hoà Bình thấp. Nước sông Đà có màu xanh nước biển đặc trưng. Về mùa lũ, mực nước sông Hồng dâng cao, nước chảy mạnh, có khi thành lũ lớn, nước ngầu đục vì mang nhiều phù sa từ các vùng núi đầu nguồn xuống. Độ đục đo được ở nước sông Hồng vào mùa lũ lên tới 200300mg/l, thậm chí độ đục lớn nhất trong mùa lũ ở Sơn Tây lên tới 6.950 g/m3, 4.960 g/m3 ở Hà Nội (Phạm Quang Hạnh, 1985). Các kết quả phân tích chất lượng nước tại khu vực ngã ba sông Hồng trong đợt khảo sát tháng 10/2009 cho thấy hầu hết các chỉ số thuỷ lý, hoá đều ở mức giới hạn cho phép loại A so với quy chuẩn môi trường nước mặt (QCMT 10/2008) Hàm lượng ô xy hoà tan (DO) trong khu vực dao động từ 4,9-6,5 mg/l nằm trong ngưỡng cho phép đối với các nhóm động vật thuỷ sinh. Độ pH 35 dao động trong mức kiềm yếu, 7,7-7,92, nằm trong ngưỡng cho phép. Độ đục thay đổi theo từng vị trí đo đạc: sông Thao có độ đục cao hơn so với độ đục sông Lô và sông Đà, (bảng 2). Bảng 2. Các thông số thủy lý ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009) Sông Thao Sông Đà Ngã ba s Hồng Sông Hồng Sông Lô T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 To 25,6 25,4 25.95 26.75 25.4 26.3 27.97 26.23 27.07 26.77 DO 5,5 5,7 5.9 6.2 5.75 6.1 5.23 4.33 5.73 5.13 pH 7,86 7,85 7.8 7.8 7.9 7.81 7.92 7.80 7.91 7.94 Dẫn (S/m) 0,015 0,015 0.01 0.01 0.015 0.01 0.01 0.01 0.01 0.01 Dẫn (µS/cm) 153,8 154,2 153.45 153.35 153.9 153.4 Đục mg/l 119 178 85 31.5 89.5 133 153.80 153.77 153.37 27 124.67 48 Chú thích: T1 Cầu Phong Châu; T2 Trạm bơm Dầu Dương; T3 Gần Bãi bồi; T4 Phà Hồng Đà; T5 Vĩnh Lại; T6 Khu vực đầu TP Việt Trì; T7 Phà Đức Bác; T8 Nhà máy đường Việt Trì; T9 Cao Đại; T10 Phú Minh. 3.2.2. Đặc điểm thuỷ hoá Kết quả phân tích thuỷ hoá vào tháng 10/2009 tại khu vực Ngã ba sông Hồng cho thấy hầu hết các yếu tố đều ở mức giới hạn cho phép theo QCVN 2008, riêng với NO3- , một số điểm khảo sát có hàm lượng cao hơn giới hạn cho phép đối với nước mặt loại A (2 mg/l). Hàm lượng các chất bảo vệ thực vật cũng nằm dưới giới hạn cho phép của QCVN 2008, (bảng 3) Theo các báo cáo hiện trạng môi trường (Trần Hiếu Nhuệ, 2005) [7], ở hệ thống sông Hồng nói chung, hầu hết các chất chỉ thị ô nhiễm đều có 36 154 48.33 nồng độ thấp. Tuy nhiên, tại một số khu vực gần điểm xả ven sông của nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy super phốt phát Lâm Thao, khu công nghiệp Việt Trì thì giá trị trung bình một số chỉ tiêu vượt qúa giới hạn cho phép chất lượng nước mặt loại A theo QCVN 2008 như: hàm lượng COD = 11 - 23,7 mg/l (gấp gần 3 lần giới hạn cho phép), BOD = 15,3 mg/l (gấp gần 4 lần GHCP), NO2- = 0,014 mg/l (gấp gần 2 lần GHCP), NH4+ = 0,1 mg/l (gấp 2 lần TCCP) Bảng 3. Các thông số thủy hóa ở vùng Ngã ba sông Hồng (10/2009) Chỉ tiêu phân tích TT Ký hiệu mẫu Fe2+ (mg/l) PO43-(mg/l) NO3-(mg/l) NH4+(mg/l) COD (mg/l) 1 T1 0.022 0.052 2.605 0.111 8.6 2 T2 0.017 0.044 1.413 0.139 8.2 3 T3 0.009 0.054 1.284 0.140 7.8 4 T4 0.025 0.034 2.108 0.211 7.2 5 T5 0.023 0.080 2.443 0.116 8.0 6 T6 0.018 0.056 2.265 0.106 7.6 7 T7 0.015 0.063 1.854 0.098 7.8 8 T8 0.011 0.082 2.118 0.121 8.0 9 T9 0.009 0.032 1.842 0.190 7.2 10 T10 0.009 0.029 1.559 0.224 7.6 3.2.3. Đặc trưng về thuỷ sinh vật 3.2.3.1. Thực vật nổi (Phytoplankton) Thành phần thực vật nổi tại khu vực Ngã ba sông và vùng phụ cận bao gồm 55 loài, thuộc 3 ngành tảo: tảo Silic (Bacillariophyta), tảo Lục (Chlorophyta), vi khuẩn Lam (Cyanobacteria), (Hình 2, Phụ lục 1). 37 Trong thành phần loài thực vật nổi, chủ yếu là các loài đặc trưng cho thuỷ vực nước chảy (sông). Trong đó, tảo Silíc chiếm ưu thế về thành phần loài (26 loài chiếm 47,3% số loài), tảo Lục có 20 loài (36,4%), vi khuẩn Lam có 9 loài (16,4%). Cấu trúc thành phần loài như vậy là phản ánh thực tế của khu hệ tảo sông. Do chỉ khảo sát trong thời gian ngắn, cho nên số lượng loài thực vật nổi ở khu vực đã xác định được như trên còn ít hơn so với thực có. 36% 48% 16% Bacillariophyta Chlorophyta Cyanobacteria Hình 2: Tỷ lệ các nhóm TVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Trong thành phần thực vật nổi, có sự phân bố rất rõ ràng các nhóm tảo theo các loại hình thuỷ vực khác nhau: nhóm tảo ưa nước chảy, sạch phân bố tại các thuỷ vực vùng đồi núi, như các chi Melosira, Nitzschia, Amphora, Surirella, Navicula, Synedra thuộc ngành tảo Silic; các chi Spyrogyra , Zignemopsis, Micrasterias, Closterium , Staurastrum, Crucigenia thuộc tảo Lục. Tuy nhiên, một số chi khác thuộc vi khuẩn Lam (chi Oscillatoria) trong điều kiện bình thường ít hoặc không xuất hiện tại sông nước chảy và thường thấy ở các thuỷ vực ao, hồ có dinh dưỡng cao, có biểu hiện ô nhiễm hữu cơ thì lại thấy xuất hiện tại sông trong các kỳ khảo sát mùa khô. 38 Mật độ thực vật nổi khảo sát trong đầu mùa khô (10/2009) không cao, dao động từ 1.350 đến 2.000 tế bào/lít. Tại các trạm khảo sát, nhóm tảo Lục chiếm ưu thế nhất về mật độ, tiếp đến nhóm tảo Silic và vi khuẩn Lam. Mật độ thực vật nổi khảo sát trong tháng 3/2009 cũng không cao, dao động từ 1.300 đến 2.450 tế bào/lít. 3.2.3.2. Thực vật bám đáy (Periphyton) Thực vật bám đáy là nhóm thực vật sống bám trên các giá thể ở đáy như mặt đá tảng hoặc tạo thành các màng thực vật trên đáy cát-bùn. Nhóm thực vật đáy này thực chất là một tập hợp của nhiều quần thể tảo và tuỳ thuộc vào từng dạng mà là tảo dạng sợi (dạng bùi nhùi, dạng khảm dày bám trên mặt đá hoặc trên nền đáy cát-bùn) và tảo đơn bào (dạng màng mỏng bám trên mặt đáy đá) thuộc các ngành tảo Silíc, vi khuẩn Lam và tảo Lục. Ngoài ra, còn có nhóm thực vật bám mặt đá là rêu. Quần xã rêu thường phát triển ở vùng ven bờ nơi có độ ẩm cao. Trong khu vực khảo sát, thực vật bám đáy chỉ thấy ở kiểu sinh cảnh bờ đá khối, chúng hình thành ở các vũng nước nông giữa các khối đá, đáy cát-bùn. Thực vật bám đáy là nguồn thức ăn rất quan trọng cho các nhóm ấu trùng côn trùng ở nước. Bởi vậy tại các nơi có nhiều thực vật bám đáy, thường thấy các quần thể ốc, ấu trùng côn trùng ở nước phát triển phong phú. 3.2.3.3. Động vật nổi (Zooplankton) Các kết quả phân tích mẫu vật thu được đã xác định được 28 loài và nhóm động vật nổi thuộc các nhóm trùng bánh xe (Rotatoria), giáp xác râu ngành (Cladocera), giáp xác chân chèo (Copepoda), có bao (Ostracoda) và ấu trùng côn trùng (Hình 3, Phụ lục 2). Số lượng các loài đã biết như trên còn thấp hơn so với thực tế có được. Thành phần loài động vật nổi hầu hết là các loài phân bố rộng bao gồm cả 39 các loài nước ngọt và nước lợ. Trong thành phần, giáp xác chân chèo chiếm ưu thế về số lượng loài (chiếm khoảng 40% tổng số loài). 36% 36% 14% Rotatoria Copepoda 14% Branchiopoda Nhóm khác Hình 3. Tỷ lệ các nhóm ĐVN vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Về số lượng, kết quả phân tích mẫu vật thu được trong 3 đợt khảo sát, mật độ ĐVN khá cao, dao động từ trên 500 con/m3 tới trên 32.000 con/m3. Các điểm khảo sát ở sông Lô có số lượng ĐVN cao nhất, (Bảng 4). Bảng 4: Mật độ các nhóm ĐVN ở vùng Ngã ba sông Hồng Copepoda (Con/m3) Cladocera Rotatoria (Con/m3) (Con/m3) s. Thao 330-840 180-630 30-60 30-60 s. Đà 750-1140 210-360 60-120 0 s. Lô 990-8040 1470-24360 60-240 30-60 s. Hồng 420-1020 195- 360 60-90 30-90 Ngã ba s. Hồng 180-1020 84-270 90 30-60 Địa điểm 3.2.3.4. Động vật đáy (Zoobenthos) 40 Nhóm khác (Con/m3) Kết quả phân tích vật mẫu trong chuyến khảo sát, cùng với thống kê từ những dẫn liệu đã có, đã xác định được 42 loài ĐVĐ thuộc 31 giống, 18 họ, 6 bộ và 4 lớp. Trong động vật thân mềm, trai họ trai sông (Unionidae), hến họ (Corbiculidae) chiếm ưu thế về số loài cũng như phân bố rộng khắp vùng nước nông ven bờ. Trong ĐVĐ, chiếm ưu thế là hai nhóm: nhóm Ốc- Gastropoda có 18 loài (43%) và nhóm Hai mảnh vỏ- Bivalvia có 13 loài (31%). Hai nhóm còn lại có số lượng loài ít hơn, nhóm Côn trùng- Insect có 3 loài (7%), nhóm Giáp xác- Crustacea có 8 loài (19%), (Hình 4, Phụ lục 3). 7% 31% 19% 43% Gastropoda Bivalvia Insect Crustacea Hình 4: Tỷ lệ các nhóm ĐVĐ vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận Trong số 42 loài thân mềm có trong khu hệ, có 2 loài trai nằm trong Sách Đỏ Việt Nam (2007): - Trai Vỏ nâu Chamberlainia hainensiana (Lea, 1856) (Phân hạng DD). Phân bố: sông Lô (Tuyên Quang, Việt Trì). - Trai Cóc nhẵn Cuneopsis (Procuneopsis) demangei (Haas, 1929) (Phân hạng: DD). Phân bố ngã ba sông Hồng tại Việt Trì, Phú Thọ. 41 Tuy nhiên, qua các đợt khảo sát điều tra, chúng tôi vẫn chưa thu được mẫu của 2 loài này. 3.3. ĐẶC ĐIỂM KHU HỆ CÁ 3.3.1. Đặc trưng về thành phần loài Kết quả điều tra cho thấy, khu hệ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận có 91 loài thuộc 75 giống, 26 họ, 11 bộ. Trong đó, có 68 loài thu được mẫu trực tiếp, hoặc chụp được ảnh; 23 loài không thu được mẫu trực tiếp, mà chỉ ghi nhận từ kết quả phỏng vấn ngư dân các làng chài, người dân sống quanh khu vực và ở các chợ cá; 3 loài cá trước đây ghi nhận, nhưng hiện nay không còn gặp (cá Cháy, cá Chình nhật, cá Lợ). Danh sách các loài ghi nhận trong khu hệ cá tại vùng Ngã ba sông Hồng trình bày ở Bảng 5, Hình 5 và Phụ lục 5. Bảng 5: Danh sách các loài đã biết ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận tt Tên cá Tên khoa học 1 2 3 4 5 I. BỘ CÁ TRÍCH CLUPEIFORMES 1. Họ cá Trích 1. Cá Mòi cờ hoa Clupeidae Clupanodon thrissa (Linnaeus, 1758) 2. Cá Cháy Tenualosa reeversii (Richardson, 1846) x 2. Họ cá Trỏng 3. Cá Lành canh trắng Coilia grayii Richardson, 1844 SALMONIFORMES 3. Họ cá Ngần Salangidae Protosalanx chinensis (Basilewsky, 1855) III. BỘ CÁ CHÌNH ANGUILLIFORMES 4. Họ cá Chình Anguillidae 5. Cá Chình Nhật 5. Họ cá Lịch cu 6. Cá Nhệnh x 7 x x EN M x EN PV Engraulidae II. BỘ CÁ HỒI 4. Cá Ngần trắng x 6 Anguilla japonica Temminck & Schlegel, 1846 x x x x M x x x x M x EW PV Ophychthyidae Pisoodonophis boro (Hamilton, 1822) 42 x PV IV. BỘ CÁ CHÉP MỠ CHARACIFORMES Characidae 6. Họ cá Chép mỡ 7. Cá Chim trắng nước ngọt Colosoma brachypomum (Cuvier, 1818) x 7. Họ cá Vền 8. Cá Vền Nam Mỹ Prochilodus argenteus Spix & Agassiz, 1829 CYPRINIFORMES 8. Họ cá Chép Cyprinidae Opsarichthys bidens (Gunther, 1873) 10. Cá Trắm đen 11. Cá Măng nhồng 12. Cá Trắm cỏ 13. Cá Chày mắt đỏ 14. Cá Chày chàng 15. Cá Măng 16. Cá Mương nổi 17. Cá Dầu hồ x x x x M M x x M x x x PV x x x x M x x x x M x Elopichthys bambusa (Richardson, 1844) Hemiculter leucisculus (Basilewsky, 1855) Toxabramis houdemeri Pellegrin, 1932 x x x x 21. Cá Thiểu mắt to Ancherythroculter daovantieni Banarescu, 1967, 22. Cá Thiểu Culter erythropterus Basilewsky, 1855 23. Cá Ngão gù 24. Cá Mại Culter flavipinnis Tirant, 1883 Metzia lineata (Pellegrin, 1907) 25. Cá Tép dầu bụng bạc Metzia formosae (Oshima, 1920) 26. Cá Nhàng bạc Xenocypris argentea Gunther, 1868 27. Cá Mần Xenocypris davidi Bleeker, 1871 28. Cá Mè trắng Việt Nam Hypophthalmichthys harmandi Sauvage, 1884 Hypophthalmichthys molitrix (Valenciennes, 1844) 43 x M x x Mylopharyngodon piceus (Richardson, x 1846) Luciobrama macrocephalus (Lacepede, 1803) Ctenopharyngodon idella (Valenciennes, 1842) x Squaliobarbus curriculus Richardson, 1846 Ochetobius elongatus (Kner, 1867) 18. Cá Tép dầu sông gai dài Hainania serrata Koller, 1927 Megalobrama terminalis (Richardson, 19. Cá Vền 1946) 20. Cá Nhác Sinibrama affinis (Vaillant, 1892) 29. Cá Mè trắng Trung x Prochilodontidae V. BỘ CÁ CHÉP 9. Cá Cháo x x VU PV x x x x x M x M x M x x x x VU M x x M x x M x x x M M x M PV x x x PV x x x x x PV x PV M Quốc 30. Cá Mè hoa 31. Cá Thè be Aristichthys nobilis Richardson, 1844 Acheilognathus tonkinensis Vaillant, 1892 x 32. Cá Thè be x 35. Cá Đòng đong cân cấn Rhodeus vietnamensis Yên, 1978 Paraspinibarbus macracanthus (Pellegrin & Chevey, 1936.) Spinibarbus hollandi Oshima, 1919 Puntius semifasciolatus (Gunther, 1868) 36. Cá Đong chấm Puntius brevis (Bleeker, 1850) x 37. Cá Đòng đong Puntius takhoaensis Nguyen & Doan, 1969 38. Cá Vũ Epalzeorhynchus mutabilis Lin, 1933 x 39. Cá Anh vũ Semilabeo obscurus Lin, 1981 x 40. Cá Dầm xanh x Bagana lemassoni (Pellegrin & Chevey, x 1936) x x x x x Cirrhinus molitorella (Valenciennes, 1844) Cirrhinus mrigala (Hamilton, 1822) x x x x Labeo rohita (Hamilton, 1822) x x x + Osteochilus salsburyi Nichol & Pope, 1927 Garra caudofascialata (Pellegrin & x Chevey, 1936) x x x x x Carassius auratus (Linnaeus, 1758) Carassioides acuminatus (Richardson, x x x 1846) x x x x x Cyprinus carpio Linnaeus, 1758 33. Cá Cầy 34. Cá Chày đất 41. Cá Trôi sông 42. Cá Mrigan 43. Cá Rô hu 44. Cá Dầm đất 45. Cá Lun 46. Cá Diếc 47. Cá Rưng 48. Cá Chép 49. Cá Chép Hung Cyprinus carpio carpio (Linnaeus, 1758) 50. Cá Lợ Cyprinus multitaeniata (Pelyegrin & Chevey, 1936) 51. Cá Gáy Cyprinus rubrofuscua Lacepede, 1803 52. Cá Đục ngộ 53. Cá Đục chấm Hemibarbus medius Yue Hemibarbus macracanthus Lo, Yao & Chen, 1977 Saurogobio immaculatus Koller, 1927 Squalidus atromaculatus Nichol & Pope, 1927 54. Cá Đục đanh 55. Cá Đục trắng dày 44 x x x x M x x M x M x M x M x x x x x x x x x M x x M M PV x x x x x VU M x VU PV x x x x x M M M PV M M M M x EW PV x M x x PV M x x M x x x x M M 56. Cá Trỏng cơm 57. Cá Đục đanh chấm 58. Cá Đục hoa 59. Cá Đục râu 9. Họ cá Chạch 60. Cá Chạch bùn 10.Họ cá Chạch suối 61. Cá Bám đá khuyết Squalidus argentatus (Sauvage & Dabry, 1874) Microphysogobius kachekensis (Oshima, 1926) Microphysogobius sp1 Gobiobotia kelleri Banarescu & Nalbant, 1966 Cobitidae x Misgurnus anguillicaudatus (Cantor, 1842) x x x x x x x x x x x x Beaufortia leveretti (Nichol & Pope, 1927) SILURIFORMES 11. Họ cá Nheo Siluridae 12. Họ cá Lăng x Silurus asotus Linnaeus, 1758 Pelteobagrus fulvidraco (Richardson, 1846) x x 64. Cá Lăng 65. Cá Lăng sông Lô 66. Cá Ngang Hemibagrus guttatus Lacepede, 1803 Hemibagrus sp. Pelteobagrus pluriadiatus (Vaillant, 1892) Hemibagrus vietnamicus Mai, 1978 Pelteobagrus vachellii (Richardson, 1846) Pseudobagrus virgatus (Oshima, 1926) x x x x x x x x 69. Cá Mịt 13. Họ cá Ngạnh 70. Cá Ngạnh 14. Họ cá Trê 71. Cá Trê 72. Cá Trê phi 15. Họ cá Tỳ bà 73. Cá Dọn bể 16. Họ cá Chiên 74. Cá Chiên VII. BỘ CÁ NHÁI M x M PV x x M x M PV x M Bagridae 63. Cá Bò 67. Cá Quất 68. Cá Mầm x Balitoridae VI. BỘ CÁ NHEO 62. Cá Nheo x M x x x x x x VU M x PV x PV M x M x x x Cranoglanis henrici (Vaillant, 1893) x x x x M Claridae Clarius fuscus (Lacepede, 1803) x x x x M M Cranogranidae Clarias gariepinus (Burchell, 1882) Loricariidae Hypostomus punctatus (Valenciennes, 1840) Sisoridae Bagarius rutilus Ng.& Kottelat, 2000 BELONIFORMES 45 x x x x x x x M x x M x VU M 17. Họ cá Nhái 75. Cá Nhái nhiều vảy Belonidae Xenentodon canciloides (Bleeker, 1853) x x M VIII. Bộ MANG LIỀN SYNBRANCHIFORMES 18. Họ Lươn Monopteridae 76. Lươn Monopterus albus (Zuiew, 1793) x x x x x M 19. Họ cá Chạch sông 77. Cá Chạch sông Mastacembelidae Mastacembelus armatus (Lacepede, 1800) x x x x x M IX. BỘ CÁ VƯỢC 20. Họ cá Rô 78. Cá Rô 21. Họ cá Tai tượng 79. Cá Đuôi cờ x x x x M x x 80. Cá Sặc bướm PERCIFORMES Anabantidae x Anabas testudineus (Bloch, 1792) Osphronemidae Macropodus opercularis Linneaus, 1758 Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770) x 22.Họ cá Bống trắng 81. Cá Bống trắng Gobiidae Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) 82. Cá Bống sông Hồng 83. Cá Bống suối 84. Cá Bống đá Rhinogobius honghensis Chen, Yan & Chen, 1999 Rhinogobius duospilus (Herre, 1935) Rhinogobius giurinus (Rutter, 1897) 85. Cá Bống đá khe Rhinogobius leavelli (Herre, 1935) 23. Họ cá Rô phi 86. Cá Rô phi thường Cichlidae Oreochromis mosambicus (Peters, 1852) Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758) Channidae Channa striata (Bloch, 1793) Channa maculata (Lacepede, 1802) 87. Cá Rô phi vằn 24. Họ cá Quả 88. Cá Quả, Cá Lóc 89. Cá Chuối hoa X. BỘ CÁ BƠN 25. Họ cá Bơn 90. Cá Bơn cát XI. BỘ CÁ NÓC 26. Họ cá Nóc 46 x x M x M x x M x PV x x M x x x M x x x M x x x x M x PLEURONECTIFORMES Soleidae Cynoglossus trigrammus Gunther, 1842 x TETRAODONTIFORMES Tetraodontidae M x x M x x x EN PV PV 91. Cá Nóc Tổng số Fugu ocellatus (Osbeck, 1757) x x x 51 58 70 25 55 11 Chú thích: 1) Sông Thao; 2) Sông Đà; 3) Ngã ba sông Hồng; 4) Sông Hồng; 5) Sông Lô; 6) Phân hạng theo Sách Đỏ Việt Nam, 2007 7) Nguồn tài liệu: M- Mẫu vật, PV- Phỏng vấn Từ kết quả nghiên cứu ở Bảng 5 và Hình 5 cho thấy: vùng nước Ngã ba sông Hồng có số lượng loài nhiều nhất (70 loài), tiếp đó là sông Đà với 58 loài, sông Lô 45 loài. Sông Hồng (đoạn từ đoạn từ Việt Trì xuống Vĩnh Tường) có số loài ít nhất (chỉ 25 loài). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra ở sông Lô có nhiều loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế nhất, như cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Chiên, cá Lăng, cá Măng. Do sông Lô có đặc điểm nước trong, với nhiều hang, nền đáy đá, nhiều rêu, nên cá Rầm xanh, Anh vũ cư trú và sinh sản tập trung ở vùng này. Mùa nước cạn, mực nước sông Lô xuống thấp, nên cá Anh vũ, Rầm xanh theo dòng chảy, di chuyển xuống vùng ngã ba Việt Trì, nơi có vực nước sâu, và nhiều hang hốc để trú ngụ. Trên sông Đà có nhiều loài cá to như cá Chiên, cá Lăng, cá Ngạnh, cá Măng sinh sống, đặc biệt là ở vùng dưới chân đập hồ Hoà Bình. Trên sông Thao có nhiều loài cá quý như cá Trắm cỏ, cá Măng, cá Chầy mắt đỏ. Trên sông Hồng lại có các loài đặc trưng như cá Lăng, cá Ngạnh, cá Chiên, cá Trắm cỏ, đặc biệt là cá Mòi cờ hoa di cư từ biển vào sinh sản. Vùng Ngã ba sông Hồng là nơi hợp lưu của các sông Đà – sông Lô – sông Thao, nên thành phần loài cá đa dạng nhất, với nhiều loài cá quý. Nơi đây cũng là nơi cư trú, bãi đẻ, của nhiều loài cá, nhất là những loài cá lớn, sống đáy, ưa thích hang hốc và nền đáy cát sỏi như cá Lăng, cá Chiên, cá Ngạnh. Đây cũng là nơi trú ngụ của Cá Anh vũ, Rầm xanh trong mùa nước cạn, di chuyển từ sông Lô xuống, khi mực nước sông Lô xuống thấp. Vùng 47 PV ngã ba này cũng là địa điểm ưa thích của những loài cá di cư sinh sản từ biển vào như Cá Mòi cờ hoa, cá Cháy. số loài 70 70 58 60 55 51 50 40 30 25 20 10 0 vùng sông Thao sông Đà Ngã ba s Hồng sông sông Lô Hồng Hình 5: Số loài cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 3.3.2. Đặc trưng về cấu trúc khu hệ cá Kết quả Bảng 6 và Hình 6 chỉ ra rằng, khu hệ cá tại vùng Ngã ba sông Hồng và vùng phụ cận khá đa dạng, gồm 91 loài thuộc 11 bộ, 26 họ, 75 giống. Trong đó, bộ cá Chép là đa dạng nhất (53 loài, 58,2 %), bộ cá Nheo (13 loài, 14,3 %), bộ cá Vược (12 loài, 13,2 %). Các bộ cá khác chỉ chiếm giá trị rất nhỏ (từ 1,1% đến Bảng 6. Cấu trúc thành phần loài theo các bộ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận stt Tên khoa học Số họ 48 Số giống Số loài n % n % n % 1 Clupeiformes 2 7,7 3 4,0 3 3,3 2 Salmoniformes 1 3,8 1 1,3 1 1,1 3 Anguilliformes 2 7,7 2 2,7 2 2,2 4 Characiformes 2 7,7 2 2,7 2 2,2 5 Cypriniformes 3 11,5 43 57,3 53 58,2 6 Siluriformes 6 23,1 12 16,0 13 14,3 7 Beloniformes 1 3,8 1 1,3 1 1,1 8 Synbranchiformes 2 7,7 2 2,7 2 2,2 9 Perciformes 5 19,2 7 9,3 12 13,2 10 Pleuronectiformes 1 3,8 1 1,3 1 1,1 11 Tetraodontiformes 1 3,8 1 1,3 1 1,1 26 100 75 100 91 100 Tổng Xét tính đa dạng về bậc họ cho thấy: Đa dạng nhất là bộ cá Nheo với 6 họ chiếm 23,1 %, tiếp đến là bộ cá Vược với 5 họ chiếm 19,23 %, bộ cá Chép với 3 họ chiếm 11,3 %. Có 4 bộ là bộ cá Trích, bộ cá Chình, bộ cá Chép mỡ, và bộ Mang liền có 2 họ chiếm 7,7 %, 4 bộ còn lại mỗi bộ chỉ có 1 họ chiếm 3,8 %. Về bậc giống: Đa dạng nhất là bộ cá chép với 43 giống chiếm 57,3 %, tiếp đến là bộ cá Nheo với 12 giống chiếm 16 %. Bộ cá Vược với 7 giống chiếm 9,3 %. Bộ cá Trích với 3 giống, chiếm 4,0 %. Còn lại các bộ cá Chình, bộ cá Chép mỡ, bộ Mang liền có số lượng 2 giống. Các bộ còn lại với số lượng 1 giống. 49 Về bậc loài: Đa dạng nhất là bộ cá Chép với 53 loài chiếm 58,2 %. Tiếp đến là bộ cá Nheo với 12 loài chiếm 14,3 %. Bộ cá Vược với 12 loài chiếm 13,2 %. Bộ cá Trích có 3 loài chiếm 3,3 %. Các bộ còn lại có số loài rất ít (từ 1 – 2 loài). 14% 59% 13% 14% Cypriniformes Siluriformes Perciformes Nhóm khác Hình 6: Tỷ lệ loài của các bộ cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 3.3.3. Các loài cá quý hiếm, nằm trong Sách Đỏ Việt Nam Trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội, do những nguyên nhân khác nhau nên nhiều loài động, thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng, các nguồn tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học không ngừng bị suy giảm. Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) đã đưa ra các bộ Sách Đỏ nhằm cung cấp một cách khoa học và có hệ thống danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới. Ở Việt Nam, việc đánh giá tình trạng bị đe doạ và phân hạng theo tiêu chuẩn của IUCN, cũng như các dẫn liệu về phân bố, số lượng, sinh học, sinh thái của các loài quý hiếm cũng như danh sách các loài quý hiếm được tổng kết trong 2 tập Danh Lục Đỏ và Sách Đỏ Việt Nam (2007). 50 Theo kết quả điều tra khu hệ cá, đối chiếu với danh sách các loài cá quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng được ghi trong Danh Lục Đỏ và Sách Đỏ Việt Nam, 2007, cho thấy, ở vùng Ngã ba sông Hồng có 11 loài cá quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng thuộc 6 họ, 4 bộ. Trong số đó, có 8 loài thu được mẫu hoặc chụp ảnh trực tiếp (Cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Chuối hoa, cá Măng, cá Lăng, cá Ngạnh, cá Chiên, cá Lợ, cá Mòi cờ hoa); 3 loài không thu được mẫu (cá Chình nhật, cá Cháy, cá Chày chàng ) trong cả 3 đợt điều tra thu mẫu. Các thông tin về tên loài, phân hạng, tập tính, nơi cư trú và hình ảnh của chúng được thể hiện dưới đây và ở Phụ lục 5. Cá Cháy (Tenualosa reevesi (Rich., 1846)) (Phân hạng: EN A1a,d B2a,b,c). Cá sống ở biển, có tập tính di cư lên thượng nguồn sông để đẻ trứng. Nơi đẻ trứng/phân bố: Sông Đà (Thác Bờ, Hòa Bình), sông Hồng (Yên Bái, Phú Thọ), Sông Lô-Gâm. Cá Mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa (L,. 1758) (Phân hạng EN A1a,d B1+2a,b,c). Sống ở ven biển, có tập tính di cư lên thương nguồn sông để đẻ trứng. Nơi đẻ trứng/phân bố: Sông Hồng (Việt Trì, Đoan Hùng), sông Lô, sông Thao. Cá Chình Nhật (Angilla japonica Tem. et Schle. 1846) (Phân hạng: EW). Cá sống ở nước ngọt, khi thành thục di cư ra biển sâu đẻ trứng. Phân bố: sông Hồng (Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định). Hiện nay, hầu như không còn gặp cá Chình Nhật ngoài tự nhiên nữa. Qua 3 đợt khảo sát, chúng tôi chỉ ghi nhận có cá Chình Nhật có ở gần Ngã ba sông Hồng, khu vực Ba Vì, Hà Nội. Cá Lợ thân thấp (Cyprinus multitaeniata Pell. & Chev., 1936) (Phân hạng: EW). Phân bố ở sông Đà (Hoà Bình), Sông Thao (Phú Thọ, Yên Bái), sông Lô - Gâm (Tuyên Quang). 51 Cá Măng (Elopichthys bambusa (Richard., 1884)). (Phân hạng: VU A1c,d B2a,b). Cá sống ở trung lưu sông Hồng. Hiện cá Măng còn nhiều, nhưng chủ yếu là loại nhỏ. Cá Chày chàng (Ochetobus elongatus (Kner, 1867). (Phân hạng: VU A1c,d B1+2a,b). Cá sống ở sông suối, hồ chứa Bắc Bộ đến sông Mã. Cá Anh vũ (Semilabeo obscurus Lin, 1981) (Phân hạng VU A1c,d B1+2a,b). Cá phân bố ở trung và thượng lưu sông Đà, sông Thao, sông Chảy, sông Lô-Gâm. Cá Rầm xanh (Sinilabeo lemassoni (Pell. & Chev., 1936)) (Phân hạng VU A1c,d B2a,b). Cá phân bố chủ yếu ở trung và thượng lưu các sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đà), sông Thái Bình. Cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus (Lacepede., 1803)) (Phân hạng VU A1c,d B2a,b). Cá phân bố rộng tập trung chủ yếu ở trung và thượng lưu các vùng sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đà), sông Thái Bình. Cá Chiên (Bagarius rutilus Ng et Kottelat, 2000) (Phân hạng VU A1c,d B2a,b). Các tài liệu thống kê được tới nay cho thấy, cá Chiên sống trong các hệ thống sông lớn ở các tỉnh phía Bắc, có nhiều ở các hệ thống sông Hồng (Sông Lô-Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đà), sông Thái Bình. Cá Chuối hoa (Channa maculata Lacepede, 1802) (phân hạng EN A1c,d). Cá phân bố rộng ở các sông, hồ, ao Bắc Bộ. 3.3.4. Các loài cá có giá trị kinh tế 3.3.4.1. Danh sách các loài cá kinh tế 52 Cá kinh tế là những loài vừa có sản lượng cao, vừa có chất lượng tốt được nhiều người ưa chuộng, khai thác phục vụ cho nhiều mục đích của đời sống, trước hết dùng làm thức ăn, làm cảnh. Trên cơ sở các tài liệu đã nghiên cứu và kết quả của 3 đợt điều tra cho thấy, các loài cá được coi là có giá trị kinh tế ở khu vực Ngã ba sông Hồng hiện có 27 loài (Bảng 7, Hình 7). Bảng 7: Danh sách các loài cá kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận 1. cá Mòi cờ hoa 16. cá Đục đanh 19. Lươn 2. cá Lăng 11. cá Trắm đen 20. cá Thiểu 3. cá Chiên 12. cá Bò 21. cá Mương 4. cá Ngạnh 13. cá Bỗng 22. cá Lành canh 5. cá Nheo 14. cá Anh vũ 23. cá Qủa, cá Lóc 6. cá Trôi ta 15. cá Rầm xanh 24. cá Vược sông 7. cá Chép 10. cá Vền 25. cá Rô phi vằn 8. cá Măng đậm 17. cá Diếc 26. cá Bống cát 9. cá Chày đỏ mẳt 18. cá Trê 27. cá Mè hoa Trong số các loài cá kinh tế này, có những loài cá kinh tế phổ biến cho cả nước như cá Chép, cá Nheo, cá Bống cát, cá Qủa,... Một số loài cá chỉ có mặt ở trong vùng, là những đối tượng kinh tế, mang tính đặc trưng chỉ có ở hệ thống Hồng hoặc khu vực Ngã ba sông như cá Trắm đen, cá Chiên, cá Lăng, cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Mòi cờ hoa. Cũng ở trong khu hệ cá này, một số loài trước đây có giá trị kinh tế, có sản lượng cao, song hiện tại đã mất đi hoặc còn tồn tại nhưng sản lượng rất thấp, trở thành loài quý hiếm như: cá Cháy, cá Mòi cờ hoa, cá Anh vũ, Rầm xanh, cá Chình Nhật, cá Chiên, cá Lăng, cá Bỗng, cá Lành canh trắng. Ngược lại, có loài trước đây ít được khai thác nhưng hiện nay lại trở thành những loài rất giá trị, hoặc những loài mới di nhập tạo nên sản lượng khai 53 thác cao, đã trở lên quen thuộc trong đời sống của cư dân như: cá Vược sông, cá Rô phi. Nhiều loài được tuyển chọn để nuôi trong các ao, hồ, lồng bè (cá Trắm đen, cá Trắm cỏ, cá Mè hoa, cá Bỗng, cá Lăng, ...), hoặc nuôi làm cảnh (cá Cọ bể, cá Đuôi cờ, cá Sặc, cá Vàng), hay có tác dụng như biện pháp sinh học chống lại các mầm bệnh (diệt bọ gậy): cá Rô cờ, cá Sặc bướm,... 3.3.4.2. Gía trị kinh tế Trong các loại cá có giá trị kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng, loài có giá thành cao nhất hiện nay là: cá Anh vũ: 2-4 triệu/kg; cá Rầm xanh 0,8-1 triệu/kg; cá Chiên 400-800 nghìn/kg; cá Ngạnh 400-500 nghìn/kg; cá Lăng: 200 nghìn/kg; cá Chép: 60-100 nghìn/kg; cá Măng: 100-120 nghìn/kg; cá Chày mắt đỏ: 40-60 nghìn/kg; cá Đục: 100 nghìn/kg (Bảng 8). Nhìn chung, giá bán các loài cá tăng đáng kể so với trước đây, nhưng do sản lượng cá thấp, đánh bắt thất thường nên đời sống ngư dân vẫn khá vất vả, khó khăn. Bảng 8: Gía bán một số loài cá kinh tế (09/ 2009) Loại cá Tại thuyền chợ Việt Trì Hà Nội (Ngã ba sông Hồng) Cá Mòi cờ 20-30 40-45 70-90 Cá Lăng 400 500 500-700 Cá Chiên 200-300 500 500 Cá Ngạnh 400-500 600-700 900-1000 Cá Nheo 100 100-120 150 Cá Trắm đen 100-120 150 200-250 Cá Trắm cỏ 80 100 100-150 Cá Chầy mắt đỏ 30-40 50-60 / Cá Đục đanh 80- 100 120 200 Cá Trôi ta 20-40 50 / Cá Rô phi 10-20 20-25 40-80 54 Cá Lành canh 10-20 40 / (Đơn vị tính: nghìn đồng) Như vậy, khu hệ cá vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận khá đa dạng về thành phần loài, trong đó số loài có giá trị kinh tế có đến 27 loài, đặc biệt là số lượng loài quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao, có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 2007 là 11 loài, (Hình 7). Do vậy, vùng Ngã ba sông Hồng là một trong những thuỷ vực nội địa có số lượng loài bị đe doạ rất lớn. 100 91 90 80 70 60 50 40 27 30 20 11 10 0 tổng số loài loài kinh tế loài trong SĐVN Hình 7: Thành phần các nhóm loài trong khu hệ cá vùng nghiên cứu 3.3.5. Đặc tính sinh học của cá Mòi cờ hoa. Cá Mòi cờ hoa là loài cá nhỏ, sống ở Vịnh Bắc Bộ. Hằng năm đến mùa đẻ trứng, cá di cư vào hệ thống sông lớn của Miền Bắc, nhất là hệ thống sông Hồng để sinh sản, trở thành nguồn lợi lớn cho cư dân dọc các triền sông. Cá có thịt thơm ngon, là món ăn đặc sản của cư dân hai bên sông, nhất là đối với người Hà Nội. Trước những năm 1964, sản lượng cá Mòi cờ hoa khai thác thuộc Hưng Yên –Hà Nội là 700-800 tấn. Sau đó giảm dần và cuối những năm 1960 đến nay, hầu như vắng bóng ở các chợ cá Hà Nội. Hiện tại, 55 cá Mòi cờ hoa được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 2007 [6], là loài cá có nguy cơ tuyệt chủng cao, nếu không có biện pháp bảo vệ kịp thời thì loài cá này có khả năng biến mất khỏi khu hệ cá của Việt Nam. Do đó, trong điều kiện cho phép của luận văn này, tôi chỉ nghiên cứu đại diện loài cá Mòi cờ hoa về đặc điểm sinh học của chúng khi di cư sinh sản trên sông Hồng, nhằm để có số liệu và thông tin cần thiết cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phục hồi loài cá Mòi cờ hoa trước nguy cơ tuyệt chủng. Thành phần kích thước của cá Mòi cờ hoa di cư: Kích thước cá Mòi cờ hoa di cư vào sông Hồng sinh sản dao động từ 180 đến 240 mm tương ứng với khối lượng từ 45 đến 145 g (Bảng 9 ). Bảng 9: Sự phân bố kích thước cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm chiều dài L(mm) N (cá thể) % 180-190 12 20.00 190-200 23 38,33 200-210 10 16,67 210-220 9 15,00 220-230 2 3,33 230-240 4 6,67 tổng 60 100 Từ bảng 9 cho thấy cá di cư có chiều dài từ 180-220 mm chiếm 90 %, trong đó nhóm chiều dài từ 190 – 200 mm chiếm ưu thế nhất (38,3 %). Còn các nhóm có chiều dài >220 mm chiếm tỷ lệ thấp (<10%). Đường cong phân bố các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di cư vào sông Hồng sinh sản thể hiện trong hình 8. 56 % 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0 180-190 190-200 200-210 210-220 220-230 230-240 Lmm Hình 8: Đường cong phân bố của các nhóm kích thước cá Mòi cờ hoa di cư Tương quan chiều dài khối lượng của cá Mòi cờ hoa di cư: Từ bảng 10 cho thấy, nhóm 1 tuổi có kích thước dao động từ 180- 202 mm, khối lượng từ 45- 91,8 g chiếm ưu thế nhất (63,3 %), tiếp đến là nhóm 2 tuổi có chiều dài dao động cừ 200- 220 mm, với khối lượng từ 100,5- 139,9 g. Nhóm 3 tuổi có chiều dài từ 230- 240 mm, khối lượng từ 132,5- 144,5 g chiếm tỉ lệ thấp nhất (6,6 %). Bảng 10: Tương quan chiều dài - khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư trên sông Hồng tuổi W dao động (g) W tb L dao động (mm) L tb n 1 45- 91,8 71,27 180- 202 191,08 38 2 100,5-139,9 121,30 200-220 209,66 18 57 132,5-144,5 3 142,42 230-240 237,00 4 Như vậy tỉ lệ tăng trưởng giữa chiều dài và khối lượng diễn ra không đều. Sự tương quan giữa hai đại lượng này được xác định theo công thức: W= a.Lb. Bằng phương pháp quy hồi ta tính được a= 0,1908, b= 3,9707 với hệ số tương quan r = 0,88. Vậy phương trình tương quan chiều dài và khối lượng cá Mòi cờ hoa di cư là : W = 0,1908.L3,9707, với r = 0,88 W(g) W= 0,1908. L3,9707 180 160 140 120 100 80 60 40 0 180 190 200 210 220 230 240 260 L (mm) Hình 9: Tương quan chiều dài - khối lượng của cá Mòi cờ hoa di cư trên sông Hồng Cấu trúc tuổi của cá Mòi cờ hoa di cư: Cá Mòi cờ hoa có tuổi thọ thấp, cấu trúc tuổi đơn giản. Theo Vũ Trung Tạng, cấu trúc tuổi của cá Mòi cờ hoa ở biển gồm 5 nhóm từ 0+ đến 4+. Cá di cư sinh sản trên sông Hồng có cấu trúc tuổi từ 1+ đến 3+. Không gặp nhóm cá 4 tuổi và 0 tuổi. Trong các nhóm tuổi di cư này thì chủ yếu là nhóm tuổi 1+ chiếm 38 %, tiếp đến là nhóm 2+ chiếm 18 %, nhóm 3+ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (4 %) 58 Độ béo của cá: Qua bảng 11 cho thấy, hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di cư không cao và khác nhau giữa các nhóm tuổi. Độ béo của cá dao động từ 1,02.10-3 đến 1,3.10-3. Trong đó, cá 1+ có hệ số béo thấp nhất, tiếp đến là cá 3+, cá 2+ có hệ số béo cao nhất. Như vậy cá có tuổi cao hệ số béo lớn hơn. Đặc biệt là nhóm cá 2 tuổi, đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển mạnh, cường độ bắt mồi cao, lượng mỡ tích luỹ nhiều nên hệ số béo lớn. Cá Mòi di cư hầu như không bắt mồi, trong ruột còn sót một ít mùn bã hữu cơ và cát, nên chúng tôi không xác định độ no của cá. Bảng 11: Hệ số béo của cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi theo Fulton (1902) tuổi W tb (g) L tb (mm) hệ số béo 1 71,27 191,08 1,022.10-3 2 121,30 209,66 1,316.10-3 3 142,42 237,00 1,07.10-3 Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa di cư: Qua bảng 12 về phân bố sự phát triển tuyến sinh dục của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên sông Hồng ta thấy nhóm cá 1+ có đầy đủ cả 4 giai đoạn chín muồi sinh dục chứng tỏ nhóm 1+ đã chín muồi sinh dục và tham gia vào quá trình đẻ trứng. Đồng thời nhóm 1+ này chiếm tỉ lệ lớn trong đàn cá di cư sinh sản. Nhóm cá 3+ đã hoàn toàn trưởng thành về mặt sinh dục. Bảng 12: Sự phát triển của tuyến sinh dục cá Mòi cờ hoa di cư theo nhóm tuổi Giai đoạn chín muồi sinh dục Nhóm tuổi I % II % III % IV 1 1 2,63 27 71,05 9 23,68 1 59 % n 2.63 38 (63,33) 2 0 0 2 11,11 13 72,22 3 16.67 18 (30%) 3 0 0 2 50,00 1 25,00 1 25.00 4(6,67%) Theo kết quả phân tích, thì sự chín muồi sinh dục của cá Mòi cờ hoa di cư trên sông Hồng không có sự phân hoá rõ theo thời gian. Cá Mòi cờ hoa thường di cư thành những đàn nhỏ lẻ trên sông, các cá thể trong đàn có mức tuổi đồng nhất cao và giai đoạn chín muồi sinh dục gần nhau. Thời gian di cư sinh sản tập trung và chỉ kéo dài khoảng 1,5- 2 tháng, từ giữa tháng 3 đến đầu tháng 5. Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa : Sức sinh sản tuyệt đối của cá Mòi di cư trên sông Hồng dao động từ 13442 đến 104794 trứng, trung bình đạt 40887 trứng/ 1 cá thể. Sức sinh sản tuyệt đối của của các nhóm tuổi là khác nhau, trong đó cao nhất nhóm 3 tuổi, cao gấp 1,92 lần nhóm 2 tuổi và gấp 3,5 lần nhóm 1 tuổi. Sức sinh sản tương đối dao động từ 437 đến 725 trứng/ 1g khối lượng cơ thể. Trung bình đạt khoảng 469 trứng/ 1g. Sức sinh sản tương đối của nhóm 3 tuổi cao nhất đạt 725 trứng/ 1g cao gấp 1,6 đến 1,7 lần nhóm 1 và 2 tuổi. Sức sinh sản tương đối của nhóm 1 và 2 tuổi tương đương nhau. Bảng 13: Sức sinh sản của cá Mòi cờ hoa di cư sinh sản trên sông Hồng SSTyD tuổi L (mm) t/b 193 1 200 192 197 W (g) t/b 64,6 193,9 66,8 66,5 (trứng) SSTgD t/b 52494 66,9 61,5 28934 25311 23604 60 trứng/g t/b 813 29788 433 381 384 437 2 3 192 63,6 19080 300 184 51,6 20063 389 200 91,8 55380 603 193 68,4 13442 197 210 212,5 215 240 115,2 114 114,6 144,6 52400 54258 104794 53329 104794 40887 Trung bình 455 476 725 465 725 469 Từ những kết quả này cho thấy, cá Mòi cờ hoa vẫn còn tồn tại và hàng năm vẫn di cư vào hệ thống sông Hồng để sinh sản, nhưng sản lượng ngày càng giảm sút. Những chỉ tiêu cơ bản về đặc điểm sinh học của quần thể cá chưa có biến động sâu sắc và hoàn toàn có khả năng phục hồi lại số lượng quần thể. Do đó cần có những biện pháp như cấm khai thác cá Mòi cờ hoa cá di cư sinh sản, đặc biệt là thời gian cá tập trung sinh sản và tại các bãi đẻ. 3.3.6. Các đặc trưng về nơi cư trú, bãi đẻ, bãi giống 3.3.6.1. Nơi cư trú Trong khu vực Ngã ba sông tại Việt Trì và phụ cận, có thể phân biệt các kiểu nơi sinh sống của quần xã thuỷ sinh vật như sau: Bãi bồi cát ở lòng sông: Bãi có diện tích lớn ở khu vực giữa lòng sông từ khu vực ngã ba sông Thao - sông Đà và ngã ba sông Lô - sông Hồng. Bãi này thường nổi trong mùa khô, chỉ bị ngập vào mùa lụt. Vùng ven bãi bồi, mực nước thấp thường là nơi cư trú của các nhóm động vật thân mềm hai vỏ và các loài cá kích thước nhỏ. Các hang hốc ở bãi đá ven bờ sông là nơi cư trú của nhiều loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế như cá Anh vũ, cá Lăng, cá Chiên, cá Ngạnh. Các vực nước sâu: Các vực nước sâu hơn tại các nơi sông nhánh gia nhập dòng chính như ngã ba sông Đà, sông Thao, ngã ba sông Lô sông Hồng 61 thường là khu vực trú ngụ kiếm mồi của nhiều loài cá kinh tế, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài vào mùa kiệt. Bãi ven sông : Bãi ven sông là dải đất dọc theo sông có thảm thực vật đặc trưng che phủ. Cấu trúc thảm thực vật cũng như thành phần loài thực vật trong bãi ven sông phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên như chế độ thuỷ văn, địa hình, thổ nhưỡng...Thảm thực vật bãi ven sông đóng góp nguồn dinh dưỡng và các vật chất hữu cơ là thức ăn cho giới động vật thuỷ sinh, đặc biệt là cá ở sông. Đồng bằng ngập lụt ven sông: Đồng bằng ngập lụt ven sông là vùng đồng bằng bị ngập lụt ở hai bên bờ sông vào thời kỳ nước lớn. Thời điểm khảo sát vào mùa kiệt (2009-2010), nên khu vực khảo sát chủ yếu là cảnh quan đồng bằng và có thể thấy rõ vùng bãi ngập lụt là các bãi rộng lớn hàng trăm mét ở hai bờ sông. Trên bãi ngập lụt ven sông, vào mùa kiệt là thảm thực vật tự nhiên gồm cây bụi, cỏ. Kiểu thảm thực vật phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, thuỷ văn, địa chất và độ kiềm của đất và một số yếu tố khác. Thảm thực vật này có tác dụng như là cơ sở cung cấp chất dinh dưỡng cho thuỷ vực, là nguồn thức ăn, che mát, đồng thời là nơi đẻ trứng, hoặc cư trú cho nhiều loài cá và thuỷ sinh khác vào thời kỳ ngập lụt. Lụt là hiện tượng tự nhiên nhưng ảnh hưởng của chúng tới hệ sinh thái sông rất là tinh tế. Quần xã thủy sinh vật sinh sống trong sông phải mất hàng triệu năm mới thích nghi được với điều kiện môi trường ở đó. Vùng đồng bằng ngập lụt ven sông tồn tại đơn giản đã trở thành một nơi cư trú trong chu kỳ sinh thái của sông và phụ thuộc vào chu kỳ ngập lụt. Nhiều loài cá phải đợi tới bắt đầu mùa ngập lụt là sinh sản. Nhiều loài ấu trùng côn trùng đợi tới mùa ngập lụt là đẻ trứng, ấp trứng và biến thái. Ngập lụt cung cấp nguồn thức ăn cho quần xã sinh vật ở các dòng suối. Lụt làm dòng sông trở lên mầu mỡ hơn do sự xáo trộn dòng nước theo chiều ngang và theo chiều 62 thẳng đứng, làm phong phú thêm các thành phần trong chuỗi thức ăn tự nhiên của dòng sông, tạo nhiều nguồn thức ăn cho cá. Như vậy, đồng bằng ngập lụt được xem là nơi sinh sản, kiếm mồi của nhiều loài cá 3.3.6.2. Các bãi đẻ, bãi giống Trên cơ sở tập hợp các dẫn liệu nghiên cứu từ trước tới nay, kết hợp với những kết quả điều tra khảo sát bổ sung, một số khu vực sông ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận được coi là những bãi đẻ của một số loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế. Ngoài ra, vùng nước từ ngã ba sông từ Việt Trì đến Tráng Việt (Vĩnh Phúc) còn là các bãi ương nuôi cá bột, cá giống của các loài thuỷ sản. Các bãi đẻ, bãi giống một số loài được thể hiện trong Bảng 14. 63 Bảng 14. Bãi đẻ một số loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế ở vùng Ngã ba sông Hồng và vùng phụ cận Tên loài Phân bố - Sông Đà Cá Mòi cờ hoa Cá Cháy Vị trí bãi đẻ Thời kỳ sinh sản S. Hồng: Từ ngã ba Việt Trì đến Vĩnh Tường,Yên Lạc, Tráng Việt-Mê Linh, s. Thao (Phong Châu); s. Đà (Trung Hà) Mùa đẻ cuối tháng 3-5, đẻ rộ vào trung tuần tháng 4 - Sông Hồng Sông Hồng ? - Sông Đà Sông Đà ? Mùa cá đẻ tháng 4-6 - Sông Lô - Sông Thao Đặc điểm bãi đẻ Cá đẻ trứng trôi nổi theo dòng chảy Cá đẻ ở nơi nước chảy xiết, đáy là cát sỏi nhất là nơi thác ghềnh. Sống tầng giữa. di cư từ biển vào sông để sinh sản. Trứng nở, phát triển thành cá con khi ra tới biển. Cá có tập tính di cư biển sông Sống nước ngọt, khi sinh sản thì di cư ra biển. Trứng nở thành cá con rạt vào ven bờ, rồi ngược sông để sinh trưởng và phát triển Cá Chình Nhật - Sông Hồng (Ba Vì) Bãi đẻ ngoài biển sâu Cá Lợ thân thấp Tuyên Quang (s.Lô-Gâm);Phú Hùng Lô (s.Lô) Thọ (s.Thao) Hoà Bình (s.Đà) Tháng 4-5. Cá đẻ trứng dính Cá Măng -Sông Hồng Tháng 4- 7 Sông Đà, Lô, Thao, ngã ba Việt Trì Tập tính sống 64 Bãi đẻ thường là các khe suối, nơi tiếp giáp giữa các nguồn nước, có nhiều cỏ và lau sậy Cá sống ở tầng đáy, chỗ cát pha bùn và có nhiều cỏ nước. Cá ăn tạp Cá đẻ trứng trôi nổi. Cá đẻ ở vùng trung lưu các sông lớn Cá sống ở tầng giữa và tầng trên. Cá dữ, ăn các loài cá nhỏ, thường phân bố ở -Sông Thao những bãi đẻ của cá Mương. - Sông Lô, s. Đà - Tứ Yên (s. Lô -Gâm) Ngã ba s. Hồngs. Lô, Hoà Bình (s.Đà) Yên Bái (s.Thao) Tuyên Quang (s Gâm) Phú Thọ (s.Lô, s. Gâm) - Phong Châu (s. Thao) Cá Rầm xanh Lào Cai, Yên Bái (s.Thao), Tuyên Quang, Phú Thọ (s.Lô Gâm) Hoà Bình (s.Đà) -Từ Tứ Yên trở xuống ngã ba Việt Trì Cá Chày chàng S. Đà, s. Lô, s. Thao, s. Hồng Cá Lăng chấm -Sông Hồng Cá Anh vũ - cách cầu Trung Hà 0,5 km (s. Đà) -sông Hồng dưới cầu Việt Trì 0,5km (Ngã ba Việt Trì) -Gần cầu Phong Châu (s. Thao) -Từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau (Hoàng Đức Đạt, 1963) Bãi đẻ của cá ở đáy sông, nơi có nhiều đá hoặc hang hốc, và có mức nước thay đổi từ 0,52m -Tháng 2-5 (Bộ Thuỷ sản 1996) Tháng 12-2 năm sau Bãi đẻ nơi nước chảy xiết, đáy nhiều sỏi đá. Cá tập trung thành đàn lớn, đẻ ban đêm, nhiệt độ thấp Tháng 5-7 ở các vùng nước chảy. trứng trôi nổi s.Hồng, (dưới hợp lưu s. Đà s. Thao), từ ngã ba Việt Tháng 4-6 (tập trung vào tháng 65 Cá thích sống ở nơi nước trong, nước chảy chậm, nhiều sỏi đá, hoặc trong khe suối. Mùa lũ thường sống ở các sông suối nhỏ. mùa cạn: cá di chuyển từ sông Lô, sông Đà ra ngã ba Việt Trì. Mùa khai thác chủ yếu vào mùa cạn tháng 1-4. Cá sống đáy, nơi nước chảy, đáy nhiều sỏi đá và rong rêu. Cá xuất hịên nhiều vào mùa đông (mùa cá đẻ), các mùa khác ít thấy. Cá sống trong các sông suối nước chảy và hồ chứa Khi sinh sản cá di cư lên vùng trung và thượng lưu các sông , Loài bơi lội hoạt bát, ăn động vật, phân bố chủ yếu ở -Sông Thao - S. Lô -Gâm Trì xuống Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tráng Việt, Hà Nội 5-6), có thể kéo dài tới tháng 8. Cá đẻ trứng trong hang đá, hốc ngầm tự nhiên hoặc đào hố để đẻ, trứng chìm, dính. Cá bố mẹ chăm sóc con. -Sông Đà Cá Chiên Lào Cai, Yên Bái (s.Thao), Tuyên Quang, Phú Thọ (s. Lô Gâm) -Sông Hồng (ngã ba Việt Trì trở xuống Yên Lạc, -Sông Đà (từ Hoà bình về cầu Trung Hà), Tháng 3-6 hoặc có thể muộn hơn. - Sông Lô, ngã ba Việt Trì trở lên) -Sông Thao Cá Chuối hoa Cá Trắm Khu vực các tỉnh phía bắc nơi nước chảy, đáy nhiều sỏi đá. Các ao đầm ven sông Lô, sông Đà, sông Thao Tháng 5-10. cá đẻ nhiều đợt trong mùa đẻ S. Thao (Lào Cai-Yên Bái). s. Lô (Bến Then- Tháng 5-7 66 Khi sinh sản cá thường di cư lên trung và thượng lưu các sông lớn, nơi nước chảy mạnh, đáy nhiều sỏi đá và có độ sâu lớn. Đẻ trứng ở đáy, trong các hang hốc, trứng dính vào đáy hoặc tổ do bố mẹ đào. cá bố mẹ có tập tính bảo vệ trứng và cá con. sông vùng trung du và đồng bằng. Có 2 mùa khai thác: tháng 3-6 (trước di cư sinh sản); tháng 9-10 (di trú đông). Phân bố chủ yếu ở trung lưu sông. Khai thác quanh năm, nhiều nhất vào tháng 12-đến tháng 5 năm sau. Trứng nổi và dính lại thành đám. Cá bảo vệ trứng và cá con. đến mùa sinh sản cá sống thành từng đôi, làm tổ ở các vùng gần bờ ao, đầm, hồ sông ngòi. Chúng dọn sạch các cây cối thuỷ sinh để đẻ trứng. Cá đẻ trứng trôi nổi theo dòng nước. Di cư lên trung lưu các sông tìm nơi nước chảy đen Đoan Hùng, Phú Thọ) Cá Trắm cỏ S. Thao (Trấn Yên,Yên Bái), s.Lô (Tuyên Quang) Tháng 4-6 Trứng đẻ trôi nổi -Sông Thao (Phong Châu), Tháng 4-6, cá đẻ nhiều đợt trong mùa sinh sản Bãi đẻ ven hồ thuộc lưu vực các sông.trứng trôi nổi, cá con theo dòng nước Tháng 3-6 Cá đẻ trứng trong hang hốc tự nhiên hoặc tự đào hố ở đáy. Cá bố mẹ bảo vệ trứng và con cái. Vào mùa đẻ cá rất dữ. Cá Chày Cá Ngạnh -Sông Đà (Trung Hà) -S. Đà (dưới chân đập Hoà Bình tới Trung Hà,s. Hồng mạnh -Sông Lô 67 Cá sống ở tầng giữa và tầng gần mặt, thích nghi với nhiều loại thuỷ vực 3.4. HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ Ở VÙNG NGÃ BA SÔNG HỒNG 3.4.1. Hiện trạng nghề cá và nguồn lợi thuỷ sản 3.4.1.1. Thời vụ - đối tượng khai thác Mùa vụ khai thác: Đối với nhóm ngư dân các làng chài sinh sống trực tiếp ở trên các nhà thuyền trên sông thì thời vụ khai thác là quanh năm. Những ngư dân này chỉ sống bằng nghề cá, chuyên đánh bắt thuỷ sản, đây là những người khai thác chính và cung cấp nguồn cá chủ yếu cho người tiêu dùng. Đối với một số ngư dân sống trên bờ thì thời vụ đánh bắt cá theo thời vụ, phụ thuộc vào mùa sinh sản, thời tiết và các yếu tố ngoại cảnh khác. Thông thường vào mùa nước cạn kiệt, cá bị dồn tập trung về nơi trũng, người dân trên bờ rủ nhau đi đánh bắt và thu vét cá nhưng cũng có khi tập trung khai thác vào mùa cá sinh sản, sau những trận mưa rào. Vào thời điểm này, cá tụ tập ven các bãi cỏ ven bờ, trên những bãi bồi ngập nước, hoặc những bãi đẻ ưa thích khác. Người dân tập trung đánh bắt tại những nơi này. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nguồn lợi cá bị suy giảm do đánh bắt cá bố mẹ đang sinh sản, hoặc dùng các phương tiện huỷ diệt như kích điện, nổ mìn, làm chết hết những cá con, cá giống, dẫn đến không có nhóm cá bổ sung. Đối tượng khai thác: Đối với ngư dân các làng chài, họ đánh bắt tất cả những loài cá thu được trong mẻ lưới tại vùng khai thác. Hiện tượng này phổ biển ở những hộ dùng lưới kéo, lưới vét với kích cỡ mắt lưới nhỏ, họ tận thu tất cả các loài cá, từ nhỏ đến lớn. Ngoài ra, một số ngư dân chuyên tập trung chỉ đánh bắt một loại thuỷ sản như chuyên bắt cá Đục ở ven bờ, đội chuyên đánh bắt cá Anh vũ, Rầm xanh, đội chuyên săn bắt cá lớn như cá Lăng, cá Chiên, cá Ngạnh. Cũng có thể là các câu thủ, chuyên câu một loại cá nhất định nào đó. Sự chuyên biệt của các nhóm đánh bắt này chủ yếu là do nguồn 68 lợi cá suy giảm, khó đánh bắt. Đặc biệt là các nhóm đối tượng này có nơi sinh sống, trú ngụ, loại thức ăn, và thích hợp với dụng cụ đánh bắt khác nhau, nên người đánh bắt phải tập trung và chuyên hoá đánh bắt từng nhóm riêng biệt thì mới mang lại hiệu quả. 3.4.1.2. Ngư cụ khai thác Qua điều tra, khảo sát và phỏng vấn ngư dân các làng chài và một số khu dân cư quanh lưu vực Ngã ba sông Hồng cho thấy, ngư cụ chính của ngư dân gồm có: - Lưới rê 3 lớp (khoảng 300 nghìn/lưới rê), dùng được khoảng 1 tháng. Đây là loại lưới cước 6-8cm, dùng để bắt cá Mòi, cá Đục, tôm, tép và là ngư cụ đánh bắt hiệu quả và thông dụng nhất của ngư dân. Đối với những loài cá sống đàn, hoặc có tập tính di cư theo đàn như cá Mòi, cá Cháy, cá Rô phi, cá Đục,... ngư dân chỉ giăng lưới, chặn dòng hoặc quây lại, là bắt được gần như toàn bộ đàn cá. Cá mắc lưới rất khó thoát ra, vì có 3 lớp. - Lưới dù: Mắt lưới to, dùng để đánh bắt cá to như cá Trắm, cá Măng, cá Trôi, cá Lăng,... - Lưỡi câu giàn (vàng câu): Một giàn câu khoảng 500 lưỡi, bắt tất cả các loài cá, thường là các loài cá đáy. - Kích điện: Trước đây thường rất phổ biến ở các hộ ngư dân. Có hộ gia đình sắm 3-4 bộ kích này. Hiện nay, số lượng kích giảm nhiều, ngư dân không dùng kích điện nữa, vì giá cả chi phí đắt. - Một số ngư cụ như lưới vây, lưới kéo, lưới rùng, đăng, đáy, đó,... cũng được ngư dân sử dụng. Ngoài ra, có một số ngư cụ chuyên dụng chỉ đánh bắt cho một loại nhất định như: Cụp (khụp) chuyên dùng để đánh bắt cá Anh vũ, Rầm xanh. Đối với các loại câu, thùy theo mỗi loại mồi khác nhau sẽ thu được các loại cá khác nhau, chẳng hạn mồi là nội tạng động vật (gan lợn, trâu, bò, lòng mề gà...) thì câu được cá Lăng, cá Chiên, Cá Ngạnh; 69 Mồi làm bằng mầm thóc thì câu được cá Trắm cỏ, cá Chép; Mồi giun thì câu chủ yếu cá nhỏ và phổ biến như cá Rô phi, cá Rô đồng, các Đòng đong,... 3.4.1.3. Sản lượng, năng suất Cho tới nay, có thể thấy nguồn lợi cá tự nhiên ở khu vực Ngã ba sông Hồng và phụ cận đã bị suy giảm nhanh chóng. Điều đó thể hiện số lượng thuyền đánh cá cũng như số lượng ngư dân chuyên nghiệp ở khu vực ít hơn nhiều so với 20 - 30 năm trước đây. Sản lượng các loài cá di cư từ ven bờ cửa sông vào thượng nguồn sông Hồng để đẻ trứng giảm sút rõ rệt: Sản lượng khai thác cá Mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa) giảm nhiều qua các năm là một ví dụ. Hiện nay cá Mòi cờ hoa không cho sản lượng khai thác. Nhiều bãi đẻ của cá Mòi cờ hoa trên sông Đà (Chợ Bờ) đã bị mất do đập Hoà Bình chắn. Cũng như cá Mòi cờ hoa, cá Cháy (Tenualosa reeverssi) cũng là cá di cư vào sông Hồng đẻ trứng. Sản lượng cá Cháy trong sông Hồng năm 1962 là 21 tấn, năm 1963 là 17 tấn, năm 1964 là 10,7 tấn (Hồ Thế Ân, 1971) [2]. Nhiều năm nay không đánh bắt được cá Cháy trong sông Hồng. Các loài cá có giá trị khác cũng giảm sút sản lượng và trở nên hiếm thấy như cá Chiên, Lăng, Anh vũ, Rầm xanh... trên hệ thống sông Hồng. Theo các dẫn liệu thống kê, sản lượng cá Anh vũ ở Việt Trì chỉ còn khoảng 30 % so với sản lượng khai thác năm 1970-1971, thậm chí có thể còn thấp hơn nữa. Sản lượng Cá Lành canh trắng Coilia grayii đánh bắt đã giảm đi nhiều. Trước kia trung bình mỗi ngày đánh bắt được khoảng 20kg/ngày, nay chỉ đánh được khoảng 1kg. 3.4.1.4. Nghề cá và những khó khăn của cộng đồng ngư dân a) Kinh tế nghề cá và cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá 70 Về lao động nghề cá: Kết quả điều tra và thống kê đã ước tính được khoảng 710-800 hộ tham gia khai thác cá trong sông Hồng, từ Phú Thọ tới Hà Nội, (Bảng 15). Bảng 15. Lực lượng lao động tham gia khai thác cá trên sông Hồng Tỉnh Số hộ khai thác cá Phú Thọ 50-60 Vĩnh Phúc 55-60 Hòa Bình 90-100 Hà Nội 220-135 Nguồn: Số liệu điều tra của Viện NCHS, 2007 [32]. Cơ cấu nhóm tuổi của lực lượng lao động tham gia vào hoạt động khai thác cá hầu hết từ 20 – 57 tuổi. Trong đó, nhóm tuổi từ 20 – 30 chiếm 21 %; nhóm tuổi từ 31 – 40 chiếm 32 %; nhóm tuổi từ 41 – 50 chiếm 31 % và nhóm tuổi từ 51 tuổi trở lên chiếm 16 %. Ngư dân tham gia khai thác cá thuộc 2 nhóm chính là nhóm sống lưu động trên sông nước và nhóm sống định cư trên bờ. Đối với nhóm ngư dân sống lưu động trên sông nước, họ hầu hết chỉ làm nghề đánh bắt các đối tượng thủy sản trên sông và đôi khi nuôi lồng bè quy mô nhỏ. Còn nhóm ngư dân sống định cư trên bờ, cơ cấu nghề nghiệp có phần đa dạng hơn, ngoài việc khai thác thủy sản họ còn làm nông nghiệp (chăn nuôi, trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, trồng hoa màu,…), buôn bán nhỏ và các dịch vụ khác. Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản có sự thay đổi theo các tháng trong năm, phụ thuộc vào mùa vụ khai thác của các đối tượng thủy sản khác nhau ở khu vực trong sông. 71 Thu nhập bình quân của ngư dân khai thác cá nhìn chung còn rất thấp so với hiện trạng kinh tế của xã hội. Thu nhập bình quân của ngư dân vùng trong sông khoảng 482.000đ/người/tháng, (Tổng cục thống kê, 2006). Về nhà ở: Hầu hết các hộ ngư dân tham gia khai thác cá theo mùa trên sông Hồng có xu hướng định cư xây dựng nhà ở ổn định trên bờ (40,6 %). Một số hộ do thu nhập quá thấp chỉ đủ đáp ứng phần nào sinh hoạt hàng ngày vẫn phải ở nhà tranh lá (18,3 %), đặc biệt, tỉ lệ hộ sống lưu động trên thuyền còn rất cao (39,8 %). Điều kiện sinh hoạt: Điều kiện sinh hoạt của hầu hết ngư dân khai thác cá đều rất thiếu thốn, đặc biệt là các hộ ngư dân khai thác lưu động trên sông. Nhiều hộ gia đình ngư dân có tới 4-5 người con, cả gia đình gồm khoảng 6-7 người cùng sống trên 1 chiếc thuyền nhỏ (công xuất khoảng < 15 CV), với điều kiện sinh hoạt rất thiếu thốn về ăn, mặc, ngủ, nghỉ, điện, nước, nhu cầu giải trí đài, ti vi. Cảng hoặc bến cá địa phương: Đối với nghề khai thác cá, hầu như không có cảng cá, bến cá cố định để bán sản phẩm hoặc neo đậu tàu thuyền, ngư dân chủ yếu tập trung thành các nhóm nhỏ ở dọc theo hai bên sông hoặc trong các luồng lạch để đưa cá lên bờ. Cá khai thác được bán trong các chợ địa phương hoặc các lái buôn đến tận nơi ngư dân khai thác để thu gom. b) Khó khăn của cộng đồng ngư dân Điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, thu nhập thấp, không có vốn để chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và cũng không có nhiều tài sản cố định đáng giá để thế chấp ngân hàng. Nguy cơ rủi ro trong nuôi trồng thủy sản cao nên nhiều hộ gia đình không dám đầu tư phát triển nuôi lồng bè. Nhiều gia đình muốn chuyển lên bờ sinh sống nhưng do thiếu vốn, không có đất và trình độ 72 văn hoá thấp,...nên rất khó khăn để hoà nhập và sống trên bờ. Do nghèo nên không đủ tiền cho con cái đi học, các dịch vụ y tế cũng rất hạn chế và không được quan tâm. Theo phỏng vấn trực tiếp và tổng hợp các phiếu điều tra cho thấy hầu hết dân chài đều muốn chuyển đổi nghề nghiệp, được vay vốn và hỗ trợ đào tạo nghề để sớm lên bờ sinh sống. Nhận thức của ngư dân về các vấn đề ô nhiễm môi trường, phòng trừ dịch bệnh và bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn hạn chế. Do vậy, ngư dân rơi vào vòng luẩn quẩn: nghèo đói – khai thác thủy sản – cạn kiệt – thu nhập thấp, trình độ văn hóa thấp, dịch bệnh – nghèo đói. 3.4.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lợi cá 3.4.2.1. Tác động từ việc xây dựng các công trình thuỷ điện Phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng cơ sở như việc xây dựng các đập thủy điện và hồ chứa lớn phía thượng nguồn gây ảnh hưởng đến nguồn lợi cá, đặc biệt ngăn cản các loài cá có tập tính di cư dài sông-biển, biển-sông để sinh sản như cá Mòi cờ, cá Cháy, cá Chình, làm mất đi bãi đẻ tự nhiên của loài dẫn đến giảm khả năng phục hồi và tái tạo của quần đàn tự nhiên. Các đập thủy điện lớn trên hệ thống sông Hồng hiện nay như: thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Sơn La trên sông Đà, đập Thác Bà trên sông Chảy, thuỷ điện Tuyên Quang trên sông Gâm. Theo tài liệu thống kê của Bộ Thuỷ sản (1996): Đập thuỷ điện Hòa Bình đã làm mất bãi đẻ và chặn đường di cư sinh sản của nhiều loài cá kinh tế trong đó nổi bật nhất là loài cá Mòi, cá Cháy, ước tính làm mất khoảng 500 triệu cá bột, làm giảm 50% trữ lượng tôm, cá nước lợ và biển nông. Sản lượng cá Mòi trên sông Hồng trong thời gian 1964 - 1979 là 40 - 356 tấn/năm, đến nay cũng không còn khai thác hoặc là sản lượng rất thấp. 73 3.4.2.2. Ảnh hưởng từ phát triển công nghiệp Công nghiệp phát triển, các nhà máy xí nghiệp mọc lên kéo theo lượng chất thải ra môi trường tăng lên. Hầu hết chất thải của các nhà máy xí nghiệp đều chưa qua xử lý, đã xả thải ra môi trường ngoài. Đặc biệt là đối với vùng Ngã ba sông Hồng thì chất thải không chỉ ô nhiễm đến một vùng, mà còn phát tán theo dòng nước gây ô nhiễm đến cả một lưu vực lớn. Ngoài chất thải của các nhà máy, các sông còn phải chịu ảnh hưởng bởi những chất hoá học trong hoạt động nông nghiệp như thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Chúng có thể ngấm ra sông theo đường nước hoặc thông qua việc rửa các dụng cụ, bình phun thuốc sâu trực tiếp trên sông. Công ty TNHH Miwon Việt Nam, nằm ở trung tâm thành phố Việt Trì được đánh giá là nơi ẩn chứa nhiều đe dọa về môi trường nhất. Công ty đã vi phạm về việc bảo vệ môi trường như: Thải chất thải rắn không đúng quy định về BVMT; Quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định về BVMT. UBND tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định buộc Công ty Miwon phải ngừng sản xuất có phát sinh nước thải gây ô nhiễm và để khắc phục ô nhiễm môi trường. Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao (huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ), trong quá trình sản xuất, nước xả thải của công ty vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 lần đến dưới 5 lần; Thải khí S02 vượt tiêu chuẩn môi trường cho phép vào môi trường dưới 2 lần; Quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải không theo đúng quy định về bảo vệ môi trường... Ngoài ra, công ty Giấy Bãi Bằng ở thị trấn Phong Châu (huyện Phù Ninh, Phú Thọ), cũng được xem là đáng báo động với những vi phạm cụ thể: Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 lần đến dưới 5 lần; Quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định về BVMT... 3.4.2.3. Do khai thác nguồn lợi quá mức 74 Khai thác quá mức nguồn lợi thuỷ sản: Gia tăng dân số dẫn đến nhu cầu thực phẩm tăng, khai thác thủy sản tăng để đáp ứng nhu cầu xã hội. Đặc biệt là do nhận thức của ngư dân yếu, nên mặc dù cuộc sống đã khó khăn, nhưng thường họ lại sinh đẻ nhiều, nghèo đói không có tiền cho con cái ăn học và sinh hoạt hàng ngày, lớn lên họ lại tiếp tục nghề khai thác truyền thống của cha mẹ. Đặc điểm của phần lớn các hộ ngư dân là sống lưu động trên thuyền bè, có cuộc sống chủ yếu dựa vào nghề khai thác thủy sản trên sông. Do khai thác nhiều năm hoặc kinh nghiệm từ đời trước để lại, nên các hộ ngư dân có khả năng nhận biết rất rõ được thời gian cá di cư sinh sản, địa điểm có thể khai thác được cá, phương pháp và ngư cụ sử dụng để có thể khai thác tận thu. Vì vậy, các loài cá, đặc biệt các loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế càng bị khai thác với cường độ cao và tập trung trong mùa sinh sản làm cho nguồn lợi bị suy giảm nhanh chóng, không kịp phục hồi lại số lượng quần thể. Thậm chí một số loài như cá Cháy, nhiều năm nay không thấy xuất hiện ở vùng ngã ba sông-vốn trước đây là bãi đẻ trứng của loài cá này. Khai thác bừa bãi cát, sỏi trong lòng sông: Hiện nay, có rất nhiều điểm trên sông Lô, sông Hồng là khu vực khai thác cát, sỏi vào hầu hết các tháng mùa kiệt. Chưa có dẫn liệu tổng hợp nhưng ước tính có tới hàng tháng có hàng nghìn tấn cát, sỏi được khai thác làm nguyên liệu xây dựng. Việc khai thác bừa bãi cát, sỏi trên sông dẫn tới những tác động nguy hại như biến đổi lòng sông, dòng chảy. Điều đó làm xáo trộn hoặc phá hỏng những nơi cư trú của các loài thuỷ sinh ở lòng sông và ven bờ. 3.4.2.4. Do nhận thức về hiện trạng và bảo vệ nguồn lợi còn hạn chế Kết quả điều tra, thăm dò ý kiến của ngư dân khai thác và cư dân ven sông ở địa phương cho thấy, hầu hết những người được phỏng vấn đều cho rằng nguồn lợi cá đã và đang trong tình trạng suy giảm. Trong đó, 9 % số 75 người trả lời phỏng vấn cho rằng sự suy giảm nguồn lợi cá trong thời gian qua là không nhiều, 22 % cho rằng khá nhiều, 34 % cho rằng rất nhiều và 15 % cho rằng sự suy giảm này là nghiêm trọng . Tuy nhiên, khi hỏi về vấn đề bảo tồn nguồn lợi thủy sản thì hơn một nửa (61,6 %) số người được phỏng vấn trả lời chưa bao giờ được nghe khái niệm “Khôi phục và bảo vệ nguồn lợi thủy sản”, chỉ có khoảng 20,3 % tỉ lệ biết đến khái niệm này và quan tâm đến vấn đề bảo vệ nguồn lợi, tỷ lệ còn lại là không có ý kiến. Qua đó cho thấy nhận thức của ngư dân khai thác về vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn rất hạn chế. Mặt khác, hầu hết những người được phỏng vấn đều cho rằng, họ chưa biết nhiều về Luật Thủy sản, hoặc các qui định về kích thước mắt lưới, đối tượng cần bảo vệ, đối tượng cấm khai thác, ngư cụ cấm sử dụng. Tuy nhiên, một số người dân mặc dù đã biết nhưng không thực hiện, do vậy, vẫn xảy ra hiện tượng vi phạm trong khai thác thủy sản. Ngoài ra còn có thể kể đến ảnh hưởng do di nhập các loài sinh vật ngoại lai xâm hại, cũng như ảnh hưởng của việc biến đổi khi hậu toàn cầu: Việc du nhập không kiểm soát được các loài sinh vật ngoại lai từ các nguồn khác nhau với những mục đích khác nhau đã gây không ít khó khăn cho các nhà quản lý, nhưng điều nguy hiểm hơn là nhiều loài trong đó đã trở thành loài xâm hại, đã phát tán ra môi trường tự nhiên, gây ảnh hưởng tới môi trường sống và đe doạ ĐDSH ở những địa phương chúng phát triển như Ốc bươu vàng (Pomacea caniculata, P. brigedsi) hoặc một số loài Tôm càng đỏ, Rùa tai đỏ,... Hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu có xu hướng diễn ra nhiều hơn, thể hiện ở những hình thái khí hậu và chế độ thuỷ văn cực đoan. Năm 2009, mực 76 nước sông Hồng tại Hà Nội ở mức thấp hơn mức trung bình nhiều năm cùng kỳ 1,16 m. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện bãi đẻ, ngăn cản đường di cư của cá Mòi cờ hoa, cá Cháy, thậm chí gây tử vong,... 3.4.3. Đề xuất các giải pháp bảo vệ nguồn lợi cá Từ những kết quả phân tích ở trên cho thấy, khu vực Ngã ba sông Hồng và phụ cận là con đường di cư của cá trên sông và nơi cư trú quan trọng để việc kiếm mồi, sinh sản, sinh trưởng và phát triển của các loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Mặt khác, khu hệ cá và các loài thuỷ sinh ở đây khá phong phú đa dạng (91 loài cá, nhiều loài thân mềm...). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nguồn lợi thuỷ sản ở khu vực Ngã ba sông Hồng đã suy giảm nhanh chóng do khai thác bừa bãi, không hợp lý, ô nhiễm môi trường,... Do vậy, để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ở đây, chúng tôi đề xuất 3 nhóm giải pháp sau: 3.4.3.1. Bảo tồn đa dạng cá Để bảo tồn đa dạng sinh học cá ở vùng Ngã ba sông Hồng và phụ cận, cần tiến hành nhiều giải pháp như: giảm áp lực do khai thác quá mức, giảm các hoạt động thu hẹp và huỷ hoại các hệ sinh thái, sinh cảnh và nơi sống, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,... Từ những kết quả nghiên cứu trên, đối với vùng nước Ngã ba sông Hồng, chúng tôi đề xuất hai hình thức bảo tồn các loài cá hay mở rộng hơn là bảo tồn đa dạng sinh học. - Bảo tồn nguyên vị (In-situ): Bảo vệ các hệ sinh thái và sinh cảnh tự nhiên để duy trì và phát triển các loài trong điều kiện môi trường mà chúng từng sống. Hình thức này được thực hiện trên cơ sở thiết lập Khu bảo tồn hoặc khu dự trữ sinh quyển. Dựa vào kết quả nghiên cứu về khu hệ cá, 77 chúng tôi cho rằng thích hợp nhất là thành lập Khu bảo tồn thuỷ sản nội địa vùng Ngã ba sông Hồng; hoặc Khu dự trữ sinh quyển vùng nước Ngã ba sông Hồng. Ngoài ra còn phải thiết lập các vùng cấm hoặc hạn chế đánh bắt, thời gian cấm hoặc hạn chế đánh bắt, kích thước mắt lưới tối thiểu được phép sử dụng trong khai thác nhằm bảo vệ các đối tượng này cũng như các thời kỳ và giai đoạn thiết yếu trong đời sống của chúng (thời kỳ đẻ trứng, giai đoạn trứng, ấu trùng, con non,...). Khu bảo tồn một khi được đưa vào hoạt động hiệu quả sẽ tạo ra "hiệu ứng tràn", phát tán nguồn lợi từ khu bảo tồn ra các vùng lân cận. - Bảo tồn chuyển vị (Ex-situ): Bảo tồn các loài ngoài sinh cảnh tự nhiên của chúng. Bảo tồn chuyển vị nhằm bảo tồn các nguồn gen thuỷ sản quý đang có nguy cơ biến mất. Do một số đối tượng thuỷ sản bản địa có giá trị đặc biệt cũng như nguồn lợi chung suy giảm nên có thể kết hợp thả lại giống nhằm khôi phục kích thước quần thể của chúng. Một số loài cá quý hiếm bản địa, có giá trị kinh tế cao, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng nước Ngã ba sông Hồng có thể áp dụng biện pháp bảo tồn này là: cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Cháy, cá Chình nhật, cá Lợ thân thấp, các Lăng, cá Chiên, cá Ngạnh, cá Măng,... Hiện tại, Bộ NNPTNT, Chi Cục thuỷ sản Phú Thọ, Vĩnh Phúc đã tiến hành nuôi dưỡng và cho sinh sản nhân tạo thành công loài cá Anh vũ, Rầm xanh, Lăng, ... Đây là tín hiệu khả quan cho việc lưu giữ nguồn gien quý, cũng như cung cấp nguồn giống thả lại môi trường, nhằm phục hồi lại các quần thể cá quý hiếm này. 3.4.3.2. Khai thác hợp lý nguồn lợi cá. Khai thác hợp lý nguồn lợi cá được hiểu là con người chỉ có quyền thu hồi phần giá trị gia tăng sản lượng của các quần thể cá khai thác sau mỗi lần đánh bắt. Tài nguyên cá chỉ được coi là vô tận khi chúng ta biết khai thác 78 hợp lý, biết bảo tồn và phát triển. Đi đôi với khai thác, là nuôi trồng thuỷ sản (chủ yếu là cá) là biện pháp hữu hiệu nhằm giảm áp lực khai thác lên nguồn lợi tự nhiên, đáp ứng nhu cầu ngày một cao của con người khi nguồn lợi cá bị giới hạn và ngày một suy giảm. Đối với vùng nước Ngã ba sông Hồng, yếu tố quan trọng nhất để khai thác hợp lý tài nguyên cá là đảm bảo đối tượng khai thác có đủ khả năng và điều kiện cần thiết để khôi phục lại số lượng ban đầu sau mỗi lần khai thác. Để đảm bảo yêu cầu này cần chú ý: - Chỉ khai thác những đối tượng cá trưởng thành, đủ kích cỡ. Kích thước mắt lưới đủ lớn để các loại cá nhỏ không bị bắt. - Không đánh bắt cá bố mẹ đang trong mùa sinh sản. - Không dùng lưới vét. - Không sủ dụng phương tiện đánh bắt huỷ diệt như kích điện, nổ mìn, dùng hoá chất, ruốc độc,... Mặt khác, cũng cần chú ý rằng, vùng nước Ngã ba sông Hồng có diện tích nước mặt lớn, chất lượng nước còn khá sạch, dinh dưỡng cao và nguồn nước được trao đổi liên tục. Đây là yếu tố thuận lợi để người dân và các doanh nghiệp đầu tư nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là các loài cá bản địa, nhằm giảm áp lực lên khai thác nguồn cá tự nhiên, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu thực phẩm trong nước và phục vụ xuất khẩu. Đối tượng cá nuôi hiện nay khá đa dạng và nhiều loài thích nghi nhanh, sinh trưởng mạnh và đem lại lợi nhuận cao. Một số loài có thể áp dụng nuôi ở vùng nước Ngã ba sông Hồng như các loài cá bản địa: cá Trắm đen, cá Lăng, Lươn, cá Chình,... Có thể nuôi các loài cá nhập nội như Trắm cỏ, cá Chép, cá Mè, cá Chim,... nhưng phải được kiểm soát chặt chẽ. 3.4.3.3. Nâng cao năng suất sinh học cá 79 Để nâng cao năng suất sinh học cá ở vùng nước Ngã ba sông Hồng có thể áp dụng các giải pháp khoa học sau: a) Đảm bảo điều kiện cho sự tái sản xuất số lượng của quần thể. Điều kiện tái sản xuất số lượng quần thể tự nhiên của nhiều loài cá đã bị suy thoái hoặc huỷ hoại hoàn toàn. Việc đắp kè, đập trên sông, xây dựng các hồ chứa ở phía trên thượng lưu sông Đà, sông Lô- Gâm, sông Thao không chỉ ngăn chặn con đường di cư của các loài cá hạ lưu lên vùng trung lưu, thượng lưu các sông này để sinh sản mà còn làm cho nhiều bãi đẻ trên sông bị biến mất do ở đó chế độ dòng chảy được thay bằng chế độ nước tĩnh của hồ chứa. Do vậy, cần tiến hành nghiên cứu áp dụng phương pháp sinh sản nhân tạo hay dục đẻ nhân tạo của các loài cá bản địa để tạo nguồn giống trả lại cho môi trường tự nhiên. Sản lượng hiện nay của các loài cá kinh tế của vùng nước Ngã ba sông Hồng và phụ cận như cá Anh vũ, cá Rầm xanh, cá Chiên, cá Bỗng, cá Mòi cờ, cá Cháy, ... suy giảm nhanh chóng do bị khai thác quá mức; bãi đẻ trên các sông Đà, sông Thao, sông Lô và sông Hồng bị thu hẹp hoặc bị mất nên nguồn giống bổ sung hàng năm của các loài cá này giảm nghiêm trọng. Thả lại giống và làm giàu cho thuỷ vực vùng Ngã ba sông Hồng bằng các loài cá bản địa có giá trị kinh tế cần được xem là một biện pháp hữu hiệu để phục hồi kích thước quần thể của những loài cá đang suy giảm sản lượng và đứng trước nguy cơ diệt vong, trong đó có các loài cá quý hiếm có giá trị kinh tế cao, có nguy cơ tuyệt chủng ở vùng Ngã ba sông Hồng như cá Mòi cờ, cá Cháy, cá Chiên, cá Anh vũ, cá Bỗng, cá Lăng, cá Rầm xanh, cá Ngạnh,... b) Di nhập những đối tượng mới có giá trị cao vào thuỷ vực. Một trong những biện pháp khoa học để nâng cao năng suất thuỷ vực là di nhập những đối tượng mới nhằm sử dụng nguồn thức ăn dư thừa mà 80 các loài cá kinh tế bản địa không sử dụng hoặc không sử dụng hết. Thực tế ở nước ta đã bổ sung nhiều loài có giá trị kinh tế như cá Rô phi Oreochromis niloticus, cá Rohu Labeo rohita, Mrigan Cirrhinus mrigala, cá Catla Catlocarpio siemensis, cá Chim trắng Colosoma brachypomum. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, khi di nhập các loài có nguồn gốc ngoại lai cần nghiên cứu thử nghiệm để tránh tình trạng những loài này gây tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học và môi trường của khu hệ động vật địa phương (cạnh tranh về nơi ở, thức ăn đối với các loài bản địa, thậm chí tiêu diệt loài bản địa, đem đến ký sinh trùng và dịch bệnh mới, ...). Một số loài cá được di nhập đến vùng Ngã ba sông Hồng hiện nay như: cá Vược sông Prochilodus argenteus, cá Chim trắng Colosoma brachypomum, cá Rô phi Oreochromis sp, cá Trê phi Clarias gariepinus, ...đã thích nghi và mang lại hiệu kinh tế cao, góp phần giảm áp lực khai thác nguồn lợi cá tự nhiên ở khu vực này. Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý là loài cá Cọ bể, một loài cá làm cảnh, được nuôi làm nhiệm vệ sinh các bể nước, nay đã thoát ra ngoài khu vực Ngã ba sông, sinh trưởng và phát triển khá mạnh. Cá ăn thực vật, mùn bã hữu cơ, sinh sản nhanh, thích nghi với nhiều điều kịên môi trường sống, nhưng lại không có giá trị làm thực phẩm. Vì vậy, cần có các nghiên cứu, đánh giá tác động của loài cá này lên môi trường và các loài cá bản địa. c) Thực thi luật pháp Hệ thống luật pháp liên quan trực tiếp đến bảo vệ nguồn lợi cá và nâng cao năng suất sinh học ở các thuỷ vực gồm có: Luật bảo vệ môi trường; Luật tài nguyên nước, Luật đất đai và đặc biệt là Luật thuỷ sản. Đây là cơ sở pháp lý thiết yếu điều phối hoạt động của mọi lĩnh vực kinh tế và hành vi của con người đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên cho sự phát triển kinh tế xã hội. 81 Nguyên tắc trong hoạt động nghề cá là: Đảm bảo hiệu quả kinh tế gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên, (trích điều 4 Luật thuỷ sản). Nhà nước có chính sách bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là các loài thuỷ sản đang có nguy cơ tuyệt chủng, các loài quý hiếm, loài có giá trị kinh tế cao và các loài có ý nghĩa khoa học; khuyến khích nghiên cứu khoa học để có biện pháp phù hợp nhằm phát triển nguồn lợi thuỷ sản, đầu tư sản xuất giống thuỷ sản để thả vào môi trường tự nhiên và tạo ra các vùng cư trú nhân tạo nhằm tái tạo và phát triển nguồn lợi, (trích điều 8 Luật thuỷ sản). Một trong những hành động tích cực để ngăn ngừa sự suy giảm nguồn lợi hay sự biến mất của các quần thể cá có giá trị kinh tế ở các thuỷ vực nói chung và vùng nước Ngã ba sông Hồng nói riêng là: Quy định các vùng cấm đánh bắt và hạn chế đánh bắt, quy định kích thước tối thiểu của các đối tượng được phép đánh bắt và kích thước mắt lưới tối thiểu được phép sử dụng trong khai thác cùng với việc nghiêm cấm các hành động có tính chất huỷ diệt nguồn lợi (chất nổ, hoá chất, bả độc, kích điện,...) trong khai thác, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của các loài thủy sản. Để những điều luật này phát huy hiệu lực cần: Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện và quản lý của các cấp chính quyền từ cơ sở đến trung ương; tăng cường nhận thức và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của quần chúng; phối hợp và lồng ghép với các hoạt động kinh tế xã hội một cách hài hoà trên cơ sở nhận thức của mọi đối tượng, từ các cấp chính quyền đến người dân; có sự tham gia quản lý của cộng đồng hay nhà nước và nhân dân đồng quản lý đa dạng sinh học, khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững. 82 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận 1. Tổng số loài cá được ghi nhận ở vùng Ngã ba sông Hồng là 91 loài thuộc 11 bộ, 26 họ, 75 giống, trong đó bộ cá Chép là đa dạng nhất với 53 loài, chiếm 58,2%, tiếp đến là bộ cá Nheo với 13 loài, chiếm 14,3% và bộ cá Vược với 12 loài, chiếm 13,2%. 2. Trong khu hệ có 11 loài cá (thuộc 6 họ, 4 bộ) quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 2007, có nguy cơ tuyệt chủng và 27 loài cá có giá trị kinh tế. 3. Trong vùng Ngã ba sông Hồng hiện vẫn còn một số là bãi đẻ tự nhiên, bãi kiếm ăn, nơi cư trú của nhiều loài cá, trong đó có nhiều loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế như cá Anh vũ, Rầm xanh, cá Lăng, cá Chiên, cá Ngạnh, cá Măng, cá Trắm đen, cá Nheo và hai loài cá di cư từ biển vào sông sinh sản là cá Mòi cờ hoa và cá Cháy. 4. Đặc điểm sinh học của quần thể cá Mòi cờ hoa không có nhiều thay đổi so với trước đây và có khả năng phục hồi lại số lượng quần thể nếu áp dụng cấm đánh bắt cá bố mẹ trong thời gian cá sinh sản. 5. Do nhiều nguyên nhân như khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường, đắp đập, xây thuỷ điện làm thay đổi dòng chảy, khai thác cát sỏi...dẫn đến nguồn lợi thuỷ sản đã suy giảm nhanh chóng. Nhiều loài không còn cho khả năng khai thác, một số loài trở lên hiếm gặp và có nguy cơ biến mất khỏi khu hệ. 6. Để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản vùng Nước ngã ba sông Hồng cần tiến hành đồng thời 3 nhóm giải pháp: Bảo tồn đa dạng cá; Khai thác hợp lý nguồn lợi và nâng cao năng suất sinh học cá. 83 Kiến nghị 1. Cần nhanh chóng quy hoạch và đưa vào hoạt động Khu bảo tồn thuỷ vực nội địa vùng nước Ngã ba sông Hồng, hoặc Khu dự trữ sinh quyển vùng nước Ngã ba sông Hồng để bảo vệ, phục hồi và phát triển các loài cá quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. 2. Cần tiếp tục có những nghiên cứu và giám sát về môi trường, sinh thái và những thay đổi trước, trong và sau khi xây dựng khu bảo tồn. 3. Các tổ chức chính quyền địa phương cần có các biện pháp hiệu quả để quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác thuỷ sản, nghiêm cấm sử dụng phương tiện đánh bắt huỷ như kích điện, nổ mìn và cấm đánh bắt cá trong mùa sinh sản, đặc biệt là các loài cá di cư sinh sản như cá Mòi cờ hoa, cá Cháy. 4. Cần hạn chế hoạt động khai thác cát sỏi, khoanh vùng khai thác và chỉ cho phép khai thác theo thời gian thích hợp. 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Hồ thế Ân (1971), Sự biến đổi nguồn lợi cá Mòi cờ di cư đẻ trứng trên sông Hồng. Tạp chí Thuỷ sản, (1), tr. 14-19. 2. Hồ Thế Ân, Thái Bá Hồ, và nnk. (1971), Đặc trưng sinh học của cá Cháy (Hilsa reevesii Rich.) trên hệ thống sông Hồng. Điều tra nguồn lợi thủy sản nước ngọt. Nxb Khoa học kỹ thuật, tr. 99-115. 3. Ban chỉ đạo chương trình PTBV ngành Thuỷ sản (2006), Về định hướng chiến lược phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam. Tạp chí Thuỷ sản ( 5), tr. 9-12. 4. Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân (1998), Một số đặc điểm sinh học chủ yếu của cá Lăng chấm Hemibagrus guttatus Lacepede trên sông Hồng. Tài liệu Viện NCNTTSI. 5. Phạm Báu, Nguyễn Đức Tuân, Bùi Đình Đặng, Nguyễn Công Thắng (1999), Một số đặc điểm sinh học cá Anh vũ trên sông Gâm. Các công trình nghiên cứu năm 1999, Viện NCNTTS I, tr. 190-195 6. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007), Sách đỏ Việt Nam, phần động vật. Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ. 7. Bộ TN&MT, Cục Bảo vệ môi trường (2005), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia-Chuyên đề ĐDSH. Bộ TN&MT, Cục Bảo vệ môi trường. Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia-Chuyên đề ĐDSH. 8. Bộ Thuỷ sản (1996). Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 615 tr. 85 9. Bộ Thuỷ sản (2005), Một số thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ ngành thuỷ sản (2001-2005) và định hướng phát triển. Nxb Nông nghệp, Hà Nội, 195 tr. 10. Chính Phủ Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Thuỷ sản. 11. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản (2008), Hiện trạng khai thác và sử dụng nguồn lợi cá mòi cờ hoa trên các sông ở khu vực Bắc Bộ. 12. Cục Kiểm Lâm, Bộ NNPTNT (2002), Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo vệ tại Việt Nam (giai đoạn 2002-2010). 13. Nguyễn Hữu Dực, Mai Đình Yên (1994), Góp phần nghiên cứu họ cá Chình ở Việt Nam. Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, (1), tr. 60-64. 14. Nguyễn Hữu Dực (1995). Góp phần nghiên cứu khu hệ cá nước ngọt Nam Trung Bộ Việt Nam. Tóm tắt luận án PTS Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. 15. Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Văn Chiến (2001), Kết quả bước đầu khảo sát khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận các tỉnh Lai Châu và Sơn La. Tuyển tập Hội thảo quốc tế Sinh học. Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 77-85. 16. Nguyễn Hữu Dực và nnk. (2003), Thành phần loài cá lưu vực sông Mã thuộc địa phận tỉnh Thanh Hoá. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống. Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 69-72. 17. Hoàng Đức Đạt (1964), Dẫn liệu hình thái sinh học một số loài cá ở sông Lô- Gâm. Tập san sinh vật địa học, (3), tr. 151-156. 18. Hồ Thanh Hải (1999), Tổng quan về điều kiện tự nhiên và thủy sinh vật hệ thống sông Đà, dự báo tác động môi trường sinh thái khi xây dựng các 86 bậc thang thủy điện. Tài liệu Viện STTNSV, Dự án quy hoạch thủy điện toàn quốc. 19. Hồ Thanh Hải (2000), Tổng quan về thủy sinh vật hệ thống sông Lô-GâmChảy. Tài liệu Viện STTNSV, Dự án quy hoạch thủy điện toàn quốc. 20. Hồ Thanh Hải và nnk. (2003), Báo cáo tổng hợp các kết quả nghiên cứu thủy sinh học vùng lưu vực sông Đà. Báo cáo Đề tài KC.08.04. 21. Hồ Thanh Hải (2004), Hệ sinh thái sông. Tài liệu Viện STTNSV, 54 tr. 22. Hồ Thanh Hải (2005), Duy trì Hệ sinh thái sông trong quản lý tổng hợp vùng lưu vực sông. Tuyển tập Hội thảo về Tài nguyên và Môi trường Việt Nam. CRES, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 156-171. 23. Hồ Thanh Hải, Chu Tiến Vĩnh, Lê Thiết Bình và nnk. (2007), Quy hoạch các khu bảo tồn thuỷ sản nội địa ở Việt Nam. Tài liệu của Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; Viện STTNSV. 24. Hồ Thanh Hải (2007), Cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống bảo tồn thủy sản nội địa ở Việt Nam. Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, lần thứ 2. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 25. Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân (2001), Cá nước ngọt Việt Nam, tập I. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 622 tr. 26. Nguyễn Văn Hảo (2005), Cá nước ngọt Việt Nam, tập II. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 760 tr. 27. Nguyễn Văn Hảo (2005), Cá nước ngọt Việt Nam, tập III. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 758 tr. 28. Nguyễn Văn Hảo và Võ Văn Bình (1999), Kết quả nghiên cứu thành phần, phân bố cá ở sông Lô và sông Gâm năm 1999. Tuyển tập báo cáo khoa học, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I, tr. 3-20. 29. Nguyễn Thị Thu Hè (1999), Dẫn liệu bước đầu về thành phần loài cá ở các sông suối Tây Nguyên. Tạp chí Sinh học 21(4), tr. 26-35. 87 30. Nguyễn Thị Hoa (2001), Góp phần nghiên cứu khu hệ cá sông Đà thuộc địa phận hai tỉnh Sơn la và Lai Châu. Luận văn thạc sỹ khoa học, trường Đại học Sư phạm 1 Hà Nội, 155 tr. 31. Đoàn Lệ Hoa, Pham Văn Doãn (1971), Sơ bộ điều tra nguồn lợi cá sông Mã (Thanh Hoá). Tuyển tập điều tra nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt. Nxb Khoa học và kỹ thuật, tr. 205-215. 32. Nguyễn Quang Hùng và nnk. (2008), Nghiên cứu xây dựng các giải pháp khôi phục, bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá Mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa, Linnaeus 1758) ở vùng biển Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng. 33. Đặng Huy Huỳnh, Hồ Thanh Hải, Nguyễn Kiêm Sơn và nnk. (1999), Báo cáo kết quả nghiên cứu biến động môi trường sinh vật đồng bằng sông Hồng, 149 tr. 34. Nguyễn Viết Phổ (1983), Sông ngòi Việt Nam. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 35. Nguyễn Viết Phổ, Đỗ Đình Khôi, Vũ Văn Tuấn (2000), Khai thác và bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông Hồng - Thái Bình. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 100 tr. 36. Võ Văn Phú (1994), Sơ bộ nghiên cứu cấu trúc thành phần loài ở đầm phá nước lợ tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tạp chí thuỷ sản, (4), tr. 12-16. 37. Võ Văn Phú (1994), Sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản hệ sinh thái đầm phá nước lợ ở tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tạp chí thuỷ sản (6), tr. 1415. 38. Pravdin I. F, Hướng dẫn nghiên cứu cá. Nxb Khoa học kĩ thuật, Hà Nội, 1973 (bản dịch của Nguyễn Thị Minh Giang). 39. Primack Richard B., Cơ sở Sinh học bảo tồn. (bản dịch tiếng Việt của Võ Quý và nnk., 1999). Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 88 40. Tô Trung Nghĩa (2004), Báo cáo hội thảo Ban quản lý lưu vực sông Hồng. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi. 5tr. 41. Nguyễn Kiêm Sơn (2001), Tính đa dạng của khu hệ cá suối, sông thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang (Tuyên Quang). Tuyển tập các công trình nghiên cứu Sinh thái học và Tài nguyên sinh vật. Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 349-356. 42. Nguyễn Kiêm Sơn, Hồ Thanh Hải, Phan Văn Mạch và Lê Hùng Anh (2001), Khu hệ thuỷ sinh vật và khu hệ cá Ao Châu với tiểm năng phục vụ du lịch sinh thái. 43. Nguyễn Kiêm Sơn (2000), Khu hệ cá suối thuộc Vườn Quốc Gia Tam Đảo và đánh giá môi trường nước bằng sử dụng chỉ số đa dạng, chỉ số tổ hợp sinh học cá. Hội thảo Khoa học Đa dạng sinh học Vườn Quốc Gia Tam Đảo, tr. 36-37. 44. Nguyễn Kiêm Sơn (2001), Khu hệ cá sông Nhuệ và sông Tô Lịch, đánh giá môi trường nước bằng chỉ số tổ hợp sinh học (IBI) và chỉ số đa dạng sinh học. Tài liệu Viện STTNSV. 45. Nguyễn Đình Tạo, Nguyễn Kiêm Sơn (2010), Thành phần loài khu hệ cá ngã ba sông Đà- Lô -Thao. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 48 (2A), tr.534-538. 46. Vũ Trung Tạng (1994), Các hệ sinh thái cửa sông Việt Nam (Khai thác, duy trì, phát triển nguồn lợi). Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 271 tr. 47. Vũ Trung Tạng và nnk. (2004), Đất ngập nước Vân Long, Đa dạng sinh học, khai thác và phát triển bền vững. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 351 tr. 48. Vũ Trung Tạng (1988), Nguồn gen cá nước ngọt khu vực Hà nội. Tạp chí Thuỷ sản, (1), tr 5-11. 49. Vũ Trung Tạng (2008), Sinh thái học các hệ sinh thái nước. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 235tr. 89 50. Đặng Ngọc Thanh (1980), Khu hệ động vật không xương sông Bắc Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 51. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2007), Cơ sở thuỷ sinh học. Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. 52. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương Đức Tiến, Mai Đình Yên (2002), Thuỷ sinh học các thuỷ vực nước ngọt nội địa Việt Nam. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 399 tr. 53. Tiểu ban Nguồn lợi Thuỷ sản (trong ban Sinh vật) thuộc Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước (1971), Điều tra nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt, (1), Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 224 tr. 54. Tổng cục Thuỷ sản, Cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thuỷ sản (2010), Atlat các loài thuỷ sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng tại Việt Nam. Hà Nội, 263 tr. 55. Nguyễn Thị Vân Trang (2005), Nguồn lợi thuỷ sản và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý ở vùng hồ Quan Sơn (Mỹ Đức – Hà Tây). Luận văn thạc sỹ khoa học, trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 108 tr. 56. Viện Tài nguyên và Môi trường biển (2005), Tác động của các đập thuỷ điện lớn trên lưu vực sông Hồng đối với tài nguyên, môi trường vùng cửa sông và ven biển. Báo cáo tóm tắt đề tài cấp viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam giai đoạn 2004-2005, 25 tr. 57. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1978), Khí hậu Việt Nam. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 58. Nguyễn Thái Tự (1983), Khu hệ cá lưu vực sông Lam. Luận án PTS, Khoa sinh học, trường Đại học tổng hợp Hà Nội, 173tr. 59. Ngô Sỹ Vân, Phạm Anh Tuấn (2005), Hiện trạng và các giải pháp phát triển nguồn lợi cá tự nhiên ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo 90 toàn quốc bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 292-319. 60. Trần Văn Vỹ và nnk. (1971), Dẫn liệu về cơ sở thức ăn của cá ở hồ chứa Thác Bà (Yên Bái) khi chưa ngập nước. Tuyển tập điều tra nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1, tr. 20-40 61. Mai Đình Yên và nnk. (1971), Một số dẫn liệu về hình thái và phân loại cá bột (ấu trùng) và cá con vớt được trên sông Hồng. Điều tra nguồn lợi thủy sản nước ngọt, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 63-83. 62. Mai Đình Yên (1991), Nguồn lợi cá tự nhiên ở các vực nước ngọt và vấn đề quản lý chúng trong thời gian tới. Các công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật thuỷ sản (1986-1990). Tạp chí Thuỷ sản, tr. 51-55. 63. Mai Đình Yên (2005), Đa dạng sinh học nước ngọt Việt Nam: hiện trạng và định hướng bảo tồn và phát triển. Kỷ yếu hội thảo toàn quốc bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 278-281. 64. Mai Đình Yên và nnk (1992), Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nôi, 251 tr. 65. Mai Đình Yên (1978), Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 340 tr. Tài liệu tiếng Anh 66. Australia Sociation of Limnology (ASL.), Aquatic Protected Areas for the protection of inland aquatic ecosystems of high conservation value. (asl_aquatic_poldoc.htm). 67. Barbara A. Miller & Richard B. Reidinger (1998), Comprehensive River Basin Development. The Tennessee Valley Authority. World Bank Technical Paper No.4. 91 68. Bonheur N. (2001), Tonlesap Biosphere Reserve Cambodia management and zonation. IUCN Parks, 11. 69. Bloch Philip L. (2003), Aquatic Reserve Site Evaluation Criteria and Ecological Framework. Washington Department of Natural Resources Aquatic Resources Division, 68 pp. 70. Claridge G. (2003), Freshwater fischeries and protected areas in the lower Mekong region. IUCN Parks , 13. 71. EPA., Aquatic Biodiversity- River and Stream. http://www.epa.gov/bioindicator/. 72. IUCN (1994), Guidelines for protected area management categories. Commission on National Parks and Protected Areas with the assistance of the World Conservation Monitoring Centre. IUCN, Gland, Switzerland. 73. Kapetsky J.M., Bartley D.M. (1995), Fischeries and protected areas. Expanding partnerships in Conservation. 74. Kottelat M. (1989), Zoogeography of the fishes from Indochinese inland waters with an annotated check-list. Bulletin Zoologisch Museum. Universiteit Van Amsterdam, 12, (1), 1-43. 75. Kottelat M. (2001), Freshwater fishes of Northern Vietnam. Environment and Social Development Unit, East Asia and Pacific region. The World Bank. 76. Ho Thanh Hai, Nguyen Kiem Son (2006), Some study results on aquatic life of the Vu Gia river system. In the report for the EIA of Song Bung 4 hydro-power plant on the Bung river, SWECO, ADB. 77. Ho Thanh Hai và nnk. (1999), An overview on biodiversity in terrestrial and aquatic ecosystems of Cua Luc, Ha Long Bay and Cat Ba archipelago. Document of IEBR., 51 pp. 92 78. Mai Dinh Yen (1994), The biodiversity of freshwater fishes and different measures applied for its conservation in VietNam, Proceedings of the 7th international symposium on river and lake environments, Matsumoto. 79. Nevill J., and Phillips N. (2004) The Australian Freshwater Protected Area Resourcebook: the policy background, role and importance of protected areas for Australian inland aquatic ecosystems. OnlyOnePlanet Australia; Hampton Melbourne. 80. Nguyen Thi Lan Anh, Nguyen Xuan Huan, Hoang Trung Thanh (2010), The preliminary results of survey on terrestrial vertebrates in the area of Quan Son lake, My Duc district, Hanoi. Journal of science, Vietnam National University, Hanoi, vol 26, (4S), pp 493-500. 81. Nguyen Xuan Huan, Dao Thi Nga, Nguyen Thanh Nam (2010), The fish species composition in the area of Quan Son riversor in My Duc district, Hanoi. Journal of science, Vietnam National University, Hanoi, vol 26, (4S), pp 531-536. 82. Rainboth. W.J (1996), Fish of the Cambodian Mekong. Food and Agriculture Organnization of the United Nations, Rome. 93 94