CÁC CÔNG TY DƯỢC VIỆT NAM GIỮA CƠN SÓNG M&A

advertisement
TƯƠNG LAI NÀO CHO CÁC CÔNG TY DƯỢC GIỮA LÀN SÓNG M&A
Ngành dược Việt Nam: tiềm năng lớn, nhưng cần tăng cường đầu tư
Hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát triển ổn định, thu nhập trên đầu người tăng đáng
kể, dân số già hoá cùng các vấn đề sức khoẻ phát sinh do tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, … là những yếu tố chủ lực thúc đẩy ngành dược Việt Nam phát triển và liên tục
đạt những cột mốc mới. Tại Việt Nam và hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, khi mức
thu nhập và tiêu chuẩn cuộc sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ theo
đó ngày càng được coi trọng. Như một lẽ tất yếu, chi tiêu cho các loại thuốc, dịch vụ, sản phẩm
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cũng tăng nhanh chóng so với quá khứ.
Hơn thế nữa, các báo cáo phân tích đã cho thấy ngành dược phẩm Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục
tăng trưởng khá tốt trong tương lai. IMS Health đưa Việt Nam vào nhóm 17 quốc gia có mức
tăng trưởng ngành dược cao nhất thế giới (Pharmerging markets). Nhóm này đang được
dự báo sẽ nhanh chóng chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng tiêu thụ dược phẩm trên toàn cầu.
Theo một báo cáo của Business Monitor International (BMI), thị trường dược phẩm Việt Nam
vẫn đang phát triển tích cực. Chỉ riêng trong năm 2017, tổng doanh số ngành dược Việt
Nam đã đạt 5,2 tỷ USD, tăng 11% so với 4,7 tỷ USD năm 2016 và được giới phân tích kì
vọng sẽ đạt 7,2 tỷ USD (2020) và tiếp tục duy trì mức phát triển 2 con số trong 5 năm kế tiếp.
Cùng với đó, mức chi tiêu cho dược phẩm hằng năm trên đầu người đã tăng liên tục với
tốc độ trung bình 14,6 % trong giai đoạn 2010 - 2015, từ 22,25 USD (2010) đến 37,97 USD
(2015), đạt mức 56 USD (2017) và được dự báo tăng lên 85 USD vào năm 2020 và 163 USD
năm 2025.
Theo Bộ Y Tế, hiện có 1910 công ty dược trong nước và 30 công ty có vốn đầu tư nước
ngoài cấu thành mạng lưới cung ứng thuốc tại Việt Nam. Tuy chiếm số lượng áp đảo, thuốc
nội vẫn đang yếu thế so với thuốc ngoại. Nguyên nhân chính là các công ty trong nước vẫn chỉ
tập trung sản xuất các thuốc generic do tốn ít chi phí nghiên cứu trong khi các thuốc biệt dược
gốc, thuốc đặc trị vẫn phải nhập từ nước ngoài. Điều này dẫn đến các quan ngại về tính hiệu
quả của các công ty dược, chất lượng thuốc, sự cạnh tranh giá thuốc thiếu minh bạch cũng như
sự nhạy cảm đối với các biến động tỷ giá ngoại tệ, …
Thỏi nam châm thu hút các nhà đầu tư ngoại
Với những kì vọng tăng trưởng tích cực, ngành dược Việt Nam đã, đang và sẽ thu hút sự quan
tâm của các nhà đầu tư ngoại, đặc biệt ở nhóm thuốc chất lượng cao như sinh phẩm, thuốc đặc
trị, biệt dược gốc vốn là sân chơi của các doanh nghiệp nước ngoài và FDI. Vì thế, với mục
đích gia tăng lợi thế cạnh tranh cũng như hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới
(R&D), M&A đã trở thành con đường gần như tất yếu đối với các doanh nghiệp dược trong
nước.
Làn sóng M&A trong ngành dược Việt Nam đã diễn ra lặng lẽ từ nhiều năm qua. Nhưng chỉ
sau khi nghị định 60/2015/NĐ-CP có hiệu lực thì M&A mới thực sự trở thành cơn sóng mãnh
liệt trong giai đoạn 2016-2017 khi nghị định này quy định các doanh nghiệp đại chúng có
thể nới room ngoại lên 100% thay vì 49% như trước. Điểm qua thị trường có thể thấy các
gương mặt tiêu biểu cho làn sóng này bao gồm Dược Hậu Giang (DHG), Domesco (DMC),
Pymepharco (PME), Mekophar (MKP) và 2 cái tên tiềm năng là Imexpharm (IMP) và
Traphaco (TRA). Đây là các doanh nghiệp có mặt trong top 10 doanh nghiệp dược phẩm uy
tín nhất Việt Nam năm 2017.
Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại Dược Hậu Giang (DHG) hiện nay là 49%, trong đó công
ty Taisho – Công ty chế tạo thuốc Nhật Bản liên tục tăng mức sở hữu tại DHG lên 34,3%
(có thể cao hơn trong tương lai).
Trong một diễn biến tương tự tại Domesco (DMC), công ty con thuộc tập đoàn Abbott
– CFR International SPA nâng tỷ lệ sở hữu lên 51% cổ phần DMC với tư cách là cổ đông
chiến lược. Bên cạnh đó, tập đoàn Abbott còn mua lại công ty Glomed – một công ty sản
xuất dược phẩm trong nước vào năm 2016
Pymepharco (PME) gần đây cũng cho thấy tham vọng của mình khi chấp thuận nâng tỷ
lệ sở hữu nước ngoài lên 100% và cho phép cổ đông chiến lược STADA Service Holding
B.V tăng tỷ lệ sở hữu lên tối đa 72%, hiện đơn vị này đang nắm giữ tỷ lệ 49%.
Trong khi đó, Mekophar (MKP) với kế hoạch lớn “1 tỷ viên thuốc vào năm 2020” đã bắt
tay với Nipro - công ty sản xuất thuốc & thiết bị y tế Nhật Bản. Mức sở hữu của Nipro
với vai trò đối tác chiến lược hiện đang là 18,5%.
Trong tương lai gần, Imexpharm và Traphaco là 2 cái tên tiềm năng tiếp theo trong các
thương vụ M&A đình đám. Tính đến thời điểm hiện tại, tổng sở hữu nước ngoài tại IMP và
TRA lần lượt là 47,8% và 47,1%. Tại Traphaco, hãng dược Daewon đang sở hữu 15% &
quỹ đầu tư Mirae Asset đang nắm 25% cổ phần trong khi Imexpharm vẫn đang được các
nhà đầu tư thuộc quỹ Dragon Capital theo sát trong nhiều năm qua.
Trước làn sóng M&A, nhiều ý kiến cho rằng thị trường dược phẩm Việt Nam sẽ sớm bị thâu
tóm bởi các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, việc bắt tay hợp tác với nhau mang lại lợi ích không
nhỏ cho cả nhà đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp trong nước.
Câu hỏi đặt ra là các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn điều gì? Theo quy định WTO thì
các công ty dược nước ngoài chỉ được phép nhập khẩu mà không có quyền phân phối trực tiếp
sản phẩm tại Việt Nam. Do đó, ngày càng có nhiều công ty nước ngoài hợp tác với các doanh
nghiệp dược trong nước nhằm nhanh chóng đưa sản phẩm vào thị trường thông qua tận dụng
chi phí sản xuất rẻ cùng với hệ thống phân phối sẵn có. Tuy nhiên, các công ty dược trong
nước có mức sở hữu nước ngoài đạt 49% trở lên không được tiếp phục phân phối các sản
phẩm nhập khẩu mà chỉ có thể phân phối các sản phẩm tự sản xuất. Điều này giúp giảm
đi rất nhiều lo ngại lũng đoạn thị trường dược phẩm.
Còn lợi ích trước tiên mà các doanh nghiệp dược phẩm trong nước nhận được chính là sự
hỗ trợ về công nghệ và quy trình sản xuất; ví dụ như được chuyển giao công nghệ khi sản xuất
theo hình thức nhượng quyền, được hỗ trợ nâng cấp tiêu chuẩn nhà máy. Đây là lợi thế rất lớn
cho các doanh nghiệp này khi tham gia đấu thầu vào bệnh viện. Sự hợp tác giữa
Pymepharco & Stada Group, DHG & Taisho, Mekophar & Nipro, Domesco & Abbott…
là các ví dụ điển hình. Trong khi đó, những tương tác về hoạt động R&D vẫn chưa cho thấy
sự khác biệt.
Download