Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam KHOA KINH TẾ, LUẬT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM BỘ MÔN LUẬT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc PHIẾU ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Họ và tên SVTH: Triệu Thị Thanh Xuân MSSV: 114115414 Lớp: DA15LF 1. Phần nhận xét: Về hình thức:---------------------------------------------------------------------------------Về nội dung: ---------------------------------------------------------------------------------Về tinh thần thái độ làm việc: -------------------------------------------------------------2. Phần chấm điểm: Nội dung đánh giá Điểm GVHD GVPB Tổng tối đa 1. Về hình thức: - Trình bày đúng theo mẫu hướng dẫn 1 - Lỗi chính tả, lỗi đánh máy không đáng kể 1 2. Về nội dung: - Cơ sở lý luận phù hợp với đề tài 2 - Nội dung nghiên cứu phù hợp với đề tài 3 -Kết luận, kiến nghị phù hợp với thực 2 trạng của vấn đề nghiên cứu 3. Tinh thần, thái độ làm việc: 1 TỔNG CỘNG 10 Điểm trừ do nộp bài trễ: -------------------------------------------------------------------Ghi chú: Điểm đánh giá cuối cùng của một sinh viên = (Điểm của giáo viên hướng dẫn + Điểm của giáo viên phản biện)/2 – điểm nộp bài trễ. Trà Vinh, ngày…..tháng…..năm 201… GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự i Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thành tiểu luận em đã nhận được rất nhiều sự động viên, cỗ vũ, giúp đỡ từ mọi người. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô trường Đại học Trà Vinh; quý thầy cô khoa Kinh tế, luật; đặc biệt là quý thầy cô bộ môn luật, cảm ơn thầy cô đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu giúp em thực hiện tiểu luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý lãnh đạo cũng như các cô, chú, anh, chị đang công tác tại Ủy ban nhân dân Phường 4, TP.Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh nơi em thực tập đã nhiệt tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu cho em tìm hiểu để em nắm rõ hơn kiến thức đã học qua quá trình thực tập và thực tiễn khi làm việc. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Trịnh Minh Tự, người đã hỗ trợ cho em về kiến thức chuyên môn và kể cả những kỹ năng liên quan để em có thể hoàn thành tốt tiểu luận của mình. Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã luôn động viên và giúp đỡ em trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và thực hiện có hạn, vốn kiến thức còn hạn chế nên tiểu luận vẫn còn sai sót là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báo của quý thầy cô để kiến thức của bản thân dần được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Trà Vinh, ngày 17 tháng 4 năm 2019 Sinh viên thực hiện Triệu Thị Thanh Xuân Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự ii Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự iii Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT HN&GĐ Hôn nhân và gia đình BLDS Bộ luật dân sự BLHĐ Bộ luật Hồng Đức BTP Bộ tư pháp CP Chính phủ TT Thông tư TTLT Thông tư liên tịch TANDTC Toà án nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao NĐ Nghị định QH Quốc hội Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự iv Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG Bảng Nhận thức lí do phải sinh con trai tại Trà Vinh Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự v Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Mục Lục PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................. 1 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .......................................................................................... 3 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 3 3.1 Không gian ............................................................................................................... 3 3.2 Thời gian .................................................................................................................. 3 3.3 Đối tượng nghiên cứu............................................................................................... 4 5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI ........................................................................................................ 4 PHẦN NỘI DUNG................................................................................................................ 5 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ QUY ĐỊNH THỂ HIỆN VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM. ...................................................................... 5 1.1 Cơ sở lý luận và quy định của Luật Hôn nhân và gia đình .......................................... 5 1.1.1 Khái niệm và các đặc điểm của hôn nhân và gia đình .......................................... 5 1.2 Khái niệm quyền của người phụ nữ và bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. .............................................................................. 15 1.2.1 Khái niệm quyền của người phụ nữ .................................................................... 15 1.2.2 Bảo đảm quyền của người phụ nữ ....................................................................... 17 1.2.3 Đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam. ............................................................................................................................. 17 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH ......................................................................................... 22 2.1 Quyền của người vợ được yêu thương, chung thủy và được chăm sóc, quý trọng ... 22 2.1.1 Quyền được yêu thương, chung thủy, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng .................. 22 2.1.2 Quyền sống chung giữa vợ chồng ....................................................................... 25 2.2 Quyền bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện các quan hệ gia đình .............. 25 2.2.1 Quyền bình đẳng giữa người vợ với chồng trong mối quan hệ với con ............. 25 2.2.2 Quyền bình đẳng trong việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình ............................................................................................................................... 27 2.2.3 Quyền đại diện của vợ ......................................................................................... 27 2.2.4 Quyền của người vợ trong việc thực hiện trách nhiệm liên đới của vợ, chồng .. 29 2.2.5 Quyền được lựa chọn nơi cư trú .......................................................................... 29 2.2.6 Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội............................................................................................................. 30 2.2.7 Quyền được tự do lựa chọn tính ngưỡng, tôn giáo.............................................. 31 2.2.8 Quyền của người vợ trong việc ly hôn ................................................................ 32 2.3 Những thành tựu đạt được ......................................................................................... 34 Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự vi Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam 2.4 Một số khó khăn vướng mắc trong việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam ...................................................................................... 39 2.4.1 Tình trạng phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình vẫn còn tồn tại. ................. 39 2.4.2 Tình trạng người vợ sinh con thứ ba trái ý muốn................................................ 41 2.4.3 Quyền quyết định về kinh tế của phụ nữ ............................................................. 43 CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM ...................................................... 45 3.1 Quan điểm cơ bản về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình ............................................................................................................................ 45 3.2 Giải pháp đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân gia đình ..... 46 3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân gia đình. ............................................................................................................... 46 3.2.2 Tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. ....................................................................... 48 3.2.3 Giải pháp kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ ............................................... 50 3.2.4 Xúc tiến sự tham ghia của nam giới trong các công việc nhà và việc chăm sóc gia đình không trả lương. ............................................................................................. 50 3.2.5 Tăng khả năng tiếp cận và kiểm soát đối với đất đai, tài sản và nguồn lực sản xuất cho phụ nữ. ........................................................................................................... 51 3.2.6 Tuyên truyền giáo dục sâu rộng quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân gia đình ............................................................................................................................... 52 3.2.7 Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. ..................................................... 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 55 Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự vii Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Gia đình là hạt nhân tạo nên xã hội, xã hội muốn văn minh, tiến bộ thì gia đình phải hạnh phúc, ấm no. Vậy nên, trách nhiệm của những trụ cột trong gia đình là không thể thiếu. Để xây dựng tổ ấm thì vai trò của người vợ và chồng là ngang hàng, bình đẳng với nhau, mỗi người có nhiệm vụ riêng. Tục ngữ có câu: “ Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Sự đúc kết đó đã nói lên vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước trên thế giới phụ nữ thường không nhận được sự quan tâm, bảo vệ thích đáng của xã hội, thậm chí còn có sự phân biệt đối xử, ngược đãi, bóc lột tàn bạo vẫn còn tồn tại. Năm 2018, Ngày Quốc tế Phụ nữ (08/3/2018) được xem là một phần của phong trào toàn cầu chưa từng có về quyền phụ nữ, bình đẳng và công lý. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhiều trường hợp phụ nữ bị quấy rối tình dục, bạo lực và phân biệt đối xử đã được đăng tải trên trang nhất và tạo ra rất nhiều cuộc tranh luận công khai, tạo đà thúc đẩy cộng đồng đưa ra cam kết mạnh mẽ để thay đổi. Ở khắp nơi trên thế giới, mọi người đều tích cực vận động nhằm thay đổi nhận thức của cộng đồng thông qua các cuộc tuần hành tuyên truyền hay các chiến dịch toàn cầu hướng tới một tương lai công bằng hơn đối với phụ nữ. Là lực lượng chiếm đa số trong xã hội, lại thực hiện nhiều chức năng quan trọng, như: thực hiện chức năng sinh sản duy trì nòi giống, nuôi dưỡng con cái, tham gia các hoạt động xã hội…, nhưng phụ nữ vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới. Theo thống kê của Liên hiệp quốc , phụ nữ chiếm đa số trong những người nghèo khổ trên thế giới và phụ nữ nông thôn nghèo túng đã tăng thêm 50% kể từ năm 1975 trở lại đây. Phụ nữ châu Á, châu Phi phải làm việc nhiều hơn nam giới 13 giờ một tuần. Trên toàn thế giới phụ nữ có thu nhập ít hơn 30% đến 40% nam giới trong những công việc như nhau, số phụ nữ nắm giữ các cương vị quản lý hành chính nhà nước chiếm 10% còn trong các cương vị sản xuất chưa đến 20%. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 1 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Việt Nam, cũng như nhiều nước trên thế giới, vấn đề phân biệt đối xử với phụ nữ, bất bình đẳng về quyền của phụ nữ diễn ra khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực làm hạn chế việc phát huy hết năng lực của người phụ nữ, làm cản trở sự phát triển của đất nước. Do đó quyền bình đẳng của người phụ nữ được xác định rất sớm và được thể chế hóa trong nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau thực tiễn áp dụng về quyền của người phụ nữ chưa được đảm bảo. Phần lớn một số quyền lợi của người phụ nữ bị hạn chế, chưa được đảm bảo thực hiện, phụ nữ còn bị phân biệt đối xử trong nhiều trường hợp , bạo lực đối với phụ nữ ngày càng tăng. Như vậy, để giải phóng được người phụ nữ thoát khỏi những tình trạng trên, cần phải hiểu rõ những nguyên nhân làm hạn chế việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tế và những nguyên nhân gây phân biệt đối xử với phụ nữ. qua đó có thể vạch ra những giải pháp đảm bảo việc thực hiện quyền của người phụ nữ, giải phóng người phụ nữ thoát ra khỏi những bất lợi mà xã hội mang lại, đồng thời tạo ra sự công bằng cho cả nam và nữ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì lẽ đó, Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế khác đã ban hành nhiều điều ước quốc tế nhằm bảo vệ và thực hiện quyền bình đẳng của người phụ nữ. Ở Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp hết sức to lớn vào công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm và giữ gìn độc lập, xây dựng tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, bên cạnh việc luôn sát cánh cùng xã hội phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” người phụ nữ còn có những cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đình, nuôi dưỡng thế hệ công dân tương lai của đất nước. Khẳng định vị thế của người phụ nữ Việt Nam, bên cạnh việc tham gia các Điều ước quốc tế, Nhà nước ta còn ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định quyền của phụ nữ, như: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật Hình sự… đây có thể coi là những bước tiến dài, quan trọng trong lộ trình đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam” làm công trình nghiên cứu cho tiểu luận tốt nghiệp của mình. Bởi lẽ, muốn thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền của người phụ nữ trong xã hội thì phải bảo đảm thực hiện quyền của họ ngay từ trong gia đình. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và một số văn bản pháp lý khác là Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 2 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Công trình nghiên cứu này, bên cạnh việc phân tích những quy định trong pháp luật HN&GĐ về quyền và việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ; cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, cũng chỉ rõ những điểm mới, hợp lý và bất hợp lý về bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ. Từ đó, tiểu luận đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Bằng thực tiễn nghiên cứu về việc đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, qua đó nhận biết được Luật Hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau,... từ đó xác định mục tiêu nghiên cứu chung: Một là, đánh giá đúng thực trạng, xác định phương hướng nhằm bổ sung các giải pháp nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Hai là, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn để hoàn thiện giải pháp nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ nói riêng và bình đẳng giới nói chung trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1 Không gian Bài tiểu luận này được nghiên cứu lấy thực tiễn tại Thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. 3.2 Thời gian Bài tiểu luận được nghiên cứu trong vòng 03 tuần từ 17/3/2019 đến 17/6/2019. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 3 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam 3.3 Đối tượng nghiên cứu Các quy định thể hiện quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài tiểu luận này sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây: đọc tài liệu, phân tích, thống kê, liệt kê, đối chứng. Ngoài ra để hoàn thành bài tiểu luận thì phương pháp so sánh cũng được vận dụng để làm rõ hơn các vấn đề về đảm bảo quyền của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. 5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Nội dung tiểu luận gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của Luật Hôn nhân và gia đình và quy định thể hiện việc đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chương 2: Thực trạng về đảm bảo quyền của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm đảm bảo quyền của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 4 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ QUY ĐỊNH THỂ HIỆN VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM. 1.1 Cơ sở lý luận và quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 1.1.1 Khái niệm và các đặc điểm của hôn nhân và gia đình 1.1.1.1 Khái niệm hôn nhân Con người sinh ra và trưởng thành, thì tình cảm, tình yêu thương chiếm vị trí hết sức quan trọng, đó là tình yêu quê hương đất nước, tình thương cha mẹ, anh chị em,... và đến lúc trưởng thành, còn có tình yêu trai gái. Đó là tình yêu thiêng liêng và khát vọng đẹp đẽ của mỗi con người. Xuất phát điểm của cuộc sống giữa vợ và chồng là sự kiên kết hôn, và biểu hiện của nó là quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ. Gia đình được coi là tế bào của xã hội. Hôn nhân và gia đình là nền tảng của xã hội, nơi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tương lai của đất nước, nơi gìn giữ và phát triển các nét đặc trưng văn hóa, truyền thống của dân tộc, một quốc gia. Các tế bào khỏe mạnh thì xã hội lành mạnh, ngược lại, nếu xuất hiện ngày càng nhiều “ tế bào lỗi” thì xã hội sẽ suy thoái. Hiểu theo nghĩa thông thường, thì hôn nhân là việc trai lấy vợ, gái lấy chồng, trai gái lấy nhau làm vợ chồng. Khi đến một độ tuổi nhất định, hai bên nam nữ sẽ thiết lập quan hệ vợ chồng với nhau, nhằm cùng chia sẽ tình cảm, gánh vác công việc, sinh con và nuôi dạy con… Hôn nhân, một cách chung nhất có thể được xác định như một sự xếp đặt của mỗi một xã hội để điều chỉnh mối quan hệ sinh lý giữa đàn ông và đàn bà. Nó là một hình thức xã hội luôn luôn thay đổi trong suốt quá trình phát triển của mối quan hệ Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 5 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam giữa họ, nhờ đó xã hội xếp đặt và cho phép họ sống chung với nhau, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Theo từ điển Bách khoa toàn thư thì: “Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội, và hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Về mặt xã hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa một người đàn ông được gọi là chồng và một người đàn bà được gọi là vợ.” Theo từ điển giải thích từ ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội hôn nhân được hiểu là “ sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên nguyên tắt tự nguyện, bình đẳng theo điều kiện trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hòa thuận”. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014, hôn nhân được hiểu: là quan hệ giưa vợ và chồng sau khi kết hôn. Theo cách hiểu này hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng được xác lập từ thời điểm kết hôn đến trước thời điểm chấm dứt hôn nhân, hành vi kết hôn giữa nam và nữ là sự kiện phát sinh quan hệ hôn nhân. Do đó để phát sinh quan hệ hôn nhân, nam và nữ phải tuân thủ đầy đủ các qui định của pháp luật về điều kiện kết hôn và phải đăng ký kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiểu một cách đầy đủ, toàn diện thì hôn nhân là sự kiện thì hôn nhân là sự kiện liên kết giữa một người nam và một người nữ, trên nguyên tắt hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật nhằm cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, chịu sự tác động của đạo đức, tôn giáo, pháp luật… Hôn nhân có thể nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau như: xã hội học, tâm lý học, luật học, triết học. Hôn nhân là nền tảng, là cơ sở chủ yếu để hình thành nên gia đình. Từ quan hệ hôn nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, và sau đó là quan hệ giữa Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 6 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam cha mẹ và con cái. Hầu như trong các quan hệ gia đình đều xuất phát từ quan hệ hôn nhân. Hôn nhân là mối liên kết vừa mang tính quy luật tự nhiên vừa mang tính quy luật xã hội, pháp lý. Tính quy luật tự nhiên thể hiện ở chỗ, con người thực ra cũng là một thực thể sinh vật, chịu sự điều chỉnh của các quy luật sinh học, trong đó có quy luật sinh tồn. tuy nhiên khi sống trong xã hội, con người còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các quy luật xã hội. Hôn nhân tồn tại trong các chế độ xã hội, từ xã hội chưa có giai cấp đến xã hội có giai cấp, từ khi chưa có nhà nước và pháp luật đến khi có nhà nước và pháp luật. Khi nhà nước xuất hiện các quan hệ hôn nhân luôn được quy định trong các quy định trong các văn bản pháp luật, lúc này việc kết hôn của đôi bên nam nữ phải tuân theo các quy định của pháp luật. Khi đề cập đến tính pháp lý trong hôn nhân, điều này cũng bao hàm cả tính giai cấp của hôn nhân. Mỗi chế độ xã hội, giai cấp thống trị luôn dùng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cho phù hợp với lợi ích,ý chí của giai cấp mình, trong đó có quan hệ hôn nhân. Như vậy,Hôn nhân là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tuân thủ các quy định của pháp luật nhằm cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc và bền vững. 1.1.1.2 Đặc điểm của hôn nhân Thứ nhất, hôn nhân là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ. Đặc điểm này nói lên sự khác biệt cơ bản giữa hôn nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa với hôn nhân trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến. Hôn nhân trong chế độ này không phải là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ, mà là một người nam và nhiều người nữ - một chồng nhưng nhiều vợ. Hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là hôn nhân dựa trên sự liên kết chỉ một người nam và một người nữ, đây là hôn nhân một vợ một chồng. Ở Việt nam, Xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình tiến bộ, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa được hình thành trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và nó trở thành nền tảng của mọi chế độ Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 7 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam hôn nhân và gia đình tiến bộ. Ở nước ta, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, nhiệm vụ, mục tiêu được đặt ra là phải xóa bỏ tận gốc rễ những tàn dư, hủ tục lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến để lại, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản, đồng thời xây dựng những quan hệ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng luôn được quy định trong các văn bản pháp luật, như quy định tại Điều 2, Điều 5 của Luật HN&GĐ năm 2014. Nhà nước không chỉ quy định mà luôn có các biện pháp để buộc các chủ thể phải tuyệt đối chấp hành. Đặc trưng này còn khẳng định rõ hôn nhân là sự liên kết giữa những người khác giới tính. Luật pháp Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa nhưng người cùng giới tính. Tuy nhiên trong xã hội Việt Nam hiện nay, hiện tượng những người đồng tính sống chung với nhau, xem nhau là vợ chồng đang xảy ra ở nhiều nơi. Mong muốn của những người này là được pháp luật thừa nhận quyền được kết hôn giữa họ với nhau. Thứ hai, hôn nhân là sự liên kết hoàn toàn tự nguyện của nam và nữ Hôn nhân tự nguyện tiến bộ, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác bao hàm cả hai khía cạnh, đảm bảo quyền tự do kết hôn và tự do li hôn. Xuất phát từ chỗ tình yêu được coi là cơ sở của hôn nhân cho nên việc quyết định lựa chọn người bạn đời và đi đến hôn nhân phải là việc của bản thân hai bên nam nữ. Mặt khác, khi tình yêu giữa hai bên nam nữ không còn nữa thì việc đảm bảo cho họ được tự do li hôn lại thực sự cần thiết vì như vậy là giải phóng cho họ. Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác, Luật hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, trên cơ sở này nam nữ được bình đẳng trong việc thực hiện quyền kết hôn cũng như li hôn theo quy định của pháp luật. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, hôn nhân thường do cha mẹ sắp đặt, định đoạt, vì lẽ đó không có được sự tự nguyện của nam, nữ. Ngay trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mặc dù đề cao quyền tự do cá nhân, quyền tự do yêu đương, kết hôn, trong việc xác lập hôn nhân thường bị ràng buộc bởi mục đích vụ lợi, do đó không còn là sự tự nguyện thực sự của nam và nữ. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 8 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, việc kết hôn giữa nam và nữ hoàn toàn tự nguyện, không bị ràng buộc bởi ý chí của cha mẹ, dòng họ, không bị chi phối bởi vấn đề kinh tế, mà đươc xây dựng trên cơ sở tình cảm, tình yêu chân chính giữa nam và nữ. Tính chất tự nguyện trong hôn nhân không chỉ thể hiện khi kết hôn mà còn thể hiện trong suốt quá trình chung sống của vợ chồng và khi ly hôn’ Ba là, hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa vợ và chồng. Theo quy đinh của Hiến pháp năm 2013 quy định “ mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Như vậy trong phạm vi xã hội nam nữ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi phương diện. Trong phạm vi gia đình, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “ vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện nghĩa vụ của công dân, được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các Luật khác có liên quan” Thứ tư, hôn nhân là sự liên kết nhằm chung sống suốt đời giữa vợ và chồng. Hôn nhân có tính bền vững, hôn nhân được xây dựng trên yếu tố tình cảm giữa các chủ thể và hôn nhân có mục đích xây dựng gia đình. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để các chủ thể gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vì mục đích của hôn nhân là nhằm chung sống suốt đời với nhau, do đó một số nước trước đây cho rằng hôn nhân là vĩnh cửu, khi đã thiết lập rồi, các bên không được phép ly hôn dù với lý do gì. Nhà nước Việt Nam xem hôn nhân là sự kiện liên kết bền vững, suốt đời, song nếu thực tế cuộc sống, do có những điều kiện khách quan hay chủ quan chi phối, dẫn đến mục đích của hôn nhân không đạt được, tình cảm giữa hai người không còn, thì họ có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn. Thứ năm, hôn nhân là sự liên kết theo quy định của pháp luật. Với vị trí là một thiết chế xã hội, hôn nhân có vai trò là cơ sở xây dựng gia đình - tế bào của xã hội. Điều đó không chỉ có ý nghĩa riêng tư mà còn có ý nghĩa xã hội. Bởi vì, trên cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng, các quan hệ thân thuộc trong gia đình (quan hệ trực hệ và quan hệ giữa những người có họ hàng khác) và các quan hệ thích thuộc (quan hệ giữa một bên vợ hoặc chồng với những người trong họ nhà vợ hay trong họ nhà chồng) được thiết lập và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ đạo Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 9 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam đức, pháp lý giữa các chủ thể trong gia đình. Việc phát sinh tồn tại và chấm dứt hôn nhân đều có những ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các quan hệ gia đình (trong nhiều trường hợp hôn nhân có ảnh hưởng mang tính chất quyết định). Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: “Nếu hôn nhân không phải là cơ sở của gia đình thì nó sẽ không phải là đối tượng của lập pháp”. Vì vậy, cũng như các thiết chế xã hội khác hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật HN&GĐ các nước đều có các qui định chặt chẽ về kết hôn , quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt hôn nhân. 1.1.1.3 Khái niệm gia đình Có rất nhiều ngành cùng tham gia nghiên cứu về gia đình cố gắng đưa ra nhiều khái niệm về gia đình như các nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học, văn hóa,… nhưng chưa có ngành nào nghiên cứu về gia đình nhiều như ngành xã hội học. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào về gia đình. Tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà mỗi nhà khoa học có một khái niệm gia đình riêng phù hợp với lĩnh vực mình nghiên cứu. Có thể nói, chưa có ngành nào lại đưa ra nhiều khái niệm như ngành xã hội học. Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào của xã hội. Không giống bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình có sự đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm lý, văn hóa… Những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rể… Mối quan hệ gia đình được thể hiện ở các khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát. Trong tập bài giảng Xã hội học trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra hai khái niệm về gia đình: “gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó những người có mối quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là một phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa dân tộc và thời đại. Gia đình là trường học đầu tiên mang tính biện chứng với tổng thể xã hội.” Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 10 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam “Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ) là hình thức tổ chưc xã hội quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ huyết thống tức là quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ, giữa anh chị em và người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung.” Trong sách Gia đình trong bối cảnh mới, gia đình được định nghĩa như sau: “gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống, hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có đặt trưng giới tính bởi quan hệ hôn nhân, cùng chung sống, có chung ngân sách.” Gia đình là nơi nuôi dưỡng cuộc sống của mỗi con người, nơi giáo dục nếp sống, cách suy nghĩ, nơi giúp con người biết đi, đứng, ăn, nói, nơi hình thành nhân cách không thể thiếu được của mỗi người. Theo giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh h: “ gia đình là hệ quả tất yếu của hôn nhân, là sự tiếp tục của hôn nhân ở một phạm vo rộng hơn, đa dạng hơn. Hôn nhân là cơ sở chính, cơ sở chủ yếu để hình thành gia đình”. Từ các khái niệm trên có thể hiểu gia đình là những người gắn bó bới nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của pháp luật. 1.1.1.4 Chức năng của gia đình Gia đình là nơi “chôn rau cắt rốn”, là chốn dừng chân của mỗi cá nhân sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nơi ấy chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng và sâu sắc của mỗi con người. “ Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” tuy khác nhau nhưng gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có vững mạnh thì xã hội mới văn minh. Không ai có thể phủ nhận được vai trò của gia đình đối với cá nhân và xã hội. Gia đình là yếu tố cấu thành cơ bản của cơ cấu xã hội tổng thể, gia đình phản ánh chân thực mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp. Gia đình lúc đầu như Mac và Ăng ghen (6 – 2009), “Tạp chí Triết học”, số 6 (217): “gia đình là quan hệ xã hội duy nhất” gia đình là cộng đồng lao động và cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại và là thế Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 11 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam giới của con người. Nếu xem xét gia đình như một thiết chế xã hội thì cần hướng tới các chức năng, việc định hướng giá trị và nghĩa vụ mà gia đình phải giải quyết với tư cách là một đơn vị xã hội đặc biệt. gia đình được sinh ra tồn tại và phát triển chính là do nó sứ mệnh được đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã trao cho, không thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Gia đình có những chức năng cơ bản sau: Một là, chức năng duy trì nòi giống Chức năng này tồn tại một cách tự nhiên, vì xã hội chỉ tồn tại được khi hành vi sinh sản vẫn còn được duy trì. Chức năng này được coi là một giá trị của gia đình mà từ cổ chí kim loài người phải thừa nhận. Theo quan điểm của F. Engel, một nhà duy vật vĩ đại cũng cho rằng: “theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy cho cùng là... sự tái sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Chức năng sinh sản của gia đình là một giá trị trường tồn. Thực hiện chức năng gia đình này, đảm bảo duy trì, phát triển nòi giống, đồng thời đầu tư sức lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Việc tái xuất ra con người vừa là quy luật sinh tồn cuả tự nhiên, vừa là quy luật xã hội”. Xét đến cùng, con người là một thực thể sinh vật, do đó quan hệ tinh giao và sinh con đẻ cái, trước hết à những công việc mang tính chất tự nhiên. Tuy nhiên, bên cạnh đó, con người còn là một thực thể xã hội, do đó chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, pháp lý, nhằm đảm bảo phát triển hài hòa giữa gia đình và xã hội. Như vậy chức năng duy trì nòi giống là một chức năng quan trọng của gia đình, được thực hiện trên cơ sở những quy định của Nhà nước, nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của gia đình và sự phát triển của xã hội. Thứ hai, chức năng giáo dục Nổi bật nhất vẫn là chức năng giáo dục trong gia đình, vì mỗi con người khi sinh ra và trưởng thành cho đến cuối đời, đó là quá trình được giáo dục liên tục và tự giác. Người xưa có câu “nhân bất học, bất tri lý” (người mà không được giáo dục thì không có sự hiểu biết). Vai trò của những người thân trong gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến mỗi cá nhân về lối sống đạo đức, nhân cách, gia đình là trường học đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi cá nhân về những ý niệm, về những cơ sở đầu tiên Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 12 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam về cái thiện và cái ác, về đạo đức, lẽ sống, tâm hồn… “Tử hiếu song thân lạc, gia hòa vạn sự thành” (Con hiều thì cha, mẹ vui, gia đình hòa thuận thì mọi việc đều thành). Có thể nói gia đình là môi trường xã hội hóa cá nhân đầu tiên, nó khác với các thiết chế xã hội khác dựa trên mối quan hệ tình cảm, huyết thống thiêng liêng trong quá trình của cá nhân khi đạt đến trình độ chiếm lĩnh những chuẩn mực xã hội, những khuôn mẫu tác phong, những vốn tri thức, kinh nghiệm, những giá trị văn hóa chung trong thực tiển cuộc sống. Xã hội luôn biến đổi không ngừng nên có tác động sâu sắc đến cấu trúc của từng gia đình, trong xã hội hiện đại việc giáo dục nhân cách, lối sống, nhận thức tư duy, gia đình cần phải tạo cho các thành viên có phương pháp độc lập trong sáng tạo, suy nghĩ, tinh thần ham học hỏi cầu thị, cầu tiến, gia đình cần trang bị cho con em mình về trình độ vốn có hàm lượng tri thức cao, nhận thức hiểu biết cơ bản về cách tiếp cận xu thế phát triển của cộng đồng và xã hội, những kinh nghiệm, kỹ năng, sở trường và tự tin hơn trong môi trường sống…Vì vậy không thể xem nhẹ vai trò, chức năng giáo dục trong gia đình, vì chức năng giáo dục gia đình có tầm quan trọng đặc biệt, nếu môi trường gia đình là xuất phát điểm, thì môi trường giáo dục ở trường học là phương tiện định hướng, môi trường xã hội là điểm đến của sự nghiệp và tương lai theo dòng đời của mỗi người. Chức năng giáo dục trong gia đình phải gắn kết hài hòa với chức năng thỏa mãn các nhu cầu tinh thần, tâm lý và tình cảm trong gia đình. Đánh giá nhìn nhận ở góc độ khác, gia đình là một cộng đồng đặc biệt có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, quan hệ tình cảm, trách nhiệm sự đùm bọc, tương thân tương ái, sẵn sàng hy sinh cho nhau với tâm niệm gắn bó suốt đời người. Gia đình là điểm sum họp, được an ủi về mặt tình cảm, thỏa mãn nhu cầu tình yêu thương, hạnh phúc tạo nên sự ổn định, cân bằng trạng thái về tâm lý của mỗi cá nhân trong cuộc sống cũng như trong mỗi công việc. Chính điều này nếu đã được thực hiện thành công thì nó còn mang ý nghĩa có tính động lực quan trọng trong thúc đẩy nâng tầm lên các mặt chức năng khác như giáo dục; sản xuất, tiêu dùng; phát triển đồng bộ, gắn kết chặt chẽ trong phát triển nhu cầu vật chất và tinh thần, tâm lý và tình cảm sẽ bền chặt hơn trong mối quan hệ hướng đến hoàn thiện của mỗi gia đình. Đây là chức năng quan trọng không thể thiếu được trong việc hoàn thiện và phát triển nhân cách của mỗi con người. Ở Việt Nam, nhà nước luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để gia đình thực hiện Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 13 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam tốt chức năng giáo dục của mình. Lợi ích trong giáo dục gia đình và lợi ích trong xã hội không có sự đối lập nhau, do đó mục đích giáo dục trong gia đình phù hợp với mục đích giáo dục này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung, hỗ trợ nhau. Thực hiên chức năng này, trước hết thuộc về cha mẹ đối với con của mình; ông bà đối với cháu của mình; anh chị đã thành niên đối với em. Mỗi người phải là tấm gương sáng về nhân cách để con, em mình noi theo. Thứ ba, chức năng kinh tế Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân viên chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sỹ… cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy không trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích mra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn nhiều yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc. Như vậy, trong mỗi gia đình, ba chức năng cơ bản này luôn có sự tác động qua ại lẫn nhau, chức năng này là tiền đề cho chức năng kia và ngược lại. Từ chức năng duy trì nòi giống, mối phát sinh chức năng giáo dục và chức năng kinh tế. Bởi không có chức năng duy trig nòi giống thì không có sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên không thể thiếu chức năng giáo dục, bởi nhờ có chức năng giáo dục Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 14 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam mà chức năng duy trì nòi giống và chức năng kinh tế được hoàn thiện và thực hiện tốt hơn. Nếu chúng ta nói rằng chức năng duy trì nòi giống là cơ sở tồn tại của xã hội, thì chính chức năng giáo dục là cơ sở cho sự phát triển của xã hội. Chúng ta cũng không thể bỏ qua chức năng kinh tế của gia đình, bởi thực hiện tốt chức năng kinh tế là cơ sở để thực hiện tốt chức năng duy trì nòi giống và chức năng giáo dục. 1.2 Khái niệm quyền của người phụ nữ và bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. 1.2.1 Khái niệm quyền của người phụ nữ Trong khoa học Luật, khái niệm về quyền phụ nữ chưa được làm sáng tỏ, để tiếp cận khái niệm quyền của phụ nữ chúng ta không thể tách rời nghiên cứu khái niệm về quyền con người. Quyền con người là những đặt quyền tự nhiên của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối quan hệ giữa nhà nước và những cá nhân khác. Nội dung quyền con người được thể hiện thông qua các quyền: quyền tự do dân chủ về chính trị, quyền dân sự và quyền kinh tế xã hội. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền con người, quyền của phụ nữ và coi đó là một trong những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Ngay trong tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Thấm nhuần tư tưởng nhân quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 1992 hiện hành đều thể hiện tư tưởng xuyên suốt là đề cao các quyền con người, quyền của phụ nữ. Ngay sau khi đất nước dành được độc lập, trong Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định một cách rõ ràng: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 15 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Trên cơ sở những quy định của Hiến pháp ,các bộ luật, luật những văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam đã và đang xác định nhiệm vụ trọng tâm là ghi nhận và bảo vệ quyền của phụ nữ. Tuỳ vào những lĩnh vực bảo vệ cụ thể mà quyền của phụ nữ được ghi nhận ở những văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn Bộ luật lao động thì bảo vệ quyền phụ nữ trong lĩnh vực lao động và việc làm, Luật Hôn nhân và gia đình lại ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc nam, nữ bình đẳng trong hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục lại tạo điều kiện để phụ nữ được học tập và phát huy sự sáng tạo… hoặc cùng một vấn đề nhưng ở những khía cạnh khác nhau, quyền của phụ nữ được pháp luật ghi nhận trong các văn bản pháp lý khác nhau. Gần đây nhất Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Bình đẳng giới và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007 là cơ sở pháp lý quan trọng của cuộc đấu tranh cho quyền phụ nữ và mục tiêu bình đẳng giới. Xét trong mối tương quan với nam giới, các quyền của phụ nữ Việt Nam được quy định trong các bản Hiến pháp nước ta đã thể hiện rõ quan điểm “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong đời sống gia đình. Nhưng bên cạnh đó có những quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ hưu...) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội. Như vậy, quyền của phụ nữ Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển và hoàn thiện từ không thành có, từ sơ khai đến đầy đủ hơn, đã được thể hiện đậm nét trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Quyền của phụ nữ đã được các bản Hiến pháp Việt Nam hiến định ngày càng đầy đủ hơn, phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước ta đã tham gia, và cũng phù hợp xu hướng hiến định của các nước trong khu vực và quốc tế. Điều này đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc của cả hệ thống chính trị, của bộ máy nhà nước Việt Nam đối với sự phát triển của phụ nữ Việt Nam trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 16 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Quyền phụ nữ là các hện thống các biện pháp, cách thức được pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các quyền con người của người phụ nữ trên thực tế cũng như xữ lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm quyền của phụ nữ. 1.2.2 Bảo đảm quyền của người phụ nữ việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong các cổ luật cũng đã được đặt ra, nhưng mức độ và quy mô bảo vệ rất hạn chế, hầu như các nhà làm luật chưa thể nhận thức được vai trò quan trọng của phụ nữ. Với việc coi trọng và đề cao người phụ nữ, Luật HN&GĐ năm 2014, đã đề cao vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ, nhằm giúp phụ nữ phát triển về mọi mặt, đóng góp công sức của mình vào xu thế phát triển chung của xã hội. Xuất phát từ mục tiêu đó, “bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới”. (Trích Bùi Thị Mừng (2003), “bảo vệ Quyền phụ nữ theo Luật HN&GĐ Việt Nam 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học 2003. 1.2.3 Đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam. 1.2.3.1 Khái niệm Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ buổi đầu lập nước, khi gặp nạn ngoại bang xâm lược, bà Trưng bà Triệu đã dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Thế kỷ XX, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lịch sử lại ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ, các chị, các mẹ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, cống hiến không chỉ cuộc đời mình mà cả con em cho độc lập tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không chỉ Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 17 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam chiến đấu anh hùng mà đã lao động cần cù, gian khó để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và phát triển hơn. Chính vì thế mà Đảng, Bác Hồ đã phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ kháng chiến và “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng” trong thời kỳ đổi mới đất nước, đó không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam. Ngày nay, khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập với khu vực và thế giới, trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Vai trò này đang được khẳng định một cách rõ nét hơn bao giờ hết. Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình, người phụ nữ còn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều người trở thành nhà lãnh đạo, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động. Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ, dịch vụ… Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt, hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở hầu hết các bộ, ngành và toàn bộ các tỉnh, thành phố trong cả nước. Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động hiệu quả, hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường bằng Luật Bình đẳng giới. Quyền bình đẳng của phụ nữ được quy định trong Luật Bình đẳng giới, theo đó thì mọi người, dù là nam giới hay phụ nữ các cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sẵn có của mình cũng như quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển như: tiếp cận và sủ dụng các nguồn lực, tham gia quyết định các vấn đề liên quan tơi việc sử dụng các nguồn lực, tham gia vào các hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội,… thụ hưởng các thành tựu của sự phát triển. Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014, với 9 chương và 133 Điều Luật được xây dựng trên cơ sở kế thừa các giá trị của Luật HN&GĐ năm 2000 và thể chế hóa đường lối của Đảng về Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 18 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam hôn hân và gia đình. Trên cơ sở quy định của những nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ năm 2014 đã có những quy định cụ thể, đầy đủ về quyền của người vợ chẳng hạn được quy định tại các Điều 17, khoản 2 Điều 19. Có thể nó Luật HN&GĐ năm 2014 mang đến nhiều quy định tiến bộ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của các chủ thể trong quan hệ HN&GĐ nói chung. Đây là một bước phát triển mới của pháp luật HN&GĐ ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng thực hiện các quan hệ HN&GĐ hạnh phúc, tiến bộ. 1.2.3.2 Ý nghĩa của việc đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam Một là, nhằm bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ giữa vợ và chồng góp phần xóa bỏ tư tưởng gia trưởng - phong kiến, đảm bảo vị thế vai trò của người phụ nữ. Gia đình Việt Nam không chỉ chịu ảnh hưởng nét đặc trưng của gia đình truyền thống mà còn chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, thể hiện ở đặc điểm gắn bó chặt chẽ với họ hàng, làng xã, mang tính chất phụ quyền gia trưởng, người phụ nữ không được coi trọng, không có điều kiện tham gia vào các công việc xã hội vai trò của họ bị bó hẹp trong gia đình. Trong chế độ phong kiến, xã hội có những đòi hỏi, luật lệ rất nghiêm khắc với người phụ nữ, người phụ nữ trong chế độ này chỉ được phép có một chồng, thậm chí chồng chết phải ở vậy thờ chồng, không được phép tái gía mới là “chính chuyên”. Đàn ông không những được phép lấy nhiều vợ mà còn khuyết khích lấy nhiều vợ. Địa vị của người phụ nữ luôn bị xem nhẹ, nói cách khác, đây là xã hội trọng nam khinh nữ. Tư tưởng gia trưởng có mặt tích cực lẫn tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở việc góp phần gìn giữ nề nếp tôn ti trật tự các thứ bật trong gia đình, con cái sẽ vâng lời cha, người vợ sẽ trở nên chịu thương chịu khóchăm lo vẹn toàn cho chồng con, người đàn ông trong gia đình sẽ phát huy hết năng lực và trọng trách để đảm bảo cuộc sống cho gia đình cả về kinh tế lẫn truyền thống tốt đẹp của gia đình và dòng họ. Việc giáo dục trong gia đình có nề nếp và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên mặt tiêu cực của nó vẫn lớn hơn, trước hết tính gia trưởng chính là biểu hiện của sự bất bình đẳng về quyền giữa vợ và chồng trong hôn nhân làm hạn chế vai trò, chức năng của người phụ nữ khiến họ không thể phát huy hết Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 19 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam năng lực của mình tiềm ẩn các vấn nạn của bạo hành gia đình, là tác nhân cản trở việc thực hiện chính sách đảm bảo quyền của người phụ nữ làm chậm sự tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ giữa vợ và chồng góp phần xóa bỏ tư tưởng gia trưởng - phong kiến là vấn đề quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hóa Luật HN&GĐ Việt Nam. Hai là, bảo đảm việc phòng chống bạo lực gia đình, bình đẳng thực chất giữa vợ và chồng trên thực tế và các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền của người phụ nữ. Bạo lực gia đình là một chế định pháp luật gồm tổng hợp các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm ngăn ngừa, xử lý và xóa bỏ hành vi bạo lực giữa các thành viên trong gia đình hướng đến xây dựng gia đình ổn định, hạnh phúc. Nạn nhân của bạo lực thân thể thường là phụ nữ. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, mọi nền văn hoá, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo, trình độ học vấn cao hay thấp. Những hành vi bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đặc biệt đối với nạn nhân bị bạo hành. Bạo lực gia đình là một thực trạng xã hội, nó bao gồm nhiều hình thức kể cả bạo hành về thể xác và tinh thần, lẫn cưỡng bức xâm hại tình dục. Biểu hiện của bạo lực gia đình thường thấy nhất là những hành vi thô bạo của người chồng đối với vợ. Có khi người đàn ông vô cớ đánh chửi hoặc xâm hại sức khoẻ của người thân (thường do thua bạc, ghen bóng ghen gió, tư tưởng trọng nam khinh nữ bắt vợ phải đẻ bằng được con trai…). Có những khi biểu hiện bằng việc xâm hại tình dục, cưỡng bức, ép quan hệ khi vợ ốm đau hoặc có lý do về sức khoẻ, tâm sinh lý. Đôi khi là bạo lực tinh thần: thường là sự đay nghiến chì chiết về một lỗi lầm nào đó trong quá khứ, hoặc vì không làm ra tiền mà bị coi khinh. Bạo lực gia đình có ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thể chất của người phụ nữ, có những trường hợp dẫn đến thương tật suốt đời, thậm chí tử vong. Qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy không ít các trường hợp bệnh nhân nhập viện vì chấn thương do các tác nhân bạo lực gia đình gây ra, có những trường hợp rất man rợ và đáng thương tâm. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 20 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Nhiều vụ ly hôn ra toà là nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình. Hậu quả ngoài hai người trong cuộc gánh chịu thì trẻ em cũng là đối tượng bị tổn thương rất nhiều khi bố mẹ chia tay. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn BLGĐ vẫn chưa được ngăn chặn triệt để. Có thể là do một bộ phận người Việt Nam chúng ta vẫn coi đây là vấn đề riêng tư, mang tính chất gia đình thuần túy, nên người phụ nữ chịu tác động của nạn bao hành vẫn còn đơn độc. Mặt khác, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về hành vi bạo lực gia đình, sự tham gia của cộng đồng còn hạn chế, chưa thật sự đi vào chiều sâu, chưa thường xuyên. Để ngày càng giảm thiểu thấp nhất nạn bạo lực gia đình, rất cần mọi người chung tay giải quyết và nhận thức được rằng đây là vấn đề xã hội cần được quan tâm. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 21 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 2.1 Quyền của người vợ được yêu thương, chung thủy và được chăm sóc, quý trọng 2.1.1 Quyền được yêu thương, chung thủy, chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng Theo Khoản 1, Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.” Quyền được yêu thương chung thủy thể hiện ở mặt vật chất tinh thần, về phương diện vật chất, vợ chồng có nghĩa vụ họp tác trong việc bảo đảm đáp ứng các nhu cầu vật chất thiết yếu của gia đình, của mỗi cá nhân. Về phương diện tình cảm, vợ chồng phải dành cho nhau sự yêu thương,chung thủy, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày đặc biệt là khi đau ốm, gặp khó khăn. Quyền được chăm sóc, quý trọng, giúp đỡ được thể hiện ở hành vi, cách cư xử và thái độ của người chồng. Đó là sự yêu mến, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của người vợ; giữ gìn danh dự, uy tín, nhân phẩm; quan tâm, động viên lẫn nhau và tạo điều kiện để người vợ có khả năng phát huy những điểm mạnh của bản thân. Trong xã hội hiện đại ngày nay thì tình yêu nam nữ là cơ sở để xây dựng hôn nhân bởi theo C. Mác (11 – 2005), Tạp chí Triết học số 11: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì mới là hợp đạo đức mà thôi”. Đó chính là cơ sở cơ bản để đảm bảo xây dựng một gia đình dân chủ hoà thuận và hạnh phúc. Tuy vậy, trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, những quan niệm về tình yêu, hôn nhân, gia đình không còn mang nguyên ý nghĩa truyền thống. Mỗi thế hệ, mỗi cá nhân quan niệm khác nhau về cái gọi là “chung thuỷ”. Luật hôn nhân và gia đình quy định đó là nghĩa vụ chung của hai vợ chồng. Và bên cạnh đó đã đưa ra những cơ chế nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đó. Ở đây chúng ta thấy nảy sinh vấn đề: Một bên là tình cảm tự nhiên của con người và còn bên kia là Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 22 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam những quy định luật pháp. Một cái mang tính bản năng tự nhiên và một cái mang tính xã hội. Bản chất của quan hệ vợ chồng bao gồm tình yêu và nghĩa vụ. Như vậy, cái tự nhiên và cái xã hội luôn đan xen nhau, quan hệ biện chứng với nhau và không thể tách rời nhau. Chính vì vậy, trong quan hệ vợ chồng cả hai bên đều mong muốn được thể hiện tình yêu và phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhau, điều đó thể hiện sự chung thuỷ. Nếu một trong hai bên vợ, chồng hoặc cả hai bên lại thể hiện tình yêu với người khác, thực hiện nghĩa vụ với người khác thì đó là biểu hiện của sự không chung thuỷ. Hiện nay, pháp luật đã quy định một số chế tài kèm theo khi vợ chồng vi phạm nghĩa vụ này đó là huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng… Hoặc áp dụng xử phạt hành chính, áp dụng chế tài hình sự. Tuy vậy, việc áp dụng chế tài này chỉ được một số trường hợp khi có đủ những điều kiện nhất định. Trên thực tế có rất nhiều hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ nhưng không thể áp dụng chế tài với họ được. Thực tế hiện nay chúng ta thấy có mấy dạng vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ hay còn gọi là ngoại tình. Vợ hoặc chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân nhưng vẫn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ với gia đình. Dạng vi phạm này thường không gây ra hậu quả nghiêm trọng về vật chất, bạo lực đối với gia đình. Tuy vậy có thể gây ra sự tổn thất về mặt tinh thần khá nặng nề. Sự vi phạm này có thể kéo dài liên tục, có thể công khai hoặc bí mật. Tuỳ theo từng trường hợp để xử lý theo quy định của pháp luật. Về vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến thì cho rằng đã là vi phạm quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật thì nên xử lý thích đáng. Ý kiến khác thì lại cho rằng phải tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xem xét có xử lý hay không. Chẳng hạn, trong thực tế có rất nhiều trường hợp do vợ hoặc chồng bị bệnh nằm liệt giường hoặc bị bệnh tâm thần. Người kia không muốn ly hôn mà vẫn tận tình chăm sóc, họ chỉ muốn có một quan hệ ngoài hôn nhân để bù đắp những khoảng trống trong họ mà thôi. Vậy nên chăng coi đây là một trường hợp ngoại lệ? Vợ hoặc chồng có quan hệ tình cảm ngoài hôn nhân và không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ với gia đình. Quan hệ này có thể công khai hoặc bí mật và có thể kéo dài hoặc nhất thời. Trường hợp này rõ ràng là có thể có nguy cơ gây ra hậu quả Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 23 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam nghiêm trọng hơn đối với gia đình so với trường hợp trên, do đó nên áp dụng hình thức xử lý thích hợp. Tuy vậy, cả hai trường hợp trên đều rất khó xác định “ngưỡng” để áp dụng chế tài. Nếu họ kết hôn trái pháp luật thì có thể tiến hành huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó; nếu họ chung sống như vợ chồng với người khác thì theo quy định của pháp luật chỉ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Theo quan điểm của tác giả, biện pháp xử lý như vậy là chưa đủ mà cần buộc họ phải chấm dứt hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Nhưng ở đây chúng ta phải xác định thế nào là “chung sống như vợ chồng trái pháp luật”, có nghĩa là cái “ngưỡng” để áp dụng chế tài là rất nhạy cảm. Theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 có quy định trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng được coi là có giá trị pháp lý, đó là khi họ đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình. Có quan điểm cho rằng có thể áp dụng tương tự những điều kiện trên đây để xác định hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Nếu vậy thì hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ phải là hành vi công khai? Trong thực tế khi họ vi phạm nghĩa vụ này thường họ lén lút, vụng trộm, rất ít trường hợp công khai. Do đó, có quan điểm lại cho rằng quan hệ đó có thể công khai hoặc bí mật nhưng phải kéo dài liên tục và gây ra hậu quả nhất định cho gia đình về mặt tinh thần và vật chất thì được coi là chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Từ đó, tuỳ theo mức độ vi phạm để áp dụng chế tài theo luật hôn nhân và gia đình, luật hành chính, luật hình sự. Theo quan điểm của tác giả, để có thể áp dụng được triệt để chế tài đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ thì chỉ cần xác định là có quan hệ ngoài hôn nhân có thể là công khai hoặc bí mật, có thể kéo dài hoặc trong một thời gian ngắn miễn là quan hệ đó có nguy cơ gây ra những hậu quả nhất định về vật chất, tinh thần cho gia đình. Ngoài ra, nếu một bên vi phạm nghĩa vụ chung thuỷ thì có thể coi đó là một lý do chính đáng để bên kia có quyền yều cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Nếu họ yêu cầu ly hôn thì trong một chừng mực có thể coi hành vi ngoại tình của phía bên kia là một tình tiết tăng nặng để khấu trừ một phần tài sản của họ theo một số phần trăm nhất định. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 24 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Tóm lại, thực hiện quyền và nghĩa vụ chung thuỷ là cơ sở để xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận và hạnh phúc. Do đó, các văn bản hướng dẫn cần quy định chi tiết về vấn đề này, xây dựng những cơ chế bảo vệ cần thiết cả về mặt xã hội và pháp lý nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. 2.1.2 Quyền sống chung giữa vợ chồng Nghĩa vụ sống chung giữa vợ và chồng được quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014. “Nghĩa vụ sống chung” là nghĩa vụ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, phát sinh trên cơ sở hôn nhân hợp pháp. Theo đó, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ tạo lập một cuộc sống chung, một nơi ở chung để xây dựng, bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình hạnh phúc, vững mạnh, tiến bộ. Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc theo đúng nghĩa 2.2 Quyền bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện các quan hệ gia đình 2.2.1 Quyền bình đẳng giữa người vợ với chồng trong mối quan hệ với con Một là, quyền được lựa chọn họ, tên cho con Quyền của người vợ trong việc lựa họ, tên cho con thực hiện thông qua thỏa thuận với chồng. theo đó, họ của con có thể theo họ mẹ, vấn đề này được quy định theo điểm e, khoản 1 mục II Thông tư số 01/2008 TT/BTP ngày 02 tháng 6 năm 2008 của Bộ tư pháp về hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định 158/2005 NĐ/CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Đây là điều kiện mở tạo điều kiện cho người vợ có vị trí ngang bằng với người chồng hạn chế ảnh hưởng của phong tục. Hai là, quyền được lựa chọn quốc tịch cho con. Quyền của người mẹ trong việc lựa chọn quốc tịch cho con được quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật quốc tịch năm 2008 quy định “trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 25 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Theo nguyên tắt huyết thống quốc tịch của người con sinh ra chịu sự chi phối của cha mẹ. vì vậy, việc lựa chọn quốc tịch cho con cũng chỉ đặt ra hai trường hợp, bố mẹ mang hai quốc tịch khác nhau. Về vấn đề này, để đảm bảo quyền của người vợ thì vợ chồng có thể thỏa thuận việc lựa chọn quốc tịch phù họp cho con. Quy định này tạo sự bình đẳng giữa vợ chồng trong việc quyết định những vấn đề về nhân thân đối với con cái. Ba là, quyền bình đẳng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con Quyền của người mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con được thể hiện trong các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 69 và và Khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình “Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”, “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”; sự bình đẳng của người vợ đối với người chồng thể hiện ở quyền được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con, đảm bảo cho con không phải sống trong sự ngược đãi, hành hạ hoặc bị xúc phạm. Quy định này nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của vợ và chồng thể hiện quyền yêu thương , chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, quan tâm, chăm sóc đến sự phát triển của con cái và thể chất, trí tuệ và đạo đức để con trở thành công dân có ích cho xã hội, đảm bảo cho con không phải sống trong ngược đãi, hành hạ hoặc bị xúc phạm. Theo đó, các biện pháp xử lý đưa ra có ý nghĩa bảo vệ quyền của người phụ nữ. Điều 13 Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 quy định về xử phạt hành chính trong Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 26 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình về hành vi ngăn cảng thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ giữa cha mẹ và con “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền chăm nom con theo quyết định của Tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau”. Bốn là, quyền bình đẳng trong việc đại diện cho con Quyền của người phụ nữ trong việc đại diện cho con được thể hiện trong các quy định tại Khoản 3 Điều 69 và Khoản 1, Khoản 2 Điều 73 của Luật. Theo đó, vợ cùng chồng là người đại diện của con, vợ và chồng có thể thỏa thuận một trong hai người là người đại diện cho con trong các giao dịch dân sự. 2.2.2 Quyền bình đẳng trong việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận và bảo vệ sự bình đẳng của người vợ trong việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình tại những quy định mang tính nguyên tắc của Luật. Theo đó, Pháp lệnh về dân số của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 09 tháng 01 năm 2003 quy định “bảo đảm việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số”. Quyền bình đẳng của người vợ đối với người chồng trong việc thực hiện chính sách dân số thể hiện ở việc: Người vợ có thể cùng người chồng quyết định việc sinh con hay không, số lần sinh con, thời gian sinh con, có quyền được lựa chọn các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, không chỉ áp dụng biện pháp tránh thai đối với người vợ mà còn cả đối với người chồng, để đảm bảo an toàn, sức khỏe cho người vợ. 2.2.3 Quyền đại diện của vợ Trong cuộc sống gia đình, để đảm bảo cho những nhu cầu của gia đình đòi hỏi vợ, chồng phải tham gia các giao dịch dân sự. Việc người vợ được phép đại diện cho Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 27 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam người chồng tham gia những giao dịch dân sự phát sinh trên cơ sở ủy quyền của người chồng. Bên cạnh đó, quyền đại diện của người vợ cũng được đặt ra khi người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quyền đại diện mang lại cho người vợ sự tự quyết, sự bình đẳng đối với người chồng trong các giao dịch dân sự cũng như tạo cơ chế đồng bộ trong việc bảo vệ quyền của người phụ nữ dưới góc độ bình đẳng giới. Theo các căn cứ xác lập quyền đại diện tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 24 và những quy định bổ sung về quyền đại diện giữa vợ và chồng tại Khoản 1 Điều 25 Luật HN&GĐ quy định và việc đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh: “Trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì người trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho bên kia trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.” Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật (theo quy định tại Khoản 1 Điều 26). Việc quy định người vợ có quyền đại diện cho người chồng xét ở góc độ giới, đó là sự đảm bảo bình đẳng về quyền và cơ hội cho người phụ nữ, tạo điều kiện đảm bảo thực hiện bình đẳng giới thực chất giữa vợ và chồng trên thực tế. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 28 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam 2.2.4 Quyền của người vợ trong việc thực hiện trách nhiệm liên đới của vợ, chồng Theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định . “Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”, trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng phát sinh khi một bên thực hiện các giao dịch đáp ứng nhu cầu cần thiết hoặc các giao dịch khác vì lợi ích chung của gia đình phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền của người phụ nữ trong việc thực hiện trách nhiệm liên đới được thể hiện ở việc khi người vợ thực hiện các giao dịch đáp ứng nhu cầu cần thiết hoặc các giao dịch khác vì lợi ích của gia đình, cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, chẳng hạn như nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra... được thừa nhận là phù hợp với quy định pháp luật, người chồng không thể tuyên bố các giao dịch này là vô hiệu. Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để thanh toán nghĩa vụ thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mỗi người. Quy định về trách nhiệm liên đới của vợ và chồng khắc phục được tình trạng thường xảy ra trên thực tế: Đó là sự thờ ơ, vô trách nhiệm của người chồng đối với công việc gia đình. trách nhiệm liên đới của vợ và chồng là một quy định rất quan trọng và cần thiết, nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa vợ và chồng với nhau, vừa đảm bảo cuộc sống gia đình vừa đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện. 2.2.5 Quyền được lựa chọn nơi cư trú Vợ chồng có quyền lựa chọn nơi cư trú, không bị ràng buộc bởi phong tục tập quán, địa giới hành chính. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 29 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Nơi cư trú của công dân là chổ ở hơp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Theo quy định tại Điều 20 Luật hôn nhân gia đình quy định: “Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính”. Như vậy chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận. Nếu vợ, chồng thống nhất được chỗ ở chung cho cả hai vợ chồng và gia đình, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đối với nhau, dễ dàng trong việc tạo lập kinh tế chung, xây dựng gia đình, đặc biệt thuận lợi cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu vì điều kiệ hoàn cảnh, yêu cầu công việc mà vợ, chồng không thống nhất được chỗ ở chung, các bên có quyền lựa chọn chỗ ở riêng cho mình, lúc này nghĩa vụ của vợ, chồng là phải tôn trọng quyền lựa chọn của nhau. Nếu xãy ra trường hợp mỗi bên vợ, chồng có chỗ ở riêng điều này không làm ảnh hưởng đến chế độ tài sản cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của họ đối với nhau và đối với con của mình. Quyền lựa chọn nơi cư trú của người phụ nữ là một nội dung trong quyền nhân thân của người phụ nữ trong quan hệ giữa vợ và chồng và sự ghi nhận bằng pháp luật quyền bình đẳng của người vợ trong việc lựa chọn nơi cư trú là cơ sở pháp lý quan trọng giúp người phụ nữ thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, phong tục, tập quán lạc hậu, giúp họ có được sự “độc lập” trong gia đình. 2.2.6 Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội Hiến pháp Việt Nam quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quyền lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vợ chồng cũng là công dân của xã hội, do đó, họ cũng có các quyền và nghĩa vụ trên. Tùy theo điều kiện, hoàn cảnh, trình độ, năng lực mà vợ, chồng quyết định trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của mình và lợi ích của gia đình. Điều 23 Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau: “Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”, Hiện nay, mặc dù người vợ đã được giải thoát rất nhiều đối với các công việc Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 30 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam trong gia đình, được tham gia các công việc xã hội ở trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiều người đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, nhưng trong nhiều gia đình vẫn còn tồn tại không ít tư tưởng lạc hậu, như hạn ché việc lựa chọn công việc, nghề nghiệp, tha, gia các hoạt đọng xã hội của người vợ, xem việc chăm sóc con cái, nội trợ, chăm lo gia đình là việc riêng của người vợ, mặc nhiên người vợ phải làm. Nhiều gia đình việc chăm sóc con cái, nội trợ, chăm lo gia đình đè nặng lên vai người vợ. Đảm bảo sự bình đẳng của người vợ trong việc lựa chọn nghề nghiệp, học tập và tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội chính là tạo điều kiện để người vợ tham gia vào đời sống xã hội, tạo cho người vợ vị thế bình đẳng, ngang quyền với người chồng trong đời sống gia đình và xã hội cũng như là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của người vợ, góp phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ. 2.2.7 Quyền được tự do lựa chọn tính ngưỡng, tôn giáo Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, cộng đồng, thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tính ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức, xã hội. Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin thneo một hệ thống giáo lý, giáo phật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định, được Nhà nước công nhận. Hoạt động tôn giáo là hình thức truyền bá, thực hành giáo lý, quản lý, giáo phật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hiệp quốc, Điều 18 khẳng định: “ mọi người điều có quyền tự do tư tưởng, nhận thức, tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình,với tư cách cá nhân hay tập thể, ở công cộng hay chốn riêng bằng sự truyền dạy, thực hành thờ phụng và áp dụng các nghi thức đạo giáo. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do, tôn giáo theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 22 của Luật quy định về quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo như sau: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau” Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 31 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người phụ nữ xuất phát từ nhóm quyền cơ bản của công dân, được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Đây cũng là một nội dung về giải phóng phụ nữ và đảm bảo về bình đẳng giới. 2.2.8 Quyền của người vợ trong việc ly hôn Trong quan hệ hôn nhân gia đình không chỉ có sự kiện kết hôn mà còn có sự kiện ly hôn. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. theo quan điểm chủ nghĩa, ly hôn là một mặt của hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bihf thường nhưng là mặt không thể thiếu của hôn nhân gia đình. Ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp đã nãy sinh từ rất sớm từ xã hội có giai cấp. trong những năm gần đây tình trạng ly hôn ở nước ta và các nước trên thế giới gia tăng đáng kể với những nguyên nhân, lý do ly hôn cũng rất phức tạp, vấn đề giải quyết ly hôn cũng rất phức tạp, ảnh hưởng đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình. Từ xưa đến nay, quyền của phụ nữ trong việc ly hôn ít nhiều đã được bảo vệ. trong Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ) quy định phụ nữ có quyền được xin ly hôn trong những trường hợp người chồng không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như không quan tâm, bỏ bê vợ trong một thời gian dài; hoặc người chồng vượt quá quyền của mình, vô phép với cha mẹ vợ thì không chỉ là bất hiếu mà còn bất nghĩa với vợ, người vợ có quyền xin ly hôn; “nếu con rễ lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha, mẹ vợ thì sẽ cho ly dị…” (Điều 333 BLHĐ). Trong một số trường họp cụ thể quyền của người phụ nữ cũng được bảo vệ như: khi đã đính hôn người con trai chẳng mai bị ác tật, phạm tội hoặc phá sản thì người con gáo có quyền khướt từ trả lại đồ sính lễ, người con trai không có quyền đòi lại của. người vợ có quyền hưởng tài sản sau khi ly hôn, đó là các trường họp: ly hôn không do lỗi của người vợ và hai vợ, chồng không có con thì vợ, chồng mỗi người có quyền sở hữu số tài sản, ruộng đất riêng của mình có trước thời kỳ hôn nhân và 1/2 số tài sản ruộng đất do cả hai vợ, chồng tạo nên trong thời kỳ hôn nhân. Khi người chồng chết, người vợ được xếp vào hang thừa kế thứ nhất và có quyền giữ nguyên quyền sở hữu cá nhân đối với quyền sở hữu riêng của mình và 1/2 tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 32 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Hiện nay việc bảo vệ quyền của người vợ trong ly hôn được thể hiện ở những nội dụng sau: Một là quyền được yêu cầu ly hôn Điều 51 quy định về quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Theo đó, quyền của người vợ trong việc yêu cầu ly hôn được thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai trường hợp: Thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 và ly hôn do một bên vợ yêu cầu tại Điều 56 của Luật HN&GĐ năm 2014. Thứ hai, quy định về trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác trong gia đình có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Đây là quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và có ý nghĩa thiết thực trong bảo vệ quyền của người phụ nữ, trong trường hợp khi người vợ là nạn nhân của bạo lực gia đình do người chồng gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần cho người vợ thì cha mẹ, người thân thích của người vợ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Thứ ba, quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Trong trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Mục đích của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc tạo điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Tuy nhiên, khi quan hệ vợ chồng đã trở nên phức tạp và chỉ làm cho người vợ thêm đau khổ thì người vợ có yêu cầu xin ly hôn thì Tòa án vẫn thụ lý đơn yêu cầu xin ly hôn của người vợ và giải quyết ly hôn theo quy định chung. Hai là, quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn Được quy định tại Khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014. Đây là quy định thể hiện quyền ưu tiên nuôi con về phía người mẹ trong trường hợp ly hôn đảm bảo thiên chức làm mẹ của người phụ nữ. Ba là, quyền của người mẹ trong việc thăm nom con sau khi ly hôn Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 33 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Được quy định tại Khoản 3 Điều 82 của Luật HN&GĐ . Quy định này không những tạo cho người phụ nữ được thực hiện quyền của mình mà còn đảm bảo cho người con được hưởng sự quan tâm, chăm sóc của mẹ cho sự tăng trưởng và phát triển của con cái. Luật HN&GĐ năm 2014 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Đặc biệt, các quy định về nhân thân của vợ chồng trong Luật về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay và quan trọng hơn là đã tạo cho người phụ nữ có những cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ nhân thân với người chồng, đấu tranh chống lại những hành vi xâm phạm đến quyền lợi của mình. Mặc dù thực tế vẫn còn tồn tại một số vướng mắc từ cơ chế pháp lý cũng như quan niệm xã hội nhưng người phụ nữ cần hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình và đóng góp to lớn cho việc xây dựng, phát triển, gìn giữ tổ ấm của mình, đóng góp lợi ích vật chất to lớn cho xã hội. 2.3 Những thành tựu đạt được Ở khu vực Á Đông, hiếm có dân tộc nào phụ nữ lại đóng vai trò quan trọng trong xã hội như ở Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ những buổi đầu lập nước, khi gặp nạn ngoại bang xâm lược, bà Trưng bà Triệu đã dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Thế kỷ 20, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lịch sử lại ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ, các chị, các mẹ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, lao động, hy sinh, cống hiến không chỉ cuộc đời mình mà cả con em cho độc lập tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không chỉ chiến đấu anh hùng mà đã lao động cần cù, gian khó để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn. Đảng, Bác Hồ phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ kháng Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 34 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam chiến và “Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng” trong thời kỳ đổi mới đất nước không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam. Với truyền thống đó, phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà” tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại nhân dân… Có thể nói, vai trò của phụ nữ Việt Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóng góp quan trọng trong thành tựu của cách mạng Việt Nam. Trong xu thế hội nhập và phát triển...Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Vai trò này đang được khẳng định một cách rõ nét hơn bao giờ hết. Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trí hết sức quan trọng của người phụ nữ trong gia đình. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình. Là người vợ hiền, họ luôn hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ những ngọt bùi cũng như những đắng cay cùng chồng, khiến người chồng luôn cảm thấy yên tâm trong cuộc sống, từ đó họ có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Không chỉ chăm sóc giúp đỡ chồng trong gia đình, người vợ còn đưa ra những lời khuyên thiết thực giúp chồng trong công việc, đóng góp vào thành công trong sự nghiệp của chồng. Là những người mẹ hết lòng vì con cái, họ thực sự là những tấm gương cho con cái noi theo. Người mẹ ngày nay còn là một người bạn lớn luôn ở bên con để hướng dẫn, động viên kịp thời. Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể tìm thấy ở những người phụ nữ, người vợ, người mẹ sự yên tĩnh trong tâm hồn và sự cân bằng bình yên trong cuộc sống. Chính họ đã tiếp sức cho chúng ta vượt qua những khó khăn để sống một cuộc sống hữu ích. Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình, người phụ nữ còn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều người trở thành chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động… Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặc của người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ. Theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh hành Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 35 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về phụ nữ tại Bắc Kinh, vai trò, vị trí của phụ nữ Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt. Hiện nay, phụ nữ Việt Nam góp một phần rất lớn vào quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Chỉ cần điểm qua một vài con số: Hiện có tới 33,1% đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) - cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%. Hơn 90% phụ nữ biết đọc, biết viết. Tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%. Ngay trong giới báo chí, tỷ lệ các nhà báo nữ cũng ước tính tới gần 30%. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kinh tế. Nếu tính tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới. Có tới 71% phụ nữ từ 13 tuổi trở lên là những người có thu nhập. Số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ đã giảm từ 37% năm 1998 xuống còn 8% năm 2004.... Đây là những con số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển. Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành báo cáo về tình hình thực hiện Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt, hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở 45 bộ, ngành và toàn bộ 64 tỉnh, thành phố. Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động hiệu quả, hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường, Luật Bình đẳng giới chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. Trong bài phát biểu tại buổi toạ đàm “Vai trò của Phụ Nữ Việt Nam Trong Thế Kỷ XXI” do Quỹ Phát triển Phụ Nữ Liên Hợp Quốc UNIFEM và Hội phụ nữ Việt Nam tổ chức dưới sự hỗ trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Chủ tịch Hội phụ Nữ Việt Nam Hà Thị Khiết đã tôn vinh người phụ nữ Việt Nam: “Trong thành Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 36 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam tựu chung của đất nước, có sự đóng góp tích cực của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Là một lực lượng lao động xã hội đông đảo, phụ nữ Việt Nam đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội nhập và phát triển theo xu thế chung của nhân loại” Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò, vị trí của mình đối với sự phát triển của xã hội. Khi nền kinh tế của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng có nhiều cơ hội hơn. Nó phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia đình. Nó có thể giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động khác. Đồng thời nó còn tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trên thị trường lao động… Chính nhờ Đảng có sự lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước mà vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là những bước khởi đầu thuận lợi. Hiện thời chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục trong vấn đề bình đẳng giới, nhất là về mặt tư tưởng, quan điểm của con người trong xã hội, kể cả nam giới và nữ giới. Không chỉ có nam giới chưa nhận thức hoặc có thái độ không chấp nhận vai trò, vị trí của phụ nữ mà ngay chính bản thân nhiều phụ nữ cũng hiểu biết mơ hồ từ đó có những thái độ lệch lạc và không thể có cách giải quyết đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống có liên quan đến vai trò, vị trí về giới của mình. Khi ở vào thời kỳ mới, để khẳng định và phát huy vai trò của mình, phụ nữ Việt Nam có nhiều mặt thuận lợi do sự phát triển kinh tế mang lại, nhưng đồng thời với nó là những thử thách họ cần phải vượt qua. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 37 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2013 (MDG 2013), mục tiêu bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là một trong 3 mục tiêu thiên niên kỷ đã được hoàn thành trước thời hạn năm 2015. Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Việt Nam cũng ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 20112020 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam về việc thực hiện quyền con người theo cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ cập của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên cho thấy, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao. Điều này đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xóa bỏ bạo lực giới và bạo lực gia đình; khoảng cách về việc làm, thu nhập, địa vị xã hội… Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 38 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy. Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). 2.4 Một số khó khăn vướng mắc trong việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2.4.1 Tình trạng phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình vẫn còn tồn tại. Tất cả những phụ nữ cho biết đã trải qua bạo lực thể chất và tình dục thì đồng thời cũng chịu bạo lực tinh thần. Nếu kết hợp dữ liệu của cả 3 hình thức bạo lực cho thấy 58% phụ nữ đã từng trải qua cả bạo lực thể chất, tình dục và tinh thần. 27% phụ nữ cho biết đã chịu ít nhất một trong 3 hình thức bạo lực này trong 12 tháng qua. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật một thực trạng là đa số phụ nữ Việt Nam đều có nguy cơ tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào đó trong cuộc sống của họ. Tại một số vùng ở Việt Nam đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cứ 10 phụ nữ thì có 4 người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Mặc dù bạo lực gia đình là một hiện tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị giấu giếm nhiều. Sự kỳ thị và sự xấu hổ khiến phụ nữ phải giữ im lặng, nhiều phụ nữ còn nghĩ rằng bạo lực trong quan hệ vợ chồng là điều “bình thường” và người phụ nữ cần bao dung, nhẫn nhịn chịu đựng để gìn giữ sự êm ấm cho gia đình. Rõ ràng là bạo lực gia đình đã gây nên những hậu Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 39 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam quả nghiêm trọng đối với sức khỏe, thể chất và tinh thần của người phụ nữ. Ở Việt Nam, cứ bốn phụ nữ từng bị chồng bạo hành thể chất hoặc tình dục thì có một người cho biết họ phải chịu đựng những vết thương trên cơ thể và hơn một nửa trong số này cho biết họ đã bị thương tích nhiều lần. So với những phụ nữ chưa từng bị bạo hành thì những người đã từng bị chồng bạo hành có nhiều khả năng bị bệnh tật và sức khỏe kém hơn gần hai lần và khả năng nghĩ đến việc tự tử nhiều hơn gấp ba lần. Phụ nữ có thai cũng là đối tượng có nguy cơ bị bạo hành. Theo báo cáo nghiên cứu, khoảng 5% phụ nữ từng có thai cho biết họ đã bị đánh đập trong thời gian mang thai. Trong hầu hết các trường hợp này, họ đã bị chính người cha của đứa trẻ mình đang mang trong bụng lạm dụng. Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra phổ biến đối với phụ nữ mà trẻ em cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ bốn phụ nữ có con dưới 15 tuổi thì có một người cho biết con của họ đã từng bị chồng họ bạo hành thể xác. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng bạo lực gia đình là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với cuộc sống của trẻ em. Báo cáo nghiên cứu cho biết trẻ em sống trong những gia đình mà mẹ bị cha bạo hành sẽ có nhiều khả năng có các vấn đề về hành vi hơn so với những trẻ em khác. Nghiên cứu khẳng định bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam là một trong các vấn đề xã hội cấp bách cần được quan tâm, tập trung giải quyết, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng bạo lực đối với phụ nữ là do sự bất bình đẳng về giới và nhận thức sai lệch, chưa đúng đắn về bình đẳng giới. Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với gia đình, xã hội và nền kinh tế quốc dân. Việc xóa bỏ bạo lực gia đình không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội Nông dân Việt Nam. Thực tế các chương trình can thiệp hiện nay tại Việt Nam trong thời gian qua chưa quan tâm đến vai trò và sự tham gia của nam giới trong việc xóa bỏ bạo lực gia đình. Trong khi đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, vì họ chủ yếu là người gây ra bạo lực gia đình và bạo lực với phụ nữ. Nam giới là nguyên nhân chủ yếu của bạo lực gia đình thì họ phải là một phần quan trọng của giải pháp. Nếu nam giới không vào cuộc, không được nâng cao nhận thức, thay đổi Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 40 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam hành vi thì vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và thách thức lớn. 2.4.2 Tình trạng người vợ sinh con thứ ba trái ý muốn Thứ nhất do ảnh hưởng của yếu tố văn hóa. ở Việt Nam đa số các gia đình đều theo chế độ phụ hệ. Mọi người đều cho rằng con trai rất quan trọng đối với gia đình với quan niệm con trai sẽ là người nối dõi và có nhiệm vụ thờ cúng tổ tiên. Người con trai là sự tiếp nối các cá nhân của thế hệ trước và thế hệ sau để tạo thành một cộng đồng đông đúc của gia đình, dòng họ. Để làm tròn bổn phận này thì người đàn ông phải có con trai, do quan niệm con gái “xuất giá tòng phu”, sau khi lấy chồng phải đi theo nhà chồng. Thứ hai do yếu tố kinh tế, xã hội. Theo mô hình sinh sống bên nội, hầu hết cha mẹ trông đợi rằng khi họ về già sẽ phụ thuộc vào sự giúp đở và chăm sóc của người khác, chính là con dâu và con trai là những người chăm sóc họ. Trách nhiệm của người con trai và con dâu thể hiện không chỉ ở việc hỗ trợ kinh tế cha cha mẹ khi họ mất sức lao động mà còn ở việc chăm sóc và trả các chi phi chăm sóc sức khỏe khi cha mẹ già và ốm yếu. Vì con gái khi kết hôn phải sống bên gia đình nhà chồng nên gia đình ưa chuộng phải sinh ít nhất một người con trai để có thể ở bên cha mẹ, chăm sóc phụng dưỡng. Chế độ phụ hệ thường đi liền với chế độ thừa kế tiếp theo kiểu phụ hệ, có nghĩa là không chỉ họ tên và trách nhiệm đối với tổ tiên mà đất đai, tài sản cũng được truyền từ cha sang con trai. Thường người con trai của anh hoặc em chồng sẻ trở thành người thừa kế , thừa hưởng tài sản của cặp vợ chồng, bao gồm cả đất đai, và có trách nhiệm cúng giỗ khi họ qua đời. Có những người phụ nữ khi gia đình không có con trai và tất cả tài sản của cha mẹ bà phải để lại cho người em trai họ khi họ qua đời. Trong khi bản thân bà và các chị em gái không nhận được bất cứ thứ gì. Đây là một điều rất bất công với họ. Tuy nhiên, việc thừa kế này diễn ra không còn nhiều vì tiến bộ trong quan niệm của các gia đình. Do muốn để lại cho con cái với quyền sở hữu là tài sản riêng. Thứ ba, do áp lực gia đình và chuẩn mực cộng đồng.mọi người thích có con trai không chỉ vì “giá trị” của bản thân người con trai mà còn vì việc có con trai sẽ cũng cố vị trí của người phụ nữ trong gia đình và khẳng định vị trí cuả người đàn ông Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 41 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam trong cộng đồng. Tâm lý ưa thích sinh con trai không chỉ là vấn đề duy trì nòi giống của gia đình mà còn là vấn đề áp lực, uy tín và sự thừa nhận về đạo đức. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 42 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Bảng 1. Nhận thức lí do phải sinh con trai tại Trà Vinh Nhận thức lí do phải sinh con trai tại Trà Vinh Đặt điểm Có ít nhất một con trai Nối dõi 70,3 Chăm sóc tuổi già 51,3 Thực hiện các nghi lễ tôn giáo 16,9 Chăm sóc cha mẹ khhi ốm, đau 29,7 Vị trí xã hội 5,6 Bảo vệ tài sản gia đình 7,3 Gánh vác công việc 22,4 Mang lại sự phồn thịnh cho gia đình 5,2 Chia sẽ tình cảm 28,1 2.4.3 Quyền quyết định về kinh tế của phụ nữ Trên thực tế nhiều nghiên cứu cho thấy tại các vùng nông thôn trên cả nước, ở các thời điểm khác nhau điều chỉ ra rằng trong các công việc đã có sự bàn bạc giữa hai vợ chồng. Nhưng việc quyết định chính vẫn do người chồng và định kiến giới chính là ảnh hưởng tới việc quyết định trong gia đình. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng mô hình về quyền quyết định trong gia đình hiện nay đó là người đàn ông vẫn có quyền quyết định nhiều hơn người vợ. Mặc dù trong gia đình người vợ là người đảm nhận hầu hết các công việc. Thậm chí họ còn là người mang lại thu nhập chính cho gia đình, nhưng phần lớn quyền quyết định chính thuộc về người chồng, người vợ chỉ là người thực thi các quyết định đó. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 43 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Thu nhập là một trong nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong gia đình đặc biệt là đpối với người phụ nữ trong nông thôn, một số lý thuyết như Kinh tế học, lý thuyết giai cấp và địa vị đã khẳng định thu nhập là cơ sở của quyền lực, cũng là cơ chế ra quyết định trong gia đình. Các nghiên cứu có chung nhận định rằng trong nông thôn người vợ thường đảm nhiệm hầu hết các công việc nhưng thu nhập bằng tiền ít hơn người chồng nên người chồng thường có quyền quyết định đối với các công việc chính Tác giả Hoàng Bá Thịnh trong cuốn vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn đã dẫn chứng về phân công lao động nội trợ trong gia đình. Ở Việt Nam cho thấy người vợ làm 4,6 trong 6 công việc nội trợ, điều này phản ánh thực tế rằng công việc nội trợ là trách nhiệm chủ yếu của người vợ. Nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân về vấn đề phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường cho thấy đóng góp về thu nhập của người phụ nữ luôn thấp hơn người chồng. Xuất phát điểm thu nhập thấp hơn người chồng nên người phụ nữ trong nông thôn thường ít có quyền quyết định trong các công việc quan trọng của gia đình. Vì vậy, các tác giả cũng nhấn mạnh rằng trong thu nhập cuả người vợ cần tính đến cả thu nhập dưới dạng đóng góp công sức cho việc nội trợ và chăm sóc cho các thành viên trong gia đình. Theo nghiên cứu của thạc sĩ Nguyễn Thanh Thụy, Hội Liên hiệp Phụ nữ bình Định thực hiện trong năm 2002-2003; “Là những vấn đề rất quen thuộc trong mỗi gia đình nhưng có những khía cạnh gây bất ngờ, thú vị cho các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo”. Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong tổ chức cuộc sống gia đình, theo nghiên cứu là do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến gia trưởng cùng sự biến đổi chậm chạp của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới bám rễ lâu đời trong một số tầng lớp nhân dân, do việc xem trọng gia đình của người phụ nữ và hầu như nam giới chưa thay đổi quan niệm trụ cột của mình với gia đình. Chính họ đã đặt cho mình trọng trách lớn, phụ nữ còn tự ti luôn nghĩ mình là người hỗ trợ cho vai trò trụ cột của chồng. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 44 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM 3.1 Quan điểm cơ bản về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình đã được Đảng và nhà nước quán triệt trong Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng và trong các Bộ luật liên quan, với các nội dung hướng tới nâng cao vị thế, quyền và năng lực của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới trong Hôn nhân gia đình. Việt Nam đã gia nhập công ước CEDAW, đây là nhân tố quan trọng để thực hiện và bảo vệ quyền của phụ nữ trong gia đình. Trong những năm qua, trước những biến đổi nhanh chống về kinh tế - xã hội, vai trò của người phụ nữ cũng có những thay đổi tích cực. Gia đình Việt Nam đang tiếp thu và xây dựng những giá trị nhân văn mới mà tiêu biểu là quyền bình đẳng giới. Trách nhiệm giữa nam và nữ trong việc chăm lo đời sống gia đình như sản xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống và tham gia các hoạt động chính trị, xã hội ngày càng cao. Bên cạch những thay đổi tích cực nói trên, quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình cũng có những hạn chế, kho khăn, thách thức do tác động của biến đổi xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường và quan niệm truyền thống từ ngàn xưa. Tỷ lệ ly hôn, ly thân cao. Bạo lực gia đình gia tăng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ly hôn, tan vỡ gia đình. Phụ nữ chưa có cơ hội tham gia các hoạt động xã hội do không được chia sẽ công việc nhà. Quyền sở hữu đất và các tài sản có giá trị phần lớn không được thuộc về người phụ nữ. Sự ưa chuộng sinh con trai vẫn còn diễn ra phổ biế, ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của người phụ nữ. Nhận thức rõ tính cấp bách của việc phải nâng cao và đảm bảo bình đẳng giới trong hôn nhân và gia đình, để phát huy những yếu tố tích cực và chủ ddooongj tránh những ảnh hưởng đén quyền bình đẳng của người phụ nữ. Đòi hỏi phải có những biện pháp và giải pháp cụ thể. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 45 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Một là, đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình là đảm bảo quyền con người, là mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững góp phần giúp đát nước phát triển. Hai là, kế thừa phát huy những giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những giá trị mới của gia đình trong xã hội phát triển, khuyến khích nam giới tham gia giúp đỡ phụ nữ trong công việc gia đình và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền năng của mình. Ba là, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước, sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, cộng đồng và trách nhiệm của nam giới, nữ giới là yếu tố quyết định đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân gia đình. Bốn là, tuyên truyền, giáo dục, vận động, xây dựng thực hiện chính sách đồng bộ nhằm nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong xúc tiến tăng vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân gia đình. 3.2 Giải pháp đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân gia đình 3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân gia đình. Thứ nhất, hoàn thiện quyền bình đẳng của người phụ nữ trong Luật Hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật quốc tế. Quan điểm của Đảng và Nhà nước cho thấy, trong xu thế toàn cầu hóa, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo cho pháp luật tương đồng với pháp luật quốc tế. Bởi nhu cầu giao lưu quốc tế của các tầng lớp phụ nữ ngày càng lớn hơn; do đó, việc xuất hiện ngày càng nhiều tổ chức đấu tranh cho bình đẳng giới, hoặc việc ghia nhập các tổ chức quốc tế toàn cầu là điều hoàn toàn có thể biết trước và dự trù trước những hoàn cảnh, điều kiện cần thiết để phụ nữ Việt Nam đủ khả năng tham gia vì mục tiêu bình đẳng giới thực sự. Nhu cầu tham gia các tổ chức quốc tế, các công ước Quốc tế mang tính toàn cầu, khi đó sẽ kéo theo nhu cầu hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới để đáp ứng những thay đổi nhanh chóng của khu vực và quốc tế nói chung và của quốc gia nói riêng trong bối cảnh hội nhập và mở cửa. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 46 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam Để hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giớ phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan trước hết các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến nội dung các Công ước đã phê chuẩn nhằm đối chiếu, bổ sung, sửa đổi những quy định không phù hợp với Việt Nam; Tăng cường hợp tác , giao lưu quốc tế về nghiên cứu pháp luật thông qua việc thường xuyên tổ chức các hội thảo khu vực và quốc tế nhằm tìm hiểu nội dung các công ướccủa Liên Hiệp quốc liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc bảo đảm các quyền của phụ nữ, kể cả các Công ước các quốc gia tham dự hội thảo chưa tham gia, ký kết, phê chuẩn. Các hội thảo này sẽ là diễn đàn thích hợp giúp các quốc gia tham dự có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, áp dụng các Công ước này trong điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, một mặt chỉ ra những điểm cần bổ sung cho Công ước để phù hợp với thực tiễn đời sống quốc tế mặt khác rút ra những bài học trong công tác nội luật hóa và thực hiện có hiệu quả các Công ước đó trong hoàn cảnh thực tiễn quốc gia mình. Hoàn thiện cơ bản về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình Các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình xóa bỏ bạo lực với phụ nữ trong hôn nhân gia đình: Tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của Đảng, Chính quyền và sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc xây dựng luật và tuyên truyền cho nhân dân về các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước và các vấn đề có liên quan đến gia đình, phòng chống bạo lực gia đình đặc biệt là các vấn đề đến bình đẳng giới. Huy động sức mạnh trong dư luận xã hội, định hướng dư luận trong phòng chống bạo lực gia đình. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền thông tin các phương tiện thông tin đại chúng; hình ảnh cổ động trực quan về gia đình, bình đẳng giới và bạo lực gia đình; thông các các buổi sinh hoạt của các tổ chức chính trị, cơ quan đơn vị, trường học,.. các Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, Nghị định số: 167/2013/NĐ-CP, ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy; Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 47 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam phòng, chống bạo lực gia đình, … nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình và bạo lực gia đình, tự bảo vệ, nâng cao địa vị, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Trong quan hệ giữa vợ chồng cần phải quy định trách nhiệm của người vợ, người chồng khi có hành vi vi phạm các quyền , nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình Sửa đổi bổ sung quy định về đại diện giữa vợ và chồng cho phù hợp với thực tiễn, hạn chế các nguy cơ vô hiệu của giao dịch. 3.2.2 Tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. Để giữ vững những thành công đạt được khi triển khai quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình, đồng thời khắc phucj những hạn chế và thách thức về giới trong lĩnh vực trên nhằm đảm bảo cho phụ nữ có cơ hội đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng xã hội giàu mạnh, làm tròn trách nhiệm với gia đình, đòi hỏi vai trò quản lý của nhà nước đối với vấn đề bình đẳng nam nữ trong hôn nhân gia đình ngày càng lớn và sâu sắc. Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp xác định bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình là một nội dung quan trọng trong mục tiêu chiến lược phát triển bình đẳng giới. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và huy động cộng đồng tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, phát triển sản xuất, chồng giúp đỡ vợ, vợ chồng cùng giáo dục, nuôi dưỡng con cái, phòng chống bạo lực gia đình, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống, tích cực xóa đói giảm nghèo. Vận động và hướng dẫn toàn dân phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình; vai trò của họ hàng, dòng tộc để duy trì sự ổn định, đoàn kết và êm ấm trong đời sống gia đình; làm tốt công tác hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình. Nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội thông qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 48 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam phụ nữ hoặc xây dựng các câu lạc bộ và các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em. Ngăn chặn kịp thời và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình; xử lý nghiêm các vụ vi phạm về bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới. Đẩy mạnh việc thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh; Đưa tiêu chí không có bạo lực gia đình là một tiêu chí quan trọng để xem xét việc công nhận gia đình văn hoá. Tích cực tuyên truyền và vận động nhân dân từ 16 tuổi trở lên thực hiện các tiêu chí "Người tốt, việc tốt", duy trì có chất lượng phong trào "Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan"; Có giải pháp xây dựng "Xã, phường phù hợp với trẻ em". Phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em cùng với cuộc vận động "Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan"; Xây dựng trường học thân thiện Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực để phòng tránh bạo lực gia đình. Yêu cầu này đòi hỏi vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng tham gia trong tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng quy ước ở khu dân cư đưa nội dung đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới vào để thực hiện nhằm hạn chế mâu thuẫn có thể bùng nổ thành xung đột, xây dựng hình ảnh gia đình: no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh và phát triển bền vững. Thứ hai, quy định rõ về quản lý nhà nước về bình đẳng nam nữ trong hôn nhân gia đình. Cần quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới nói chung và bình đẳng trong hôn nhân gia đình nói riêng của Bộ lao động , thương binh và xã hội nhằm tránh tình trạng các nội dung quản lý nhà nước chỉ được thực hiện dưới hình thức lồng ghép theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành của Bộ. Quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ, ngành và cac stoor chức chính trị, xã hội trong việc thực hiện đảm bảo bình đẳng trong hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên. Thứ ba, quy định nội dung quản lý nhà nước về quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân gia đình. Xây dựng chương trình, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn về quyền Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 49 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. Xây dựng cơ chế , chính sách cho việc thực hiện chính sách cho việc thục hiện quản lý nhà nước về bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình. Chính sách này cần xác định rõ việc nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách nhà nước và có mục tiêu bình đẳng giới trong hôn nhân gia đình. Thứ tư nâng cao tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Lồng ghép quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân gia đình trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để tạo môi trường pháp lý quyền này được thi hành trên thực tế một cách hiệu quả, bảo đảm sự tham gia, đóng góp và hưỡng lợi của phụ nữ theo hướng có lợi nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình. 3.2.3 Giải pháp kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ Để thực hiện chương trình Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ trước hết phải đảm bảo, chăm lo, nâng cao đời sống, vật chất tinh thần cho người dân, mà trước tiên là phát triển kinh tế. Thứ nhất, xây dựng chính sách phát triển kinh tế, trong đó có tính tới yếu tố giới. Các chính sách kinh tế truyền thống thường không quan tâm dến vấn đề giới vì các khuôn khổ này không nhận ra hoặc xem xét vai trò và tình hình kinh tế khác nhau giữa nam giới và nữ giới. trong khi đây mới là vấn đề đặc biệt khác biệt giữa các gia đình. Cần nhận thức ra rằng hầu hết những đóng góp của phụ nữ vào nền kinh tế, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Một khi phụ nữ có tham gia vào nền công nghiệp sản xuất, họ sẽ tăng được thu nhập, cải thiện cuộc sống và có tiếng nói hơn trong gia đình. Vai trò và vị thế của người phụ nữ cũng từ đó được cải thiện. Sự phụ thuộc vào kinh tế của người phụ nữ vào đàn ông đang giảm dần, phụ nữ độc lập hơn về kinh tế và có thể quyết định nhiều hơn các vấn đề trong gia đình 3.2.4 Xúc tiến sự tham ghia của nam giới trong các công việc nhà và việc chăm sóc gia đình không trả lương. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhằm giảm gánh nặng thời gian đối với phụ nữ và các bé gái sẽ hỗ trợ cho họ tham gia vào các hoạt động giáo dục, sinh sản và các hoạt động giáo dục. Điều này chỉ dẫn đến bình đẳng giới trừ khi việc chăm sóc gia đình và làm Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 50 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam việc nhà đươc trả công của họ được giảm xuống và chuyển bớt cho nam giới. Tại Việt Nam, phụ nữ bao gồm phụ nữ đi làm cũng vẫn phải làm hầu hết những công việc nhà và chăm sóc trong gia đình mà không được trả công. Điều này làm giảm khả năng phụ nữ tham gia các hoạt động văn hóa xã hội và phát huy quyền năng của mình. Vì vậy cần phải có các biện pháp nhằm giảm thiểu thời gian làm việc gia đìnhcủa phụ nữ: Một là, khuyến khích nơi làm việc và người sử dụng lao động đối xử bình đẳng với cán bộ nam và nữ trong việc có quy định ngày nghỉ, đặc biệt cho những người cần phải chăm sóc khi con bệnh hoặc tàn tật hoặc phải chăm sóc những người thân trong gia đình; Hai là, khuyến khích nơi làm việc và người sử dụng lao động hỗ trợ việc chia sẽ việc làm và việc làm bán thời gian cho cả nam và nữ nhằm đảm bảo chia sẽ một cách bình đẳng hơn những trách nhiệm đối với gia đình; Ba là, xúc tiến các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng mặt trời và năng lượng gió tại các vùng sâu, vùng xa những nơi dân tộc thiểu số nơi nguồn điện cung cấp chưa tiếp cận tới được; 3.2.5 Tăng khả năng tiếp cận và kiểm soát đối với đất đai, tài sản và nguồn lực sản xuất cho phụ nữ. Đảm bảo quyền đối với đất đai cho phụ nữ không chỉ là đảm bảo cho họ có một mái nhà mà còn phải cung cấp cho họ và gia đình họ những sinh kế và những an sinh xã hội. Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam ít được sở hữu đất đai, nhà cửa hoặc các tài sản sinh lợi khác so với nam giới. Bất bình đẳng trong việc sở hữu và tiếp cân tài sản xuất phát từ các hệ thống liên quan đến pháp luật, đăng ký nhà cửa và đất đai theo tên của chủ hộ lại thường là nam giới và thông lệ thừa kế tài sản thường ưu tiên cho nam giới. Do vậy, cần tăng tỷ lệ phuj nữ đứng tên chủ hộ, khẳng định quyền của phụ nữ trong hia đình. Khi phụ nữ có tiếng nói nhất định về kinh tế thì vị thế của họ trong gia đình cũng như khả năng tiếp cận và kiểm soát nguồn lực sẻ đucọ cải thiện đáng kể. Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ cho phụ nữ vấn đề này; gia đình và người chồng cần có đóng góp công sức tạo điều kiện cho phụ nữ được làm chủ hộ. đảm bảo vấn đề tăng quyền năng kinh tế của người phụ nữ. Song, phải có những Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 51 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam chiến lược nhằm hỗ trợ phụ nữ có các quyền đối với đất đai và tài sản thông qua các hoạt động ; Một là, loại bỏ những trở ngại về pháp lý trong thừa kế bình đẳng hoặc sở hữu của phụ nữ; Hai là, tạo lập các nhóm do Hội phụ nữ thành lập có tác động đến quyền của phụ nữ. Tìm kiếm phương pháp tiếp cận sáng tạo đối với đồng sở hữu tài sản và tiếp cận đối với đât đai và tài sản. xác định và thực hiện các phương pháp phù hợp nhất đối với từng trường họp cụ thể và các nhóm phụ nữ, đặt biệt là phụ nữ nghèo và những người thuộc dân tộc thiểu số; Ba là, xúc tiến các chương trình của chính phủ nhằm hỗ trợ các phụ nữ nghèo để họ có quyền theo nhóm đối với đất đai do nhà nước cấp hoặc do chính họ có được trong quá trình hôn nhân. Nâng cao khả năng tiếp cận, kiểm soát tài sản cho phụ nữ là nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình. Điều này có mối quan hệ biện chứng với nhận thức về giới, phong tục tập quán ở từng địa phương và sự hỗ trợ của chính quyền, Hội phụ nữ và các tổ chức khác tại cơ sở. 3.2.6 Tuyên truyền giáo dục sâu rộng quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân gia đình Thứ nhất. tuyên truyền sâu rộng Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là những quy định pháp lý cơ bản quy định cơ bản quyền bình đẳng của phụ nữ trong hôn nhân và gia đình. Cần thực hiện tốt tuyên truyền, phổ biến dể mọi người hiểu được bình đẳng nam nữ không phải chỉ đơn thuần là chuyện gia đình mà còn là vấn đề xã hội. vi phạm vấn đề về bình đẳng nam nữ trong hôn nhân gia đình là vi phạm pháp luât. Thứ hai, coi trọng tuyên truyền giáo dục quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên trẻ được nuôi dưỡng và hình thành các chuẩn mực đạo đức. do vậy, mọi ứng xử thể hiện sự bất bình đẳng giới từ người lớn hay các thành viên trong gia đình sẻ hình thành ở trẻ và tác động xấu đến tính cách của trẻ sau này. Muốn vậy, để xóa bỏ những định kiến về giới điều đầu tiên phải giáo Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 52 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam dục bình đẳng nói chung và bình đẳng phụ nữ nói riêng trong gia đình. Người chồng cần tạo điều kiện để người vợ phát triển ngoài xã hội. cha mẹ làm gương cho con cái cùng dạy dỗ và phát triển toàn diện. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục để các thành viên trong gia đình được tham gia các hình thức giáo dục trước và trong hôn nhân. Thứ ba, lồng ghép nội dung quyền bình đẳng vào hệ thống giáo dục. nhằm thay đổi nhận thức của giới trẻ và đảm bảo để giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục có thể hôc trợ tư vấn cơ bản hoặc hướng dẫn giớ trẻ tìm đến các tổ chức cung cấp dịch vụ. Đồng thời, cũng cần phổ biến các sáng kiến mới như; thiết kế giáo trình phù hợp với lứa tuổi để nâng cao nhận thức về bình đẳng trong hôn nhân gia đình của giới trẻ trong và ngoài trường học; Nâng cao năng lực giáo viên để thúc đẩy bình đẳng giới và thực hiện những biện pháp can thiệp thích hợp đối với những học sinh, sinh viên đang phải hứng chịu hoặc chứng kiến bạo lực. 3.2.7 Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Thứ nhất, vận động chính sách và nâng cao năng lực và tập trung vào đối tượng là lãnh đạo và cán bộ chuyên môn. Nâng cao năng lực là nền tảng cho việc thực hiện thành công mô hình can thiệp. cán bộ chuyên môn và cán bộ làm dịch vụ đã qua đào tạo sẽ góp phần thay đổi thái độ và hành vi của người dân và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ cần thiết. Và vận động chính sách thường xuyên là cần thiết để xây dựng, tăng cường và duy trì cam kết chính trị này. Một số khuyến nghị: Đảm bảo sự lãnh đạo của chính quyền và cam kết chính trị của tất cả các cấp lãnh đạo của các ngành thông qua vận động chính sách và nâng cao nhận thưc; Mở rộng mô hình can thiệp để thu hút sự quan tâm tham gia của các ngành khác. Hợp tác các cơ quan khác của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế đã xây dựng các tài liệu tập huấn cho những ngành này; Thứ hai, cải thiện luật và các cơ chế pháp lý như hạn chế và quy định bảo vệ nhằm bảo vệ phụ nữ tránh khỏi các đối tác có khả năng ngược đãi họ. Mặt dù pháp luật hiện hành của Việt Nam tạo ra khuông khổ pháp lý tốt cho việc xử lý các loại bạo Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 53 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam lực giới cụ thể. Đặc biệt là nạn buông bán người và bạo lực gia đình. Sau đây là những khuyến nghị của tác giả; Quy định việc cưỡng bức quan hệ tình dục trong hôn nhân là một hành vi phạm tội; Phòng, chống nạn buông bán người; Sử dụng cơ chế phối hợp liên ngành để rà soát các luật hiện hành và kiến nghị những sửa đổi cần thiết; Thứ ba, các biện pháp khác: Tạo ra những ngôi nhà an toàn cho phụ nữ và bé gái chịu ảnh hưởng của bạo lực gia đình; Giám sát công an và Tòa án trong những vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình đối với phụ nữ và đảm bảo đưa lên những phương tiện thông tin đại chúng kết quả của những vụ việc này để nâng cao nhận thức và cách thức luật pháp và tư pháp trong việc xử lý các vấn đề này; Cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp lý miễm phí và hỗ trợ cho phụ nữ, trẻ em bị ảnh hưởng của bạo lực gia đình cũng như cho gia đình họ và cộng đồng. Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 54 Tiểu Luận: Bảo Đảm Quyền Bình Đẳng Của Phụ Nữ Trong Pháp Luật HN&GĐ Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp năm 2013 Bộ Luật Dân sự 2015 Luật hôn nhân gia đình 2014 Luật nơi cư trú 2013 Luật hộ tịch 2014 Pháp lệnh về dân số của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 09 tháng 01 năm 2003 Trong tập bài giảng Xã hội học trường Đại học Luật Hà Nội Theo giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân, “ vấn đề phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường” Nguyễn Thanh Thụy, “Hội Liên hiệp Phụ nữ bình Định thực hiện trong năm 20022003 Hoàng Bá Thịnh, “vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn” Mac và Ăng ghen (6 – 2009), “Tạp chí Triết học”, số 6 (217) Triệu Thi Thanh Xuân GVHD: Trinh Minh Tự 55